* Tại thị trường trong nước :
- Hiện nay, các sản phẩm dệt may ở trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về mẫu mã và giá cả so với hàng nhập ngoại, nhất là hàng dệt may nhập từ Trung Quốc. Hàng dệt may của ta sản xuất ra tiêu thụ rất chậm không chỉ ở ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì giá bán cao so với hàng của Trung Quốc.
Với nhu cầu sử dụng thu nhập vào việc may mặc trong nước ngày càng phát triển và đa dạng. Trong khi đó lại bị cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc nên để giữ vững thị trường trong nước, ngành dệt may Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của các công ty Dệt May nhằm nâng cao uy tín của công ty. Tìm các biện pháp để tiết kiệm các chi phí sản xuất , từ đó giảm giá sản phẩm.
71 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1766 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp làm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính hàng may mặc của Việt nam chưa thâm nhập nhiều vào thị trường này.
2.3. Hiệu quả xuất khẩu: Trong ngành dệt may hiện nay ở Việt nam vẫn chủ yếu kinh doanh theo hai phương thức ,đó là: Bán trực tiếp và may gia công.
*Bán trực tiếp : là xuất khẩu hàng hoá do chính doanh nghiệp sản xuất. Doanh nghiệp đảm trách từ tìm kiếm ,cung ứng nguyên liệu đầu vào, sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm theo đơn hàng đã ký kết với khách hàng nước ngoài. Với hình thức xuất khẩu này có ưu điểm giúp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may kiếm được nhiều lợi nhuận, hiệu quả kinh tế cao, chủ động tìm nguyên liệu đầu vào, không mất các khoản phí trung gian và tăng uy tín cho doanh nghiệp nếu hàng hoá thoả mãn các yêu cầu của đối tác giao dịch.
Hiện nay, phương thức kinh doanh này vẫn chiếm một tỉ trọng nhỏ trong doanh thu của doanh nghiệp. Do hiện nay các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc vẫn chưa dành được sự tin tưởng của khách hàng, các đơn hàng lớn thường không có khả năng giành được do chưa đủ nguồn lực. Bên cạnh đó việc tìm hiểu nhu cầu thị hiếu thị trường, khách hàng vẫn chưa được chú trọng.
*May gia công: May gia công là một hình thức kinh doanh, trong đó bên đặt hàng gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm để bên nhận gia công tổ chức quá trình sản xuất thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công. Toàn bộ sản phẩm làm ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để nhận về một khoản thù lao (gọi là phí gia công) .Theo thoả thuận, hiện nay hình thức gia công được vận dụng khá phổ biến trong ngành dệt may nhưng thị trường của nó chỉ là thị trường một chiều và bên đặt gia công là các nước phát triển, còn bên nhận gia công thường là các nước chậm phát triển trong đó có Việt nam .Đó là sự khác nhau về lợi thế so sánh của mỗi quốc gia.
Đối với bên đặt gia công, họ tìm kiếm một nguồn lao động với giá rẻ hơn giá trong nước nhằm giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận, còn bên nhận gia công Việt nam có nguồn lao động dồi dào mong muốn có việc làm để tạo thu nhập, cải thiện đời sống và qua đó tiếp nhận những thành tựu khoa học tiên tiến, trình độ quản lý. Hiệu quả của hình thức này nhìn chung không cao do hàm lượng giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm thấp, hình thức này chủ yếu để tạo công ăn việc làm cho người lao động, hơn nữa các doanh nghiệp nhận gia công luôn bị động trong sản xuất, luôn bị ép giá gia công. Mặt khác, sản phẩm xuất khẩu sang thị trường không có thương hiệu rất khó có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài vì vậy các doanh nghiệp Việt nam rất khó có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài nếu chỉ thực hiện các đơn hàng gia công.
3.Tình hình tiêu thụ hàng dệt may trong nước :
Việt nam là một nước đông dân với số dân hiện nay gần 80 triệu người , dự tính đến năm 2010 dân số nước ta vào khoảng 100 triệu người .Đây là một thị trường đầy tiềm năng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may vì hiện nay mức tiêu dùng hàng dệt may tính trên đầu người còn rất thấp :0.8kg/người/năm so với trung bình của thế giới là 7.2 kg/người /năm . Hơn nữa , với hơn 80% dân số sống bằng nghề nông , hàng năm khu vực kinh tế -nông nghiệp đã tiêu thụ một khối lượng hàng công nghiệp trong đó có hàng dệt may khá lớn.
Trong những năm gần đây , các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may đã có một số hoạt động tích cực trong việc tiêu thụ hàng hoá ở thị trường nội địa như tổ chức các hội chợ tiêu dùng , hội chợ thời trang , tổ chức các buổi diễn thời trang giới thiệu sản phẩm , mở rộng mạng lưới đại lí , cửa hàng giới thiệu sản phẩm cho người tiêu dùng trong nước . Những hoạt động này thực sự đã gây được sự chú ý đối với khách hàng . Hơn nữa , chất lượng hàng may mặc của Việt nam giờ đây cũng đã được nâng lên rõ rệt , một số mặt hàng được nhiều người trong nước chấp nhận như áo sơ mi công ty may 10 , áo jacket của công ty may Đức Giang , quần áo bò của công ty May thăng Long, hàng dệt kim của Dệt kim Hà Nội , Dệt 8/3 , Việt Thắng. Những kết quả đó thể hiện sự cố gắng lớn của các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may và sự quan tâm đúng mức đối với thị trường trong nước của các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong nước.
Hiện nay , hầu hết các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may chỉ chú trọng vào việc sản xuất hàng xuất khẩu , những sản phẩm dành để tiêu thụ trong nước chủ yếu là những sản phẩm trong nước không sản xuất được ( sản phẩm tồn kho, sản phẩm kém chất lượng ). Điều này thể hiện qua các gian hàng " Giới thiệu sản phẩm " của một số doanh nghiệp , là đưa ra những sản phẩm bị loại , không xuất khẩu được ra bán. Do vậy việc tiêu thụ sản phẩm dệt may nội địa đã có sự xắp xếp tự phát . ở khu vực thành thị ,đặc biệt là các thành phố lớn , các cơ sở sản xuất hàng may mặc tư nhân ra đời rất nhanh với nhiều qui mô khác nhau . Sự thay đổi này làm cho nhu cầu của người thành thị có vẻ là được đáp ứng đầy đủ , thuận tiện hợp với túi tiền của mọi đối tượng . ở khu vực nông thôn , miền núi thì ngược lại , thị trường gần như bị bỏ trống bởi khả năng thanh toán của thị trường quá thấp , không đủ sức hấp dẫn các tư thương đầu tư. Xét một cách tổng thể , có thể thấy tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt may trong nuớc diễn ra rất chậm chạp là do thị trường hàng dệt may trong nước đã không được chú trọng . Tính tới thời điểm hiện nay , hệ thống tổ chức bán buôn ,bán lẻ hàng dệt may đều do tư thương thao túng , trong khi đó các nhà sản xuất và hệ thống thương nghiệp quốc doanh vẫn chưa tìm ra được phương thức hoạt động phù hợp.
II. đánh giá khả năng cạnh tranh hàng dệt may của Việt Nam
Phát huy tối đa lợi thế so sánh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra những mặt hàng, sản phẩm mũi nhọn của Việt Nam, nhanh chóng mở rộng thị trường trong nước và quốc tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, việc tiến hành điều tra, phân loại đánh giá khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, mặt hàng để có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh là một trong những việc làm cần thiết và cấp bách.
Khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đối với hàng dệt may thì khả năng cạnh tranh phụ thuộc vào yếu tố: giá cả, chất lượng, mẫu mã, khả năng cung cấp (thực hiện các đơn hàng lớn) và thương hiệu
1. Giá cả: Giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh rất lợi hại để chiếm lĩnh thị trường. Để đưa ra một mức giá phù hợp các doanh nghiệp phải xét đến nhiều yếu tố khác nhau như chi phí để sản xuất ra một sản phẩm, tỷ lệ lợi nhuận đối với sản phẩm đó, mức ưa chuộng của người tiêu dùng, phương thức thanh toán, thời điểm bán và mức giá trên thị trường của các đối thủ cạnh tranh.
* Tại thị trường trong nước:
Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may đang phải cạnh tranh hết sức gay gắt với hàng ngoại nhập về mặt giá cả. Mặc dù có lợi thế hàng dệt may trong nước được nhà nước bảo hộ thông qua mức thuế rất cao đối với hàng dệt may nhập khẩu từ nước ngoài. Điều này giúp cho hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn gần đây đã chiếm lĩnh được thị trường trong nước. Điều này thể hiện ở việc tỉ lệ tiêu thụ hàng nội địa không ngừng tăng lên của các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may . Tuy nhiên các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may cũng phải đang đối phó với một lượng hàng không nhỏ nhập lậu từ các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái Lan. Do nhập lậu không phải chịu thuế, dẫn tới giá thành hạ, trong khi đó mẫu mã phù hợp với mức tiêu dùng của đại bộ phận dân cư nước ta và rất đa dạng phong phú vì vậy hàng lậu đang len lỏi trên thị trường và có nguy cơ giảm bớt thị phần của các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may nước ta. Do hàng dệt may trong nước sản xuất phải hoàn thành mọi nghĩa vụ thuế với Nhà nước, mặt khác đa số nguyên phụ liệu dùng cho việc sản xuất hàng dệt may không sản xuất được phải nhập khẩu dẫn tới chi phí đầu vào cao .Bên cạnh đó tình trạng lãng phí vật tư vẫn còn phổ biến, trình độ công nghệ vẫn còn lạc hậu dẫn tới tăng chi phí đầu vào. Đây là một trong những thách thức của doanh nghiệp. Một đặc điểm khác của thị trường trong nước đó là một thị trường tương đối lớn với dân số gần 80 triệu người. Điều này giúp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may khai thác những lợi thế của thị trường trong nước. Tại thị trường trong nước ,doanh nghiệp có thể hiểu rõ nhất nhu cầu và thị hiếu vì vậy sẽ lợi thế cho doanh nghiệp trong việc định giá sản phẩm bởi vì giá của sản phẩm cũng chịu ảnh hưởng của cầu tiêu dùng. Tuy nhiên, mặc dù thị trường trong nước tương đối lớn nhưng dân số nước ta làm nông nghiệp chiếm tới 80%, thu nhập bình quân đầu người thấp dẫn tới nhu cầu tiêu dùng hàng hoá có giá cả vừa phải với chất lượng hợp lí. Điều này các doanh nghiệp phải chú ý tới việc định giá sản phẩm.
*Tại thị trường nước ngoài :
Giá cả là một trong những nhân tố quan trọng trong quá trình cạnh tranh đặc biệt trên thị trường quốc tế. Trên thị trường quốc tế, hàng hoá được mua bán trao đổi theo giá quốc tế. Giá quốc tế là biểu hiện bằng tiền của giá trị quốc tế còn đến lượt mình giá trị quốc tế được đo bằng những chi phí lao động cần thiết , tất yếu để sản xuất sản phẩm trong điều kiện bình thường. Giá quốc tế chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như nhóm các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị của hàng hoá bao gồm những điều kiện sản xuất , mức chi phí, trình độ năng suất lao động, trình độ áp dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật.
Nhóm các nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ cung cầu của hàng hoá: đó là sự thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng thế giới, những yếu tố độc quyền, những yếu tố hành chính, những yếu tố chính trị, chu kỳ, thời vụ.
Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới giá trị tiền tệ quốc tế như lạm phát, sự thay đổi trong tỉ giá hối đoái, khủng hoảng tiền tệ....
Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải đối đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh trong cùng lĩnh vực kinh doanh ở khắp nơi trên thế giới. Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển cao và cũng có các doanh nghiệp ở các nước có nền “kinh tế đang phát triển". Nói một cách tổng quát, mỗi doanh nghiệp trong từng lĩnh vực cạnh tranh đều có những lợi thế riêng của mình điều này làm cho các cuộc cạnh tranh càng trở nên gay go phức tạp. Trươc tình hình trên , để có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh , các doanh nghiệp phải có một mức giá bán hợp lý.
Nhìn chung ,hàng dệt may của nước ta chưa có sự cạnh tranh cao về giá. Do chúng ta gặp nhiều vấn đề khó khăn như : nguyên liệu đầu vào để sản xuất hàng dệt may . Với sự phát triển như vũ bão của công nghệ, nhiều loại nguyên phụ liệu dùng cho hàng may mặc mới ra đời, trong khi đó công nghệ để sản xuất nguyên phụ liệu mới này ta chưa có . Bên cạnh đó nguyên phụ liệu của ngành may mặc được sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng, chất lượng , mẫu mã đã dẫn tới việc ngành dệt may Việt Nam phần lớn vẫn phải nhập nguyên phụ liệu từ nước ngoài dẫn tới chi phí đầu vào cao. Do nguồn nguyên phụ liệu phải nhập khẩu nên nguồn nguyên phụ liệu không chủ động được và chịu nhiều biến động của thị trường.Thêm vào đó ,thị trường luôn luôn biến động không ngừng. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chi phí nguyên phụ liệu đầu vào của doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may . Bên cạnh đó ,năng suất chất lượng chưa cao dẫn tới giá thành sản phẩm tăng. Định mức tiêu hao nguyên phụ liệu lãng phí cùng với sự tổ chức lao động sản xuất chưa hợp lí , bộ máy quản lí chưa gọn , chưa tinh dẫn tới lao động gián tiếp tăng góp phần làm tăng giá thành sản phẩm. Một trong những nguyên nhân khác góp phần làm tăng giá sản phẩm dệt may là các hàng rào bảo hộ của các nước nhập khẩu. Nhiều nước trên thế giới hiện nay , đã không ngần ngại bảo vệ ngành sản xuất hàng dệt may của mình thông qua các biện pháp thuế quan và các biện pháp phi thuế quan
Tất cả các biện pháp trên đã làm cho sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường rất thấp. Do phải tăng chi phí bởi các biện pháp bảo hộ này (như thuế nhập khẩu cao) dẫn tới giá cả hàng dệt may cao khi bán tới tay người tiêu dùng.
Trong khi đó hàng dệt may cùng chủng loại của Trung Quốc, Thái Lan có sức cạnh tranh cao. Đặc biệt là nguồn nguyên liệu ổn định, giá nguyên vật liệu thấp dẫn tới giá hàng dệt may của Trung Quốc rất thấp, giúp cho hàng may mặc của Trung Quốc có sức cạnh tranh cao về giá.
2. Mẫu mã :
Sản phẩm của ngành dệt may là sản phẩm tiêu dùng, phục vụ cho nhu cầu tất cả mọi người. Người tiêu dùng khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, tôn giáo , khu vực địa lý, khí hậu, giới tính, tuổi tác.... nên sẽ có nhu cầu rất khác nhau về trang phục. Do đó đòi hỏi sản phẩm dệt may phải phong phú đa dạng .
Sản phẩm may mặc là sản phẩm tiêu dùng nhưng mang tính thời trang cao, thường xuyên phải thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng nhu cầu tâm lí , thích cái mới, độc đáo và gây ấn tượng cho người tiêu dùng. Do vậy vòng đời sản phẩm hàng dệt may thường ngắn. Trong các sản phẩm dệt may nhãn mác sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Người tiêu dùng thường căn cứ nhãn mác để phán xét chất lượng.
*Tại thị trường trong nước :
Mẫu mã của hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Việt Nam cho thấy chưa thật đa dạng phong phú. Để đáp ứng với số dân gần 80 triệu người với nhiều dân tộc, phong tục tập quán đa dạng phong phú. Chiến lược kinh doanh các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc vẫn chưa chú trọng vào thị trường trong nước vì vậy chưa đầu tư sâu nghiên cứu nhu cầu thị hiếu tiêu dùng về mẫu mã. Chi phí giành cho nghiên cứu mẫu mã còn ít thậm chí còn có nhiều doanh nghiệp không giành chi phí cho việc nghiên cứu mẫu mã. Bán ra thị trường những sản phẩm mình có sẵn chứ không bán những sản phẩm mà thị trường cần. Mẫu mã vẫn chỉ đơn điệu do chưa có đội ngũ tạo mẫu chuyên nghiệp được đào tạo bài bản. Trong khi đó hàng ngoại mẫu mã phong phú đã phần nào dành được sự ưa thích của người tiêu dùng đặc biệt là giới trẻ. Mẫu mã hàng ngoại phong phú đã đáp ứng nhiều thị hiếu khác nhau của người tiêu dùng. Trong tương lai nếu các doanh nghiệp Việt Nam không chú trọng tới việc sáng tạo mẫu mã , đào tạo đội ngũ sáng tạo mốt bài bản, thì hàng dệt may rất khó đứng vững tại thị trường trong nước trong cuộc cạnh tranh với hàng ngoại nhập.
* Tại thị trường nước ngoài :
Với đặc điểm vòng đời sản phẩm của hàng dệt may rất ngắn vì vậy mẫu mã của hàng dệt may đóng vai trò rất quan trọng. Xu hướng thời trang thế giới liên tục thay đổi đòi hỏi phải có nhiều mẫu mã mới để đáp ứng xu hướng đó. Để có thể đưa ra những mẫu mã mới đòi hỏi phải có đội ngũ sáng tạo mốt được đào tạo để có thể tạo ra mẫu mã độc đáo, phù hợp với xu thế thời trang .
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kì sống của sản phẩm đó đã bước sang giai đoạn thoái trào, hàng không bán được nữa. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài luôn thay đổi mẫu mã khi sản phẩm vẫn còn đang ăn khách.
Do đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vẫn chủ yếu sản xuất các đơn hàng theo mẫu của đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam chỉ căn cứ dựa vào các mẫu mốt này để sản xuất . dẫn tới giá trị chất xám trong mỗi sản phẩm thấp. Việt Nam chưa có đội ngũ sáng tạo mẫu mốt chuyên nghiệp được đào tạo bài bản,chưa nắm được các xu hướng thời trang thế giới cũng như nhu cầu thị hiếu của thị trường
3. Chất lượng
Mặc dù hàng dệt may của Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài chủ yếu ở giá cả. Tuy nhiên ,chất lượng sản phẩm vẫn là một lợi thế của hàng dệt may Việt Nam, tại thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chất lượng hàng dệt may của Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường .Góp phần vào việc nâng cao chất lượng trước hết là đội ngũ người lao động Việt Nam. Đội ngũ lao động trong ngành nói chung có trình độ tay nghề tương đối cao, cần cù chịu khó ham học hỏi sáng tạo. Điều này rất cần thiết trong ngành may mặc đỏi hỏi nhiều lao động thủ công vì vậy đã góp phần nâng cao chất lượng của hàng dệt may Việt nam .
Bên cạnh đó thiết bị và công nghệ may cũng góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng hàng may mặc. Thiết bị công nghệ may được đánh giá là hiện đại nhất trong ngành công nghiệp Dệt may.
4. Khả năngcung cấp ( thực hiện và giao hàng đúng hạn các hợp đồng có qui mô lớn ):
Mặc dù đã có nhiều nỗ lực từ phía nhà nước và các doanh nghiệp trong ngành song năng suất sản xuất chung của mặt hàng này còn thấp ,chưa đủ khả năng thực hiện các đơn hàng lớn do :
+ So với các nước trong khu vực , công nghệ của ta vẫn còn lạc hậu . Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp lạc hậu và mất cân đối là các yếu tố quan trọng làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tuy ở các doanh nghiệp may xuất khẩu, máy móc hiện đại đã được trang bị để thay thế máy móc thế hệ cũ nhưng sản phẩm của các doanh nghiệp dệt không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp may xuất khẩu.
+Trình độ chuyên môn kĩ thuật tuy có được đào tạo nhưng do thiếu phương tiện thực hành nên lao động không khỏi bỡ ngỡ trước công nghệ mới . Do đó dẫn đến năng suất chưa cao .
+Đến khoảng 80% nguyên vật liệu cho sản xuất phải nhập từ nước ngoài nên khiến cho các doanh nghiệp thụ động trong việc tập trung nguồn nguyên liệu sản xuất ,đặc biệt là các đơn hàng lớn có thời gian giao hàng ngắn.
+Thiếu vốn ,tài chính cũng là một trở ngại cho các doanh nghiệp may mặc Việt nam không có khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn có thời gian giao hàng ngắn .
5.Thương hiệu :
Có thể nói các doanh nghiệp dệt may hiện nay của Việt nam đã bắt đầu chú ý tới các thương hiệu cuả mình . Một số doanh nghiệp đã bắt đầu tạo được lòng tin và sự ưa chuộng với người tiêu dùng trong và ngoài nước,như hàng dệt có các thương hiệu của công ty dệt Thái Tuấn ,Hanosimex.. .hàng may mặc có các thương hiệu của các công ty may Việt Tiến ,May 10!... Tuy nhiên các thương hiệu của các doanh nghiệp dệt may Việt nam chưa thực sự mạnh,chưa tạo được nhiều ấn tượng trên thị trường thế giới điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam .
Do đặc điểm ngành dệt may nước ta hiện nay là phương thức kinh doanh theo hình thức gia công vẫn là chủ yếu . Do đó các nhãn mác gắn trên các sản phẩm phải mang nhãn mác của các hãng nổi tiến trên thế giới . Vì vậy các sản phẩm may mặc Việt nam khi được tiêu thụ trên thị trường thế giới thường không được chú ý , điều này có ảnh hưởng rất lớn đối với việc thâm nhập thị trường của các doanh nghiệp khi không còn các đơn hàng gia công .
Trong hàng bán trực tiếp , các sản phẩm hàng dệt may của ta vẫn phải mang các nhãn hiệu nước ngoài do chúng ta chưa có các thương hiệu được người tiêu dùng biết đến hơn nữa do các đơn hàng này các khách hàng đặt hàng phải tự đem mẫu mã tới để các doanh nghiệp sản xuất theo, do các doanh nghiệp Việt nam thiếu thông tin về thị trường cũng như nhu cầu , thị hiếu của người tiêu dùng .Điều này khiến cho các doanh nghiệp vẫn phải phải theo các đơn đặt hàng với mẫu mã của nước ngoài vì vậy các doanh nghiệp luôn luôn phải phụ thuộc vào nước ngoài . Do thiếu thông tin về thị trường tiêu thụ , nhu cầu , thị hiếu trong khi đó quá trình xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp vẫn còn yếu kém điều này đã khiến cho các doanh nghiệp của Việt nam khó khăn trong việc thâm nhập thị trường nước ngoài bằng chính thương hiệu của mình.
Chương III
Một số Giải pháp làm tăng khả năng cạnh tranh
hàng dệt may của Việt Nam
Ngày nay ,xu hướng khu vực hoá ,toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đang diễn ra như vũ bão . Trong xu thế đó , Việt nam đã và đang tích cực gia nhập các tổ chức APEC ( Hội nghị hợp tác Châu á -Thái Bình Dương) , AFTA ( khu vực buôn bán tự do ASEAN) ,WTO ( Tổ chức thương mại thế giới ). Việc gia nhập này đã và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may Việt nam phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình .Bên cạnh những thuận lợi do việc hội nhập vào thị trường thế giới đem lại , việc gia nhập này cũng tạo ra các thách thức cho ngành dệt may của Việt nam là làm thế nào phải đứng vững trên thị trường thế giới trong bối cảnh cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới đang diễn ra hết sức khốc liệt . Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành dệt may đòi hỏi phải có những chiến lược phát triển và các giải pháp .
I. Chiến lược phát triển ngành dệt may Việt nam đến 2010
Triển vọng của ngành dệt may :
Trong kì kế hoach 10 năm 2001-2010,có thể dự báo một số thuận lợi cơ bản để giúp cho ngành dệt may Việt nam thêm sức cạnh tranh trên thị trường thế giới ,như sau :
Thứ nhất : sự ổn định về chính trị xã hội , cũng như sự khuyến khích phát triển được thể hiện trong những qui định của pháp luật là nền tảng vững chắc tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp .
Thứ hai: trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà hồi phục trở lại , ngành dệt may sẽ có nhiều triển vọng mở rộng qui mô và thu hút được đầu tư trong nước cũng như nước ngoài . Trong thời gian qua , Việt nam đã thiết lập quan hệ thương mại với khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, mở rộng thị trường xuất khẩu .Với đường lối chính sách đối ngoại đúng đắn ,Việt nam đã đạt được những cải thiện đáng kể trong quan hệ thương mại nói chung và quan hệ thưong mại dệt may nói riêng . Chính điều này đã tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt nam hoà nhập và phát triển cùng ngành dệt may thế giới .
Thứ ba: sau những năm cọ sát với thị trường thế giới ,các doanh nghiệp Việt nam đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm, sản phẩm dệt may của ta đang dần được ưa chuộng ngay tại các thị trường khó tính như EU ,Mỹ , Nhật bản ... còn thị trường truyền thống như SNG , Đông Âu ,đã dần khôi phục lại. Từng bước tiếp cận thị trường Mĩ tạo chỗ đứng chân để có thể khai thác qui mô lớn khi có đủ tiêu chuẩn .
Thứ tư : trong tổ chức thương mại thế giới WTO ,Mĩ là một nhà đàm phán lớn đối với tất cả các quốc gia xin gia nhập. Cho nên việc kí hiệp định thương mại Việt-Mĩ có thể được coi là thành công lớn nhất trong quá trình đàm phán song phương gia nhập WTO của Việt nam . Mĩ là một thị trường đầy tiềm năng đối với ngành dệt may của Việt nam , hai bên đã kí tắt hiêp định dệt May vào tháng 5-2003 , điều này đã và sẽ giúp cho ngành dệt may của Việt nam thêm nhiều cơ hội tăng khả năng cạnh tranh , đẩy mạnh xuất khẩu dệt may thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.
Chiến lược phát triển của ngành dệt may đến năm 2010 ,
Quyết định số 55/2001/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ ra ngày 23tháng 4 năm 2001 phê duyệt chiến lược và một số chính sách hỗ trợ thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt nam đến năm 2010 ,có những nội dung chính sau đây:
Mục tiêu: Phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội,nâng cao khả năng cạnh tranh ,hội nhập kinh tế vững chắc kinh tế khu vực và thế giới.
2.1. Chiến lược chung :
* Đối với ngành dệt : gồm có sản xuất nguyên liệu dệt ,sợi ,dệt,in nhuộm hoàn tất .
-Kinh tế nhà nước làm nòng cốt,giữ vai trò chủ đạo,khuyến khích các thành phần kinh tế ,kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này .
-Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường ,qui hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi , dệt, in nhộm hoàn tất ở xa các trung tâm đô thị lớn -Tập trung đầu tư tranh thiết bị hiện đại ,công nghệ cao ,kĩ thuật tiên tiến ,trình độ chuyên môn hoá cao . Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới ,nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng dệt Việt nam trên thị trường quốc tế .
Tổ chức lại hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ,tạo bước nhảy vọt về chất lượng ,tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước .
* Đối với ngành may :
-Đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn . Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may , nhất là ở các vùng đông dân cư , nhiều lao động.
-Đẩy mạnh công tác phát triển các vùng trồng bông ,dâu tằm ,các loại cây có xơ ,tơ nhận tạo ,các loại nguyên liệu ,phụ liệu ,hoá chất , thuốc nhuộm cung cấp cho ngành dệt may nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu,vật liệu và phụ liệu thay thế nhập khẩu .
-Khuyến khích mọi hình thức đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài ,để phát triển cơ khí dệt may , tiến tới cung cấp phụ tùng , lắp ráp và chế tạo thiết bị dệt may trong nước .
. Một số chỉ tiêu cụ thể :
* Sản xuất :
-Đến năm 2005,sản phẩm chủ yếu đạt : Bông xơ 30.000 tấn , xơ sợi tổng hợp 60.000 tấn , sợi các loại 150.000 tấn ,vải lụa thành phẩm 800 triệu mét vuông, dệt kim 300 triệu sản phẩm , may mặc 780 triệu sản phẩm .
-Đến năm 2010 , sản phẩm chủ yếu đạt : Bông xơ 80.000 tấn , xơ sợi tổng hợp 120.000 tấn , sợi các loại 300.000 tấn , vải lụa thành phẩm 1.400 triệu mét vuông , dệt kim 500 triệu sản phẩm , may mặc 1.500 triệu sản phẩm * Kim ngạch xuất khẩu :
Đến năm 2005 : 4000 dến 5000 triệu đô la Mĩ
Đến năm 2010 : 8000 đến 9000 triệu đô la Mĩ
*Sử dụng lao động :
Đến năm 2005 : Thu hút 2,5 đén 3 triệu lao động
Đến năm 2010 : thu hút 4,0 đến 4,5 triệu lao động
*Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm dệt may xuất khẩu :
Đến năm 2005 : Trên 50%
Đến năm 2010 : Trên 75%
*Vốn đầu tư phát triển :
Tổng vốn đàu tư phát triển ngành dệt may Việt nam giai đoạn 2001-2005 khoảng 35.000 tỉ đồng trong đó Tổng công ty Dệt may Việt nam khoảng 12.500 tỉ đồng .
Tổng vốn đầu tư phát triển ngành dệt may Việt nam giai đoạn 2006-2010 khoảng 30.000 tỉ đồng ,trong đó Tổng công ty Dệt may Việt nam khoảng 9500 tỉ đồng .
Tổng vốn đầu tư phát triển vùng nguyên liệu trồng bông đến năm 2010 khoảng 1500 tỉ đồng .
II. Một số giải pháp góp phần tăng khả năng cạnh tranh hàng dệt may của Việt Nam
1. Các chính sách ,giải pháp vĩ mô từ phía nhà nước :
Chính sách về đầu tư phát triển cho ngành dệt may :
Hiện nay nhu cầu nguyên phụ liệu trong nuớc là rất lớn , trong khi đó nghành dệt chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ về nhu cầu nguyên phụ liệu của nghành may , phần còn lại phải nhập từ nước ngoài . Điều này góp phần giảm sức cạnh tranh của ngành may do giá nhập khẩu nguyên phụ liệu cao ,thưòng bị động trong sản xuất kinh doanh do vật tư phải nhập khẩu .
Trong khi đó , ngành dệt là ngành đòi hỏi nguồn vốn rất lớn , khả năng thu hồi vốn chậm nên các doanh nghiệp rất ngại đầu tư vào lĩnh vực này , do đó nhà nước cần có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ngành dệt dưới mọi hình thức . Hình thức được sử dụng trước đây vẫn là liên doanh và 100% vốn nước ngoài . Thành lập một qũi đầu tư riêng cho ngành dệt, quĩ này sẽ được dùng để hiện đại hoá và xây mới các nhà máy dệt , cũng như trang bị đồng bộ các thiết bị máy móc hiện đại ; để thực hiện các khoá huấn luyện đào tạo thêm cho cán bộ công nhân ngành dệt ; để mua các các dây chuyền sản xuất đã được sử dụng và thành công ở các nước tiên tiến trên thế giới.. có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp may có tỉ trọng nội địa hoá cao , sử dụng nguyên vật liệu trong nước . Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ , các tổ chức môi trường thế giơí cho sản phẩm xanh và sạch , với mục đích dần cải tiến công nghệ dệt nhuộm của Việt nam phù hợp với các qui định của ISO9000 và ISO 14000 .Bởi lẽ , những điều kiện rất khắt khe về bảo vệ môi trường sẽ được đặt ra khi hàng dệt của Việt nam xâm nhập vào thị trường khó tính như Mĩ , EU . . . .. . .
Với ngành may , hiện đang có quan điểm cho rằng ngành may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn , bên cạnh đó , các doanh nghiệp may không đòi hỏi vốn đầu tư lớn . Vì vậy nên hạn chế đầu tư nưóc ngoài vào ngành này đẻ giảm sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài thường có ưu thế hơn về vốn , công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường so với các doanh nghiệp nội địa . Nhưng theo tác giả , thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu chúng ta muốn có một ngành công nghiệp thực sự hướng tới xuất khẩu . Các sản phẩm may của các doanh nghiệp này , với các ưu thế về công nghệ , nguyên liệu mẫu mã sẽ mở đường cho sản phẩm với nhãn hiệu hàng hoá của Việt nam trên thị trường thế giới . Tuy nhiên , nên tập trung vào các mặt hàng mới , phức tạp mà các doanh nghiệp trong nước hiện chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn nghạch xuất khẩu sang EU và Mĩ cho các doanh nghiệp trong nước , khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm thị trường phi hạn ngạch .
. Chính sách về nguyên liệu phục vụ cho ngành may :
Cần có qui hoạch phát triển vùng nguyên liệu các loại tơ sợi thiên nhiên cho ngành dệt và các chính sách khuyến khích đầu tư phát triển vùng nguyên liệu ,tạo nguồn nguyên liệu ổn định cho sự phát triển của nghành dệt ,đồng thời đặt cơ sở cho sự hình thành ngành sản xuất sợi hoá học. Kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung ứng thuốc nhuộm và các loại hoá chất khác cho ngành dệt. Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu cũng như sản xuất vải đạt tiêu chuẩn xuất khẩu ,giảm bớt sự phụ thuộc của ngành may vào nguồn nguyên phụ liệu nhập ngoại . Đồng thời xây dựng hệ thống các chính sách thuế ,hàm lượng nội địa của sản phẩm xuất khẩu để khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu trong nước . Ta cũng biết rằng khi gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới , Việt nam sẽ có lợi khi nhập khẩu nguyên phụ liệu với giá rẻ hơn so với sản xuất trong nước nhưng không vì thế mà ta dựa hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu ngoại nhập , mặt khác phải tăng hàm lượng nội địa của một sản phẩm dệt may xuất khẩu , có thế mới phát huy được các lợi thế khi hội nhập kinh tế .
. Chính sách về thị trường :
Khi hội nhập kinh tế quốc tế , sẽ giúp cho nghành dệt may của Việt nam mở rộng được thị trường xuất khẩu và khi thị trường xuất khẩu được mở rộng sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế Việt nam nói chung và ngành dệt may nói riêng .
Để thực hiện được điều này nhà nước cần hỗ trợ trong việc tăng cường vai trò các tổ chức xúc tiến thương mại của nhà nước , hỗ trợ doanh nghiệp trong công tác marketing . Có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may , đặc biệt là các doanh nghiệp tự tìm được thị trường xuất khẩu phi hạn nghạch ,tạo điều kiện về mặt thủ tục giấy tờ ,giúp các doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn về mặt pháp lí khi tham gia vào thị trường mới , với những luật lệ mới . Có các ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên vật liệu trong nước .
Không chỉ chú trọng và mở rộng thị trường xuất khẩu ,nhà nước cũng cần có các biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp dệt may chiếm lĩnh lại thị trường nội địa, bấy lâu nay đã dành một thị phần lớn cho các loại sản phẩm dệt may từ Trung quốc với ưu thế giá thành hạ và mẫu mã phong phú . Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn thế giới , Việt nam đã là thành viên của một số tổ chức , hiệp hội kinh tế quốc tế, lại đang nỗ lực để trở thành thành viên chính thức của WTO , nên những biện pháp bảo hộ kể cả thuế quan và phi thuế quan đều phải dần hạn chế . Chính vì thế mà không còn cách nào khác để đứng vững trên thị trường nước ngoài cũng như nội địa , ngành dệt may cần cạnh tranh và chiến thắng bằng chính chất lượng vượt trội của mình . Đây mới là giải pháp lâu dài cho ngành dệt may nói chung .
. Chính sách về phát triển sản phẩm :
Để có thể nâng cao hiệu quả và chất lượng hàng may gia công , tạo dựng và củng cố uy tín trên thị trưòng thế giới , đồng thời tạo lập cơ sở để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp sản phẩm theo đơn đặt hàng , tiến tới xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn mác của Việt nam . Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ , khuyến khích đầu tư cho khâu thiết kế và sản xuất hàng mẫu , đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ khả năng thiết kế mẫu mã đồng thời hỗ trợ cho công tác đăng kí nhãn hiệu hàng hoá , tạo điều kiện đưa các sản phẩm tên hiệu Việt Nam ra thị trường thế giới .
. Chính sách về tổ chức quản lí :
Khắc phục những bất cập trong công tác quản lí xuất nhập khẩu , các chính sách tài chính , thuế , vốn ưu đãi đầu tư , đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính rườm rà đang gây nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhằm tạo một môi trưòng thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp , tạo thế mạnh trong thu hút đầu tư nước ngoài thông qua hệ thống chính sách hợp lí , thông thoáng .
Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng nguyên liệu với vùng công nghiệp , công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ , xuất khẩu . Cụ thể như sau :
- Gắn vùng công nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác , nhằm tận dụng lao động , mối quan hệ liên ngành .
- Gắn công nghiệp dệt may vào các trung tâm dân cư để vừa tận dụng các lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông ,dịch vụ văn hoá , liên lạc viễn thông ,vận chuyển .
- Gắn công nghiệp dệt may qui mô nhỏ , xí nghiệp cổ phần ,xí nghiệp tư nhân và các hộ cá thể với vùng làng nghề truyền thống để phát huy mọi khả năng của các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển nghành dệt may Việt nam .
- Gắn công nghiệp dệt may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu ,sợi ,dệt, nhộm ,may ,dịch vụ nhằm giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu ,sản phẩm nâng cao một bước công nghiệp hoá và có điều kiện gọi vốn nuớc ngoài.
. Chính sách về lao động ,đào tạo và phát triển nguồn nhân lực :
Cần có chính sách hỗ trợ , khuyến khích và thu hút học sinh có khả năng theo học ngành công nghiệp dệt may , khắc phục tình trạng thiếu kĩ sư dệt may trầm trọng đang diễn ra và có thể kéo dài trong vài năm tới . Đầu tư cho các trường dậy nghề ,đào tạo công nhân kĩ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất theo dây chuyền hiện đại ,nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao , thực sự trở thành thế mạnh về nhân lực của ngành dệt may Việt nam .
Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế thời trang, marketing , khắc phục điểm yếu cơ bản của ngành may trong khâu thiết kế mẫu mốt và xúc tiến thị trưòng , từng bước tạo lập cơ sở để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam . Đồng thời ,có chính sách hỗ trợ bảo đảm việc làm ,tạo nguồn thu nhập ổn định cho nguời lao động , khắc phục tình trạnh thiếu lao động do các kĩ sư công nghệ và công nhân có tay nghề cao bị hút sang các công ty lien doanh đang ngày trở lên phổ biến trong ngành dệt may Việt nam
1.7. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành:
Việc thực hiện CEFT/AFTA đang là vấn đề thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam. Hơn nữa, nguy cơ hàng Dệt May của các nước ASEAN xâm nhập vào thị trường nội địa sẽ xảy ra khi Việt Nam hội nhập khu vực (AFTA) và thế giới (WTO). Theo lộ trình CEFT/AFTA, hàng dệt may đang được bảo hộ ở mức cao (thuế suất nhập khẩu sợi 20%, vài 40%, hàng may mặc 50%) sẽ giảm dần tới mức 5% từ năm 2006. Trong khi đó ngành dệt may Việt Nam lại có trình độ công nghệ thấp, năng lực sản xuất, chủng loại, mẫu mã hàng hoá nghèo nàn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Sản phẩm dệt may chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng chỉ khoảng 15-20%. Khả năng thương mại và thương hiệu còn nhiều hạn chế, do vậy tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế vẫn thấp.
Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành dệt may Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cần tăng cường khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn ngành.
- Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả đến thị trường trong nước và nước ngoài, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam. Đối với thị trường xuất khẩu, cần chú ý đến thị trường Mỹ vì đây là thị trường xuất khẩu có nhiều tiềm năng của ngành dệt may Việt Nam trong những năm tới. Chú ý khôi phục sớm thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu. Các doanh nghiệp ngành Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường trong nước, cần đặc biệt quan tâm đến các thị trường nông thôn vùng sâu, vùng xa, các đối tượng có thu nhập và nhu cầu cụ thể khác nhau về hàng may mặc như học sinh, công nhân. Kết hợp việc nghiên cứu mẫu, mốt, sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng.
- Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm may mặc , xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường và của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá các mặt hàng sản phẩm dệt may để đáp ứng tối đa các nhu cầu trong nước về hàng may mặc .
- Khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hoá trình độ công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp May mặc Việt Nam, tạo lập sự cân đối trong toàn ngành, đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp dệt may. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm dệt may, nghiên cứu thời trang, quảng bá các sản phẩm mới để hàng dệt may Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được thị trường người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành Dệt May trong giai đoạn 2001 - 2010. Đặc biệt là nghiên cứu giống bông, sơ chế bông hạt, các nhà máy ươm tơ, sản xuất các loại xơ sợi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định bền vững về nguyên liệu cho ngành Dệt May phát triển. Ưu tiên cho ngành Dệt May vay vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước với lãi suất 3%/năm và thời hạn vay từ 10-12 năm để tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị cho ngành Dệt May, đặc biệt là đổi mới thiết bị ở các nhà dệt nhuộm lớn như nhà máy Dệt 8-3, Dệt Nam Định mà hệ thống thiết bị dệt, nhuộm đã quá lạc hậu.
- Giảm thuế nhập khẩu các loại nguyên phụ liệu cho ngành dệt may mà trong nước hiện chưa sản xuất được để giảm chi phí phí về nguyên phụ liệu. Ngành Dệt May là ngành kinh tế xã hội phát triển để giải quyết việc làm là chủ yếu. Vì vậy, cần giảm hoặc miễn hẳn thuế VAT từ 10% cho ngành sợi dệt xuống mức 4-5% để tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho các sản phẩm Dệt May.
- Củng cố và phát huy vai trò Tổng công ty Dệt May Việt Nam ,hiệp hội các doanh nghiệp dệt may Việt nam nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết kinh tế và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp ngành Dệt May. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế và trong nước.
- Tạo môi trường để thúc đẩy các doanh nghiệp Dệt May cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới công nghệ hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý giảm chi phí sản xuất cá biệt.
- Khuyến khích và giúp đỡ các doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nâng cao chất lượng của hàng Dệt May Việt Nam.
- Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành .Có đầu tư thì có đổi mới. Không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Do vậy, ngành dệt may cần phối hợp với các doanh nghiệp dệt may cần sớm xây dựng các dự án đầu tư, trình các cấp có thầm quyền phê duyệt. Các dự án đã được phê cần được triển khai thực hiện bởi nhiều đối tác khác nhau, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ngay cả việc kêu gọi đầu tư nước ngoài cũng cần các dự án đã được phê duyệt. Do đó, ngành Dệt May cần đầu tư vào các lĩnh vực sau:
Đầu tư phát triển ngành may rộng khắp đến tận các vùng thị trấn, những khu dân cư nhằm kết hợp phát triển ngành với công nghiệp hoá ở nông thôn.
Khác với ngành Dệt, ngành May chỉ cần vốn đầu tư ít với công nghệ đơn giản; lao động giản đơn; sử dụng lao động nhiều (có thể từ nông thôn và miền núi).
Hiện các sản phẩm May có chất lượng cao, xuất khẩu trực tiếp được tập trung may tại các thành phố lớn (Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng). Các sản phẩm may trung bình và cấp thấp , là các đơn vị vệ tinh, may giaa công tập trung may chủ yếu ở các tỉnh, huyện và xã.
2. Các giải pháp vi mô nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam :
2.1. Giải pháp về nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm :
* Cải thiện chất lượng sản phẩm : Ưu thế của các sản phẩm may mặc Việt nam so với nhiều nước đang phát triển khác là chất lượng cao . Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt , nhất là sau năm 2005 , khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ , thị phần của mỗi nước xuất khẩu phụ thuộc chủ yếu vào khả năng canh tranh của sản phẩm . Đối với hàng dệt may các biện pháp cạnh tranh phi giá, trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá , trong rất nhiều trường hợp ,trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh . Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm :
* Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu ,tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định ,đúng thời hạn. Cần lưu ý rằng vải sợi là những mặt hàng hút ẩm mạnh ,dễ hư hỏng ,nên phải bảo quản tốt nguyên phụ liệu,tránh để xuống phẩm cấp .
* Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, qui trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kĩ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng qui cách kĩ thuật,nhãn mác, đóng gói bao bì .
* Tuân thủ đúng qui trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất hàng . Hiện nay nhiều khách hàng đã yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may thực hiện PSI ( Giám định hàng hoá bến đi- Pre Shipment inspection). Đây là biện pháp hữu hiệu để bảo đảm chất lượng cũng như các tiêu chuẩn khác của sản phẩm ,cho phép khắc phục các thiếu sót của lô hàng ngay tại nơi cung cấp và giúp tiết kiệm chi phí và thời gian thông quan tại cảng đến ( chứng thư PSI cho phép hàng nhập khẩu được ưu tiên vào cửa xanh của Hải quan nước nhập khẩu ,nhưng Việt nam chưa có yêu cầu triển khai PSI với hàng nhập khẩu ). Trong tương lai gần , ngành dệt may cần phối hợp với các cơ quan Hải Quan để tổ chức tốt dịch vụ này ,đồng thời yêu cầu PIS với nguyên phụ liệu và trang thiết bị nhập khẩu , bảo đảm chất lượng đầu vào của sản phẩm .
* Khai thác lợi thế về xuất khẩu hàng may mặc có sử dụng nguyên liệu truyền thống :
Các nguyên liệu truyền thống như : tơ thô, lụa tơ tằm ,gấm ,lụa vân ,các sản phẩm thêu tay... đã thu hút được sự chú ý của thị trường thế giới . Các sản phẩm may mặc làm từ các nguyên liệu trên thuộc nhóm hàng có nhu cầu ngày càng cao trong khi nguồn cung cấp rất hạn chế với lí do nhiều nước không có khả năng sản xuất mặt hàng naỳ . Việt nam có lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống,mang đậm bản sắc dân tộc được thừa hưởng từ nền văn hoá " Trồng dâu nuôi tằm" ,lại có lợi thế về lực lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực này . Để có thể khai thác về sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm truyền thống thông qua trợ giúp về vốn kĩ thuật ,kết hợp với kĩ thuật hiện đại với kinh nghiệm truyền thống ,tìm kiếm thị trường xuất khẩu và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm .
* Đảm bảo yêu cầu về giao hàng : giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và thời trang là một yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này ,vì vậy các doanh nghiệp dệt may phải chủ động trong việc kiểm soát nguyên phụ liệu đầu vào ,thông qua việc tìm những nhà cung cấp ổn định ,có chất lượng đẩm bảo và đặc biệt là phaỉa giao hàng đúng hạn .
2.2. Giải pháp về tài chính và vốn:
Vốn đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh và trong quá trình cạnh tranh .của các doanh nghiệp . Để có vốn đầu tư cho quá trình sản xuất , kinh doanh ( đặc biệt là cho các đơn hàng hàng bán trực tiếp, đơn hàng lớn và đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ ,mở rộng sản xuất ) , các doanh nghiệp dệt may cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp huy động vốn sau đây:
+ Cần huy động mọi nguồn lực tự có trong công ty như khấu hao tài sản cơ bản, vốn có được bằng cách bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên,…
+ Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
+ Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế.
+ Vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, từ các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thương mại,.. Đối với các hình thức này, doanh nghiệp Dệt May rất cần được bảo lãnh của Chính phủ.
2.3. Giải pháp về thị trường
* Đối với thị trường xuất khẩu :
Thị trường xuất khẩu là thị trường chủ yếu thu hút sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam vì nhu cầu về hàng dệt may trên thế giới là rất lớn. Thông qua thị trường xuất khẩu, ngành công nghiệp dệt may mới phát huy được hết lợi thế so sánh của mình so với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực. Hơn nữa, xu thế hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã thúc đẩy ngành dệt may nâng cao khả năng xuất khẩu vào thị trường các nước trên thế giới. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc cần :
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, vì đây là thị trường xuất khẩu hàng dệt may chủ yếu của Việt Nam. Để làm được việc này, HIệp hội dệt may, Tổng công ty dệt may Việt Nam và các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam và các doanh nghiệp May mặc cần tự mình đưa ra các cơ chế ,chính sách để có thể khai thác một cách có hiệu quả nhất các thị trường đó .Đồng thời đẩy mạnh việc tìm kiếm các thị trường phi hạn ngạch khác .
- Mỗi doanh nghiệp sản xuất hàng Dệt May cần coi trọng việc thiết kế các sản phẩm với mẫu mốt phù hợp, đặc biệt là xây dựng cho bản thân mỗi đơn vị có phong cách và nhãn hiệu riêng và có các bộ sưu tập theo từng mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối hang Dệt May lớn nhất trên thế giới. Muốn vậy cần :
Tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế các sản phẩm may mặc .
Có kế hoạch hợp tác với các viện mốt ,hoặc thuê chuyên gia thiết kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới .
- Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Đây là một công việc hết sức cần thiết cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng may mặc và tăng cường đẩy mạnh việc xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc . Hiện nay ,các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may mặc chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho nước khác . Muốn cải thiện được tình hình và xuất khẩu trực tiếp ,sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp Việt nam cần phải khẳng định vị trí trên thị trường dệt may thế giới ,bắt đầu bằng việc đứng vững trên thị trường với nhãn hiệu của chính mình .
* Tại thị trường trong nước :
- Hiện nay, các sản phẩm dệt may ở trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về mẫu mã và giá cả so với hàng nhập ngoại, nhất là hàng dệt may nhập từ Trung Quốc. Hàng dệt may của ta sản xuất ra tiêu thụ rất chậm không chỉ ở ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì giá bán cao so với hàng của Trung Quốc.
Với nhu cầu sử dụng thu nhập vào việc may mặc trong nước ngày càng phát triển và đa dạng. Trong khi đó lại bị cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc nên để giữ vững thị trường trong nước, ngành dệt may Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của các công ty Dệt May nhằm nâng cao uy tín của công ty. Tìm các biện pháp để tiết kiệm các chi phí sản xuất , từ đó giảm giá sản phẩm.
2.4. Giải pháp về điều hành và quản lý nguồn nhân lực :
- Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại ( như ISO 9000 , SA8000 . . .. . ) nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp sản xuất hàng May mặc .
- Các doanh nghiệp dệt may cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mạng thông tin điều hành nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý xí nghiệp.
Sản phẩm may mặc của Việt nam là mặt hàng có lợi thế so sánh quốc tế, có thị trường xuất khẩu , thời gian đầu tư nhanh , giải quyết nhiều việc làm cho người lao động . Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng may mặc Việt nam .
Kết luận
Ngành dệt may của Việt nam trong những năm gần đây đã có những thành công nhất định . Tốc độ tăng trưởng qua các năm cao , kim nghạch xuất khẩu tăng nhanh , thị trường xuất khẩu ngày cành được mở rộng . Tuy nhiên so với các nước xuất khẩu dệt may trong khu vực thì có thể thấy rằng nội lực , khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam còn yếu .
Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh và đứng vững được trên thị trường đặc biệt khi Việt nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO ) , đòi hỏi ngành dệt may Việt nam phải có sự đầu tư chiều sâu cho sự phát triển, nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật , hạ giá thành sản phẩm , nâng cao chất lượng mẫu mã , chú trọng xây dựng thương hiệu ,đẩy mạnh xúc tiến thương mại , chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh từ chính nội lực của ngành .
Những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam em đã đề cập trong bài khoá luận này tuy chưa thật đầy đủ và cụ thể nhưng rất mong đề tài có tính khả thi vào thực tế của ngành .
Một lần nữa , em xin chân thành cảm ơn cô giáo -Thạc sĩ Nguyễn Xuân Nữ và các bác , cô ,chú , anh chị ở phòng thị trường , phòng xuất nhập khẩu của các công ty May Thăng Long , May 10 , May Chiến Thắng , May Đức Giang, cũng như ban Kế hoạch -Thị Trường của Tổng công ty dệt may Việt nam -VINATEX , đã giúp em hoàn thành bài khoá luận này .
Hà nội , ngày 30 tháng 04 năm 2003
Học viên
Phạm Thế Cường
Tài Liệu tham khảo
Giáo trình Marketing Lí thuyết - Trường ĐHNT - Nhà xuất bản giáo dục ,năm 2000.
Giáo trình kinh tế thương mại - Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Nhà xuất bản giáo dục .
Giáo trình Kinh tế Ngoại thương - Bùi Xuân Lưu - Nhà xuất bản giáo dục .
Giáo trình Thanh toán quốc tế trong Ngoại Thương -PGS. Đinh Xuân Trình - Nhà xuất bản giáo dục .
Giáo trình Kĩ thuật Nghiệp vụ Ngoại Thương - PGS. Vũ Hữu Tử u -Nhà xuất bản giáo dục .
Tập bài giảng : Địa lí kinh tế thế giới- Trường Đại Học Luật Hà nội -Nhà xuất bản công an nhân dân.
Hướng dẫn ôn thi Môn Kinh tế chính trị Mác -Lênin -Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lí luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - Nhã xuất bản Đại học quốc gia Hà nội .
Tạp chí công nghiệp.
Tạp chí Dệt May.
Tạp chí Thông tin thương mại.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28161.doc