Đề tài Thực trạng và hướng hoàn thiện báo cáo kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp

Báo cáo tài chính là sản phẩm cuối cùng của toàn bộ quy trình kinh tế tài chính trong các Doanh nghiệp. Nó là thông tin tổng hợp theo các chỉ tiêu nhằm thoả mãn thông tin cần thiết cho các chủ thể trong và ngoài Doanh nghiệp, Nó cũng là công cụ quản lý hữu hiệu đối với các nhà quản trị. Báo cáo tài chính là nguồn thông tin chủ yếu để phân tích, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của Doanh nghiệp trong các kỳ đã qua và từ đó người phân tích đưa ra những nhận định về tình hình tài chính của Doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời qua các báo cáo tài chính, chúng ta có thể đánh giá được trình độ của công tác kế toán ở nước ta hiện nay. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính để đáp ứng nhu cầu của các Doanh nghiệp trước con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì so với các nước phát triển, hệ thống báo cáo tài chính của ta dù được sửa đổi nhiều lần vẫn còn thiếu khoa học, quá cồng kềnh, phức tạp gây khó khăn cho những người làm công tác kế toán. Để có thể xây dựng một hệ thống báo cáo tài chính hoàn chỉnh cần có sự tham gia của những người nghiên cứu kế toán đồng thời cần sự đóng góp của những người trực tiếp làm công tác kế toán ở các Doanh nghiệp. Có như vậy, hệ thống báo cáo tài chính của nước ta mới thực hiện được hết vai trò của mình.

doc31 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và hướng hoàn thiện báo cáo kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm mà còn cho biết những kết quả mà doanh nghiệp đó đạt được trong một kỳ kinh doanh. Thông qua việc phân tích tình hình tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau. Mục đích quan trọng nhất của phân tích báo cáo tài chính là giúp những người sử dụng thông tin tài chính đưa ra quyết định tối ưu. Tuy nhiên, đối với môn học “kế toán công trong các đơn vị hành chính sự nghiệp” thì báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp thông tin về tình hình tài sản, tình hình cấp phát, tiếp nhận ngân sách của nhà nước, kinh phí viện trợ và tình hình sử dụng từng loại kinh phí. Ngoài ra, các đơn vị sự nghiệp kinh tế và các đơn vị có tiến hành hoạt động kinh doanh còn phải tổng hợp tình hình thu chi và kết quả của từng hoạt động sự nghiệp, hoạt động kinh doanh trong kỳ kế toán. Nói cách khác, báo cáo tài chính là những phương tiện trình bày việc tiếp nhận và sử dụng kinh phí cũng như khả năng sinh lời và thực trạng tài chính của đơn vị cho những người quan tâm. Bên cạnh đó, báo cáo tài chính còn cung cấp các thông tin kinh tế tài chính cần thiết cho việc kiểm tra, kiểm soát các khoản chi theo từng nguồn kinh phí, cung cấp thông tin cho việc quản lí tài sản của nhà nước, tổng hợp, phân tích, đánh giá các hoạt động của mỗi đơn vị nói riêng và toàn xã hội nói chung. Từ đó, chính phủ có cơ sở để khai thác các nguồn thu, điều chỉnh các khoản chi một cách hợp lý đồng thời định ra đường lối phát triển xã hội lành mạnh và đúng đắn. Đối với các đơn vị cơ sở, báo cáo tài chính là nguồn thông tin đáng tin cậy, là cơ sở cho việc lập kế hoạch kinh phí cho mỗi kỳ hoạt đông một cách hợp lý. Ngoài ra nó còn giúp cho các đơn vị phân tích được xu hướng phát triển, từ đó định ra chiến lược phát triển và biện pháp quản lý tài chính ở đơn vị. Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng xem xét báo cáo tài chính dưới giác độ là đối tượng nghiên cứu của kế toán tài chính. I. Khái quát chung về hệ thống báo cáo tài chính. 1.Khái niệm, nội dung, bản chất của báo cáo tài chính Báo cáo kế toán là kết quả của công tác kế toán trong một kỳ kế toán. Nó cung cấp thông tin một cách toàn diện về tình hình tài sản, nguồn vốn cũng như kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ kế toán đó. Báo cáo kế toán là nguồn thông tin quan trọng không chỉ cho doanh nghiệp mà còn cho nhiều đối tượng khác ở bên ngoài có quyền lợi trực tiếp hoặc gián tiếp đối với hoạt động của doanh nghiệp trong đó có các cơ quan chức năng của nhà nước. Báo cáo kế toán của doanh nghiệp được phân thành báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị. Báo cáo tài chính là một phân hệ thuộc báo cáo kế toán cung cấp thông tin về tài sản, nguồn vốn, tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu quản lý của doanh nghiệp cũng như của các đối tượng khác ở bên ngoài nhưng chủ yếu là phục vụ cho các đối tượng ở bên ngoài. Báo cáo tài chính là báo cáo bắt buộc được nhà nước thống nhất về danh mục các báo cáo, biểu mẫu, hệ thống chỉ tiêu, phương pháp lập, nơi gửi báo cáo, thời gian gửi các báo cáo. Báo cáo tài chính được quy định cho doanh nghiệp gồm 4 biểu mẫu báo cáo. - Bảng cân đối kế toán. - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. - Thuyết minh báo cáo tài chính. * Bảng cân đối kế toán: là báo cáo kế toán chủ yếu phản ánh tổng quát tình hình tài sản, nguồn vốn chủ yếu của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định dưới hình thái tiền tệ. Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản: nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn hình thành các tài sản đó. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể nhận xét đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp. * Báo cáo kết quả kinh doanh: là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh khái quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác. Báo cáo kết quả kinh doanh gồm 3 phần chính: + Phần I: Báo cáo lãi lỗ. + Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước. + Phần III: Thuế GTGT được khấu trừ, thuế GTGT được hoàn lại, thuế GTGT được giảm, thuế GTGT hàng bán nội địa. * Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: là báo cáo tài chính tổng hợp và phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh theo các hoạt động khác nhau. * Thuyết minh báo cáo tài chính: là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ ràng, chi tiết được. Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp chọn để áp dụng, tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và các kiến nghị của doanh nghiệp. 2 - Mục đích, ý nghĩa của báo cáo tài chính: - Sau mỗi chu kỳ hoạt động sản suất kinh doanh, các doanh nghiệp lập báo cáo tài chính nhằm tổng hợp, đánh giá một cách khái quát tình hình tài sản, công nợ, nguồn vốn và tình hình tài chính của doanh nghiệp. - Báo cáo tài chính không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với chủ doanh nghiệp mà còn là nguồn thông tin chính đối với các chủ ngân hàng, các nhà đầu tư, nhà cung cấp... Mỗi nhóm người có nhu cầu thông tin khác nhau do vậy họ có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp. + Đối với chủ doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là kinh doanh có lãi và thanh toán được những khoản nợ đến hạn. Vì một doanh nghiệp nếu lỗ liên tục trong nhiều năm thì rốt cuộc cũng sẽ khánh kiệt và tất yếu dãan tới phá sản. Ngược lại, dú doanh nghiệp đó kinh doanh có lãi mà không thanh toán kịp các khoản nợ đến hạn thì cũng sẽ bị đóng cửa. Không những thế, các chủ doanh nghiệp còn phải giải quyết các vấn đề về nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp hàng hoá với chi phí thấp, giải quyết công ăn việc làm cho công nhân...Như vậy, hơn ai hết, chính những người chủ doanh nghiệp cần phải nắm rõ các thông tin để có thể đánh giá thực trạng tình hình tài chính của mình, xem xét khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, đánh giá những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình hoạt động và dự đoán tình hình tài chính nhằm đề ra quyết định đúng đắn. + Đối với các chủ ngân hàng, những người cho vay tín dụng thì mối quan tâm của họ là khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Không có một chủ ngân hàng nào dám mạo hiểm cho vay tiền nếu họ không biết chắc rằng khoản tiền của họ sẽ được thanh toán khi đến hạn. Vì vậy, họ đặc biệt chú trọng tới lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền. Đồng thời, so sánh với số nợ ngắn hạn họ sẽ xác định được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Như vậy, các thông tin trên báo cáo tài chính đã giúp những người cho vay tín dụng, các chủ ngân hàng đưa ra quyết định liệu có nên cho doanh nghiệp vay tiền hay không. + Đối với nhà cung cấp vật tư, thiết bị, hàng hoá, dịch vụ họ phải đánh giá khẳ năng tài chính của khách hàng để quyết định xem liệu có cho phép khách hàng được thanh toán chậm hay không. + Đối với các nhà đầu tư, điều mà họ quan tâm là liệu số tiền họ đầu tư vào doanh nghiệp có đem lại cho họ thu nhập không. Vì vậy, các nhà đầu tư rất quan tâm tí khả năng điều hành hoạt động của các nhà quản trị, tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh các kỳ trước. Những điều đó sẽ giúp các nhà đầu tư tránh được rủi ro đồng thời phát huy hiệu quả của đồng vốn mà mình bỏ ra. + Đối với các cơ quan chủ quản tài chính, cơ quan thuế, cục thống kê, báo cáo tài chính của doanh nghiệp là tài liệu quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát, hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện các chính sách, chế độ, thể lệ về tài chính kế toán. Có thể nói, báo cáo tài chính là một công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế của các doanh nghiệp, các ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 3 - Tiêu chuẩn của thông tin trên báo cáo tài chính: Để thông tin trên báo cáo tài chính thực sự hữu ích thì báo cáo tài chính phải đạt được các tiêu chuẩn sau: - Tính dễ hiểu: đây là đặc tính chủ yếu của thông tin trên báo cáo tài chính. Người sử dụng báo cáo tài chính đều là những người có kiến thức về kinh doanh và hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, những thông tin về các vấn đề phức tạp được trình bày trên báo cáo tài chính phải rõ ràng, tránh lẫn lộn khó hiểu. - Tính thích hợp: các thông tin phải thích hợp với những nhu cầu đề ra quyết định kinh tế của người sử dụng. Các thông tin chỉ thích hợp khi chúng giúp người sử dụng đánh giá được các sự kiện quá khứ, hiện tại, tương lai hoặc chỉnh lý xác nhận các đánh giá trong quá khứ của họ. Tính thích hợp của thông tin còn chịu ảnh hưởng bởi tính trọng yếu của thông tin đó. Các thông tin được coi là trọng yếu nếu bỏ sót hoặc xác định sai những thông tin đó có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin. - Tính đáng tin cậy: thông tin có chất lượng đáng tin cậy khi chúng không mắc những sai lầm nghiêm trọng hoặc phản ánh méo mó một cách cố ý. Để đảm bảo tính đáng tin cậy, thông tin trên báo cáo tài chính phải thoả mãn những tính chất sau: + Trình bày trung thực: cấc thông tin phải được trình bày một cách trung thực về những giao dịch và các sự kiện khác có liên quan. + Khách quan: các thông tin trên báo cáo tài chính phải khách quan, không bị xuyên tạc, bóp méo. Các báo cáo tài chính sẽ không được coi là khách quan nếu như bằng việc lựa chọn hoặc trình bày chúng có ảnh hưởng đến việc ra quyết định. + Thận trọng: Người lập báo cáo tài chính thường phải trình bày các nội dung về nhiều sự kiện, tình thế không chắc chắn. Ví dụ như khả năng thu hồi các khoản nợ khó đòi, đánh giá thời gian sử dụng của thiết bị máy móc...Các yếu tố đó cần được trình bày một cách thận trọng. Thận trọng bao gồm cả mức độ lường trước các sự kiện cần xét đoán trong quá trình hạch toán trên cơ sở những dữ liệu không thật chắc chắn. + Đầy đủ: các thông tin phải được phản ánh đầy đủ trong phạm vi của tính trọng yếu. Các thông tin sẽ không được coi là tin cậy nếu có sự bỏ sót dẫn đến sai lệch về bản chất của thông tin, ảnh hưởng đến việc ra quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. - Tính so sánh được: những người sử dụng thông tin phải có khả năng so sánh các thông tin trên báo cáo tài chính giữa các kỳ với nhau để phân tích xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra, người sử dụng báo cáo tài chính còn phải so sánh số liệu giữa các doanh nghiệp với nhau để đánh giá mối tương quan về tình hình tài chính, kinh doanh và sự biến động của chúng giữa các doanh nghiệp. Vì vậy việc xây dựng, tính toán và trình bày các sự kiện kinh tế lên báo cáo tài chính phải được tiến hành một cách nhất quán giữa các kỳ trong phạm vi một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. 4 - Trách nhiệm, thời hạn lập và gửi báo cáo tài chính: - Tất cả các doanh nghiệp hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân đều phải lập và nộp báo cáo tài chính theo quy định của bộ tài chính. Riêng đối với báo cáo lưu chuyển tiền tệ, tạm thời chưa bắt buộc phải lập và gửi nhưng khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng báo cáo này. - Báo cáo tài chính được lập và gửi vào cuối mỗi quý để phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh đã diễn ra trong quý đó. - Báo cáo tài chính được gửi đi chậm nhất là sau 15 ngày kể từ ngày lập báo cáo tài chính quý và sau 30 ngày đối với báo cáo tài chính năm. - Các doanh nghiệp đều phải gửi báo cáo tài chính tới cơ quan thuế và thống kê. Riêng đối với doanh nghiệp nhà nước, báo cáo tài chính còn được gửi tới cơ quan tài chính còn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải gửi báo cáo tới bộ kế hoạch và đầu tư. II - Phương pháp lập báo cáo kết quả kinh doanh: 1 - Phần 1: Lãi, lỗ - Cột “ kỳ trước “ lấy số liệu từ cột “ kỳ này “ của Báo cáo hoạt động kinh doanh lập ở kỳ trước. - Cột “ kỳ này “ lấy số liệu từ các tài khoản tổng hợp và chi tiết thuộc loại V, VI, VII, VIII, IX và tài khoản 421, 3334 thuộc kỳ này để ghi. * Tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: số liệu ghi vào chỉ tiêu này là tổng phát sinh bên có tài khoản 521 “ Doanh thu bán hàng nội bộ “ * Các khoản giảm trừ: phản ánh tổng hợp các khoản giảm trừ vào tổng doanh thu kỳ báo cáo gồm chiết khấu thương mại, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế Giá trị gia tăng ( đối với Doanh nghiệp. + Chiết khấu thương mại là số luỹ kế phát sinh Có tài khoản 521 “Chiết khấu bán hàng” trong kỳ báo cáo. + Giảm giá hàng bán lấy số phát sinh Có của tài khoản 532. + Giá trị hàng bán bị trả lại: phản ánh tổng số giảm giá hàng bán theo chính sách bán hàng của Doanh nghiệp. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là số luỹ kế phát sinh Có của tài khoản 581. + Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp: Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là tổng luỹ kế phát sinh Có của tài khoản 3332, 3333. * Doanh thu thuần: chỉ tiêu phản ánh số doanh thu bán hàng hoá thành phẩm sau khi đã trừ các khoản giảm trừ. * Giá vốn hàng bán: chỉ tiêu này phản ánh tổng giá trị của hàng hoá, giá thành sản xuất của thành phẩm. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu vào chỉ tiêu này là luỹ kế số phát sinh Có tài khoản 632 “Giá vốn hàng bán”. * Lợi nhuận gộp về hàng bán và cung cấp dịch vụ: chỉ tiêu này phản ánh số chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn. * Doanh thu hoạt động tài chính: chỉ tiêu này phản ánh các khoản thu từ hoạt động tài chính trong kỳ kế toán. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là luỹ kế phát sinh Nợ tài khoản 711. * Chi phí tài chính: số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là phần phát sinh Có tài khoản 811. * Chi phí bán hàng: chỉ tiêu này phản ánh tổng chi phí bán hàng phân bổ cho thành phẩm, hàng hoá đã bán trong kỳ. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là tổng phát sinh tài khoản 641 “Chi phí bán hàng” với phát sinh Có tài khoản 1422 chi tiết phần chi phí bán hàng đối ứng với nợ tài khoản 911. * Tổng chi phí quản lý doanh nghiêp: Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là tổng cộng số phát sinh Có tài khoản 642 với phát sinh Có tài khoản 1422 chi tiết phần chi phí quản lý Doanh nghiệp đối ứng nợ tài khoản 911. * Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh: chỉ tiêu này được tính toán trên cơ sở lợi tức gộp trừ đi chi phí bán hàng và chi phí quản lý phân bổ cho hàng hoá, thành phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ báo cáo. * Thu nhập khác: Chỉ tiêu này phản ánh các khoản thu nhập bất thường ngoài hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính phát sinh trong kỳ báo cáo. Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là phát sinh nợ tài khoản 721 đối ứng bên Có tài khoản 911. * Chi phí khác: Số liệu để ghi vào chỉ tiêu này là phát sinh Có tài khoản 821. * Lợi nhuận khác: Chỉ tiêu này phản ánh chênh lệch giữa khoản thu nhập bất thường với chi phí bất thường. * Tổng lợi nhuận trước thuế: chỉ tiêu này phản ánh tổng số lợi nhuận trước khi trừ thuế thu nhập từ hoạt động kinh doanh và các hoạt động bất thường khác. * Thuế thu nhập: Phản ánh số thuế mà Doanh nghiệp phải nộp tính trên lợi nhuận chịu thuế. Chỉ tiêu này căn cứ và phát sinh Có tài khoản 3334 đối ứng bên Nợ tài khoản 421. * Lợi nhuận sau thuế: là phần giá trị còn lại của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động của Doanh nghiệp sau khi trừ đi thuế thu nhập Doanh nghiệp phải nộp phát sinh kỳ báo cáo. 2 - Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ của Nhà nước. Phần này gồm các chỉ tiêu về thuế và các khoản phải nộp khác mà Doanh nghiệp phải nộp, đã nộp và còn phải nộp đến cuối kỳ. Mục I: Thuế là chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh tổng số tiền thuế phải nộp đã nộp và còn phải nộp theo từng loại thuế sau: Thuế Giá trị gia tăng + Thuế Giá trị gia tăng hàng nội địa căn cứ vào số phát sinh bên Nợ, Có tài khoản 33311. + Thuế Giá trị gia tăng hàng nội địa căn cứ vào số phát sinh bên Nợ, Có tài khoản 33312. Thuế tiêu thụ đặc biệt căn cứ vào số phát sinh tài khoản 3332. Thuế xuất nhập khẩu căn cứ vào số phát sinh tài khoản 3333. Thuế thu nhập Doanh nghiệp số phát sinh Nợ tài khoản 3334 để ghi vào cột 5, số phát sinh bên Có tài khoản 3334 để ghi vào cột 4. Thu trên vốn căn cứ vào số phát sinh Nợ, Có tài khoản 335. Thuế tài nguyên căn cứ vào số phát sinh Có tài khoản 3336. Thuế nhà đất căn cứ số phát sinh Nợ và Có tài khoản 3337. Tiền thuê đất căn cứ số phát sinh Nợ và Có tài khoản 3337 chi tiết. Các loại thuế khác căn cứ số phát sinh Nợ và Có tài khoản 3338. Mục II: Các khoản phải nộp khác. Là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh các khoản phải nộp, đã nộp, còn phải nộp về các khoản khác theo quy định của Nhà nước, chi tiết theo các khoản sau: + các khoản phụ thu. + các khoản lệ phí, + các khoản phải nộp khác. Các khoản phải nộp khác căn cứ vào số phát sinh Nợ, Có chi tiết tài khoản 3339. Tổng số thuế phải nộp khác năm trước chuyển sang kỳ này: là chỉ tiêu phản ánh số thuế phải nộp của năm trước đến đầu kỳ báo cáo vẫn chưa nộp trong đó chi tiết riêng cho chỉ tiêu thuế thu nhập Doanh nghiệp. 3 - Phần III: Thuế Giá trị gia tăng được trừ, thuế Giá trị gia tăng được hoàn lại, thuế Giá trị gia tăng được miễn giảm, thuế Giá trị gia tăng hàng bán nội địa. a - Mục I: Thuế Giá trị gia tăng được khấu trừ: Chỉ tiêu 1: Số thuế Giá trị gia tăng còn được khấu trừ còn được hoàn lạiđầu kỳ: ssó liệu để ghi vào chỉ tiêu này được căn cứ vào số dư Nợ điều khoản của tài khoản 133. Chỉ tiêu 2: Số thuế Giá trị gia tăng được khấu trừ phát sinh: căn cứ vào số phát sinh bên nợ tài khoản 133 để xác định số thuế Giá trị gia tăng được khấu trừ trong kỳ báo cáo. Chỉ tiêu 3: Số thuế Giá trị gia tăng đã khấu trừ, đã hoàn lại, thuế Giá trị gia tăng hàng mua trả lại và không được khấu trừ trong kỳ. Số liệu ghi vào chỉ tiêu này căn cứ vào số phát sinh bên Có tài khoản 133. Trong đó: * Số thuế Giá trị gia tăng đã khấu trừ căn cứ vào số phát sinh bên Có tài khoản 133 đối ứng Nợ tài khoản 33311. * Số thuế Giá trị gia tăng đã hoàn lại dựa vào Sổ kế toán chi tiết tài khoản 133, chi tiết thuế Giá trị gia tăng hoàn lại, phần phát sinh bên có tài khoản 133 đối ứng Nợ tài khoản 111, 112. * Số thuế Giá trị gia tăng hàng mua trả lại, giảm giá hàng mua số liệu ghi vào chỉ tiêu này căn cứ vào số phát sinh bên Có tài khoản 133 đối ứng Nợ tài khoản 1111, 112, 331 * Số thuế Giá trị gia tăng không được khấu trừ: căn cứ vào số phát sinh Có tài khoản 133 đối ứng Nợ tài khoản 142,632. Chỉ tiêu 4: Số thuế Giá trị gia tăng còn được khấu trừ còn được hoàn lại cuối kỳ là số dư Nợ tài khoản 133. b - Mục II: Thuế giá trị gia tăng được hoàn lại. - Số thuế Giá trị gia tăng còn được hoàn lại đầu kỳ: căn cứ vào chỉ tiêu mã số 2 - 3 của Báo cáo kết quả kinh doanh - P3 kỳ trước. - Số thuế Giá trị gia tăng được hoàn lại phát sinh dựa vào thông báo được hoàn thuế trong kỳ hoặc căn cứ vào Sổ kê toán chi tiết thuế Giá trị gia tăng được hoàn lại. - Số thuế Giá trị gia tăng đã hoàn lại: căn cứ vào Sổ kế toán chi tiết tài khoản 133, chi tiết phần thuế Giá trị gia tăng đã hoàn lại, phần phát sinh Có tài khoản 133 đối ứng với bên Nợ tài khoản 111,112 hoặc căn cứ vào sổ kế toán chi tiết thuế Giá trị gia tăng được hoàn lại. c - Mục III: Thuế Giá trị gia tăng được giảm: - Số thuế Giá trị gia tăng được giảm đầu kỳ: căn cứ số liệu ghi trong sổ chi tiết thuế Giá trị gia tăng được giảm. - Số thuế Giá trị gia tăng được giảm phát sinh: căn cứ vào sổ kế toán chi tiết thuế Giá trị gia tăng được miễn giảm. - Số thuế Giá trị gia tăng được giảm : căn cứ vào sổ kế toán chi tiết thuế Giá trị gia tăng được giảm hoặc căn cứ vào số phát sinh Nợ tài khoản 13331 đối ứng với bên có tài khoản 721 hoặc số phát sinh Nợ tài khoản 111, 112 đối ứng bên Có tài khoản 721. - Số thuế Giá trị gia tăng còn được giảm cuối kỳ: căn cứ vào sổ kế toán chi tiết thuế Giá trị gia tăng được giảm. d - Mục 4: Thuế Giá trị gia tăng hàng bán nội địa. - Thuế Giá trị gia tăng hàng bán nội địa còn phải nộp đầu kỳ: số dư Có cuối kỳ trước tài khoản 33311. - Thuế Giá trị gia tăng đầu ra phát sinh: phản ánh toàn bộ số thuế Giá trị đầu ra của hàng bán nội bộ đã phát sinh trong kỳ luỹ kế đến cuôí kỳ. Số liệu ở chỉ tiêu này là số phát sinh Có tài khoản 33311. - Thuế Giá trị gia tăng đầu vào đã khấu trừ là số phát sinh có tài khoản 133 đối ứng Nợ tài khoản 33311. - Thuế Giá trị gia tăng hàng bán bị trả lại, bị giảm giá là số phát sinh Có tài khoản 111, 112, 131 đối ứng nợ tài khoản 33311. - Thuế Giá trị gia tăng được giảm trừ vào số thuế phải nộp là số phát sinh Có tài khoản 721 đối ứng Nợ tài khoản 33311. - Thuế Giá trị gia tăng hàng bán nội địa đã nộp vào ngân sách nhà nước là số phát sinh có tài khoản 111, 112 đối ứng nợ tài khoản 33311 chi tiết thuế giá trị gia tăng đã nộp ngân sách trong kỳ. - Thuế Giá trị gia tăng hàng bán nội địa còn phải nộp cuối kỳ: chỉ tiêu này căn cứ vào số dư có tài khoản 33311. Như vậy, so với hệ thống báo cáo tài chính của các nước phát triển như Pháp và Mỹ thì hệ thống báo cáo taì chính của chúng ta có rất nhiều điểm khác biệt. ở Mỹ, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được gọi là báo cáo thu nhập được lập theo mẫu sau: Chỉ tiêu Số tiền Doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ Doanh thu khác Tổng doanh thu Giá vốn hàng bán Chi phí bán hàng Chi phí quản lý Doanh nghiệp Các loại chi phí khác Tổng chi phí Lợi nhuận trước thuế Thuế thu nhập Doanh nghiệp Lợi nhuận sau thuế Lãi ( lỗ ) đặc biệt Lợi nhuận giữ lại Như vậy, Mỹ không phân thành hai loại thu nhập mà tính ra chỉ tiêu tổng doanh thu thuần, tổng chi phí rồi xác định lợi nhuận sau thuế. Ngoài ra, trong báo cáo thu nhập của Mỹ còn phản ánh thêm các khoản lãi hoặc lỗ đặc biệt. Trong khi đó, báo cáo kết quả kinh doanh của Pháp được chia thành 2 cột: Thu nhập và chi phí. Trong đó mỗi cột chia thành thu nhập và chi phí của 3 hoạt động: Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động bất thường. III – Phương pháp kiểm tra báo cáo tài chính: 1 - Đối tượng kiểm tra báo cáo tài chính: a – Khái quát chung về đối tượng kiểm tra báo cáo tài chính: Kiểm tra báo cáo tài chính là công việc cần thiết đầu tiên để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc xét duyệt báo cáo quyết toán. Đồng thời việc kiểm tra báo cáo tài chính nhằm phát hiện những gian lận và sai sót vi phạm pháp luật, chế độ, chính sách về quản lý kinh tế tài chính qua đod tạo niềm tin cho người sử dụng thông tin trên baó cáo tài chính. Hơn nữa, báo cáo tài chính là bộ phận cấu thành của hệ thống công cụ quản lý công tác kế toán cho nên chungs cần được kiểm tra, kiểm soát liên tục. Việc kiểm tra không ngoài mục đích đảm bảo tính chính xác, trung thực của tài liệu kế toán. Thực chất, kiểm tra kế toán nói chung và kiểm tra báo cáo tài chính nói riêng đều sử dụng các kỹ thuật và phương pháp phân tích, khảo sát, so sánh, đối chiếu một cách có hệ thống các thông tin và dữ liệu, báo các và sổ sách kế toán nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm đảm bảo tính chính xác của các số liệu. Như vậy, đối tượng của kiểm tra báo cáo tài chính là tìm kiếm các gian lận và sai sót. 2 – Phương pháp kiểm tra báo cáo tài chính: a – Phương pháp chọn mẫu: Các báo cáo tài chính thường chứa đựng nhiều nội dung, nhiều khoản mục khác nhau nên kế toán không thể kiểm tra chi tiết đối với từng khoản mục vì rất tốn thời gian và nhân lực. Bởi vậy, để có thể đưa ra ý kiến chính xác, kế toán cần phải lựa chọn một số khoản mục trọng yếu và đặc trưng. Phương pháp này rất hữu ích trong việc khoanh vùng các sai phạm. b – Phương pháp dựa vào dấu hiệu chỉ dẫn: Dấu hiệu chỉ dẫn là những dấu hiệu khả nghi phát sinh từ các tình trạng hoặc nghiệp vụ bất thường. Từ các dấu hiệu chỉ dẫn, người kiểm tra sẽ định hướng việc kiểm tra, tiến hành phân tích và tìm ra nguyên nhân của các dấu hiệu đó. Các dấu hiệu chỉ dẫn rất đa dạng như: + Số dư của một chỉ tiêu không đổi trong suốt một thời gian dài. + Số dư nợ của TK 111 thường xuyên quá lớn, vượt xa mức cần thiết so với hoạt động của doanh nghiệp. + Số dư nợ TK 131 gia tăng nhưng lượng hàng hoá không đổi. + Tỷ lệ giữa tiền lương phải trả và số tiền trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ. + Tỷ lệ giữa doanh thu và số thuế GTGT phải nộp. + Tỷ lệ các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý so với tổng chi phí trong khi các doanh nghiệp cùng loại có doanh thu tương đương lại có chi phí thấp hơn nhiều. c – Phương pháp phối hợp kiểm tra từ nhiều phía: Phương pháp này nhằm đối chiếu so sánh các nghiệp vụ, các đối tượng, các bút toán khác nhau nhưng quan hệ chặt chẽ với nhau. Đối chiếu lượng vật tư nhập kho với số lượng vật tư trên hoá đơn vận chuyển. Đối chiếu giữa lượng vật tư xuất dùng với lượng thành phẩm hoàn thành. d – Phương pháp kiểm tra vật chất: Là phương pháp sử dụng biện pháp cân, đông, đo ,đếm các loại vật tư thành phẩm, hàng hoá, tiền mặt...để xem xét sự phù hợp giữa giá trị ghi trên sổ sách với thực tế. Do khối lượng công việc cần kiểm tra rất lớn nên kế toán không thể tiến hành kiểm tra toàn bộ mà nên sử dụng phương pháp chọn mẫu dựa tren tiêu thức chọn trước hoặc dựa vào dấu hiệu chỉ dẫn để đỡ tốn thời gian và công sức. Khi kiểm tra các mẫu đã chọn, nếu phát hiện có vấn đề thì sẽ tiến hành kiểm tra sâu rộng hơn. 3 – Kiểm tra báo cáo kết quả kinh doanh: a – Kiểm tra các chỉ tiêu trong nội bộ báo cáo kết quả kinh doanh: Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tóm lược toàn bộ các khoản thu nhập và chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ. Do đó, các chỉ tiêu phản ánh trên báo cáo kết quả kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với nhau và chúng được biểu hiện qua công thức sau: Kết quả của từng hoạt động kinh doanh = Tổng doanh thu của từng hoạt động kinh doanh - Tổng chi phí của từng hoạt động kinh doanh Để tiến hành kiểm tra báo cáo kết quả kinh doanh cần xem xét mối quan hệ của các chỉ tiêu sau: * Doanh thu thuần: là doanh thu mà doanh nghiệp thực sự thu được khi cung cấp sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ ra bên ngoài. Chỉ tiêu này được xác định đối với những sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ đã được người mua chấp nhận thanh toán. Để xác định tính chính xác cơ học của chỉ tiêu này, cần tính toán lại chỉ tiêu này theo mối quan hệ sau: Doanh thu thuần = Tổng doanh thu – chiết khấu bán hàng – doanh thu hàng bị trả lại – thuế xuất khẩu – thuế tiêu thụ đặc biệt * Lãi gộp: xác định phần chênh lệch giữa doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm-hàng hoá-dịch vụ với giá vốn của sản phẩm-hàng hoá đã tiêu thụ để xác định xem chỉ tiêu này đã được xác định đúng? * Lợi nhuận thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Là chỉ tiêu phản ánh kết quả tiêu thụ sản phẩm-hàng hoá-lao vụ. Lãi (Lỗ) = Lãi gộp + thu nhập tài chính – chi phí tài chính - chi phí bán hàng – chi phí quản lý doanh nghiệp * Lợi nhuận trước thuế: là chỉ tiêu phản ánh tổng số lãi (lỗ) từ tất cả các hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ kế toán, được xác định bằng tổng số lãi (hoặc lỗ) từ hoạt động kinh doanh cộng với lãi (hoặc lỗ) của các hoạt động khác. * Lợi nhuận sau thuế: là số lợi tức còn lại sau khi trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây là số lợi tức mà doanh nghiệp được giữ lại để trích lập các quỹ, trả cổ tức, bổ sung vốn kinh doanh... Tóm lại: việc kiểm tra các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh chủ yếu để xác định chính xác cơ học trong việc tính toán các chỉ tiêu đó đúng theo quyết định của bộ tài chính. 2 – Kiểm tra số liệu và nội dung phản ánh của các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh Việc kiểm tra các số liệu chỉ giới hạn trong báo cáo kết quả kinh doanh và liên hệ với một số chỉ tiêu ở các báo cáo tài chính khác cũng không thể đảm bảo tính chính xác của các chỉ tiêu vì đối với những gian lận được che đậy kỹ lưỡng thì với việc kiểm tra các chỉ tiêu trong nội bộ báo các kết quả kinh doanh không thể phát hiện được. Để có thể khẳng định được sự trung thực, chính xác của tất cả các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính cần đi sâu xem xét cơ sở số liệu và nội dung phản ánh của từng chỉ tiêu. a - Chỉ tiêu tổng doanh thu: Tổng doanh thu là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ số tiền hàng tính theo giá bán thực tế ghi trên hoá đơn bán hàng. Khi kiểm tra cần đối chiếu tổng doanh thu trên báo cáo kết quả kinh doanh với doanh thu trên sổ chi tiết bán hàng và nhật ký bán hàng. Chú ý các khoản doanh thu tiêu thụ nội bộ, hàng biếu tặng, trả lương, thưởng. Ngoài ra, cần xem xét thời điểm xác định tiêu thụ để xác định doanh thu cho đúng tránh tình trạng bỏ sót và ghi khống doanh thu. Kế toán cần đối chiếu giữa ngày tháng trên hợp đồng, trên phiếu xuất kho với ngày tháng ghi trên hoá đơn. Đối với hàng hoá xuất khẩu phải đối chiếu giữa số tiền ghi trên hoá đơn với tờ khai hải quan về hàng xuất khẩu. Đặc biệt, đối với trường hợp thu tiền hàng bằng ngoại tệ, khoản tiền ngoại tệ phải được quy đổi theo tỷ giá thực tế tại thời điểm xác định doanh thu. Thực tế, rất nhiều doanh nghiệp ghi giảm doanh thu thực tế trong kỳ bằng cách bỏ sót nghiệp vụ, ghi doanh thu và khoản tiền người mua ứng trước, cố ý tính toán sai, sang trang sai... Do số lượng chủng loại hàng hoá tiêu thụ trong kỳ rất lớn liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau nên việc kiểm tra còn tốn nhiều công sức. Để thuận lợi hơn cho việc kiểm tra cần dựa vào một số chỉ dẫn sau: - Tỷ lệ bất hợp lý giữa số hàng hoá mua vào và bán ra đối với doanh nghiệp thương mại và số sản xuất với số bán ra và tồn kho đối với doanh nghiệp sản xuất. Nếu phát hiện thấy số lượng hàng hoá mua vào hoặc số lượng thành phẩm nhập kho lớn trong khi lượng xuất kho lớn thì phải tiến hành kiểm tra chi tiết ngay. Tuy nhiên, có những trường hợp để che dấu doanh thu, kẻ gian cố tình nguỵ tạo sự cân đối giữa mua và bán, sản xuất và tiêu thụ bằng cách giảm số mua hoặc lượng thành phẩm nhập kho trong kỳ. Do đó, khi tiến hành kiểm tra cần xem xét cả về chi phí thu mua và chi phí sản xuất. - Tỷ lệ giữa chi phí bán hàng và doanh số bán hàng không phù hợp. Chi phí bán hàng bao gồm rất nhiều loại chi phí như chi phí vận chuyển bốc dỡ, bao bì, đóng gói, hoa hồng bán hàng. Các chi phí này chủ yếu tỷ lệ thuận với lượng hàng bán ra. Do đó, không thể có trường hợp chi phí bán hàng thì cao mà doanh thu thiêu thụ thì thấp. Đối với trường hợp gian lận được che đậy kỹ lưỡng, các doanh nghiệp khi ghi giảm doanh thu đồng thời với việc ghi giảm chi phí bán hàng. Khi đó, cần phải so sánh với doanh thu kỳ trước. Nếu phát hiện thấy biến động bất thường thì tiến hành kiểm tra chi tiết. Không chỉ ghi giảm doanh thu để trốn thuế, một số doanh nghiệp ghi khống doanh thu bán hàng để che dấu tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Vì vậy, trong quá trình kiểm tra cần xem xét các chứng từ liên quan đến tiêu thụ, nhất là chuyển hàng theo phương thức chờ chấp nhận. Tương tự như trường hợp ghi giảm doanh thu, chúng ta cũng cần dựa vào tỷ lệ bất hợp lý giữa số thành phẩm sản xuất trong kỳ với số tiêu thụ. b – Các khoản giảm trừ: Gian lận và sai sót ở những khoản giảm trừ có thể là do không nhập kho số hàng bị khách trả lại làm tăng doanh thu hoặc ghi tăng số tiền giảm giá để làm giảm doanh thu. Có thể kiểm tra số tiền giảm giá, doanh thu hàng bán bị trả lại trên nhật ký hàng bán bị trả lại và trên các sổ phụ. Đồng thời xem xét các chứng từ có liên quan đến hàng bán bị trả lại như các hợp đồng kinh tế, các hoá đơn bán hàng, biên bản kiểm nhận, xử lý phiếu nhập kho... Khi kiểm tra khoản tiền chiết khấu thương mại cần xem xét các khoản chiết khấu có bảo đảm đúng quy định của nhà nước hay không và người mua đã thực sự thanh toán tiền hay chưa. Các khoản chiết khấu thanh toán chỉ được chấp nhận khi đảm bảo các điều kiện sau: + Doanh nghiệp đã xây dựng được quy chế quản lý công bố công khai trong đó có quy chế về chiết khấu thương mại. + Doanh nghiệp phải đảm bảo kinh doanh có lãi và việc chấp nhận chiết khấu không làm doanh nghiệp bị lỗ. + Doanh nghiệp phải ghi rõ trong hợp đồng kinh tế và hoá đơn bán hàng. Thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu cũng là các khoản làm giảm doanh thu. Với mỗi đỗi tượng tính thuế có một mức thuế suất khác nhau. Do đó, để đảm bảo tính chính xác của loại thuế này, trước hết cần áp dụng đúng mức thuế suất đối với từng đối tượng tính thuế. c – Kiểm tra chỉ tiêu doanh thu thuần: + So sánh đối chiếu số phát sinh bên nợ và bên có các TK 511 và 512, đối chiếu với chỉ tiêu doanh thu thuần trên sổ chi tiết bán hàng. + Kiểm tra tính chính xác số học. d – Kiểm tra chỉ tiêu “Giá vốn hàng bán”. Giá vốn hàng bán là giá trị gốc của hàng đã thực sự tiêu thụ trong kỳ. Đó chính là giá thành sản xuất đối với sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ hoặc giá mua của hàng đã tiêu thụ cộng chi phí thu mua phân bổ cho hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Khi kiểm tra chỉ tiêu giá vốn hàng bán trước hết cần xem xét phương pháp tính giá sản phẩm, hàng hoá xuất kho có đảm bảo nhất quán hay không. Bởi vì, với mỗi phương pháp tính giá hàng tồn kho khác nhau thì giá vốn sẽ thay đổi và ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của doanh nghiệp. Do đó, nếu có sự thay đổi trong phương pháp tính giá hàng tồn kho cần có sự giải trình rõ ràng. Ngoài ra, cần xem xét tính thực tế xảy ra của việc tiêu thụ thành phẩm-hàng hoá-dịch vụ. Trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp chỉ xuất hàng đi gửi bán, đại lý nhưng đã ghi nhận doanh thu tiêu thụ đồng thời cũng xác định giá vốn. Điều này không những làm tăng giá vốn hàng bán mà còn làm tăng doanh thu tăng lợi nhuận một cách giả tạo. Ngược lại, nhiều donh nghiệp dù hàng đã thực sự tiêu thụ nhưng vẫn chưa ghi nhận doanh thu mà chỉ ghi số tiền bán hàng thu được vào khoản người mua ứng trước. Việc làm này không những làm giảm giá vốn mà cón làm giảm doanh thu, giảm lãi của doanh nghiệp. Trường hợp này thường xảy ra đối với các doanh nghiệp muốn tìm cách làm giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Để kiểm tra tính thực tế xảy ra của các nghiệp vụ bán hàng, cần đối chiếu các hợp đồng mua hàng, ngày tháng trên phiếu xuất kho, hoá đơn vận chuyển với ngày tháng trên hoá đơn bán hàng, nhật ký mua hàng. Cách làm khác là xem xét bảng kê hàng bán chịu. Nếu các khoản phải thu đã thu được tiền hoặc hàng bán bị trả lại đã nhập kho thì có thể khẳng định nghiệp vụ đã thực sự phát sinh. Để ngăn ngừa việc bỏ sót nghiệp vụ, cần đối chiếu ngày ghi trên các chứng từ vận chuyển đã chọn với ngày ghi trên hoá đơn, nhật ký bán hàng. Nếu có chênh lệch lớn về thời gian ghi sổ có thể chứa đựng khẳ năng gian lận. Tóm lại, các nghiệp vụ ghi nhận giá vốn là những nghiệp vụ dễ phát sinh gian lận và sai sót, do đó trong quá trình kiểm tra cần áp dụng những phương pháp kiểm tra, đối chiếu...để đưa ra được thông tin chính xác. e – Kiểm tra chỉ tiêu thu nhập tài chính: Thu nhập tài chính là thu nhập thu từ các hoạt động tài chính phát sinh trong kỳ bao gồm thu về hoạt động đầu tư chứng khoán, cho thuê tài sản, hoạt động liên doanh, thu lãi tiền gửi, lãi cho vay, mua bán ngoại tệ. Việc kiểm tra chỉ tiêu thu nhập tài chính khá phức tạp. Trước hết, để đánh giá đúng các khoản thu nhập tài chính cần xác định đúng số tiền thu được đặc biệt là trong thuê tài sản, thu lãi tiền gửi, tiền cho vay. Để xác định chính xác khoản lãi tiền cho vay cần căn cứ vào số tổng cộng ở sổ chi tiết tiền vay, kiểm tra mức lãi suất đồng thời so sánh với số tiền trên phiếu thu. Ngoài ra, cần kiểm tra các khoản thu một vài ngày trước và sau ngày khoá sổ kế toán để tránh tình trạng bỏ sót hoặc cố ý không ghi vào thu nhập tài chính. g – Kiểm tra chỉ tiêu chi phí tài chính: Toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến hoạt động mua bán chứng khoán, chi phí cho thuê tài sản, chi phí cho hoạt động liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, chi cho hoạt động cho vay, chi kinh doanh bất động sản thuộc chi phí tài chính. Cần kiểm tra nội dung của các khoản chi được tính vào chi phí tài chính cho chính xác. Các khoản lỗ do liên doanh, liên kết, lỗ từ các hoạt động đầu tư khác không được tính vào chi phí mà phải trừ vào phần lợi tức sau thuế. Ngoài ra, phải xác minh các khoản chi phí bằng cách đối chiếu các khoản chi với các hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho vay...Đồng thời phải so sánh ngày tháng trên các hợp đồng với ngày khoá sổ kế toán để tránh tình trạng ghi tăng các khoản chi phí chưa thực sự phát sinh. Không những thế, để có thể nhanh chóng phát hiện ra những khoản ghi tăng chi phí, cần so sánh chi phí tài chính kỳ này với năm trước đồng thời đánh giá tỷ lệ chi phí và thu nhập của hoá đơn tài chính để xem xét tính hợp lý. h – Kiểm tra chỉ tiêu chi phí bán hàng: Chi phí bán hàng là chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm-hàng hoá-lao vụ-dịch vụ trong kỳ. Ngoài ra, trong chi phí bán hàng còn phát sinh một bộ phận liên quan đến hàng còn lại chưa tiêu thụ như chi phí vận chuyển bốc dỡ, phân loại, bảo quản, bao gói, chi phí quảng cáo. Theo chế độ kế toán hiện hành, chi phí bán hàng là chi phí thời kỳ, phát sinh đến đâu được trừ vào thu nhập đến đó. Tuy nhiên, để có sự phù hợp giữa doanh thu và chi phí thì đối với những kỳ kinh doanh dài nếu chi phí bán hàng phát sinh lớn thì doanh nghiệp chỉ kết chuyển một phần chi phí bán hàng vào kết quả trong kỳ phần còn lại doanh nghiệp đưa vào chi phí chờ kết chuyển. Lợi dụng quy định này, nhiều doanh nghiệp đã tìm cách tăng hoặc giảm lợi nhuận bằng cách phân bổ chi phí bán hàng nhiều hay ít. Vì vậy, khi kiểm tra cần xem xét tính nhất quán trong cách thức phân bổ chi phí bán hàng giữa các kỳ. i – Kiểm tra chỉ tiêu chi phí quản lý doanh nghiệp: Chi phí quản lý doanh nghiệp là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết, để kiểm tra chi phí quản lý doanh nghiệp cần kiểm tra các khoản chi phí lớn phân bổ trong nhiều kỳ kinh doanh để đảm bảo rằng việc phân bổ chi phí là nhất quán. Đối với các chi phí tiếp tân, hội họp, tiếp khách, doanh nghiệp cần xây dựng định mức và quy chế để quản lý các khoản chi phí này. Các khoản chi này phải có chứng từ hợp lệ, gắn với kết quả kinh doanh và không vượt quá mức khống chế do bộ tài chính quy định. k - Thu nhập khác và chi phí khác: Thu nhập khác và chi phí khác được tiến hành kiểm tra tương tự như thu nhập tài chính và chi phí tài chính. Tuy nhiên, thu nhập khác và chi phí khác là những hoạt động bất thường của doanh nghiệp nên khả năng xảy ra rủi ro là rất lớn. Vì vậy, trong quá trình kiểm tra cần xem xét đến nội dung của các khoản thu nhập và chi phí. l - Kiểm tra chỉ tiêu thuế thu nhập doanh nghiệp: Cần phải xác định số thu nhập chịu thuế và mức thuế suất tương ứng với từng hoạt động kinh doanh. Thuế TNDN phải nộp = Tổng thu nhập chịu thuế x Thuế suất Tổng thu nhập chịu thuế = Tổng doanh thu thuần - Chi phí hợp lý, hợp lệ + Thu nhập từ hoạt động khác Việc có ý hạch toán sao cho giảm mức thuế thu nhập Doanh nghiệp là việc làm phổ biến của Doanh nghiệp. Để đảm bảo thu đúng, thu đủ số thuế, cần kiểm tra các khoản doanh thu, căn cứ vào sổ chi tiết bán hàng để tránh tình trạng ghi giảm doanh thu. Một cách khác mà các doanh nghiệp hay sử dụng để làm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đó là ghi tăng chi phí. Do đó, nhất thiết phải kiểm tra để đảm bảo các chi phí phản ánh trong Báo cáo tài chính là chi phí hợp lý hợp lệ. + Chi phí khấu hao Tài sản cố định: Khi kiểm tra chi phí khấu hao Tài sản cố định cần chú ý một số trường hợp sau: * Tuyệt đối không được trích khấu hao đi những tài sản đã khấu hao hết, cho dù Tài sản cố định đó được hình thành từ nguồn vốn nào. * Trường hợp nguyên giá, trị giá sử dụng của Tài sản cố định thay đổi do sửa chữa nâng cấp, đánh giá lại tài sản thì doanh nghiệp phải xác định lại mức khấu hao mới. * Kiểm tra những tài sản dùng cho hoạt động phúc lợi công cộng để đảm bảo rằng những tài sản này không được trích khấu hao để tính vào chi phí mà chỉ tính hao mòn để ghi giảm giá trị nguồn vốn tương ứng. + Chi phí tiền lương và các khoản tài chính có tính chất lương: Về nguyên tăng, tốc độ tăng chi phí tiền lương phải thấp hơn tốc độ tăng lợi tức chịu thuế. Vì vậy, cần so sánh chi phí tiền lương năm nay với năm trước để đánh giá xem tốc độ tăng tiền lương có cao hơn thu nhập chịu thuế không. Nếu cao hơn thì phần tiền lương tăng không hợp lý sẽ bị trừ ra khỏi phần chi phí hợp lệ. + Chi phí hoa hồng, môi giới: kiểm tra các chứng từ liên quan đến chi hoa hồng để đảm bảo rằng các chứng từ này là hợp lý hợp lệ, kiểm tra xem bên được nhận hoa hồng xem họ có phải là pháp nhân hay cá nhân có đăng ký kinh doanh. Nếu các điều kiện ở trên đảm bảo thì hoa hồng môi giới mới được xem là chi phí hợp lý, hợp lệ. + Chi trang phục quần áo: khoản chi này không áp dụng đối với nhân viên thuộc diện hưởng chế độ trang bị bảo hộ lao động. Mức tối đa tính trong chi phí hợp lệ là 500.000 đồng. + Các khoản chi phí khác: Các chi phí khác là các chi phí như thuế môn bài, thuế sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế tài nguyên, lệ phí cầu phà, phí tiếp tân hội nghị, tuyển dụng... Các khoản chi này phải có chứng từ hợp lệ. Với chi phí tiếp khách, hội họp... phải nằm trong mức khống chế. Ngoài ra có một số chi phí không được xem là chi phí hợp lý, hợp lệ: + Lễ cho liên doanh, liên kết và các hoạt động đầu tư khác. + Các khoản lãi tiền vay quá hạn, vượt khung. + Các khoản thiệt hại về sản phẩm hỏng ngoài định mức. + Thiệt hại về ngừng sản xuất đột ngột. + Chi phí công tác vượt định mức chi. + Các khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, đăng ký kinh doanh, trốn thuế... k - Kiểm tra thuế Giá trị gia tăng phải nộp và được khấu trừ: * Thuế Giá trị gia tăng phải nộp: Cần căn cứ vào số phát sinh bên nợ, bên có Tài khoản 33311 để xác định số thuế Giá trị gia tăng phải nộp, ngoài ra, còn phải căn cứ vào sổ chi tiết bán hàng để đánh giá tỷ lệ giữa thuế Giá trị gia tăng và doanh thu bán hàng. Qua đó khẳng định được tính chính xác của số thuế Giá trị gia tăng phải nộp. Bên cạnh đó cần phải kiểm tra hoá đơn hành xuất khẩu và lấy đó làm căn cứ để xây dựng mức thuế Giá trị gia tăng được khấu trừ. Đối với những doanh nghiệp sản xuất nhiều loại mặt hàng có mức thuế xuất, thuế Giá trị gia tăng khác nhau thì cần kiểm tra cả việc áp dụng mức thuế suất tương ứng đối với từng mặt hàng. Đối với hàng xuất khẩu, cần đối chiếu giữa giá trị ghi trong hoá đơn với tờ khai hải quan về hàng xuất khẩu để tránh tình trạng khai khống hàng xuất khẩu để được giảm thuế Giá trị gia tăng phải nộp. * Kiểm tra thuế Giá trị gia tăng được khấu trừ: Đối với những vật tư hàng hoá mua về dùng đồng thời cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế Giá trị gia tăng nhưng không tách riêng được thì cuối kỳ kế toán phải xác định số thuế Giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ trên cơ sở phân bổ theo tỷ lệ doanh thu. Do đó, đối với những trường hợp này, cần kiểm tra cách thức phân bổ để đảm bảo rằng việc phân bổ là đúng. - Kiểm tra giá trị ghi trong hoá đơn hàng xuất khẩu với tờ khai hải quan để chắc chắn rằng không có sự khai khống hàng xuất khẩu để được khấu trừ thuế Giá trị gia tăng đầu vào. II - Thực trạng và hướng hoàn thiện Báo cáo kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp: Có thể nói, so với các chế độ báo cáo tài chính áp dụng trong các Doanh nghiệp trước đây, hình thức báo cáo tài chính hiện hành là một bước đột phá căn bản. Hình thức biểu mẫu báo cáo đã được xây dựng một cách khoa học. Tuy nhiên, hình thức báo cáo hiện hành vẫn còn một số thiếu sót nhất định. Và báo cáo kết quả kinh doanh cũng không phải là một ngoại lệ. - Các chỉ tiêu phản ánh trong báo cáo kết quả kinh doanh mặc dù có sự sắp xếp lại nhưng vẫn chưa thực sự hợp lý, còn quá phức tạp và không nhất quán với nội dung báo cáo. Về tổng thể, báo cáo kết quả kinh doanh được chia làm 3 phần: Phần I " Lãi, lỗ " phản ánh các chỉ tiêu liên quan đến kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp bao gồm thu nhập thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thu nhập từ các hoạt động khác. Phần II " Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước " phản ánh tình hình thực hiện đối với ngân sách Nhà nước về thuế, phí và các khoản khác. Phần III " Thuế Giá trị gia tăng được hoàn lại, được giảm và thuế Giá trị gia tăng của hàng bán nội địa " phản ánh số thuế Giá trị gia tăng được khấu trừ định kỳ, trong kỳ và còn được khấu trừ cuối kỳ; phản ánh số thuế Giá trị gia tăng được hoàn lại đầu kỳ, trong kỳ, đã hoàn lại trong kỳ và được hoàn lại cuối kỳ, đã giảm trong kỳ và còn được giảm kỳ. Chưa tính đến sự phức tạp của các chỉ tiêu ở phần II và III này thì việc bố trí hai phần này trong báo cáo kết quả kinh doanh làm cho báo cáo này thêm cồng kềnh thiếu khoa học. Hơn nữa, việc bố trí như vậy không phù hợp với nội dung của báo cáo. Vì phần II và III này mang ý nghĩa giải trình về những nghĩa vụ mà Doanh nghiệp cần thực hiện đối với Nhà nước hơn là phản ánh kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp. Do đó, nên để hai phần này nằm trong phần " Thuyết minh Báo cáo tài chính". Như vậy hợp lý và dễ theo dõi hơn. - Đi sâu vào cách thiết kế các chỉ tiêu trên. Phần I: " Lãi, lỗ ": chúng ta thấy không hề khoa học. Chỉ tiêu mã số 01, Tổng doanh thu trong đó chi tiết Phần I được mở đầu bằng một loạt các chỉ tiêu theo " doanh thu hàng xuất khẩu " ( mã số 02 ) chỉ tiêu " các khoản giảm trừ " ( mã số 03 ) trong đó chi tiết theo " chiết khấu thương mại ", giảm giá hàng bán, " hàng bán bị trả lại ", " thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu phải nộp ". Sau hàng loạt các chỉ tiêu đó, chúng ta mới tìm được chỉ tiêu được đánh số 01 " Doanh thu thuần ". Không hiểu vì lý do gì mà cùng là chỉ tiêu có vai trò tương đương nhau trên Báo cáo kết quả kinh doanh mà các chỉ tiêu " Tổng doanh thu " và " Các khoản giảm trừ " lại không đánh số thứ tự mà " Doanh thu thuần " lại được đánh số. Hơn nữa, đối với người đọc các thông tin trên báo cáo tài chính thì họ phải xem qua hàng loạt các chỉ tiêu phía trên mới tìm ra được chỉ tiêu đầu tiên " Doanh thu thuần ". Do đó, nên đánh số chỉ tiêu " Tổng doanh thu " là chỉ tiêu 1. Việc đánh số như vậy sẽ giúp những người đọc Báo cáo kết quả kinh doanh thuận lợi hơn và hợp lý hơn. - Theo quyết định số 89/2002/QĐ-BTC áp dụng trong các doanh nghiệp thì trong Báo cáo kết quả kinh doanh chia làm 2 loại thu nhập: Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thu từ hoạt động tài chính, thu nhập bất thường. Còn trong Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, hoạt động của Doanh nghiệp có 3 loại thu nhập. Trong khi đó, theo chuẩn mực kế toán quốc tế IAS7, hoạt động kinh doanh là các hoạt động sản sinh lợi nhuận cơ bản của Doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải là hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính. Hoạt động đầu tư là việc mua và thanh lý các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các tương đương tiền. Hoạt động đầu tư là các hoạt động tạo ra các thay đổi về quy mô và kết cấu trong vốn chủ sở hữu và là các khoản đi vay của Doanh nghiệp. Như vậy, cách phân chia về các loại thu nhập không nhất quán với chuẩn mực kế toán quốc tế. Hơn nữa, việc gộp cả thu nhập tài chính vào thu nhập từ sản xuất kinh doanh làm mất đi báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ thực tế của Doanh nghiệp. Nhiều trường hợp kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh là lỗ nhưng do thu nhập tài chính lãi nên để bù đắp được số lỗ từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chỉ nên chia các thu nhập thành 2 loại: Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh và thu nhập bất thường. Việc phân chia như vậy sẽ thống nhất với IAS hơn và bổ sung được thông tin trên báo cáo tài chính. Ngoài ra, việc phân chia như vậy sẽ giúp người đọc báo cáo tài chính đánh giá đúng đắn hơn kết quả kinh doanh của hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Không chỉ thế, các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay các trình độ quản lý rất khác nhau. Trong khi đó, hình thức báo cáo tài chính hiện hành lại quy định tất cả các loại hình doanh nghiệp phải lập và nộp báo cáo tài chính cho các cơ quan quản lý với cùng một biểu mẫu, một chỉ tiêu như nhau. Điều đó có nghĩa là một Công ty Tư nhân, Công ty Trách nhiệm hữu hạn có quy mô vừa và nhỏ cũng phải lập Báo cáo tài chính giống như một Tổng Công ty 90, 91. Việc qui định chung một biểu mẫu đó đã dẫn tới một thực trạng là hàng loạt các Doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể lập và nộp Báo cáo tài chính cho cơ quan quản lý đúng hạn. Không chỉ thế, để có thể lập báo cáo tài chính cho cơ quan quản lý, nhiều Doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thuê các chuyên gia lập báo cáo tài chính. Vì thế, cần thiết phải quy định doanh nghiệp nào cần phải cung cấp cho cơ quan quản lý tất cả các thông tin trên báo cáo tài chính còn các doanh nghiệp nào chỉ cần cung cấp các thông tin tóm tắt. Như đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong báo cáo kết quả kinh doanh, chỉ cần phản ánh tông tin về lợi nhuận thuần mà không nhất thiết phải phản ánh cả các chỉ tiêu tổng doanh thu. Trong phần II không nhất thiết phải phản ánh số được khấu trừ cuối kỳ, số thuế còn được hoàn lại cuối kỳ. Như vậy sẽ thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc lập, nộp báo cáo tài chính đúng hạn và chính xác. Kết luận Báo cáo tài chính là sản phẩm cuối cùng của toàn bộ quy trình kinh tế tài chính trong các Doanh nghiệp. Nó là thông tin tổng hợp theo các chỉ tiêu nhằm thoả mãn thông tin cần thiết cho các chủ thể trong và ngoài Doanh nghiệp, Nó cũng là công cụ quản lý hữu hiệu đối với các nhà quản trị. Báo cáo tài chính là nguồn thông tin chủ yếu để phân tích, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của Doanh nghiệp trong các kỳ đã qua và từ đó người phân tích đưa ra những nhận định về tình hình tài chính của Doanh nghiệp trong tương lai. Đồng thời qua các báo cáo tài chính, chúng ta có thể đánh giá được trình độ của công tác kế toán ở nước ta hiện nay. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính để đáp ứng nhu cầu của các Doanh nghiệp trước con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì so với các nước phát triển, hệ thống báo cáo tài chính của ta dù được sửa đổi nhiều lần vẫn còn thiếu khoa học, quá cồng kềnh, phức tạp gây khó khăn cho những người làm công tác kế toán. Để có thể xây dựng một hệ thống báo cáo tài chính hoàn chỉnh cần có sự tham gia của những người nghiên cứu kế toán đồng thời cần sự đóng góp của những người trực tiếp làm công tác kế toán ở các Doanh nghiệp. Có như vậy, hệ thống báo cáo tài chính của nước ta mới thực hiện được hết vai trò của mình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0776.doc
Tài liệu liên quan