Tình hình kinh tế- xã hội của nước ta tiếp tục ổn định và phát triển. Đặc biệt, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của những năm đổi mới đã làm cho thế và lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Sự phát triển có nhiều triển vọng của nền kinh tế trong môi trường chính trị xã hội cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi cùng với những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động của đất nước sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục thu hút mạnh hơn nữa các dự án đầu tư để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách nhà nước, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể tăng từ mức 6.1% GDP năm 1996 lên 12.3% GDP năm 2004.
Môi trường kinh doanh nói chung và môi trường đầu tư nói riêng không ngừng được cải thiện; công tác quản lý nhà nước về đầu tư đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm và dần đi vào nền nếp; đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đầu tư ngày một trưởng thành.
Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh cùng với sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức, tạo nên sự dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh tế quốc tế và gia tăng mạnh các dòng chuyển vốn trên thế giới.
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u công nghiệp, phân khu chức năng, cơ cấu sử dụng đất và quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp của dự án về cơ bản phù hợp với quy hoạch chi tiết Khu công nghiệp đã được Bộ Xây dựng phê duyệt.
+ Các điểm đấu nối hệ thống hạ tầng kỹ thuật giữa 2 giai đoạn đảm bảo phù hợp với quy hoạch chi tiết toàn khu.
-Một số vấn đề cần lưu ý:
+ Bổ sung bản đồ cắm mốc chỉ giới đường đó và chỉ giới xây dựng các tuyến đường.
+ Phải có sự thoả thuận với Bộ Giao thông vận tải (Cục quản lý đường bộ) về vị trí và giải pháp tổ chức giao thông tại điểm đấu nối giữa đường vào Khu công nghiệp với QL 1 mới và nêu nguồn vốn đầu tư xây dựng đầu mối giao cắt này.
+ Giải pháp tổ chức các tuyến công trình ngầm tại các điểm giao cắt trong Khu công nghệp.
3.8.Bộ Tài chính (Công văn số 14881/TC-ĐT ngày 16/12/2004)
- Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương đầu tư xây dựng giai đoạn 2, Khu công nghiệp Đình Trám, tỉnh Bắc Giang tại Công văn số 593/CP-CN ngày 06/05/2004. Căn cứ tình hình và nhu cầu thực tế, việc sớm triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng Khu công nghiệp Đình Trám giai đoạn 2 để đáp ứng nhu cầu sử dụng đất của các nhà đầu tư là rất cần thiết.
- Do việc thu hút đầu tư vào giai đoạn 1 đạt kết quả khá tốt, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút đầu tư vào giai đoạn 2. Vì vậy, đề nghị Tỉnh cần quan tâm đến chất lượng thu hút đầu tư vào giai đoạn 2 (lựa chọn loại hình doanh nghiệp) để nâng cao hiệu quả đầu tư của Khu công nghiệp này.
- Việc đầu tư hệ thống hạ tầng kỹ thuật giai đoạn 2 phải bảo đảm đồng bộ, khớp nối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đã được đầu tư ở giai đoạn 1 và phù hợp với quy hoạch chi tiết đã được phê duyệt. Mặt khác, tỉnh cần có kế hoạch phát triển Khu nhà ở cho công nhân làm việc trong Khu công nghiệp cho cả 2 giai đoạn.
- Tổng mức đầu tư theo tính toán trong dự án là 72,035 tỷ đồng. Suất đầu tư của giai đoạn 2 (1,783 triệu đồng/ ha) ở mức cao hơn so với giai đoạn 1 (1,538 triệu đồng/ ha). Đề nghị xem xét lại quy mô và chi phí đầu tư hợp lí của một số hạng mục sử dụng chung nhưng được đầu tư trong cả hai giai đoạn như: Trạm xử lí nước thải tập trung, Khu trung tâm điều hành, hàng rào, cổng Khu công nghiệp; rà soát, đối chiếu với chi phí đầu tư thực tế đã được thực hiện trong giai đoạn 1 để chuẩn xác lại tổng mức đầu tư của giai đoạn 2.
- Nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương thực hiện theo Quyết định số 183/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ: mức hỗ trợ là 60 tỷ đồng cho cả hai giai đoạn. Phần còn lại huy động từ nguồn ngân sách địa phương và các nguồn vốn khác.
- Theo hồ sơ dự án, hiệu quả tài chính của dự án thấp do giá cho thuê đất đã có hạ tầng theo quy định của Tỉnh rất thấp. Mặc dù việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện Kinh tế xã hội khó khăn được xem xét trên cơ sở hiệu quả Kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên, do việc thu hút đầu tư vào giai đoạn 2 đã có những thuận lợi nhất định nên đề nghị Tỉnh cần xem xét điều chỉnh lại chính sách giá cho thuê đất đã có hạ tầng để nâng cao khả năng thu hồi vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp.
4.Nội dung giải trình bổ sung hồ sơ dự án.
4.1 Nội dung giải trình, bổ sung hồ sơ dự án gồm các vấn đề chính sau đây (Báo cáo giải trình, bổ sung hồ sơ dự án số 09/BC-KCN ngày 31/1/2005 của Ban quản lí các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang)
- Về tổng mức đầu tư và nguồn vốn:
+ Đề nghị được hỗ trợ từ vốn ngân sách Trung ương theo Quy định tại Quyết đinh số 183/2004/QĐ- TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn.
+ Đối với ngân sách địa phương: bổ sung ý kiến của hội đồng nhân dân Tỉnh
+ Phần vốn vay: Theo báo cáo giải trình, bổ sung hồ sơ dự án số 09/BC-KCN ngày 31/1/2005 của Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang: “Hiện nay có nhiều nhà đầu tư xin đầu tư vào Khu công nghiệp Đình Trám, giai đoạn 2 đều sẵn sàng ứng trước vốn cho công tác san nền và một phần tiền thuê đất trong 5 năm đầu. Với diện tích đất cho thuê của giai đoạn 2 là 28 ha; khi cấp phép đầu tư chủ đầu tư chỉ cần yêu cầu các nhà đầu tư tạm ứng trước với mức 400 triệu đồng thì số vốn có thể huy động được là 11,2 tỷ đồng (mức ứng trước này các nhà đầu tư đến khảo sát đều sẵn sàng chấp nhận, cam kết). Như vậy chủ đầu tư không cần phải vay vốn để đầu tư hạ tầng”.
- Về môi trường: Các dự án đầu tư vào Khu công nghiệp Đình Trám đều có hồ sơ đăng ký đạt tiêu chuẩn về môi trường và được sở tài nguyên và môi trường thẩm định, phê duyệt. Chủ đầu tư và tổ chức tư vấn đang hoàn chỉnh báo cáo đánh giá tác động môi trường cho toàn Khu công nghiệp để trình thẩm định, phê duyệt.
- Về giao thông: Khu công nghiệp Đình Trám nằm liền kề với QL 1A mới và QL37 do vậy khi quy hoạch và lập dự án đầu tư, chủ đầu tư đã căn cứ vào quy hoạch phát triển QL1A và QL37. Đường gom của Khu công nghiệp được bố trí trong hàng rào khu công nghiệp theo quy hoạch đã được Bộ Xây dựng phê duyệt tại Quyết định số 1384/QĐ-BXD ngày 31/8/2004. Các điểm đấu nối giữa đường gom của Khu công nghiệp với QL37 thực hiện theo dự án cải tạo nâng cấp QL37 đã được Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải phê duyệt. Khu công nghiệp Đình Trám không có đường đấu nối với QL 1A.
- Về tuyển dụng, đào tạo và nhà ở cho người lao động:
+ Các nhà đầu tư đến đầu tư vào Khu công nghiệp Đình Trám đều phải đăng ký kế hoạch sử dụng lao động tại Ban quản lý các Khu công nghiệp của Tỉnh. Ban quản lý các Khu công nghiệp đã giao cho Trung tâm dịch vụ Khu công nghiệp phối hợp với các Trung tâm dạy nghề trong và ngoài Tỉnh trong việc tuyển dụng, đào tạo nghề cho các doanh nghiệp, trong đó ưu tiên cho lao động tại khu vực có diện tích đất bị thu hồi để xây dựng Khu công nghiệp.
+ Uỷ ban nhân dân Tỉnh Bắc Giang đã có kế hoạch quy hoạch các khu dân cư và dịch vụ phục vụ cho các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại khu vực huyện Việt Yên, Yên Dũng và Thị xã Bắc Giang (khu dân cư xã Hồng Thái huyện Việt Yên: 70 ha; khu dân cư xã Tân Mỹ huyện Yên Dũng: 90 ha). Hiện nay các khu dân cư này đang được lập quy hoạch chi tiết và triển khai đầu tư. Do vậy, khi Khu công nghiệp Đình Trám đi vào hoạt động sẽ không gặp khó khăn về nhà ở cho người lao động.
5. Nhận xét ,đánh giá và kiến nghị của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư.
5.1 Nhận xét, đánh giá:
a.Về chủ trương và mục tiêu đầu tư:
Việc đầu tư xây dựng giai đoạn 2 Khu công nghiệp Đình Trám tỉnh Bắc Giang đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý về chủ trương tại Công văn số 593/CP-CN ngày 06/05/2004.
Mục tiêu của dự án là: Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng theo quy hoạch chi tiết được phê duyệt nhằm thu hút đầu tư, góp phần phát triển Khu công nghiệp của địa phương, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng tăng tỉ lệ công nghiệp, tạo việc làm cho người lao động, tăng thu ngân sách cho địa phương.
b.Về địa điểm, diện tích đất, hiện trạng và quy hoạch sử dụng đất:
Địa điểm thực hiện dự án thuộc các xã Hoàn Ninh và Hồng Thái, huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang với diện tích đất (giai đoạn 2) 40,399 ha.
Khu công nghiệp Đình Trám thuộc vùng đất chủ yếu là ruộng lúa, đất trồng màu có năng suất thấp và đường liên thôn, kênh mương tưới tiêu. Trong phạm vi dự án không có nhà ở và các công trình kiến trúc, chỉ có mọt số mồ mả và đường điện 110 KV, 35KV đi qua.
Khu công nghiệp Đình Trám có lợi thế về giao thông thuận tiện thuộc vùng đất chủ yếu là ruộng lúa, đất trồng màu có năng suất thấp nên chi phí đền bù giải phóng mặt bằng thấp. Tuy nhiên cần lưu ý phương án đền bù giải phóng mặt bằng và tái định canh, chuyển đổi ngành nghề và giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất canh tác.
Về cơ bản quy hoạch sử dụng đất của dự án phù hợp với quy hoạch chi tiết đã được Bộ Xây dựng phê duyệt. Tuy nhiên cần chuẩn xác số liệu trong bảng quy hoạch sử dụng đất.
c.Chủ đầu tư:
Công ty phát triển hạ tầng Khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang là đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu, trực thuộc ban quản lí các khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang được thành lập theo Quyết định số 246/QĐ-UB ngày 23/12/2002 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh Bắc Giang. Công ty đã thực hiện dự án giai đoạn 1 đạt kết quả tốt; việc giao công ty tiếp tục làm chủ đầu tư giai đoạn 2 là hợp lý.
d.Nội dung đầu tư về hạ tầng kỹ thuật:
Các hạng mục đầu tư gồm: San nền, hệ thông giao thông, hệ thống cấp điện, hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước, hệ thống thu gom, xử lí chất thải rắn, cây xanh, bảo vệ môi trường phù hợp với yêu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết cho Khu công nghiệp. Phân khu chức năng, cơ cấu sử dụng đất, nội dung đầu tư các hạng mục công trình về cơ bản phù hợp với mục tiêu của dự án và quy hoạch chi tiết Khu công nghiệp Đình Trám đã được Bộ Xây dựng phê duyệt tại Quyết định số 1384/QĐ-BXD ngày 31/8/2004.
e.Về tổng mức vốn và nguồn vốn đầu tư:
- Tổng mức vốn đầu tư: 72,035 tỷ đồng.
Suất đầu tư của giai đoạn 2 (1,783 triệu đồng/ ha) cao hơn so với giai đoạn 1 (1,538 triệu đồng/ ha). Đề nghị xem xét lại quy mô và chi phí đầu tư của một số hạng mục sử dụng chung nhưng được đầu tư trong cả hai giai đoạn như: Trạm xử lí nước thải tập trung, Khu trung tâm điều hành, hàng rào, cổng Khu công nghiệp; rà soát, đối chiếu với chi phí đầu tư thực tế đã được thực hiện trong giai đoạn 1 để chuẩn xác lại tổng mức đầu tư của giai đoạn 2 cho hợp lí.
- Nguồn vốn đầu tư:
+ Vốn ngân sách nhà nước: 85%
+ Vốn do doanh nghiệp vay hoặc tự khai thác: 15%
- Theo Công văn số 36/CV-TTHĐND ngày 03/02/2005 của Thường trực Hội đồng nhân dân Tỉnh Bắc Giang: “Kế hoạch năm 2005, Nghị quyết Hội đồng nhân dân Tỉnh đã phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách địa phương 11,8 tỷ đồng để đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Đình Trám giai đoạn 2; đồng thời hàng năm Hội đồng nhân dân Tỉnh sẽ bố trí một phần vốn ngân sách địa phương cùng vốn ngân sách của Trung ương hỗ trợ và nguồn vốn khác để đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Đình Trám giai đoạn 2”.
- Đối với phần vốn hỗ trợ từ ngân sách của Trung ương: Theo quy định tại Quyết định số 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn thì mỗi tỉnh thuộc diện được hỗ trợ cho một Khu công nghiệp với mức hỗ trợ tối đa không quá 60 tỷ đồng và thực hiện chủ yếu cho các hạng mục đền bù, giải phóng mặt bằng và công tác xử lý nước thải tập trung của Khu công nghiệp. Đối với Khu công nghiệp Đình Trám giai đoạn 2, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng khoảng 14,02 tỷ đồng, chi phí xây dựng trạm xử lý nước thải khoảng 10,8 tỷ đồng. Như vậy mức hỗ trợ cho Khu công nghiệp Đình Trám giai đoạn 2 có thể ở mức khoảng 25 tỷ đồng và cho cả hai giai đoạn không quá 60 tỷ đồng. Vì vậy, chủ đầu tư cần tính toán lại cơ cấu nguồn vốn và phương án huy động vốn từ các nguồn khác để đảm bảo tính khả thi cho dự án.
- Đối với ngân sách địa phương: Đã có ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân Tỉnh tại Công văn số 36/CV-TTHĐND ngày 03/2/2005.
- Phần vốn huy động và vốn vay: Theo báo cáo giải trình, bổ sung hồ sơ dự án số 09/BC-KCN ngày 31/1/2005 của Ban quản lí các Khu công nghiệp Tỉnh Bắc Giang, hiện có nhiều nhà đầu tư xin đầu tư vào Khu công nghiệp Đình Trám giai đoạn 2 đều sẵn sàng ứng trước vốn cho công tác san nền và một phần tiền thuê đất trong 5 năm đầu. Với diện tích đất cho thuê của giai đoạn 2 là 28 ha; khi cấp phép đầu tư, chủ đầu tư dự kiến các nhà đầu tư tạm ứng trước với mức 400 triệu đồng/ ha thì số vốn có thể huy động được là 11,2 tỷ đồng. Như vậy, chủ đầu tư không phải vay vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên đây cũng là mức huy động dự kiến; khi triẻn khai đầu tư và kinh doanh, chủ đầu tư cần thoả thuận với các nhà đầu tư thứ phát để ứng vốn, đảm bảo cân đối nguồn vốn đầu tư.
f. Về hiệu quả đầu tư:
Theo hồ sơ dự án, hiệu quả tài chính của dự án thấp do giá thuê đất đã có hạ tầng theo qui định của Tỉnh rất thấp. Mặc dù việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn được xem xét trên cơ sở hiệu quả kinh tế xã hội nói chung; tuy nhiên do việc thu hút đầu tư vào giai đoạn 2 đã có những thuận lợi nhất định nên đề nghị Tỉnh cần xem xét điều chỉnh lại chính sách giá cho thuê đất đã có cơ sở hạ tầng để nâng cao khả năng thu hồi vốn đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp.
g. Khả năng thu hút vốn đầu tư:
Theo báo cáo của Tỉnh, đến nay trong Khu công nghiệp này đã có 20 doanh nghiệp được Uỷ ban nhân dân Tỉnh Bắc Giang cho phép đầu tư, đạt 94,2% diện tích đất cho thuê của giai đoạn 1. Giai đoạn 2 đã có 13 doanh nghiệp đăng kí đầu tư với diện tích đất 272.629 m2 đạt 97,58% diện tích đất cho thuê. Điều này cho thấy khả năng thu hút vốn đầu tư của Khu công nghiệp là khả quan.
Kiến nghị
Căn cứ hồ sơ dự án; đề nghị của Uỷ ban nhân dân Tỉnh Bắc Giang tại tờ trình số 1840/TTr-CT ngày 25/10/2004; báo cáo giải trình, bổ sung hồ sơ dự án số 09/BC-KCN ngày 31/1/2005 của Ban quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Bắc Giang; ý kiến của Thường trực Hội đồng nhân dân Tỉnh tại công văn số 36/CV-TTHĐND ngày 3/2/2005; ý kiến của các Bộ, ngành có liên quan và các ý kiến nêu trên; Bộ Kế hoạch đầu tư đề nghị Thủ tướng Chính phủ:
- Cho phép đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp Đình Trám tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2.
- Đề nghị hỗ trợ từ vốn ngân sách Trung ương cho dự án theo quy định tại Quyết định số 183/2004 QĐ-TTg ngày 19/102004 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng cơ cấu hạ tầng kỹ thuật Khu công nghiệp tại các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn để thực hiện chủ yếu cho các hạng mục đền bù, giải phóng mặt bằng (giai đoạn 2) và đầu tư xây dựng trạm xử lý nước thải (Xây dựng trong giai đoạn 2 nhưng phục vụ chung cho cả hai giai đoạn) của Khu công nghiệp Đình Trám.
- Giao Uỷ ban nhân dân Tỉnh Bắc Giang chỉ đạo chủ đầu tư và các cơ quan ban ngành có liên quan bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ dự án theo ý kiến của các Bộ ngành và những vấn đề nêu trên; tổ chức thẩm định, quyết định đầu tư dự án và triển khai thực hiện dự án theo quy định hiện hành của nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng.
V. Đánh giá về công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư.
1.Những kết quả đạt được.
Với chức năng là cơ quan đầu mối tổ chức thẩm định các dự án đầu tư do Bộ KH&ĐT giao cho, trong những năm qua, Vụ Thẩm định và giám sát Đầu tư đã thực hiện nghiêm túc những quy định của Nhà nước trong việc áp dụng các quy định, thể chế vào công tác thẩm định nên đã đáp ứng được nhu cầu thẩm định các dự án. Trong quá trình thẩm định Vụ Thẩm định đã thực hiện tốt khâu kết hợp với các Vụ, Viện, các cơ quan chuyên môn có liên quan đến dự án. Thực hiện các cuộc hội thảo tư vấn thẩm định dự án có sự tham gia của các nhà khoa học, các chuyên gia, do đó hiệu quả của công tác thẩm định đã nâng lên một cách rõ rệt. Việc tổ chức thẩm định dự án là tương đối linh hoạt phù hợp với đặc điểm riêng của từng dự án, đã đẩy nhanh tiến độ thực hiện nhằm tiết kiệm thời gian và tiền bạc.
Trong công tác thẩm định, Vụ Thẩm định và giám sát Đầu tư không ngừng hoàn thiện quy trình thẩm định, nội dung thẩm định, thu thập các thông tin liên quan đến dự án. Do vậy, chất lượng công tác thẩm định đã nâng lên đáng kể. Chất lượng công tác thẩm định nói chung là đáp ứng, đảm bảo yêu cầu về thủ tục pháp lý và chuyên môn đồng thời thực hiện tương đối kịp thời đảm bảo thời gian theo quy định.
Sau nhiều năm thực hiện công tác thẩm định, cán bộ thẩm định đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm và thông tin để đánh giá dự án. Việc thẩm định dự án không chỉ dựa vào các quy định, chính sách của Nhà nước mà còn phải dựa vào kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ thẩm định. Nhờ đó mà đánh giá một cách tương đối chính xác các nội dung trong dự án làm căn cứ quan trọng trong việc ra quyết định hay cấp phép đầu tư. Trình độ chuyên môn của cán bộ được nâng lên làm cho việc thẩm định tiến hành nhanh hơn. Tiến độ thực hiện liên tục được cải thiện, thời hạn liên tục được rút ngắn, do vậy khối lượng công tác thẩm định đã tăng lên đáng kể .
Trong năm 2004 Vụ TĐ & GSĐT đã thực hiện một khối lượng công việc khá lớn. Riêng công tác thẩm định dự án, đã xem xét trên hồ sơ dự án, trong đó đã hoàn thành trình lãnh đạo Bộ thông qua 190 hồ sơ (kể cả hồ sơ xin đăng ký kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài). Như vậy tính bình quân một chuyên viên trực tiếp xử lý gần 20 hồ sơ/năm (tính bình quân số lượng chuyên viên trong năm là 10 người) và tham gia góp ý kiến 190 hồ sơ do các vụ chuyên ngành xử lý tức là tăng hơn so với mức bình quân năm 2003 khoảng 15 hồ sơ (năm 2003 bình quân 25 hồ sơ dự án/ 1 chuyên viên).
Công tác thẩm tra, thẩm định dự án theo yêu cầu quản lý đầu tư hiện hành đòi hỏi ngày càng chặt chẽ, nghiêm ngặt về mặt pháp lý và các nội dung kinh tế kỹ thuật, vì vậy nhiều vấn đề cần được kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng, đòi hỏi nhiều thời gian nghiên cứu, chuẩn bị báo cáo. Các bước công việc đều được thực hiện theo quy trình, quy chế chung của Bộ, theo sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ và đơn vị. Chất lượng công tác nói chung đã đáp ứng được yêu cầu, không có sai sót, các đề xuất, kiến nghị và những ý kiến tham mưu được lãnh đạo Bộ chấp thuận; phần lớn ý kiến thẩm định do Vụ đề xuất để lãnh đạo Bộ kiến nghị được Thủ tướng Chính phủ chấp nhận.
Trong đơn vị đã có những chuyển biến về nhận thức và đang từng bước hoàn thiện về quy trình tổ chức thực hiện công việc. Cán bộ, chuyên viên trong đơn vị đã quan tâm tới công tác thẩm định và triển khai công việc có kết quả.
Mặc dù thực hiện thẩm định dự án đứng trên giác độ Nhà nước, thẩm định các nội dung thông qua các văn bản pháp luật quy định nhưng thực tế các nội dung thẩm định tại Vụ là tương đối đầy đủ phản ánh được nội dung cần thiết trong đánh giá dự án. Thông qua các nội dung trên thì Vụ Thẩm định đã đánh giá một cách toàn diện, khách quan các mặt của dự án. Việc xác định mục tiêu của dự án là phù hợp, đặc biệt là xác định hiệu quả kinh tế- xã hội về mặt định tính khá đầy đủ là cơ sở vững chắc cho đánh giá dự án.
2.Những tồn tại và hạn chế.
- Việc thẩm tra, thẩm định, góp ý kiến về dự án nói chung thực hiện còn chậm, một số trường hợp chất lượng chưa tốt (chưa chặt chẽ, chưa sâu, chưa rõ). Công tác thẩm tra, thẩm định chưa có khuôn mẫu thống nhất, thiếu tiêu chí, tiêu chuẩn chung và thích hợp với tính chất, yêu cầu công việc (thẩm tra, thẩm định, điều chỉnh dự án, góp ý kiến đối với các bộ, ngành, địa phương).
Việc tổ chức thẩm định chưa tốt, chưa tận dụng được lực lượng của các cơ quan chuyên môn vì vậy thiếu căn cứ đánh giá dự án nên chất lượng công tác thẩm định thường hạn chế (chỉ nêu những nhận xét chung chung, thiếu định lượng cụ thể).
- Nhìn chung quy trình thẩm định còn nhiều điều bất cập từ khâu tiếp nhận hồ sơ đến tổ chức thẩm định và ra quyết định.Đối với những dự án mà Bộ KH&ĐT được phân cấp thẩm định thì trong quá trình tiếp nhận hồ sơ dự án phải qua Văn phòng Bộ sau đó mới chuyển tới Vụ thẩm định và giám sát đầu tư chứ Vụ Thẩm định không trực tiếp nhận hồ sơ. Điều này làm ảnh hưởng đến thời hạn hoàn thành việc thẩm định dự án, bởi vì sau khi nhận được hồ sơ dự án thì Văn phòng Bộ tiến hành kiểm tra sơ bộ về các điều kiện pháp lý rồi mới chuyển đến Vụ Thẩm định để triển khai việc thẩm định dự án.
Quy trình thẩm định dự án tuy chặt chẽ nhưng quá rắc rối và có xu hướng làm cho Vụ Thẩm định bị thụ động khi xem xét dự án theo đúng từng bước, đúng từng chi tiết của quy trình. Hơn nữa việc thẩm định qua nhiều khâu trung gian làm kéo dài thời gian thẩm định.
Trong quá trình thẩm định không có sự thống nhất trong quy trình thẩm định gây khó khăn trong việc đánh giá một cách chính xác các nội dung của dự án dẫn đến có nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình thẩm định. Do vậy Vụ thẩm định trong rất nhiều dự án đã phải mời chuyên gia tư vấn thẩm định làm tăng chi phí và kéo dài công tác thẩm định.
- Công tác thẩm định đã đáp ứng được cơ bản các nội dung cần xem xét. Nhưng trong các nội dung thẩm định vẫn còn tồn tại những hạn chế. Nội dung tiến hành thẩm định các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả và khả năng trả nợ của dự án khá đơn giản. Các báo cáo thẩm định chưa có sự phân tích sâu về thị trường, công nghệ thiết bị , công suất, các tiêu chí xây dựng giá thành sản phẩm, tổ chức thực hiện…Đặc biệt là phân tích và dự báo về mức độ rủi ro tiềm ẩn của đầu tư chưa được đặt ra.
Tính khả thi, tính hiệu quả, mức độ chắc chắn, an toàn… của dự án phụ thuộc rất lớn vào việc nghiên cứu và thẩm định về thị trường. Tuy nhiên trên thực tế việc nghiên cứu đánhgiá nội dung này rất sơ sài, phần lớn dừng lại ở mức đưa ra một vài nhận xét định tính. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng, một mặt do hạn chế về nhận thức, mặt khác không có cở sở dữ liệu về thị trường.
Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính dự án sử dụng đều khá đơn giản, dễ tính toán nhưng phần lớn chỉ quan tâm đến việc thu hồi vốn mà không chú ý phần tích luỹ do dự án đem lại sau khi hoàn vốn thông qua chỉ tiêu sử dụng NPV. Thực sự đây là chỉ tiêu hiệu quả tài chính quan trọng nhất, phản ánh được cả phần chủ đầu tư thu được cũng như sự đóng góp của dự án vào sự tăng trưởng GDP của nền kinh tế.Trong việc phân tích dòng tiền của dự án chỉ mới tính đến ròng tiền lời, lỗ, còn bỏ sót khá nhiều khoản mục cấu thành nên dòng ngân quỹ, làm giảm mức độ chính xác của việc tính toán hiệu quả.
Phần thẩm định dự án về kỹ thuật và công nghệ do thiếu kinh nghiệm và yếu tố về năng lực nên chủ yếu phải dựa vào nội dung đã trình bày trong dự án, hầu hết các trường hợp chưa xác định được chính xác tính tiên tiến, tính phù hợp của thiết bị- công nghệ, công suất, đặc biệt là nhu cầu vốn, nguồn cung ứng và các giải pháp cho các yếu tố đầu vào.
Phần thẩm định về hiệu quả kinh tế xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều trường hợp khi dự án vào hoạt động người ta mới phát hiện ra những tác động tiêu cực của nó đối với môi trường, đối với các ngành liên quan cũng như các bất lợi đối với đời sống xã hội. Việc khắc phục rất tốn kém, mất thời gian, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Có một số nguyên nhân của tình trạng trên, cụ thể là:
- Lực lượng của đơn vị trong năm qua chưa được tăng cường trong khi đó khối lượng công việc ngày càng tăng dẫn đến việc cán bộ chạy theo yêu cầu thời gian thẩm định do đó mà công tác thẩm định phần nào bị ảnh hưởng.
- Báo cáo của các bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu về thời gian và nội dung báo
- Công tác lập dự án chưa đảm bảo tính khả thi: Chất lượng và công tác thẩm định phụ thuộc vào nội dung của dự án trình duyệt. Đó là căn cứ quan trọng giúp nhà thẩm định cho các ý kiến về tính khả thi của dự án. Nếu dự án đầu tư được lập một cách đầy đủ các mặt của dự án, thông qua đó những cán bộ thẩm định có được cơ sở vững chắc trong việc thẩm định dự án. Hiện nay, trong quá trình thẩm định dự án, cán bộ thẩm định rất thiếu thông tin về các lĩnh vực của dự án, điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định, độ chính xác của những kết luận.Việc có không đầy đủ những thông tin dẫn đến thời gian thẩm định bị kéo dài làm ảnh hưởng đến các kế hoạch triển khai dự án. Để có những nhận xét tổng thể về dự án yêu cầu trước hết chủ đầu tư phải lập dự án một cách đầy đủ, trung thực phản ảnh được tổng thể các mặt của dự án.
- Các văn bản pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, không rõ ràng: Các văn bản pháp luật nêu lên rất chung chung về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định dự án. Rất nhiều văn bản pháp luật đang ở trong giai đoạn điều chỉnh, sửa đổi và hoàn thiện, một số văn bản đã không kịp thời được ban hành để thay thế những văn bản hiện có nhưng đã lỗi thời gây ra nhiều khó khăn cho công tác thẩm định.
Các quy định hiện hành cho phép một dự án có thể sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau song không quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong khâu thẩm định và phê duyệt đối với các dự án loại này, nhất là các dự án sử dụng một phần bằng vốn nhà nước. Do đó trong việc giải thích và hướng dẫn thực hiện Bộ KH&ĐT gặp rất nhiều khó khăn.
- Mặc dù mới ban hành Nghị định 07/ 2003/ TT- BKH về sửa đổi một số nội dung trong quy chế đầu tư và xây dựng; thông tư 05/ 2003/ TT- BKH ban hành ngày 22/ 7/ 2003 về hưỡng dẫn nội dung, trình tự lập và thẩm định các dự án quy hoạch phát triển ngành, phát triển kinh tế- xã hội. Nhưng vẫn còn tồn tại một vài điểm bất cập trong công việc quy định nội dung thẩm định dự án đầu tư. Các nội dung thẩm định trong đó không đầy đủ không phản ánh được toàn diện các mặt của dự án dẫn đến việc thực thi thẩm định dự án không đánh giá được một cách đầy đủ, chính xác tính khả thi của dự án do đó có thể ra những quyết định thiếu tính chính xác.
- Thiếu những thông tin cần thiết cho công tác thẩm định dự án : Trong quá trình thẩm định, các cán bộ thẩm định chủ yếu là căn cứ vào hồ sơ dự án để thẩm định. Điều này ảnh hưởng đến tính khách quan của dự án, bởi vì hồ sơ dự án do chủ đầu tư lập nên không tránh khỏi tình trạng thông tin liên quan đến dự án không chính xác. Trong khi đó do hạn chế về thời gian thẩm định nên cán bộ thẩm định không có đủ lượng thông tin cần thiết, làm ảnh hưởng đến những kết luận trong quá trình thẩm định.
-Phần thẩm định công nghệ của dự án thì đa số các cán bộ chỉ dựa vào nội dung đã trình bày trong dự án mà không nắm bắt được chính xác được những thông tin về công nghệ sử dụng trong dự án trên thị trường nên hầu hết chưa xác định được chính xác tính tiên tiến, tính phù hợp của thiết bị công nghệ, công suất liên quan đến dự án. Nhất là dự án mà sử dụng thiết bị công nghệ hoàn toàn mới thì gây rất nhiều khó khăn trong công tác thẩm định, dẫn đến việc thẩm định chỉ mang tính chất cảm tính mà không xác định được giá trị thực của công nghệ có thể dẫn đến tình trạng công nghệ sử dụng trong dự án không phù hợp mà giá cả lại cao hơn so với thị trường điều này ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tính toán hiệu quả của dự án.
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại vụ thẩm định và giám sát đầu tư.
I.Triển vọng đầu tư tại Việt Nam đến 2010.
1.Bối cảnh tình hình:
1.1.Những thuận lợi.
Tình hình kinh tế- xã hội của nước ta tiếp tục ổn định và phát triển. Đặc biệt, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của những năm đổi mới đã làm cho thế và lực của ta mạnh lên, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường. Sự phát triển có nhiều triển vọng của nền kinh tế trong môi trường chính trị xã hội cơ bản ổn định, môi trường hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế có nhiều thuận lợi cùng với những tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động của đất nước sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp tục thu hút mạnh hơn nữa các dự án đầu tư để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau. Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách nhà nước, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể tăng từ mức 6.1% GDP năm 1996 lên 12.3% GDP năm 2004.
Môi trường kinh doanh nói chung và môi trường đầu tư nói riêng không ngừng được cải thiện; công tác quản lý nhà nước về đầu tư đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm và dần đi vào nền nếp; đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực đầu tư ngày một trưởng thành.
Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang gia tăng mạnh cùng với sự phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức, tạo nên sự dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh tế quốc tế và gia tăng mạnh các dòng chuyển vốn trên thế giới.
1.2.Những khó khăn.
Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế 5 năm qua chậm dần. Năm 2005 có chiều hướng tăng lên nhưng chưa đạt được mức tăng trưởng cao như 5 năm đầu thập niên 90. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm, tích luỹ nội bộ nên kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô còn thiếu vững chắc.
Môi trường kinh doanh, đầu tư còn nhiều hạn chế. Nhu cầu thị trường tăng chậm, dung lượng thị trường nhỏ và sức mua trong nước còn rất thấp trong khi cung về nhiều sản phẩm trong nước đã bão hoà. Quản lý nhà nước về đầu tư còn một số bất cập, đặc biệt thủ tục hành chính còn phiền hà, tình trạng chấp hành chưa nghiêm luật pháp chính sách còn khá phổ biến.
2.Triển vọng Đầu tư đến năm 2010.
Chính phủ Việt Nam đã đề ra những mục tiêu phát triển kinh tế cho đến năm 2010 bao gồm:
- Tăng trưởng GDP 10%/ năm.
- Tăng trưởng Công nghiệp 10- 10,5%/ năm.
- Tăng trưởng Nông nghiệp 4- 4,5%/ năm
- Tăng trưởng Xuất khẩu 14%/ năm.
Trong khi theo đuổi các mục tiêu tăng trưởng đầy thử thách này cần phải quan tâm thích đáng đến đầu tư. Như vậy Nhà nước sẽ cần rất nhiều vốn để có thể theo đuổi mục tiêu phát triển, và việc để những dự án thực sự có hiệu quả thì công tác thẩm định còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện hơn nữa để có thể theo kịp, đáp ứng ngày càng tốt hơn.
II.Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư.
1.Giải pháp.
1.1.Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính.
Tuy trong những năm qua công tác cải cách thủ tục hành chính đã được quan tâm nhưng để làm cho công tác thẩm định thêm tiện lợi, nhanh chóng và chính xác, cần đẩy nhanh hơn nữa tiến độ cải cách thủ tục hành chính, khắc phục sự trì trệ trong các cơ quan quản lý nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục hành chính theo nguyên tắc “một cửa”, “một đầu mối”. Khi tiến hành thẩm định dự án, các cơ quan cần tiến hành đồng thời, nếu chấp nhận chẳng hạn về quyền sử dụng đất cần phải tiến hành giải phóng mặt bằng ngay để khi nhận được quyết định đầu tư có thể đưa dự án vào thực hiện.
Các cơ quan phụ trách đầu tư là cơ quan duy nhất tiếp nhận hồ sơ và giải quyết các công việc tiếp theo, đồng thời thay mặt nhà đầu tư đi liên hệ với các cơ quan hữu quan rồi trả lời cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi xin phép. Về hồ sơ đăng ký xin phép đầu tư, các cơ quan chức năng phải thông báo công khai các loại giấy tờ cần có, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, nhà đầu tư phải đăng ký theo mẫu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nên chăng cần tiến tới tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá thủ tục phê duyệt và cấp giấy phép đầu tư từ địa phương đến trung ương và phổ biến rộng rãi các tiêu chuẩn ấy trong và ngoài nước.
1.2. Giải pháp về nâng cao chất lượng khai thác, xủ lý và lưu trữ thông tin .
Thông tin là một yếu tố rất quan trọng để tiến hành công tác thẩm định và là điều kiện tiên quyết để lựa chọn được những dự án đầu tư có chất lượng tốt. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có thể đa dạng hóa nguồn thông tin từ các bạn hàng của đối tác để nắm được tình hình tài chính, quan hệ thanh toán, tư cách, uy tín và năng lực của nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với đó là việc thuê các công ty kiểm toán có uy tín xác định tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cần thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ tư vấn để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật và vận động đầu tư. Bên cạnh đó, thiết lập và duy trì mối quan hệ lâu dài với các đối tác có thể trợ giúp cũng là một trong những giải pháp không kém phần hiệu quả để giải quyết vấn đề thiếu hụt thông tin. Việc thiết lập được mối quan hệ lâu dài sẽ giảm chi phí và thời gian thu thập thông tin, chưa kể đến thông tin thu thập được chắc chắn sẽ có tính chính xác cao hơn.
Trong phạm vi quốc gia, đầu tư sử dụng vốn Ngân sách nhà nước là một hoạt động phức tạp, liên quan đến thẩm quyền và trách nhiệm của những cơ quan quản lý khác nhau. Vì vậy để tạo được nguồn thông tin tốt cho công tác thẩm định cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở các cấp. Vấn đề then chốt là nhằm đảm bảo duy trì chế độ báo cáo định kỳ theo quy định. Ngoài chế độ báo cáo thống kê theo quy định chung của nhà nước, các Sở kế hoạch và đầu tư cần có báo cáo và thông tin nhanh về tình hình đầu tư trên địa bàn để Bộ Kế hoạch và Đầu tư kịp thời nắm bắt và xử lý các vấn đề phát sinh.
Những năm gần đây, chúng ta đã có một bước nhảy vọt trong ngành viễn thông, trong mạng thông tin kinh tế giúp cho việc khai thác thông tin được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một định huớng cụ thể, chưa có một hoạch định đúng đắn để mạng thông tin toàn cầu phục vụ đắc lực và tối đa cho các cơ quan cần nắm bắt thông tin như cơ quan thẩm định.
Để có được nguồn thông tin tốt thì vấn đề lưu trữ và xử lý thông tin cũng hết sức quan trọng. Với sự giúp đỡ của công nghệ tin học, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện những phương pháp thu thập, phân tích, xử lý và lưu trữ thông tin có hiệu quả.
Xây dựng một hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ thuận tiện hiện đại, phải làm sao để thông tin được thông suốt trong toàn bộ hệ thống các phòng ban. Những thông tin cần thiết liên quan đến nhiều dự án có thể được truy cập một cách nhanh chóng.
Tổ chức hệ thống thu thập thông tin, xử lý, lưu trữ và quản lý thông tin nhăm trao đổi cung cấp kịp thời phục vụ cho công tác thẩm định, đồng thời có khuyến cáo sớm những thông tin dự báo cần thiết.
Vụ Thẩm định cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu riêng cho hoạt động thẩm định. Trong dó phải tập hợp, lưu trữ thông tin cần thiết về ngành, lĩnh vực, tình hình kinh tế các khu vực khác nhau trong cả nước, phát triển theo hướng lấy thông tin theo ngành dọc từ các Sở Kế hoạch và Đầu tư của các địa phương sau đó truyền về sắp xếp lại thông qua mạng nội bộ.
Trung tâm thông tin của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã và đang là một nguồn cung cấp thông tin quan trọng phục vụ không nhỏ cho công tác của Bộ. Tuy nhiên cũng cần phải cải tiến hơn nữa hoạt động của đội ngũ nhân viên trong việc khai thác và xử lý các thông tin trên mạng máy tính, đồng thời nâng cấp hệ thống máy tính để khai thác có hiệu quả hơn nguồn thông tin cả về số lượng và chất lượng.
1.3. Giải pháp về xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý.
Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện các công việc thẩm định. Để thực hiện tôt khâu này cần phải có một quy trình thực hiện thẩm định hợp lý, khoa học. Do nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định dự án là:
Thứ nhất: Phân tích đánh giá tính khả thi của dự án về các mặt.
Thứ hai: Đề xuất kiến nghị với nhà nước liệu chấp nhận hay không chấp nhận dự án. Tức công việc thứ nhất chủ yếu là xem xét đánh giá chuyên môn, công việc thứ hai là lựa chọn phương án và điều kiện phù hợp nên để công tác thẩm định được cặn kẽ và chính xác, việc tổ chức thẩm định dự án nên chia các thành viên tham gia thẩm định thành hai khối:
+ Khối chuyên môn: gồm các cơ quan chuyên môn hoặc chuyên gia có trình độ chuyên môn cao liên quan đến nội dung dự án.
+ Khối quản lý: gồm các cơ quan hoặc chuyên gia về quản lý (ngành, lãnh thổ) có hiểu biết chung về chuyên môn nhưng có thể không sâu về chuyên ngành.
Đối với khối tư vấn về chuyên môn, có thể có các cách sử dụng tư vấn sau:
. Thành lập nhóm chuyên gia: bao gồm các chuyên gia làm việc tại các Bộ, sở quản lý chuyên ngành, có thể có thêm vài chuyên gia độc lập từ các viện nghiên cứu, trường đại học bên ngoài. Trong những trường hợp cần thiết, nhóm chuyên gia này có thể chia thành các tiểu ban chuyên môn để thực hiện đánh giá theo từng nôị dung chuyên môn. Ví dụ: tiểu ban công nghệ, tiều ban xây dựng, tiểu ban kinh tế…
. Các tư vấn độc lập trong và ngoài nước: đó là các tổ chức hoặc cá nhân có trình độ chuyên môn cao trong các lĩnh vực có liên quan. Các tổ chức tư vấn hoặc chuyên gia này làm nhiệm vụ phản biện toàn bộ hoặc từng phần dự án theo chuyên đề.
Tuỳ thuộc nội dung, tính chất dự án cụ thể, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể trình người có thẩm quyền quyết định thành lập Nhóm chuyên gia hoặc chọn tư vấn phản biện để tiến hành thẩm định các dự án. Cách thức sử dụng tư vấn chuyên môn thẩm định đối với từng dự án có thể áp dụng các cách linh hoạt: có thể đầy đủ các hình thức tổ chức nói trên (có cả nhóm chuyên gia, có cả các tư vấn độc lập), có thể sử dụng một hay một vài hình thức nêu trên (chỉ gồm nhóm chuyên gia hay một vài tiểu ban chuyên môn, thậm chí có thể chỉ yêu cầu một vài chuyên gia phản biện). Trên cơ sở ý kiến của các tư vấn chuyên môn nói trên, cơ quan thẩm định sẽ xem xét quyết định để có ý kiến trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư.
Mặt khác, Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư_ với tư cách là cơ quan thẩm định _ cần phối hợp với các Bộ chuyên ngành, Hiệp hội tư vấn để hình thành mạng lưới đội ngũ chuyên gia và tổ chức tư vấn tương đối ổn định, có mối quan hệ thường xuyên hơn để huy động nhanh, đáp ứng kịp thời yêu cầu của công tác thẩm định. Nhóm chuyên gia liên ngành, các tiểu ban chuyên môn và tư vấn độc lập cũng cần sử dụng thông tin, trao đổi, phối hợp với nhau trong quá trình thẩm định đánh giá dự án theo nhiệm vụ được giao.
Việc thực hiện tốt một quy trình thẩm định hợp lý một mặt sẽ đảm bảo các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp được giữa các ngành, các địa phương trong việc đánh giá thẩm định dự án, đồng thời đảm bảo tính khách quan, cho phép phân tích sâu sắc, có căn cứ khoa học và thực tế các vấn đề chuyên môn, giúp Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ thẩm định của mình.
1.4. Giải pháp về xác định các tiêu chuẩn trong phân tích thẩm định, đánh giá dự án .
Để thẩm định đánh giá dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật. Việc sử dụng các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cần phải giải quyết hai vấn đề là định lượng và xác định tiêu chuẩn để đánh giá của các chỉ tiêu đó. Khâu yếu trong công tác thẩm định hiện nay chính là hai vấn đề trên. Để khắc phục mặt yếu kém này, cần phải có một số giải pháp kịp thời và đòi hỏi sự nỗ lực phối hợp của các cơ quan chuyên môn có liên quan:
+ Cần nhanh chóng thống nhất về nội dung, phương pháp đo lường một số chỉ tiêu như chỉ tiêu sử dụng đất ở các khu công nghiệp, tính toán yếu tố lạm phát trong các chỉ tiêu tài chính, chỉ tiêu và phương pháp tính các chỉ tiêu đánh giá kinh tế, chỉ tiêu đánh giá về các yếu tố xã hội….
+ Xây dựng các chỉ tiêu hướng dẫn hoặc các tiêu chuẩn áp dụng cho từng loại hình dự án, đặc biệt là các chỉ tiêu phân tích tài chính.
+ Phối hợp với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và các cơ quan khác có liên quan trong việc khai thác các thông tin về các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật có tính chất kinh nghiệm, thực tế trong và ngoài nước, đặc biệt là các thông tin về công nghệ, thiết bị, giá cả các loại vật tư thiết bị, các tỷ lệ chi phí tư vấn, chuyển giao công nghệ.
Những điểm này cần phải được đặc biệt chú trọng đối với các cơ quan đầu tư tổng hợp không chỉ Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà còn đối với các bộ khác như Bộ tài chính, Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Bộ khoa học công nghệ môi trường và cả các địa phương. Việc nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn và các chỉ tiêu hướng dẫn là rất cần thiết cho công tác thẩm định, bởi chúng chính là những cơ sở cho việc đánh giá dự án.
1.5. Giải pháp về nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thẩm định.
Một trong những yếu tố khiến cho công tác thẩm định dự án chưa đạt được hiệu quả như mong muốn là do một bộ phận những cán bộ làm công tác thẩm định còn chưa được trang bị những kiến thức đầy đủ và cập nhật về dự án và kỹ năng thẩm định dự án. Vì vậy, để công tác thẩm định được tốt hơn, cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những kiến thức mới, những quy định mới nhất của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính chất nghiêm ngặt và chặt chẽ để bảo vệ lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Bên cạnh đó, một nhiệm vụ không thể thiếu được và mang tính cấp bách là đẩy mạnh công tác đào tạo.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ từ trước đến nay vẫn luôn được Bộ Kế hoạch và Đầu tư quan tâm và luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Các cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói chung và cán bộ chuyên trách công tác thẩm định nói riêng tại Vụ Thẩm định Giám sát đầ tư đều đã được cử đi đào tạo ở nhiều loại hình khác nhau, cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên với nhu cầu đòi hỏi cấp bách hiện nay đối với đội ngũ làm công tác thẩm định dự án, thiết thực nhất vẫn là phải mở thêm các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ chuyên môn. Bên cạnh việc trang bị hệ thống lý thuyết đầy đủ và cập nhật, cần chú trọng kỹ năng thực hành bằng các chương trình phần mềm thẩm định trực tiếp trên máy vi tính với những ví dụ thực tế, cụ thể hơn là phương pháp truyền đạt một chiều sẽ không kích thích được tính tích cực, chủ động và không đạt được mục tiêu nâng cao kỹ năng thực hành cho đối tượng đang làm công tác thực tế. Với các lớp học, chương trình tập huấn nghiệp vụ hạn chế về chỉ tiêu, cần ưu tiên tuyển chọn những cán bộ đã được trang bị hoặc đã có tích luỹ kiến thức tương đối về thẩm định dự án, có khả năng tiếp thu và hướng dẫn lại nghiệp vụ khi về công tác tại cơ quan. Có như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thẩm định mới mang lại kết quả thiết thực và tiết kiệm được chi phí.
Cần sớm tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thẩm định theo hướng chuyên môn hóa. Có như vậy, Vụ Thẩm định Giám sát đầ tư mới đào tạo được những chuyên gia chuyên sâu về từng mặt nghiệp vụ, từng loại dự án, đặc biệt là những nghiệp vụ đặc thù. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kết hợp với quy hoạch cán bộ, việc lập kế hoạch đào tạo sẽ đúng đối tượng, hiệu quả cao hơn. Mặt khác, cũng trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ được công khai hoá, đội ngũ cán bộ sẽ có điều kiện chủ động trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ, phát huy cao độ ý chí và nghị lực của mình, tự tin trong quá trình phấn đấu và công tác.
Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một đơn vị then chốt, tập trung nhiều cán bộ quản lý kinh tế, quản lý dự án và cũng là nơi cung cấp nhiều cán bộ quản lý cho hệ thống các Sở kế hoạch và đầu tư của các tỉnh trên phạm vi toàn quốc. Vì vậy, đẩy mạnh công tác đào tạo cần phải gắn liền với thực hiện đa dạng hoá đào tạo, phù hợp với nhu cầu đào tạo của từng địa phương, từng lĩnh vực chuyên môn. Chỉ có đa dạng hoá các loại hình đào tạo mới phát huy được nội lực của mỗi cán bộ nhân viên, của từng đơn vị thành viên và toàn hệ thống, thực hiện mục tiêu cập nhật kiến thức, vừa nâng cao trình độ cán bộ hiện tại, vừa chuẩn bị nguồn cán bộ cho tương lai để sớm thực hiện tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ.
Xây dựng trung tâm đào tạo của Bộ thật sự trở thành một trung tâm mạnh về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với cán bộ nhân viên. Với cách tổ chức như vậy đã tạo nên một đội ngũ đông đảo cán bộ được nâng cao trình độ, kiến thức đáp ứng yêu cầu công tác. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã mở các lớp tập huấn cho các tỉnh và thành phố về công tác kế hoạch, tài chính, đầu tư, thẩm định dự án, đấu thầu, quản lý ODA…cho hàng nghìn lượt người. Công tác này cần được tiếp tục phát huy và mở rộng:
+ Cần tăng cường trang thiết bị phục vụ công tác giảng dạy tốt hơn, có thêm một số phòng học, hội trường, thư viện, phòng đọc rộng rãi hơn.
+ Xây dựng kế hoạch đào tạo gắn liền với việc tổ chức biên soạn và thẩm định, xét duyệt tài liệu, giáo trình đào tạo. Phát huy hơn nữa chức năng của Trung tâm thông tin và Tạp chí kinh tế và dự báo trong việc cung cấp các thông tin cập nhật và tài liệu tham khảo trên các lĩnh vực kinh tế như thẩm định dự án, quản lý ODA, đầu tư nước ngoài, đấu thầu…
Song song với đào tạo, cần có chính sách tuyển dụng cán bộ hợp lý nhất là cán bộ trẻ để thu hút những người có năng lực và trình độ được đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước về lĩnh vực thẩm định dự án. Bên cạnh đó, cần thưòng xuyên mời những chuyên gia giỏi làm cố vấn hay cộng tác viên phối hợp với cán bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong công tác thẩm định.
2.Kiến nghị với Bộ Kế hoạch - Đầu tư.
- Cần nghiên cứu xây dựng một quy trình thẩm định hiện đại, phù hợp với từng loại hình dự án đầu tư nhằm hướng đến mục tiêu đơn giản và hiệu quả. Thực hiện đúng chức năng là cơ quan thẩm định đứng trên góc độ của nhà nước và Chính phủ. Tránh can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh của các chủ đầu tư mà lơ là nhiều mặt làm ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế xã hội của đất nước mà dự án đem lại.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính trong từng bộ phận tham gia thẩm định và quyết định đầu tư.
- Hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin, báo cáo nội bộ. Phải làm sao để thông tin được thông suốt, đầy đủ, không phiến diện, làm cơ sở cho việc cung cấp thông tin cho hoạt động thẩm định dự án được nhanh chóng, thuận tiện.
- Khẩn trương xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực và các tiêu chuẩn đánh giá dự án cho các dự án đầu tư theo từng lĩnh vực, từng địa bàn, từng ngành…để làm cơ sở so sánh, đánh giá dự án và ra quyết định đầu tư.
- Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng nhà nước trong việc thẩm định mặt tài chính của các dự án đầu tư nước ngoài. Cố gắng xây dựng những cơ sở và tiêu chuẩn thẩm định về mặt tài chính thống nhất và chặt chẽ để giảm bớt gánh nặng cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong mặt thẩm định tài chính đối với những dự án được phép, hoặc ít nhất, những khía cạnh tài chính đã được thẩm định bởi ngân hàng có thể trở thành cơ sở tin cậy để Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra những đánh giá cho tính khả thi về mặt tài chính của dự án.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trong việc thẩm định mặt kỹ thuật công nghệ của dự án. Thường xuyên có sự trao đổi, đào tạo cán bộ thẩm định thuộc chuyên môn kỹ thuật của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Bộ khoa học Công nghệ và Môi trường để nâng cao trình độ cũng như cập nhật các kiến thức mới nhất về công nghệ của thế giới nhằm nâng cao chất lượng thẩm định về mặt kỹ thuật công nghệ của dự án.
Kết luận
Qua chuyên đề này em đã đề cập đến phần nào tình hình công tác thẩm định các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước và có một số giải pháp và kiến nghị về công tác thẩm định những dự án sử dụng nguồn vốn này.
Do sự hiểu biết và thời gian thực tập có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để Chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo,Tiến sỹ Phạm Văn Hùng và Tiến sỹ Nguyễn Đức Chung (Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nơi em thực tập) đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Hà nội ngày 06 tháng 05 năm 2005.
MụC LụC
Lời mở đầu 1
chương 1:những vấn đề chung về công tác thẩm định dự án đầu tư 3
I.Khái niệm và phân loại dự án đầu tư 3
1.Khái niệm dự án đầu tư 3
2.Phân loại dự án đầu tư 3
II.Tổng quan về thẩm định dự án. 4
1.Khái niệm 4
2.Sự cần thiết phải thẩm định dự án 5
3.Mục đích và yêu cầu của thẩm định dự án 5
3.1.Mục đích của thẩm định dự án 5
3.2.Yêu cầu của thẩm định dự án 6
4. ý nghĩa của thẩm định dự án 6
III.Nội dung và các bước thẩm định dự án sử dụng vốn nhà nước
1.Nội dung 7
1.1. Mục tiêu và căn cứ pháp lý của dự án 7.
1.2. Thẩm định sản phẩm, thị trưòng 7
1.3. Thẩm định về phương diện kỹ thuật 7.
1.4. Sự hợp lý của phương án địa điểm, sử dụng đất đai, chế độ khai thác và sử dụng tài nguyên quốc gia 9
1.5. Thẩm định ảnh hưởng của dự án đến môi trường 9
1.6. Thẩm định về phương diện tổ chức 10
1.7. Thẩm định về phương diện tài chính của dự án. 10
1.8. Thẩm định hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án 14
2. Các nguyên tắc trong thẩm định 16
IV.Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thẩm định dự án. 17
1. Môi trường pháp lý 17
2. Phương pháp thẩm định 17
3. Thông tin 18
4. Quy trình thực hiện thẩm định 19
5. Quản lý nhà nước đối với đầu tư. 22
6. Đội ngũ cán bộ thẩm định 26
7. Vấn đề định lượng và tiêu chuẩn trong phân tích, đánh giá dự án 26
Chương 2: Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 27
I.Sơ lược về Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 27
1. Cơ cấu tổ chức 27
2. Chức năng, nhiệm vụ 27
II.Khái quát chung về các dự án được thẩm định trong năm 2004. 28
III.Quy trình tổ chức thẩm định tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 33
1.Tiếp nhận hồ sơ. 33
2.Lập kế hoạch và xử lý công việc được giao. 33
3.Quy trình xử lý công việc. 34
4.Thời hạn xử lý công việc. 35
IV.Ví dụ về một dự án được thẩm định tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư 35
1.Tóm tắt nội dung chính của dự án. 35
2.Các mặt được thẩm định của dự án: 38
2.1.Tư cách pháp lý và năng lực tài chính của nhà đầu tư 38
2.2.Thẩm định mặt tài chính của dự án 38
2.3.Lợi ích về mặt kinh tế xã hội của dự án .48
2.4.Đánh giá tác động môi trường của dự án. 49
3.Tóm tắt ý kiến của các bộ nghành và các đơn vị liên quan liên quan (trước khi có giải trình, bổ sung hồ sơ Dự án) 50
3.1. Bộ Công nghiệp 50
3.2. Bộ khoa học và Công nghệ 51
3.3. Bộ Giao thông Vận tải 51
3.4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 51
3.5. Bộ Quốc phòng 52
3.6. Bộ tài nguyên và môi trường 53
3.7.Bộ Xây dựng 53
8.Bộ Tài chính 54
4.Nội dung giải trình bổ sung hồ sơ dự án. 55
5. Nhận xét ,đánh giá và kiến nghị của Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 57
5.1. Nhận xét, đánh giá 57:
5.2. Kiến nghị 60.
IV.Đánh giá về công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và giám sát đầu tư. 60
1.Những kết quả đạt được. 61
2.Những tồn tại và hạn chế. 62
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại vụ thẩm định và giám sát đầu tư. 66
I.Triển vọng đầu tư tại Việt Nam đến 2010. 66
1.Bối cảnh tình hình: 66
1.1.Những thuận lợi 66.
1.2.Những khó khăn 66.
2.Triển vọng Đầu tư đến 2010. 67
II.Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thẩm định dự án tại Vụ Thẩm định và Giám sát đầu tư. 67
1.Giải pháp. 67
1.1.Giải pháp về cải cách thủ tục hành chính 67
1.2. Giải pháp về nâng cao chất lượng khai thác, xủ lý và lưu trữ thông tin 68
1.3. Giải pháp về xây dựng một quy trình thẩm định hợp lý. 69
1.4. Giải pháp về xác định các tiêu chuẩn trong phân tích thẩm định, đánh giá dự án . 71
1.5. Giải pháp về nâng cao trình độ cho cán bộ thẩm định 72
2.Kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 74
Kết luận 75
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0064.doc