- Xây dựng website TMĐT chuyên nghiệp có đầu tư, chọn lọc : trên thực tế, DN có ba sự lựa chọn:
. Mua một giải pháp dựng sẵn
. Thuê một chỗ trong một giải pháp thương mại điện tử dựa trên mạng
. Xây dụng một hệ thống với những cấu kiện khác nhau.
- Đào tạo kiến thức, kỹ năng và môi trường ứng dụng thương mại điện tử; vấn đề sở hữu trí tuệ trong môi trường giao dịch ảo; phổ cập các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động thương mại điện tử.
- Chủ động tìm hiểu về thương mại điện tử và lợi ích của TMĐT, Xác định mô hình thương mại điện tử thích hợp và xây dựng kế hoạch triển khai mô hình tại doanh nghiệp. Trên cơ sở mô hình đã chọn, các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch triển khai, bao gồm kế hoạch tài chính trên cơ sở đầu tư vào thiết bị và công nghệ, đầu tư nguồn lực con người, v.v.
- Tích cực tham gia các sàn giao dịch TMĐT : Sàn Giao dịch là một trong những hình thức hỗ trợ TMĐT quan trọng nhất. Thay vì phải tự hình thành một website riêng, DN có thể giới thiệu về mình, tìm kiếm đối tác, khách hàng và tận dụng được nhiều lợi ích kèm theo từ các sàn giao dịch trực tuyến. Các DN có thể tìm kiếm mặt hàng, đối tác trên các sàn giao dịch vốn đã nổi tiếng trên thế giới như (Hàn Quốc), (Mỹ) .
- Học tập kinh nghiệm quản lý, phát triển hạ tầng và hỗ trợ phát triển TMĐT tại các quốc gia có nền TMĐT phát triển.
73 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1971 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế Quốc dân Hà nội. Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông và Đại học Đà Nẵng là hai trường đại học khác tích cực triển khai hình thức đào tạo trực tuyến.
Tháng 11/2004, ngành giáo dục đã xây dựng Cổng đào tạo trực tuyến chính thức tại địa chỉ net.vn. Cổng do Trung tâm Tin học của Bộ Giáo dục và Đào tạo thiết kế trên công nghệ Web Conferencing, sử dụng mã nguồn mở. Cổng cung cấp công nghệ và một số mô hình mẫu về đào tạo trực tuyến để các trường tự tìm hiểu, triển khai. Đến nay có gần 10 trường sử dụng hệ thống đào tạo trực tuyến này như Đại học Quốc Gia Hà Nội, Đại học Sư Phạm Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, Đại học Y Tế Cộng Đồng, v.v... Mức độ sử dụng hiện nay mới chỉ là thử nghiệm, hỗ trợ sinh viên học theo phương thức truyền thống. Qua trang thông tin điện tử của trường, sinh viên biết sẽ học môn gì, nội dung gì để chuẩn bị trước. Sinh viên cũng có thể chia sẻ tài nguyên, những bài thực hành mẫu, hoặc làm các bài tập trên mạng. Cho dù Cổng đào tạo trực tuyến của Bộ Giáo dục và Đào tạo chưa mang lại hiệu quả thực sự nhưng cũng là một dấu hiệu đáng mừng về mức độ quan tâm của cơ quan quản lý nhà nước đối với đào tạo trực tuyến.
_ Hình thức tổ chức: đa phần vẫn là đào tạo bán trực tuyến nhưng số giờ học, môn học trực tuyến chiếm một tỷ lệ ngày càng cao.
Đối với chương trình đào tạo trực tuyến, công tác hành chính như thủ tục đăng ký nhập học, thủ tục thu nộp học phí tại các đơn vị này hầu hết vẫn diễn ra theo phương thức truyền thống do các công cụ hỗ trợ như thanh toán trực tuyến, chữ ký số còn thiếu. Do đó, vận hành một khoá học đào tạo trực tuyến từ khâu tổ chức đến khâu giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, người học hiện nay vẫn chưa thực sự làm quen với một khoá đào tạo trực tuyến hoàn toàn. Chính vì vậy, xu hướng chính là đào tạo bán trực tuyến đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhưng theo kế hoạch phát triển dài hạn, các đơn vị hy vọng rằng, khi công nghệ, các hỗ trợ khác được cải thiện và nâng cấp cùng với thói quen người học thay đổi, họ có thể triển khai được hình thức đào tạo trực tuyến hoàn toàn.
_ Cấp bậc đào tạo: không chỉ bó gọn ở hình thức cấp chứng chỉ đào tạo ngắn hạn mà còn mở rộng sang hệ cử nhân tại chức hoặc chính quy.
Hầu hết các đơn vị đều bắt đầu con đường đào tạo trực tuyến bằng các chương trình đào tạo chứng chỉ ngắn hạn. Đây là một bước khởi đầu an toàn, đồng thời giúp các đơn vị có thể định h́nh được nhu cầu của học viên cũng như có kinh nghiệm khi triển khai các khoá học dài hạn phức tạp và khó khăn hơn. Ngoài ra, hình thức đào tạo cấp chứng chỉ là một kênh hiệu quả để tiếp thị, thu hút số lượng lớn học viên tham gia các khoá học dài hạn chính quy sau này. Tính đến nay, chiến lược đào tạo như vậy vẫn đang phát huy được thế mạnh, đem lại hiệu quả cho các trường đào tạo hiện nay
_ Hiệu quả kinh tế: là một kênh tăng thêm doanh thu đào tạo cho đơn vị. Tỷ lệ đóng góp này đang gia tăng do sự đa dạng hơn về chương tŕnh đào tạo cũng như sự tăng nhanh của số lượng học viên. Các chương tŕnh đào tạo trực tuyến hiện đang triển khai được coi là hoạt động mang tính chiến lược, “đi tắt đón đầu” trong tương lai. Hiệu quả kinh tế tuy chưa cao, song trong tương lai không xa, khi “cầu” ngày một tăng, đào tạo trực tuyến sẽ mang lại doanh thu và trở thành một hình thức đào tạo quan trọng trong kế hoạch phát triển, mở rộng đào tạo của các trường đại học.
_ Những khó khăn cơ bản các trường gặp phải như sau:
. Hỗ trợ từ phía cơ quan quản lý nhà nước chưa nhiều. Nhà nước hiện chưa có chính sách cụ thể nào nhằm khuyến khích và thúc đẩy các trường đại học mở rộng mô hình đào tạo trực tuyến.
. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị chưa đầy đủ và hiện đại. Đây là một trong những lúng túng của khá nhiều đơn vị do hạn chế về đầu tư cơ sở hạ tầng để tiến hành hình thức đào tạo dựa trên nền tảng công nghệ cao.
. Nhiều học viên muốn tham gia nhưng hạn chế về điều kiện ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là học viên tại các vùng sâu, vùng xa.
. Nguồn giảng viên cho các khoá đào tạo trực tuyến còn hạn chế. Khả năng tin học cũng như ứng dụng công nghệ của các giảng viên truyền thống chưa cao là một khó khăn trong công tác giảng dạy trực tuyến.
. Công tác tuyên truyền còn nghèo nàn trong khi nhận thức và thói quen của học viên nhìn chung còn khá bảo thủ khi tiếp cận phương thức học tập mới.
Qua các đơn vị đào tạo trực tuyến trong ngành giáo dục có thể thấy đào tạo trực tuyến có lợi ích cao và cần có định hướng phát triển đúng đắn, kịp thời. Những khó khăn trên cũng cần sớm có những biện pháp khắc phục, tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đại học triển khai loại hình đào tạo mới này.
b. Doanh nghiệp kinh doanh đào tạo trực tuyến
Kết quả điều tra, khảo sát các doanh nghiệp kinh doanh đào tạo trực tuyến của Vụ Thương mại điện tử cho thấy tình hình chung như sau:
_ Nhiều DN đã nhanh chóng tiếp cận thị trường đào tạo trực tuyến.
Môn học chủ yếu mà các doanh nghiệp triển khai hiện nay là tiếng Anh và tin học, vì thực tế hai môn này đang thu hút được nhiều học viên nhất. Do tính chất đặc thù của hai môn học trên là có thể tiếp cận khá nhanh dưới hình thức tự học, nên khi được triển khai dưới hình thức đào tạo này, học viên cảm thấy khá lý thú và bớt nhàm chán so với phương thức học truyền thống. Nhờ có sự trợ giúp về hệ thống âm thanh, hình ảnh mà cả bốn kỹ năng cần thiết của việc học ngoại ngữ cũng như yêu cầu thực hành cao của môn tin học đều được đáp ứng một cách linh hoạt và giúp kích thích người học ở một mức độ cao.
_ Đa dạng về cách thức tổ chức của doanh nghiệp:
Bên cạnh hình thức kinh doanh như Công ty Giáo dục Toàn cầu, hay Học hiệu MEC, hiện ở Việt Nam còn có hình thức liên kết với một đơn vị hoặc dự án khác để triển khai các khoá đào tạo trực tuyến, góp phần làm phong phú hơn các chủ thể hoạt động trong lĩnh vực này. Trường ảo VnDG Campus là sản phẩm hợp tác giữa Cổng phát triển Việt Nam và Tổ chức Phát triển Nguồn nhân lực Đức. Học viện mạng Netpro phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cung cấp dịch vụ đào tạo.
_ Bên cạnh một số ít các doanh nghiệp đang trong tiến trình thử nghiệm miễn phí, nhiều doanh nghiệp khác đã coi đây là hướng kinh doanh đầu tư đem lại lợi nhuận. Một trong những động lực khiến một số doanh nghiệp bắt đầu cung cấp miễn phí chương trình đào tạo trực tuyến là do nhu cầu đòi hỏi của các học viên đang theo học. Tại các doanh nghiệp này, học viên phần lớn đang đi làm nên việc tham dự khoá học đầy đủ gặp nhiều khó khăn, đào tạo trực tuyến chính là giải pháp hữu hiệu cho cả doanh nghiệp và học viên.
Tuy nhiên, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu so với các đối thủ trên thị trường thế giới nói chung. Hầu hết các chỉ số về nâng cao chất lượng, theo đuổi các chiến lược kinh doanh còn khá thấp, xấp xỉ mức 30/100 điểm. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xă hội, cũng như theo kịp nhịp điệu của thế giới, các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động đào tạo của Việt Nam cần có tầm nhìn dài hạn về đào tạo trực tuyến.
6.Các loại hinhfkinh doanh giá trị gia tăng trực tuyến khác
6.1. Báo điện tử khẳng định vị thế
Nếu năm 2004 là năm khởi đầu, năm 2005 là năm phát triển thì năm 2006 là năm khẳng định vị thế của báo điện tử tiếng Việt tại Việt Nam. Theo thống kê của Vụ Báo chí - Bộ Văn hoá Thông tin, tính đến tháng 11/2006, có khoảng 102 báo điện tử đang hoạt động. Theo một điều tra mới đây của ACNielsen, khoảng 70% số người truy cập vào Internet với mục đích đọc báo điện tử được cập nhật thông tin hàng ngày. So với các hoạt động khác như học tập trực tuyến, chơi tṛ chơi trực tuyến, báo điện tử có sức cuốn hút nhất đối với người sử dụng Internet tại Việt Nam.
a. Thế mạnh tạo nên sức hút lớn
Nếu như cách đây ba năm, khi báo điện tử mới bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, nội dung của báo chỉ là đăng tải hoặc biên tập lại các bài báo in thì giờ đây cả nội dung và hình thức đều có những cải tiến rõ nét.
Khảo sát các báo điện tử lớn hiện nay cho thấy nội dung được đăng tải rất phong phú, trải rộng ở hầu hết tất cả các lĩnh vực. Đây là một điểm mạnh của báo điện tử do không bị hạn chế về số trang, số từ hay phạm vi hoạt động đưa tin. Các chuyên mục chính của báo điện tử hiện nay bao gồm chính trị, xă hội, kinh tế, khoa học, pháp luật, thể thao, văn hoá, giải trí, công nghệ thông tin, diễn đàn.
Nỗ lực cải tiến trong nội dung và hình thức được minh chứng rõ nhất thông qua số lượng truy cập cũng như lượng độc giả hàng ngày. Hai tờ báo điện tử thu hút được nhiều độc giả nhất hiện nay là www. vnexpress và www.vnn.vn. Qua 5 năm hoạt động, đến năm 2006 Vnexpress đa có trung bình 1,5 triệu độc giả hàng ngày. Sự kiện VnExpress lọt vào 500 trang web hàng đầu thế giới, theo bảng xếp hạng của Alexa.com, đánh dấu bước phát triển vượt bậc về nội dung Internet ở Việt Nam. Giới công nghệ thông tin trong nước và quốc tế đánh giá cao việc một website Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng các website lớn nhất toàn cầu.
(Báo Vnexpress nằm trong Top 500 Websites của Alexa.com :
Ngày 21/6/2006, 292 là vị trí của VnExpress trong bảng Global Top 500 Sites của Alexa.com – công cụ theo dõi lượng truy cập thuộc Tập đoàn thương mại trực tuyến lớn nhất thế giới Amazon.com. Với vị trí này, VnExpress đã sánh vai cùng nhiều báo điện tử nổi tiếng trên thế giới như USA Today (176), Guardian.co.uh (281), v.v... Ra mắt trên Internet ngày 26/2/2001, 6 tháng sau, Vnexpress đã lên vị trí đầu bảng trong số các website tiếng Việt trên toàn cầu và chiếm giữ vị trí này cho đến ngày hôm nay. VnExpres là tờ báo điện tử không được bao cấp với nguồn thu duy nhất để báo hoạt động là từ quảng cáo. )
_Báo điện tử còn được gọi là báo giờ bởi khả năng cập nhật thông tin kịp thời của nó. Nếu như báo giấy bị giới hạn bởi số phát hành theo thời gian toif báo điện tử lại có khả năng đăng tải thông tin mới bất cứ lúc nào. Khả năng lưu giữ thông tin nhanh chóng; khả năng tương tác, phản hồi giữa độc giả với từng bài báo cũng là một ưu thế, thu hút độc giả đến với loại hình báo này.
Hơn nữa, báo điện tử còn là sự tổng hợp của công nghệ đa phương tiện. Nó không chỉ chuyển tải văn bản, hình ảnh như báo giấy, mà có cả âm thanh, hình ảnh như phát thanh, truyền hình. Tuy chất lượng chưa tốt như sóng âm thanh, hình ảnh truyền hình chuyên nghiệp nhưng cùng với sự phát triển của công nghệ, báo điện tử đang và sẽ tạo dựng một sức mạnh truyền thông mới.
b. Trực tuyến để củng cố và gia tăng vị thế
Trong ba năm trở lại đây, các tờ báo giấy như Tuổi trẻ, Thanh Niên, Lao động đã xây dựng các ấn bản trực tuyến của mình với mong muốn trở thành những tờ báo điện tử tiếng Việt hàng đầu nhằm phục vụ nội dung tuyên truyền đối ngoại. Đây cũng là mục tiêu quan trọng để các tổ chức chính trị, các cơ quan ngôn luận của chính phủ liên tục có những đổi mới, nâng cấp các trang thông tin điện tử của ḿnh trên Internet thời gian qua. Theo Bộ Văn hoá Thông tin, có tới 96 trong số 102 báo điện tử có nguồn gốc từ báo giấy. Trong đó, hầu hết nội dung của báo giấy được đăng tải trên trang báo điện tử.
Để xây dựng được một trang báo điện tử đòi hỏi phải đầu tư không nhỏ cho việc xây dựng phần mềm, công cụ xuất bản web, mua sắm trang thiết bị máy chủ, máy tính, thuê đường truyền cập nhật dữ liệu, thuê hosting cùng chi phí cho phóng viên, biên tập viên cập nhật tin bài cho ấn bản trực tuyến. Dẫu vậy, nhiều báo giấy vẫn đầu tư một trang báo điện tử, xây dựng đội ngũ biên tập, biên dịch và hiệu đính riêng. Báo điện tử được coi như một phiên bản nhằm tăng doanh thu và quảng bá danh tiếng cho báo giấy một cách hiệu quả.
( Lợi ích của báo điện tử : Theo ông Nguyễn Công Khế - Tổng biên tập báo Thanh Niên, sau hơn một năm có thêm phụ bản trực tuyến, số lượng báo in không những không giảm mà còn tăng lên 25%. Điều này có được là nhờ có báo trực tuyến với tần suất cập nhật tin tức cao trong khi đó thói quen đọc báo vẫn được duy trì. Ông cũng cho biết thêm, thay vì hiện diện hạn hẹp trong khuôn khổ một quốc gia, các tờ báo điện tử giúp khuếch trương hình ảnh của mình ở mọi lúc, mọi nơi )
_ Các báo điện tử ở Việt Nam hiện nay đã phát huy được các thế mạnh đặc thù của mình. Quá trình đổi mới, hội nhập, cùng với sự cởi mở về thông tin là động lực quan trọng dẫn đến sự tăng trưởng nhanh chóng nhu cầu thông tin báo chí của xă hội. Các báo điện tử có thế mạnh về tốc độ đưa tin, đồng thời củng cố được độ tin cậy và sức hấp dẫn của thông tin trước độc giả. Ngoài ra, mức độ phổ cập máy tính, với cấu hình tiên tiến trong công chúng sử dụng Internet đa tăng vượt bậc, đặc biệt, sự phát triển bùng nổ Internet băng thông rộng (ADSL) sẽ giúp báo điện tử ngày càng trở nên phổ biến trong các kênh truyền thông hiện nay.
6.2. Dịch vụ gia tăng cho mạng điện thoại di động
a. Các loại dịch vụ gia tăng cho mạng điện thoại di động
Nội dung phát triển cho mạng di động ra đời từ năm 2002 với sự tiên phong của CDiT về dịch vụ dự đoán kết quả Bóng đá thế giới. Theo thống kê của tạp chí Echip, doanh số năm 2005 của dịch vụ gia tăng cho mạng điện thoại di động tại Việt Nam lên tới 1.500 tỷ đồng. Chỉ riêng Tập đoàn Viễn thông Việt Nam (VNPT), doanh số từ dịch vụ tin nhắn đã chiếm 15-20% tổng doanh thu. Hiện tại, Việt Nam có hơn 10 triệu thuê bao điện thoại di động, trong đó riêng năm 2006 đã có 3,5 triệu thuê bao mới. Bên cạnh các nhà cung cấp dịch vụ mạng then chốt, hiện có thêm một vài nhà khai thác mới như Hà Nội Telecom, EVN với công nghệ 3G. Sự tăng trưởng đều của thị trường di động phần nào nói lên được tiềm năng phát triển lớn của dịch vụ gia tăng trên điện thoại di động, chủ yếu là dịch vụ cung cấp thông qua tin nhắn. Nhìn chung, hình thức này có thể chia thành hai loại chính: dịch vụ tin nhắn đa phương tiện và dịch vụ tin nhắn cung cấp nội dung.
Dịch vụ tin nhắn đa phương tiện vẫn tiếp tục giữ vị trí ưu thế của ḿnh. Dịch vụ này bao gồm tải nhạc chuông, hình, hình nền và các trò chơi trên điện thoại di động. Cho đến nay, các sản phẩm dịch vụ tin nhắn đa phương tiện cung cấp rất đa dạng và phát triển ở mức độ tăng dần:
- Nhạc chuông: đơn âm, đa âm, âm thanh thực
- Tải hình: logo đen trắng, logo màu, nhắn tin hình
- Hình nền: hình tĩnh (theme), hình động, hình đen trắng, hình màu
- Trò chơi: tăng thêm tính năng
Năm 2005 dịch vụ gia tăng cho điện thoại di động chủ yếu dưới hình thức tin nhắn đa phương tiện, xoay quanh dịch vụ tải hình nền, nhạc chuông, trò chơi và một số rất ít về dịch vụ kết quả sổ xố, thông tin thể thao. Đến năm 2006, thị trường có bước trưởng thành đáng kể trong việc đa dạng hoá dịch vụ. Loại dịch vụ tin nhắn cung cấp nội dung thực sự phát triển trong năm 2006, bao gồm:
- Tin nhắn trúng thưởng
- Tin nhắn thông tin kinh tế xă hội
- Tin nhắn có nội dung chuyên sâu: tư vấn sức khỏe, an toàn giao thông, tra cứu, giải đáp, v.v…
Giới chuyên môn cho rằng, năm 2008, thị trường thông tin di động của Việt Nam sẽ cạnh tranh quyết liệt, giá cước sẽ đẩy về gần giá thành. Thời điểm đó, các mạng di động Việt Nam sẽ tiến lên 3G và đó cũng là thời điểm bùng nổ nội dung cho mạng di động.
b. Hiện trạng thị trường Tại thời điểm này có 11 triệu thuê bao điện thoại di động sử dụng công nghệ GSM, CDMA… VN dự kiến vào năm 2010 mật độ điện thoại cũng sẽ tăng ít nhất gấp hai lần so với hiện nay (mật độ hiện tại khoảng 21,7 máy/100 dân với khoảng 18 triệu thuê bao trên toàn mạng). Tuy nhiên, các hãng phân tích và nghiên cứu thị trường quốc tế dự báo rằng hết năm 2010 VN sẽ có tới 52 triệu thuê bao điện thoại, trong đó có tới 70% là điện thoại di động (tương đương 36 triệu thuê bao), tức tăng gấp ba lần hiện nay. Thực tế trong năm năm gần đây thị trường viễn thông VN, đặc biệt là thị trường thông tin di động, đã có sự phát triển bùng nổ, được đánh giá là một trong những nước có tốc độ phát triển rất nhanh trong lĩnh vực này…
Nếu như năm 2005, lượng nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn chưa nhiều, chủ yếu giới hạn ở những DN lớn có tiềm lực tài chính mạnh, có quan hệ chặt chẽ với các nhà khai thác mạng di động (VASC), thì đến nay con số này đã lên tới hơn 40 doanh nghiệp.
Theo số liệu báo cáo số thuê bao về Bộ Thông tin và Truyền thông cuối tháng 7/2007, số lượng thuê bao theo cách tính quy định mà VinaPhone có được chỉ đạt 5,9 triệu thuê bao, MobiFone với khoảng 6,4 triệu thuê bao và Viettel Mobile là 6,9 triệu thuê bao. Nếu tính về số lượng trạm thu phát sóng (BTS) trên toàn quốc thì VinaPhone và MobiFone đang ở mức tương đương nhau với khoảng gần 3000 trạm BTS, Viettel Mobile vượt khá xa với 5.555 trạm BTS. Đối với các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng di động thì cả 3 mạng di động này phần lớn tương đương nhau, do đều đã kết nối với các nhà cung cấp dịch vụ nội dung trên mạng di động: nhạc chuông, đố vui, game, trò chơi trúng thưởng... VinaPhone với Ringback Tone có dung lượng 1 triệu thuê bao, cả 2 mạng này đều có nguy cơ quá tải vì số lượng người dùng dịch vụ nhạc chuông chờ. Viettel Mobile với I-Muzik có dung lượng lên tới 4 triệu thuê bao với 2,5 triệu khách hàng đang sử dụng. Đối với dịch vụ thông báo cuộc gọi nhỡ (Miss Call Alert), cả 3 mạng di động đều có tính năng tương tự nhau.
Ngoài các tiêu chí ở trên, một tiêu chí cũng được các mạng đưa ra để so sánh là doanh thu. Doanh thu của MobiFone đạt khoảng 12.500 tỷ đồng cho năm 2007,VinaPhone khoảng hơn 10.000 tỷ đồng, Viettel Mobile là khoảng 12.000 tỷ đồng năm 2007.
Năm 2007, theo kế hoạch phát triển của các mạng di động, sẽ có khoảng 13 triệu thuê bao di động phát triển mới, hứa hẹn một năm bùng nổ thuê bao đồng thời cũng sẽ là năm “bội thu” số lượng thuê bao ảo...
Số doanh nghiệp đăng ký làm đối tác cung cấp nội dung qua dịch vụ tin nhắn tăng nhanh cho thấy mức độ phát triển của dịch vụ kinh doanh tin nhắn. Ngoài ra, theo đánh giá của các DN đầu tư, dịch vụ này có khả năng mang lại doanh thu nhanh và thu hồi vốn trong thời gian ngắn hơn nhiều so với các loại hình thương mại điện tử khác.
Số lượng doanh nghiệp tham gia kinh doanh tăng nhanh là nhân tố khiến cơ cấu thị phần của dịch vụ này có biến chuyển lớn trong năm 2006. Nếu như năm 2005, VASC là nhà cung cấp lớn nhất và gần như độc quyền cung cấp dịch vụ nội dung cho tin nhắn di động, thì đến năm 2006, VTC đã vượt qua VASC vươn lên vị trí đứng đầu. 10 công ty cung cấp nội dung lớn nhất hiện nay đang nắm giữ khoảng 82% thị trường, trong đó riêng VTC chiếm tới 32% và VASC chiếm 27%. Một trong những nguyên nhân giúp VTC nhanh chóng chiếm được thị phần lớn nhất là nhờ có sự hậu thuẫn của hệ thống truyền hình kỹ thuật số đang phổ biến hiện nay. Bên cạnh VTC và VASC, tốc độ phát triển của thị trường có được cũng không thể phủ nhận vai trò của một số doanh nghiệp khác, điển hình như Công ty Công nghệ và Truyền thông Biển Xanh, iNET và Công ty Quang Minh D.E.C .
* 2008 sẽ bùng nổ dịch vụ nội dung
Các chuyên gia phân tích, chỉ khi giá cước cuộc gọi giảm và lợi nhuận từ dịch vụ này không còn nhiều thì các mạng di động sẽ tập trung phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng di động. Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy, khi thuê bao đã phát triển ở mức bão hoà, các nhà cung cấp dịch vụ nhận thấy “không còn cửa” để phát triển thuê bao nữa và giá cước liên lạc rất thấp, sẽ quay lại phát triển các dịch vụ giá trị gia tăng để tăng doanh thu. Thậm chí, có nhiều nhà khai thác mạng đã dùng dịch vụ giá trị gia tăng để bù cho dịch vụ thoại. Tính đến thời điểm này, dịch vụ giá trị gia tăng của các mạng di động mới chỉ chiếm khoảng trên 10% doanh thu, trong khi đó thị trường di động trên thế giới có mức trung bình là 45%.
Một tín hiệu quan trọng nữa dự báo sự bùng nổ của dịch vụ GTGT trong thời gian tới là VNPT, Viettel và EVN Telecom cơ bản sẽ xây dựng xong mạng viễn thông thế hệ mới NGN, hỗ trợ đắc lực cho nâng cao chất lượng, giảm giá dịch vụ - vào cuối năm 2008. Lợi ích lớn nhất của NGN so với thế hệ mạng trước đó là khả năng tích hợp.
Đáng mừng nhất, lợi ích của NGN đang đi vào thực tế tại Việt Nam. VNPT đã triển khai nền tảng này cách đây vài năm và dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2008. Các doanh nghiệp viễn thông EVN Telecom, Viettel Telecom cũng chọn thế hệ mạng mới NGN cho chiến lược phát triển lâu dài. Trong khi EVN Telecom chọn hướng NGN hóa mạng cố định trước thì Viettel Telecom lại chọn mạng di động làm “mũi tiên phong”. Hiện Viettel Telecom mới đầu tư và đang lắp đặt thiết bị đáp ứng cho khoảng 10 triệu thuê bao di động.
Một gương mặt có vẻ “ngoại đạo” là FPT Telecom cũng tham gia cuộc vận động này. Thông tin cho thấy, FPT Telecom sẽ cung cấp dịch vụ điện thoại cố định trên nền tảng NGN và tổng đài Softswich. Khách hàng lựa chọn dịch vụ trên sẽ cùng lúc được sử dụng Internet băng rộng, điện thoại cố định và truyền hình IP.
Rõ ràng, NGN đã làm các công ty viễn thông, dịch vụ với các loại hình kinh doanh khác biệt xích gần nhau hơn.
Ngoài các yếu tố công nghệ, năm 2008 được đoán là bước chuyển mạnh để dịch vụ GTGT bùng nổ còn do sự tham gia, đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài. Sự xuất hiện của những tên tuổi như France Telecom, Docomo, SK Telecom… cũng hứa hẹn nhiều dịch vụ mới. Thế mạnh của các doanh nghiệp nước ngoài là công nghệ và dịch vụ công nghệ cao, có chiều sâu, khu biệt từng đối tượng khách hàng như Mobile TV, Mobile Network TV…Và khi họ tới Việt Nam, các doanh nghiệp và cả khách hàng đều sẽ được thừa hưởng tất cả những ưu thế đó. Nguyên bộ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông, GS.TS Đỗ Trung Tá từng nhận định: Việt Nam quyết định chuyển toàn bộ mạng lõi sang mạng thế hệ NGN từ năm 2008 nên sự tham gia của các đối tác nước ngoài là rất quan trọng…
Tất cả các yếu tố nêu trên cho phép nhiều người sử dụng tin tưởng: năm 2008 là sẽ khởi đầu “thời điểm vàng” của các dịch vụ GTGT tại Việt Nam…
III. TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG TMĐT TRONG DN
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, là lực lượng chiếm đại đa số 97% trong tổng số trên 200.000 doanh nghiệp trên toàn quốc. Tuy nhiên rất ít doanh nghiệp dám mạnh dạn đầu tư website để từng bước xây dựng thương hiệu cho mình.
1. Tình hình ứng dụng TMĐT trong DN Nghịch lý là theo thống kê có trên 97% các doanh nghiệp Việt Nam chưa có website riêng hoặc nếu có thì đa số chỉ “khoe” web lên chứ không hề phát triển nội dung cũng như cập nhật thông tin bởi không có kinh phí hoặc không biết làm thế nào để quảng bá, các kỹ năng ứng dụng TMĐT cũng yếu dẫn tới một số hiện tượng “chết yếu”.
Tuy nhiên vẫn có một số doanh nghiệp năng động trong ứng dụng TMĐT đã chọn cho mình phương án khá tối ưu đó là tham gia vào các sàn thương mại điện tử. Hình thức mua bán giữa các doanh nghiệp với nhau (B2B) chiếm trên 90% giá trị giao dịch trên mạng.Kết quả điều tra mới đây của Vụ cũng cho thấy hơn 64% doanh nghiệp dùng Internet cho mục đích trao đổi thư điện tử; gần 63% doanh nghiệp có mục đích truyền và nhận dữ liệu, 41% doanh nghiệp với mục đích mua bán hàng hoá và dịch vụ, 40% doanh nghiệp dùng để duy trì và cập nhật website và chỉ có hơn 22% doanh nghiệp dùng Internet như một kênh liên lạc với các cơ quan nhà nước. Kết nối mạng đã giúp các doanh nghiệp tìm kiếm được thông tin nhanh chóng về các đối tác, tìm hiểu thông tin thị trường về ngành hàng quan tâm, tìm các thông tin quảng cáo hoặc chủ động quảng bá hình ảnh doanh nghiệp. Theo điều tra năm 2006 của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Công thương), toàn quốc có 72% doanh nghiệp có website riêng, 65% tổ chức cung cấp dịch vụ đào tạo CNTT hoặc TMĐT. Trong đó, 79% tổ chức có phòng, ban hoặc khoa riêng đào tạo về CNTT, TMĐT và 81% tổ chức có phòng máy vi tính.
Nước ta đứng thứ 71/82 nước được xem xét về mức độ sẵn sàng tham gia mạng năm 2003. Nước ta cũng được xếp trong nhóm 13 nước tụt hậu về CNTT và năm 2001 ta lên vị trí 58/60 nước; năm 2002 đứng vị trí 56/60 nước. Trong số 10 nước Asean, VN nằm trong số 4 nước chưa có khung pháp lý hoàn chỉnh cho TMĐT. Các số liệu trên cho thấy, việc đưa tên VN vào vị trí trung bình trong bảng xếp hạng về ứng dụng TMĐT của các nước khu vực và trên thế giới đòi hỏi phải có những nỗ lực hết sức lớn lao từ phía Chính phủ, các bộ, ngành lẫn các DN.
* Trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh bình đẳng ngay cả với doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, thương mại điện tử là một phương thức giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Mặt khác thương mại điện tử có rất nhiều lợi ích hấp dẫn. Thế nhưng, không phải doanh nghiệp nào cũng sẵn sàng.
_LẬP WEBSITE CHỈ ĐỂ… GIỚI THIỆU SẢN PHẨM Kết quả điều tra hơn 1.000 doanh nghiệp (DN) trên toàn quốc của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Thương mại) cho thấy, số máy tính trung bình tại mỗi DN lên tới 17,6 và trung bình cứ 6,3 người có một máy tính; tỉ lệ DN đã kết nối Internet là 92%; nhiều lớp tập huấn về thương mại điện tử (TMĐT) cho DN đã được tổ chức và thu hút đông đảo học viên trên khắp các tỉnh, thành trong cả nước… Điều này chứng tỏ thị trường TMĐT đang dần hình thành và hầu hết các DN thấy được lợi ích của TMĐT.
Số lượng và chất lượng các website kinh doanh là một tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ phát triển TMĐT, đặc biệt trong bối cảnh DN VN vẫn còn bỡ ngỡ với các phương thức tiến hành TMĐT của thế giới. Theo thống kê của vụ TMĐT (2007), hiện có 98,3% DN Việt Nam có website giới thiệu Công ty. Tuy nhiên, 62,5% các website này chủ yếu dùng để giới thiệu sản phẩm và dịch vụ. Số website cho phép đặt hàng qua mạng Internet là 27,4% song chỉ có 3,2% cho phép thanh toán trực tuyến.
Theo đánh giá của Vụ TMĐT, DN mới chỉ dừng lại ở mức độ quảng bá thương hiệu, giới thiệu sản phẩm và trao đổi thông tin bằng các phương tiện điện tử. Ở cấp độ cao hơn, việc giao dịch và ký hợp đồng bằng các công cụ điện tử cũng được một số DN ứng dụng, nhưng con số này chưa nhiều. Với giao dịch trong nước DN vẫn có xu hướng sử dụng giấy tờ truyền thống. Chính vì vậy, nhiều DN cho rằng cần nhiều thời gian để thay đổi thói quen tiêu dùng và tập quán kinh doanh.
_DN CHƯA QUAN TÂM? Việc ứng dụng TMĐT của nhiều DN vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể trên cả nước nói chung và của các DN thuộc các tỉnh, thành khu vực ĐBSCL nói riêng còn nhiều hạn chế. Theo Vụ TMĐT (Bộ Công Thương), ngoài nguyên nhân về nhận thức, vấn đề thanh toán điện tử là trở ngại lớn thứ hai của việc phát triển TMĐT. Công cụ thanh toán qua các tiện ích hiện đại như: thanh toán bằng thẻ tín dụng, thanh toán trực tuyến chỉ chiếm tỷ lệ từ 3,2-14,3%; còn lại chủ yếu là chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng, thanh toán bằng tiền mặt và chuyển tiền qua bưu điện .
Nguyên nhân do còn nhiều rủi ro trong việc trao đổi hàng hóa, chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho các giao dịch điện tử (chữ ký điện tử, con dấu...). Ngoài ra, hợp đồng mua bán, hình thức thanh toán quốc tế, các tranh chấp TMĐT... cũng đang thiếu cơ sở pháp lý để khách hàng (đặc biệt là các doanh nghiệp) có thể an tâm thực hiện các giao dịch mua bán trực tuyến. Những vấn đề khác như: tốc độ đường truyền; chi phí đầu tư, phát triển trang web; cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực am hiểu về công nghệ thông tin và truyền thông... còn hạn chế.
_ĐÁNH THỨC TIỀM NĂNG Khi internet ngày càng trở nên phổ biến, mức sống và thu nhập của người dân được nâng cao thì TMĐT và phương thức kinh doanh trực tuyến càng phát huy được những ưu điểm vượt trội. DN có thể dễ dàng thành lập một siêu thị ảo để quảng bá thương hiệu, bán các sản phẩm của mình và có khả năng giao tiếp với nhiều đối tượng khách hàng trong cùng thời điểm. Những đối tượng khách hàng (nhất là ở các tỉnh, thành phố lớn) không có nhiều thời gian rảnh rỗi cho công việc mua sắm truyền thống (tại các chợ, cửa hàng, siêu thị...) có thể mua được những mặt hàng cần thiết và được giao hàng nhanh chóng, miễn phí tận nhà chỉ qua vài thao tác nhắp chuột trên trang web.
Một DN có thể thiết kế một website để phục vụ cho các mục đích: điều tra thị trường, hỗ trợ bán hàng, thực hiện dịch vụ quảng cáo điện tử, tổ chức một hệ thống thông tin theo yêu cầu, chiến lược kinh doanh của mình... Thông qua hệ thống quản lý trên website, DN có thể dễ dàng thực hiện nhanh các giao dịch thương mại, thanh toán điện tử, chăm sóc khách hàng, đại lý, nhà cung cấp, đối tác... mà không phải tốn nhiều đến các khoản chi phí như: điện thoại, thư từ, fax).
Với tốc độ phát triển công nghệ thông tin mạnh mẽ cùng với sự hội nhập toàn diện của nền kinh tế, chắc chắn trong vài năm tới, thương mại điện tử sẽ bùng nổ ở Việt Nam. Tuy nhiên hoạt động thương mại điện tử mới chỉ manh nha ở các doanh nghiệp lớn, đại đa số các doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam vẫn đang nằm ngoài guồng quay của phương thức kinh doanh hiện đại này.
Rõ ràng, thương mại điện tử Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng theo dự báo, đến năm 2010, cả nước sẽ có khoảng 80% doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng thành công TMĐT; 10% hộ gia đình từ thành phố, vùng nông thôn đến các hải đảo xa xôi chuyển sang hình thức mua bán dịch vụ trực tuyến.
* Hiệu quả ứng dụng TMĐT trong DN
Khảo sát của Bộ Thương mại đưa ra kết luận: website của các doanh nghiệp chủ yếu chỉ giới thiệu về công ty. Tính năng thương mại điện tử rất mờ nhạt. Đây là điểm bất lợi trong cạnh tranh thương mại.
Tuy nhiên, theo điều tra của Bộ Thương mại, số lượng DN có website chiếm chỉ khoảng 20-25%. Trong số đó, có tới 93,8% số website chỉ để giới thiệu về công ty. Tính năng giao dịch điện tử chỉ 27%. Tính ra, chỉ khoảng 5,4 đến 6% số DN Việt Nam sử dụng thương mại điện tử. TMĐT ở Việt Nam chỉ mới ở bước đầu, các loại giao dịch B2B và B2C, thanh toán điện tử, chữ ký điện tử… mới ở mức độ sơ khai, là một khó khăn để phát triển lĩnh vực TMĐT. Hiện nay, tuy vẫn ở nhóm thấp trên thế giới, song trong năm qua, tỷ lệ sử dụng internet/100 dân đạt ngưỡng trung bình của châu Á; 40% doanh nghiệp tại Việt Nam có website riêng....
Kết quả điều tra do Bộ Thương mại tiến hành (2007) cho thấy: Gần 100% số DN đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của TMĐT với quá trình kinh doanh của DN. Trong số này có 79% DN cho rằng TMĐT mang lại các lợi ích: Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có; lôi kéo khách hàng mới; cải thiện sự hài lòng của khách hàng; làm tăng doanh số, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh. Khoảng 96% DN cho rằng TMĐT giúp họ tăng kênh bán hàng; 85% cho rằng TMĐT giúp họ xây dựng được hình ảnh của mình. Như vậy, hầu hết DN đều có mục đích rõ ràng khi tham gia TMĐT. Số DN tham gia theo kiểu "phong trào" chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ - điều này khác hẳn với điều tra cách đây 3-4 năm khi số DN nhận thức đúng về TMĐT chỉ chiếm chưa đầy 10%.
Theo khảo sát của Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, hơn 1/3 doanh nghiệp có doanh thu nhờ đơn đặt hàng qua phương tiện điện tử đạt 15% trở lên so với tổng doanh thu, trong khi năm 2005 chỉ dừng ở mức 8%. Trong số những doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch TMĐT, có doanh nghiệp đã kí được hợp đồng xuất khẩu trị giá 9,6 tỷ đồng. Có tới 63% doanh nghiệp tin tưởng rằng doanh thu có được từ các đơn đặt hàng qua giao dịch TMĐT sẽ tiếp tục tăng. Tuy nhiên, đa số website TMĐT còn thiếu cam kết cụ thể về chế độ thu thập thông tin cá nhân cho người tham gia giao dịch. Trong số 290 website TMĐT được khảo sát năm 2006, chỉ có 75 website công bố chính sách bảo vệ thông tin khách hàng, chiếm 26% tổng số website.
Hiệu quả ứng dụng TMĐT trong năm 2006 tăng lên rõ rệt trên nhiều tiêu chí: Thu hút khách hàng mới, từ 2,9 điểm năm 2005 lên 3,3 điểm (điểm 4 là cao nhất), tăng doanh số từ 1,94 lên 2,25 điểm, tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, từ 1,9 lên 2,78 điểm ...
Song kết quả điều tra của Bộ Thương mại cũng cho thấy những gam màu sẫm của bức tranh: tỷ lệ doanh nghiệp có Website 31,3%, nhưng tính năng TMĐT trong Website còn chưa hữu hiệu. Chức năng chủ yếu của Website là giới thiệu về doanh nghiệp (98,3%), giới thiệu sản phẩm dịch vụ(62,5%), trong khi chức năng cho phép đặt hàng qua mạng chỉ có 27,4% và đáng lo ngại hơn cả là thanh toán trực tuyến mới đạt 3,2%.
2.Tình hình kinh doanh TMĐT
Năm 2006 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của số lượng website B2C và C2C. Bộ Thương mại đã thống kê và tập hợp được gần 300 website chất lượng tốt để tiến hành đánh giá.
2.1. B2B
Giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay chủ yếu được thực hiện thông qua các sàn thương mại điện tử B2B tổ chức theo hình thức cổng thông tin về cơ hội giao thương hoặc trung tâm thương mại. Thông qua những sàn TMĐT này, doanh nghiệp có thể tìm hiểu thông tin về đối tác tiềm năng và giới thiệu các sản phẩm dịch vụ của mình ra thị trường. Bắt đầu xuất hiện vào năm 2003, đến cuối năm 2007 tại Việt Nam có khoảng 40 sàn thương mại điện tử B2B. Tuy nhiên, tiện ích của phần lớn các sàn giao dịch này mới giới hạn ở việc đăng tải thông tin doanh nghiệp và nhu cầu mua bán. Hầu như chưa sàn nào có tiện ích tốt để hỗ trợ doanh nghiệp đàm phán, giao kết hợp đồng trực tuyến, theo dơi thực hiện hợp đồng và chăm sóc khách hàng. Phần lớn các đơn vị quản lý sàn cho biết vẫn chưa thu phí thành viên tham gia giao dịch, nguồn thu chủ yếu là từ hoạt động quảng cáo trực tuyến, xúc tiến thương mại và dịch vụ ngoại tuyến cung cấp cho một số đối tác trọng điểm.
Sau giai đoạn tăng trưởng nhanh về số lượng sàn giao dịch B2B trong hai năm 2005-2006, đến năm 2007 tốc độ tăng này có xu hướng chững lại. Thay vào đó là sự phát triển theo chiều sâu của những sàn hiện có, bao gồm việc cải thiện tính năng kỹ thuật, nâng cao chất lượng dịch vụ và thu hút lượng thành viên tham gia đông đảo hơn. Tuy nhiên, ngoài một số sàn thu hút được khá đông doanh nghiệp tham gia với số cơ hội kinh doanh tăng nhanh, nhiều sàn giao dịch hiện nay phát triển tương đối chậm.
5 website B2B e-marketplace tiêu biểu năm 2006www.ecvn.gov.vnwww.vnemart.comwww.gophatdat.comwww.e-vietnamlife.comwww.techmart.cesti.gov.vn (Nguồn : www.trustvn.gov.vn )
Ngày 26 tháng 8 năm 2005, cổng TMĐT quốc gia ECVN với Bộ Thương mại là cơ quan chủ quản, có địa chỉ tại website ECVN.gov.vn đã chính thức ra mắt với mục đích hỗ trợ các công ty nhanh chóng làm quen và tham gia vào TMĐT, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu. Cổng giao dịch với ngôn ngữ thể hiện là tiếng Anh và tiếng Việt sẽ rất thuận tiện cho các công ty trong quá trình sử dụng và tra cứu.
Bảng 4: Một số thống kê về tình hình hoạt động của ECVN tại thời điểm 31/12/2007
Một số chỉ tiêu
Hàng hoá
Dịch vụ
Số lượng chào mua
186
38
Số lượng chào bán
3.860
961
(Nguồn : Báo cáo của Ban quản lý ECVN, tháng 12/2007)
Trong năm 2007, Chương trình TrustVn đã phối hợp cùng Vecom tổ chức đánh giá và xếp hạng các website TMĐT uy tín tại Việt Nam.
2.2. B2C và C2C
_ Phần lớn các sàn B2C hoạt động theo dạng cửa hàng trực tuyến kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng, trong đó chủ yếu là các mặt hàng có độ tiêu chuẩn hoá cao như hàng điện tử, thiết bị điện, đồ gia dụng, sách báo, văn phòng phẩm, v.v... Với mô hình kinh doanh và chiến lược quảng bá bài bản, nhiều sàn thương mại điện tử B2C bắt đầu tạo nguồn doanh thu ổn định cho doanh nghiệp. Các website B2C Việt Nam hiện nay cung cấp khá chi tiết thông tin giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ. Các website tiêu biểu thường xuyên cập nhật thông tin sản phẩm mới, tổ chức các chương trình khuyến mại, cung cấp các dịch vụ trực tuyến phục vụ cho quá trình mua hàng của người tiêu dùng được nhanh chóng và thuận tiện.Hàng hoá bán trên các website B2C tập trung vào lĩnh vực hàng điện tử - tin học, đồ gia dụng, điện thoại di động, sách báo, văn phòng phẩm, quà tặng, thời trang, du lịch…Các hình thức thanh toán rất đa dạng từ trả tiền mặt, điện chuyển tiền, thanh toán qua người vận chuyển, thẻ thanh toán nội địa, thẻ hội viên. Tuy nhiên, hình thức thanh toán trực tuyến vẫn còn rất ít website áp dụng. Hình thức phân phối, vận chuyển hàng hoá cũng được các website B2C bắt đầu chú trọng. Có hai hình thức phổ biến: chủ sở hữu website tự đứng ra tổ chức mạng lưới vận chuyển hoặc sử dụng dịch vụ bưu chính chuyển phát.Một điểm đáng lưu ý là các website B2C của Việt Nam hầu hết chưa chú trọng đến các quy định bảo mật thông tin cá nhân cho khách hàng.Chỉ có các website tiêu biểu mới thực sự quan tâm đến việc quảng cáo, tiếp thị hình ảnh website của mình thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Các website này cũng đã biết cách chuyên nghiệp hoá giao diện người mua hàng, tạo một bố cục gắn kết, dễ tìm kiếm thông tin.
10 website B2C tiêu biểu 2006 www.btsplaza.com.vnwww.megabuy.com.vnwww.duylinhmobile.com.vnwww.123mua.com.vnwww.cleverlearn.comwww.saigontourist.netwww.chibaoshop.comwww.golgift.comwww.vinabook.com
10 website B2C tiêu biểu 2007
www.pacificairlines.com.vn
www.123mua.com.vn
www.travel.com.vn
www.megabuy.com.vn
www.golmart.com.vn
www.thegioididong.com
www.ben.com.vn
www.vinabook.com
www.saigontourist.net
www.25h.vn
(Nguồn : www.trustvn.gov.vn )
_ Số lượng website C2C năm 2006 được chọn lọc cũng rất phong phú với 88 website. Các website C2C chủ yếu là nơi rao vặt, một số ít website có thêm công cụ đấu giá và tạo các gian hàng ảo. Nhìn chung, hầu hết các website không chú trọng tới các quy định sử dụng cũng như chính sách bảo vệ thông tin cho các cá nhân đăng tin. Hàng hoá giao dịch rất đa dạng về chủng loại, mẫu mã.5 website C2C tiêu biểu năm 2006www.1001shoppings.comwww.chodientu.vnwww.vietco.comwww.sieuthihangchatluong.comwww.aha.com.vn
(Nguồn : www.trustvn.gov.vn )
Phần lớn người tiêu dùng vẫn sử dụng hình thức rao vặt qua mạng để trao đổi mua bán hàng hóa giữa các cá nhân. Nhưng đó là C2C không chuyên nghiệp và chưa hoàn thiện. Về góc độ kinh doanh thì đó không phải mô hình tốt nếu mãi duy trì như vậy, dù kiểu giao dịch này đang khá phổ biến", người quản lý Chợ điện tử phân tích. "Vì đó là kiểu làm tự phát, dễ thiết lập, dễ vận hành nhưng khó tạo niềm tin, đảm bảo uy tín và quan trọng là rất khó thu tiền". Trong bối cảnh như vậy, việc eBay - sàn giao dịch trực tuyến khổng lồ của thế giới - ra mắt giao diện tiếng Việt, khởi đầu cho những hoạt động kinh doanh chính thức tại VN, được đánh giá là "cú hích" đối với TMĐT, đặc biệt là giao dịch C2C trong nước. Nhìn nhận "VN là thị trường tiềm năng với 10 triệu người sử dụng Internet hiện nay, trong vòng 3 năm tới sẽ phát triển khoảng 24%", song động thái của eBay không quá ầm ĩ và thể hiện mục đích khiêm tốn là "nâng cao hiểu biết cho người sử dụng Internet ở Việt Nam, giúp người bán hàng trong nước tăng số lượng hàng hóa xuất khẩu" như Giám đốc eBay khu vực Đông Nam Á Sam MacDonagh phát biểu trước báo giới trong lễ ra mắt ebay.vn.
3. Ứng dụng TMĐT với doanh nghiệp xuất khẩu
Có thể thấy do tính chất hướng ngoại rất cao của các doanh nghiệp xuất khẩu, nên sự tiếp cận thương mại điện tử là nhu cầu thiết yếu nhằm hội nhập với nền kinh tế thế giới. Cụ thể ở đây do đặc thù của hoạt động xuất khẩu là hướng tới những thị trường bên ngoài lãnh thổ quốc gia, việc ứng dụng Internet giúp cho doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, quảng bá sản phẩm và tiến hành giao dịch với đối tác với chi phí thấp nhưng đạt hiệu quả cao.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng rất chú trọng việc xây dựng website, có đến 66,3% doanh nghiệp xuất khẩu đã có website riêng, chưa tính đến các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng các website trên các Sàn do đơn vị trung gian cung cấp (như các website doanh nghiệp trên trang www.vnemart.com ), đây là tỉ lệ khá cao so với mặt bằng chung các doanh nghiệp khác đầu tư xây dựng website. Điều này cho thấy để đáp ứng nhu cầu quảng bá khuếch trương sản phẩm trên phạm vi toàn cầu và không bị giới hạn bởi thời gian, không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đầu tư tham gia các hội trợ, triển làm quốc tế, hay đi tìm kiếm thị trường. Thay thế bằng cách sử dụng website doanh nghiệp vừa tiết kiệm được các chi phí đó, vừa giới thiệu được hình ảnh, thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm của mình đến thị trường quốc tế vào bất kỳ thời điểm nào.
Một điều đáng chú ý khác là việc ứng dụng các công cụ hỗ trợ giao dịch của các doanh nghiệp xuất khẩu, đây là điều rất quan trọng vì nó không những giảm chi phí, nâng cao uy tín của doanh nghiệp mà còn tạo thuận lợi cho khách hàng thực hiện giao dịch nhanh chóng. So với tỷ lệ 32,8% các website thông thường có tính năng hỗ trợ giao dịch thương mại điện tử, thì tỷ lệ này ở các doanh nghiệp xuất khẩu là 54,3% các website cho phép tương tác trực tuyến để hỏi hàng hay đặt hàng. Tuy còn là tỷ lệ khiêm tốn so với mức độ ứng dụng ở các nước phát triển, nhưng có thể nói các doanh nghiệp Việt Nam đã ngày càng nhận thức cao hơn về tầm quan trọng của việc cung cấp dịch vụ trọn gói, kể cả giao dịch trực tuyến cho khách hàng.
Trong điều kiện môi trường pháp lý còn đang trong giai đoạn hoàn thiện và hạ tầng cho thanh toán điện tử còn chưa thực sự phát triển, chính vì vậy chất lượng thực sự của các giao dịch nói chung hiện nay của các website bán hàng tại Việt Nam là chưa cao, rất nhiều các giao dịch mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi thông tin còn việc thanh toán vẫn phải sử dụng các phương thức thông thường. Đây chính là nguyên nhân mà các website thương mại điện tử này chủ yếu nhằm duy trì các khách hàng truyền thống và một thị trường khách hàng tiềm năng nhất định chứ chưa thể thu hút đông đảo khách hàng quốc tế thông qua Internet.
Cũng đề cập đến việc thu hút người dùng cho các website hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của việc quảng bá trực tuyến như yếu tố quyết định đến hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình. Có khoảng 26,7% các doanh nghiệp xuất khẩu có đăng ký website với các công cụ tìm kiếm trực tuyến như Google hay Yahoo…
Ứng dụng thương mại điện tử có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, chúng ta cùng điểm quan tình hình ứng dụng thương mại điện tử của một số ngành xuất khẩu mũi nhọn:
- Ngành dệt may, da giầy: có 100% các doanh nghiệp xuất khẩu da giầy kết nối Internet, trong đó 90% sử dụng đường truyền kết nối tốc độ cao, 80% doanh nghiệp có trang web riêng và khoảng 30% các hợp đồng giao dịch được ký kết thông qua Internet.
- Ngành thủ công mỹ nghệ: với 100% doanh nghiệp ứng dụng Internet trong đó chủ yếu sử dụng ADSL, điều đáng chú ý ở các doanh nghiệp xuất khẩu thủ công mỹ nghệ là có đến 80% doanh nghiệp có website riêng và mang tính chuyên nghiệp cao, ngoài ra rất nhiều doanh nghiệp sử dụng phương thức tham gia các Sàn giao dịch quốc tế để tận dụng lợi thế của các Sàn này đã được quảng bá rộng rãi trên phạm vi toàn cầu (như www.vnemart.com, www.vinafrica.com …).
- Ngành nông lâm thủy sản: cũng với 100% doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đã có kết nối Internet, tuy nhiên số doanh nghiệp có website mới chỉ đạt 63%.
Cùng với hạ tầng công nghệ và môi trường pháp lý đang dần được cải thiện, tin tưởng rằng thương mại điện tử sẽ tiếp tục mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu nói riêng.
CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TMĐT Ở VN
I. Phương hướng
Bốn mục tiêu, phương hướng cụ thể gồm: Đến năm 2010, sẽ có 70% các giao dịch B2B được thực hiện; 90% các DN vừa và nhỏ biết tới lợi ích của TMĐT và có ứng dụng nhất định; 15% hộ gia đình và cá nhân thực hiện được B2C; và khoảng 30% các hoạt động mua sắm, giao dịch điện tử của Chính phủ được thực hiện trên mạng (B2G).
1.Đối với chính phủ
· Tạo dựng một môi trường có tính hỗ trợ giúp cho TMĐT mở rộng và phát triển
· Kích hoạt TMĐT thông qua các dự án thí điểm, các trung tâm thí điểm và các thực nghiệm.
· Xây dựng một quan điểm phối hợp, đổi mới và có mục tiêu đối với việc lập chính sách.
. Đẩy nhanh tiến trình xây dựng chính phủ điện tử .
Chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý cho TMĐT, ban hành các luật cần thiết đảm bảo tính chắc chắn, khả thi, và sáng tỏ của các bên hữu quan, có tính tới các phương thức đang hình thành của hoạt động kinh doanh số hoá. Khuôn khổ pháp lý mới phải có khả năng thích ứng và đủ linh hoạt để thích nghi được với các biến đổi CN và với tình hình môi trường toàn cầu, khu vực và trong nước biến hoá không ngừng.Để nâng cao hơn nữa tác dụng hỗ trợ của môi trường nhằm xúc tiến TMĐT, chính phủ cần kết hợp phải có các chính sách kinh tế thuận lợi, các chương trình kích thích cả gói và một cơ chế hỗ trợ. Khai thông thanh toán điện tử để tạo đường cho TMĐT phát triển hoàn chỉnh.
2. Đối với DN
- Nâng cao nhận thức và kiến thức về thương mại điện tử, cần chủ động tìm hiểu lợi ích của TMĐT, coi đây là một trong những nhiệm vụ gắn với việc xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn.
- Không chỉ đổi mới tư duy mà còn phải thay đổi cách quản lý theo hướng hiện đại.
- Tự tin, chủ động ứng dụng thương mại điện tử trong sản xuất, kinh doanh, tin học hoá quy trình kinh doanh.
- Tích cực hơn nữa trong việc tham gia các sàn giao dịch TMĐT, nhất là các sàn có sự hỗ trợ kinh doanh tốt và miễn phí.
- Cung cấp thông tin kinh tế cho các doanh nghiệp và xúc tiến, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử, tăng cường hợp tác quốc tế về thương mại điện tử.
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan xây dựng chính sách và pháp luật thông qua việc góp ý kiến, tham gia các diễn đàn… nhằm hỗ trợ cho các cơ quan Nhà nước hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng chính sách và pháp luật liên quan tới TMĐT.
II. Giải pháp
Sáu chính sách để thực hiện bốn mục tiêu, phương hướng trên bao gồm: Triển khai mạnh và liên tục hoạt động phổ biến tuyên truyền và đào tạo về TMĐT; Tạo môi trường thuận lợi và ban hành đầy đủ, đồng bộ các văn bản quy phạm; Các cơ quan Chính phủ ở mọi cấp phải đi tiên phong trong hỗ trợ và ứng dụng TMĐT; Phát triển hạ tầng kỹ thuật trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài; Tổ chức thực thi cương quyết các quy định pháp luật; Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về TMĐT.
1.Đối với chính phủ
- Hiện nay, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật có liên quan như Luật Giao dịch Điện tử, Luật Thương mại sửa đổi và mới đây, Nghị định về Thương mại Điện tử được ban hành cũng đã đánh dấu bước tiến lớn trong việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý để các doanh nghiệp yên tâm tiến hành giao dịch thương mại điện tử, khuyến khích thương mại điện tử phát triển. Một số văn bản pháp lý khác như Nghị định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, Nghị định về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số cũng đang được xây dựng Chính phủ cần thể hiện rõ sự quan tâm về vấn đề an ninh, an toàn mạng, vấn đề bản quyền, sở hữu trí tuệ...
- Nhanh chóng triển khai các chương trình, dự án được đề ra trong Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện tử giai đoạn 2006 – 2010.
- Đưa ra những chính sách cụ thể hoá đường lối phát triển, hướng dẫn thực hiện, hỗ trợ để DN có thể đầu tư, kinh doanh TMĐT đúng phương hướng đã đề ra.
- Hoàn thiện nhanh các hoạt động cần thiết cho việc phát triển TMĐT như việc thống kê TMĐT, các dịch vụ công hỗ trợ cho TMĐT như hải quan điện tử, thuế điện tử, cấp phép qua mạng (thực hiện cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư và giấy phép thành lập văn phòng đại diện, cấp phép kinh doanh các sản phẩm dịch vụ có điều kiện qua mạng), xử lý hồ sơ qua mạng (tạo điều kiện để 100% doanh nghiệp thực hiện báo cáo thống kê, khai báo thuế, thực hiện thủ tục hải quan qua mạng)...
- Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, liên thông kết nối các sở - ngành, hoàn thiện hệ thống thông tin doanh nghiệp tiến tới một cửa giải quyết hồ sơ hành chính qua mạng.
- Phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, đẩy mạnh học tập và ứng dụng internet trong nhà trường, các vùng nông thôn, trong thanh niên
- Thực hiện khai thuế qua mạng, hải quan điện tử, xây dựng trung tâm chứng thực điện tử và triển khai thực hiện chữ ký số.
- Phát triển hệ thống thanh toán dùng thẻ
- Đẩy mạnh hoạt động phổ biến và tuyên truyền về TMĐT.
- Xây dựng các sàn TMĐT, kết nối các sàn TMĐT; kết nối các tỉnh thành phố trên khắp cả nước.
- Hợp tác quốc tế đối với các Chính phủ, tổ chức nước ngoài trong việc đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn giải pháp, cung cấp dịch vụ… liên quan đến phát triển thương mại điện tử.
2. Đối với DN
- Xây dựng website TMĐT chuyên nghiệp có đầu tư, chọn lọc : trên thực tế, DN có ba sự lựa chọn:
. Mua một giải pháp dựng sẵn. Thuê một chỗ trong một giải pháp thương mại điện tử dựa trên mạng. Xây dụng một hệ thống với những cấu kiện khác nhau.
- Đào tạo kiến thức, kỹ năng và môi trường ứng dụng thương mại điện tử; vấn đề sở hữu trí tuệ trong môi trường giao dịch ảo; phổ cập các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động thương mại điện tử.
- Chủ động tìm hiểu về thương mại điện tử và lợi ích của TMĐT, Xác định mô hình thương mại điện tử thích hợp và xây dựng kế hoạch triển khai mô hình tại doanh nghiệp. Trên cơ sở mô hình đã chọn, các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch triển khai, bao gồm kế hoạch tài chính trên cơ sở đầu tư vào thiết bị và công nghệ, đầu tư nguồn lực con người, v.v...
- Tích cực tham gia các sàn giao dịch TMĐT : Sàn Giao dịch là một trong những hình thức hỗ trợ TMĐT quan trọng nhất. Thay vì phải tự hình thành một website riêng, DN có thể giới thiệu về mình, tìm kiếm đối tác, khách hàng và tận dụng được nhiều lợi ích kèm theo từ các sàn giao dịch trực tuyến. Các DN có thể tìm kiếm mặt hàng, đối tác trên các sàn giao dịch vốn đã nổi tiếng trên thế giới như (Hàn Quốc), (Mỹ) ..
- Học tập kinh nghiệm quản lý, phát triển hạ tầng và hỗ trợ phát triển TMĐT tại các quốc gia có nền TMĐT phát triển.
KẾT LUẬN
Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông trong thời đại kinh tế tri thức đã dẫn đến việc hình thành một phương thức kinh doanh mới - TMĐT. Các nhà kinh doanh thương mại đã nhanh chóng khai thác thành tựu này, họ sử dụng Internet như phương tiện để gửi thư, đàm phán, thảo hợp đồng, ký kết hợp đồng, quảng cáo, chào hàng, tìm kiếm thị trường, đối tác thương mại, và trong một số trường hợp Internet còn được sử dụng như kênh giao hàng. Đối với thế giới nói chung và đối với Việt Nam nói riêng, TMĐT đang mở ra một con đường tơ lụa mới.
Đi sau các nước chừng 10 năm về TMĐT, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng hành lang pháp lý, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao nhận thức cho nguời dân. Đến nay các hoạt động TMĐT đã có nhiều khởi sắc, đặc biệt là sự phát triển của các loại hình dịch vụ trực tuyến như mua bán qua mạng, game online, dịch vụ giải trí trực tuyến…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế thương mại – Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân 2007
Báo cáo TMĐT của Bộ Công Thương các năm 2003 – 2007
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11261.doc