Nói tóm lại, nguồn vốn đầu tư quốc tế luôn chiếm giữ một vai trò quan trọng. Nó tác động mạnh tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốcc gia. Vì vậy việc tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và quỹ hỗ trợ phát triển chính thức cùng với việc quản lý và sử dụng 1 cách có hiệu quả các nguồn này là rất cần thiết. Nhất là với một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, lại đang trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì vấn đề thiếu vốn cho đầu tư phát triển là tất yếu và không thể tránh khỏi. Nhà nước ta cũng có những chính sách, luật đối với đầu tư nước ngoài. Mặc dù ban đầu khi ra đời nó còn có những hạn chế nhất định, song cùng với thời gian thực hiện và những kinh nghiệm thu được nhà nước ta đã không ngừng có những sửa đổi điều chỉnh thích hợp với tình hình trong nước cũng như thế giới sao cho thu hút được khối lượng ODA và FDI lớn nhất, sử dụng đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên 1 điều cũng không thể phủ nhận là trong quá trình thực hiện ta còn gặp phải một số khó khăn cần phải khắc phục dần để ngày càng nâng cao vai trò của nó trong sự phát triển đất nước. Mặt khác cũng không vì thế mà có ý niệm "thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và quỹ đầu tư phát triển chính thức bất cứ giá nào"
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đáp ứng nổi; ngoài ra do một một số lĩnh vực còn quá mới đối với nước nhận đầu tư, cho nên đầu tư từ nước ngoài vẫn đem lại lợi ích cao hơn so với đầu tư trong nước. Vậy nước nhận đầu tư sẽ có được những lợi ích gì? khi có đầu tư nước ngoài vào sẽ giải quyết được vấn đề chỗ làm việc, nâng cao trình độ lao động; tăng GDP; tăng thu cho cho ngân sách nhà nước từ việc đánh thuế và có thể kéo theo một số ngành nghề kinh tế khác phát triển, cân đối cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập trên đầu người góp phần từng bước cải thiện đời sống người lao động. Đặc biệt nguồn viện trợ phát triển đây cũng là một nguồn vô cùng quan trọng. Nó góp phần vào việc giải quyết vấn đề vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng: trường học, bệnh viện, giao thông… và một số ngành mang tính chiến lược toàn cầu như môi trường.. Tất nhiên các nước nhận đầu tư nên nhớ một điều là "không có gì cho không". Vì vậy phải cân nhắc thận trọng khi đưa ra quyết định và phải lập ra kế hoạch hợp lý cho việc thu nhận và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả.
*Nói chung giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ. Lợi ích của nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư là hoàn toàn phù hợp nhau. Chừng nào những mâu thuẫn này còn tồn tại thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài sẽ còn gặp phải khó khăn.
iii. những yếu tố tác động tới thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài
3.1. Sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô
Nói chung, sự ổn định của môi trường vĩ mô luôn luôn là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Đối với nguồn vốn nước ngoài điều này lại càng có ý nghĩa hơn. Trong môi trường vĩ mô, phải tính trước hết đến sự ổn định chính trị - xã hội. Lịch sử thế giới cho thấy rằng ở quốc gia nào có độ mất ổn định về chính trị-xã hội cao chẳng hạn như một số nước châu Phi, Nam á vài năm gần đây, tuy có thể thu hút được một lượng viện trợ nhân đạo nào đó, song mức độ là không đáng kể. Trong bối cảnh đó, chỉ rất ít, thậm chí không hề có vốn đầu tư hay cho vay từ nước ngoài nhằm mục tiêu phát triển đổ vào. Tuy nhiên ở đây, điều muốn được nhấn mạnh hơn là mức độ ổn định kinh tế vĩ mô với tư cách là điều kiện quan trọng để thu hút vốn nước ngoài.
Không xét đến những tiêu chuẩn tối thiểu bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô, chẳng hạn như an toàn lương thực, khả năng duy trì sự cân bằng cung cầu cân đối một số mặt hàng tiêu dùng tối thiểu, tính ổn định ở đây được xét theo nghĩa làm sao nó thoả mãn được hai yêu cầu.
Thứ nhất ổn định vững chắc không phải là và không thể là sự ổn định bất động (tức là sự ổn định hàm chứa trong đó khả năng trì trệ kéo dài và dẫn tới khủng hoảng). Một sự ổn định được coi là vững chắc nhưng bất động chỉ là sự ổn định ngắn hạn. Xét trong dài hạn, loại ổn định này tiềm chứa trong nó khả năng gây bất ổn định. Bởi vì rằng sự ổn định về nguyên tắc không thể đồng nhất với sự trì trệ. Bản chất của ổn định kinh tế gắn liền với năng lực tăng trưởng.
Thứ hai ổn định trong tăng trưởng, tức là kiểm soát nhịp độ tăng trưởng sao cho quá trình tăng trưởng, đặc biệt là các nỗ lực tăng trưởng nhanh lâu bền, không gây ra ra trạng thái "quá nóng" của đầu tư và hậu quả đi liền với nó là lạm phát. Theo một nghĩa xác định tăng trưởng tức là phá vỡ thế ổn định cũ. Nhưng nếu quá trình tăng trưởng được kiểm soát sao cho có thể chủ động tác lập được thế cân bằng mới thì quá trình đó cũng đồng thời là việc tạo ra cơ sở ổn định vững chắc và lâu bền.
3.2. Môi trường pháp lý cho sự vận động của vốn nước ngoài
Muốn tăng vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi các quốc gia nhận đầu tư phải tạo ra một môi trường pháp lý thích hợp, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Song xét một cách khái quát cần nhấn mạnh 2 điểm trọng yếu:
+Thứ nhất nước nhận đầu tư phải bảo đảm về mặt pháp lý đối với quyền sở hữu tài sản tư nhân và môi trường cạnh tranh lành mạnh. Thái độ của nhà nước đối với vấn đề quốc hữu hoá tài sản, vốn liếng của người nước ngoài được thể hiện rõ bằng các đạo luật cũng là yếu tố quan trọng của môi trường tổng quát này. Việc tuyên bố không quốc hữu hoá hay quy định rõ thời gian chuyển giao quyền sở hữu và sử dụng công trình được xây dựng từ vốn nước ngoầi sao cho người đầu tư thu được phần lợi nhuận thích đáng tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt đối với các nhà đầu tư và cho vay quốc tế.
+Thứ hai quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài tại nước sở tại. Về nguyên tắc, quy chế này nhằm tạo ra sự ưu đãi về phần lợi nhuận mà nhà đầu tư nước ngoài được hưởng và môi trường thuận lợi chô sự vận động của lợi nhuận đó. Đồng thời sự thuận lợi đó nếu được bảo đảm, còn khuyến khích việc bắt đầu từ lợi nhuận tại thổ do nhà đầu tư cảm thấy yên tâm và có lợi trong một môi trường như vậy.
Để thấy rằng hai điểm mấu chốt này của môi trường pháp lý là thuận lợi hơn, an toàn hơn cho sự vận động của vốn nước ngoài thì khả năng thu hút vốn càng cao. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý đến những quy định pháp lý cụ thể có liên quan đến việc làm thuận lợi hoá môi trường vận động của vốn. Cái đạo luật về quyền sở hữu đất đai, quyền chuyển nhượng và thuê mướn đất, quy chế về trọng tài kinh tế … nếu không rõ ràng, lại có thể gây trở ngại đáng kể trong việc thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài.
3.3. Tính ổn định của nền kinh tế thế giới
Sự ổn định của nền kinh tế thế giới cũng tác động không nhỏ tới thu hút vốn đầu tư của các nước. Thực tế cuộc khủng hoảng kinh tế Đông Nam á diễn ra vào 1997 và 1998 vừa qua đã cho thấy khi nền kinh tế của khu vực hay thế giới không ổn định sẽ dẫn tới việc rút vốn ra không đầu tư nhà nước nữa do tác động xấu đem đến sự phi lợi nhuận từ việc đầu tư vào các quốc gia này. Mặt khác sự không ổn định kinh tế cả nước đầu tư cũng gây ảnh hưởng tới đầu tư sang nước khác và sự rút vốn về nước sở tại là điều hiển nhiên. Các nước trong khu vực Đông Nam á như Đài Loan, Singapo, Thái Lan… sau khi rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng họ đã hạn chế đầu tư vào Việt Nam và giành vốn để đầu tư vào trong nước để cứu vướt tình hình nghiêm trọng kinh tế trong nước. Có thể thấy rằng sự phát triển kinh tế vững mạnh của các quốc gia trên thế giới cũng tác động không nhỏ tới thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Do đó các nhà hoạch định phải nắm bắt được đối tượng, thời điểm để có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho phù hợp.
3.4. Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng cũng đóng góp vào việc tạo ra những ưu thế riêng cho thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nó có thể được xem như một điều kiện, yêu cầu mà quốc gia đi đầu tư luôn xem xét trước khi quyết định đầu tư. Hệ thống cơ sở hạ tầng gồm: cơ sở vật chất, đường giao thông, hệ thống ngân hàng, hệ thống phương tiện thông tin… Những thứ đó không thể thiếu được đối với các nhà đầu tư. Bởi lẽ đầu tư là một hoạt động kiếm lời, muốn kiếm lời được lợi ích đòi hỏi csac sản phẩm của các nhà đầu tư phải được lưu chuyển thông tin trên thị trường một cách nhanh chóng đầy đủ. Mặt khác những nhu cầu về các thông tin mới luôn được đòi hỏi đặt ra đối với nhà đầu tư. Chính những phản hổi đó đã giúp cho các nhà đầu tư có thể xử lý, giải nhiều vấn đề trong công việc đem lại tính hiệu quả cao trong hoạt động đầu tư. Rõ ràng một quốc gia có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt sẽ là một lợi thế cho việc thu hút đầu tư của nước ngoài.
3.5. Sự cạnh tranh giữa các nước.
Một số quy luật kinh tế hiển nhiên của nền kinh tế thị trường là có cầu ắt phải có cung. Khi nhu cầu cao thì dẫn tới cung không đáp ứng nổi và ngược lại. Trong lĩnh vực đầu tư cũng vậy, khi nhu cầu đầu tư cao sẽ dẫn tới cung không đáp ứng nổi. Do đó các nước nhận đầu tư sẽ đặt ra những điều kiện đầu tư khắt khe. Vì vậy để được chấp nhận đầu tư đòi hỏi bên đầu tư phải cạnh tranh nhau và nhà đầu tư nào đáp ứng tốt sẽ được chấp nhận. Song trường hợp này thường xảy ra rất ít mà trái lại các nước nhận đầu tư (thu hút vốn nước ngoài) thì nhiều, còn các nước đi đầu tư thì lại hạn chế. Cho nên để có được nhà đầu tư nước ngoài đòi hỏi các nước nhận đầu tư phải có những chính sách thích hợp trong việc thu hút vốn nước ngoài. Các nước này sẽ cạnh tranh với nhau thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài. Mỗi nước sẽ tìm cho mình một giải pháp tốt nhất để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào sản xuất kinh doanh nhưng không phải bằng bất kỳ giá nào, mục tiêu đó chính là thu hút được nhiều nhà đầu tư nhất với số vốn cao vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực mới, quan trọng.
Qua đó cho thấy sự cạnh tranh giữa các nước đi đầu tư và nhận đầu tư cũng là yếu tố ảnh hưởng mạnh tới thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ phát triển nước ngoài vào Việt Nam
i. thực trạng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 12 năm qua
1.1. Nhu cầu về vốn của Việt Nam
ở Việt Nam nhu cầu về vốn trong nước những năm gần đây tương đối lớn. Trong khi tiết kiệm trong nước không đủ để đaps ứng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua số liệu sau
Năm
Đầu tư
Tiết kiệm %GDP
1994
25,5
16,9
1995
27,3
17,0
1996
27,9
16,7
1997
27,6
20,1
1998
23,6
17,0
1999
21
18
Như vậy đầu tư nước ngoài là rất cần thiết. Việt Nam tiến hành mở cửa nền kinh tế sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, miễn là tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam và tôn trọng chế độ chính trị của Việt Nam.Với quan điểm đó Việt Nam đã thu hút được nhiều đối tác nước ngoài từ các châu lục khác nhau đầu tư vào Việt Nam. Trong đó phải kể đến các quốc gia châu á có tới 70% lượng vốn đầu tư nước ngoài và 60% kim ngạch thương mại của Việt Nam là nhờ vào quan hệ với các quốc gia này.
Nhu cầu về vốn đầu tư xây dựng của toàn xã hội vẫn tăng, cụ thể:
Năm
Vốn đầu tư (tỷ đồng)
1995
68.047,8
1996
79.367,4
1997
96.870,4
1998
96.400
1999
103.900
Ngoài việc thu hút vốn nước ngoài chúng ta cần phải huy động từ bên ngoài thông qua FDI hoặc ODA.
1.2. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ phát triển nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua và triển vọng trong những tới.
1.2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
1.2.1.1. Tình hình đầu tư nước ngoài trong những năm qua
Đây là hình thức đầu tư có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mặc dù vẫn chịu sự cbi phối của các chính phủ. Nhưng có phần ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Theo hình thức này bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao. Lợi ích của nhà đầu tư gắn chặt với các dự án đó, các nhà đầu tư rất quan tâm đến hiệu quả kinh tế của dự án và tiến hành quản lý kinh doanh rất chặt chẽ.
*Đặc điểm của FDI
Để xem xét thực trạng của FDI tại Việt Nam trước hết ta cần điểm qua tình hình của FDI trên thế giới trong thời gian qua.
Kết quả nghiên cứu về đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới cho thấy lượng FDI đang tăng mạnh trong 2 thập kỷ gần đây, cụ thể: trước năm 1970 lượng vốn đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới bình quân hàng năm là 25 tỷ USD. Nhưng đến đầu năm 1980 con số này là 50 tỷ USD và cuối thập kỷ 80 là 133 tỷ USD.
Vào cuối những năm 90 mặc dù tăng trưởng thương mại thế giới giảm từ 9,4% năm 1997 xuống 3,7% năm 1998 song đầu tư trên toàn thế giới vẫn gia tăng và đạt mức kỳ lục, cao nhất từ trước tới nay bất chấp cả suy thái kinh tế thế giới.
Theo đánh giá của các tổ chức thương mại và phát triển của Liên hiệp quốc Đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới đạt 4 nghìn tỷ USD năm 1998 tăng 10% so với năm 1997. Trong đó FDI đạt 440 tỷ USD cũng tăng 10% so với năm 1997. Năm 1999 FDI đạt gần 800 tỷ USD tăng 25% so với năm 1998.
Xu hướng vận động của FDI trên thế giới. Thường thì các nước có nền kinh tế phát triển sẽ nhận được nhiều vốn FDI hơn.
-Liên minh EU tiếp nhận FDI nhiều nhất. Năm 1998 UE nhận 23 tỷ USD. Năm 1999 là 286 tỷ USD.
-Hoa Kỳ tiếp nhận 1/3 tổng FDI của toàn thế giới đạt 193 tỷ USD năm 1998-1999.
-Năm 1998 các nước đang phát triển : vốn FID đang có xu hướng giảm cụ thể, năm 1998 các nước đang phát triển nhận được 166 tỷ USD. Trong đó các nước Đông Nam á chiếm 86 tỷ USD năm 1998 nhưng sang năm 1999 chỉ tiếp nhận được khoảng 78 tỷ USD. ở Việt Nam năm 1999 giảm 40% so với năm 1998.
*Trở lại vấn đề FDI ở Việt Nam, trong gần 12 năm qua đặc biệt là sau khi Mỹ bỏ cấm vận, cùng với chính sách mở cửa, Việt Nam đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài góp phần đáng kể vào tổng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội. Đầu tư trực tiếp FDI trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế và mang lại cho chúng ta nhiều lợi thế. Tính riêng năm 1998 các dự án có vốn dtt nước ngoài đã xuất khẩu nhiều loại hàng hoá thu 1,79 tỷ USD chiếm 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Với gần 2000 dự án đang hoạt động có tổng số vốn đăng ký 3,3 tỷ USD chiếm 3% tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội. FDI thực sự là nguồn vốn đáng kể bù đắp cho sự khó khăn về mặt tài chính của nước ta.
Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư tính đến 20/1/1999 Việt Nam có tất cả 1827 dự án đầu tư nước ngoài của 55 nước và vùng lãnh thổ với tổng số vốn 32.247,934 triệu USD trong đó có 2158 dự án đã được cấp giấy phép với 34215,25 triệu USD, 326 dự án bị thu hồi với 2394,776 triệu USd, 25 dự án hoàn thành với 428,46 triệu USD.
Dưới đâu là bảng danh sách 10 nhà đầu tư đứng đầu về đầu tư vào Việt Nam (tính đến đầu năm 1999)
Nước
Số dự án
Số vố (triệu USD)
Tỷ lệ % trong tổng FDI
Singapore
173
5.489,94
17,9
Đài Loan
304
4.118,50
13,4
Hồng kông
190
3.742,38
12,2
Nhật
217
3.489,84
11,4
Hàn quốc
191
3.124,94
10,2
Pháp
89
1.444,78
4,7
Malaysia
60
1.347,16
4,4
Mỹ
68
1.224,41
4,0
Thái Lan
78
1.080,88
3,5
Izelan
53
1021,16
33,3
Các nước khác 15,2%.
* Việc phân bố FDI cho các ngành không đồng đều.
+ Ngành công nghiệp 39,1% tổng số vốn đầu tư với 62,3% số dự án.
+Dầu khí 3,3% tổng số vốn đầu tư với1,3% số dự án.
+ Ngành nông-lâm nghiệp 3,1% tổng số vốn đầu tư với 3,3% số dự án.
+ Ngân hàng tài chính 0,7% tổng số vốn đầu tư với 1,1% số dự án.
+Các khu công nghiệp 10,9% tổng số vốn với 0,9% số dự án.
Như có thể thấy rằng công nghiệp là lĩnh vực hấp dẫn vốn FDI hơn cả. Nông nghiệp là một tiềm năng lớn của nước ta. Nước ta lên hướng FDI vào phát triển nông nghiệp nhiều hơn nữa nhất là tại các vùng nông thôn và miền núi xa. Có như vậy mới đạt được phát triển bền vững.
+Từ khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam số lượng dự án của FDI cũng tăng lên nhanh chóng, quy mô bình 1 dự án cũng được tăng lên đáng kể. Nếu như trong giai đoạn 1988-1990 vốn bình quân là 3,5 triệu USD/1 dự án thì đến giai đoạn 1995-1996 đã lên tới 16 triệu USD/111 dự án. Tính đến hết tháng12/1999 nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 2766 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 37055,66 triệu USD. Bình quân mỗi năm chúng ta cấp cho 230 dự án với 3087,97 triệu USD vốn đăng ký.
Số dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép qua các năm thể hiện ở bảng sau
Năm
Số dự án
Vốn đăng kỳ (triệu USD)
Quy mô (triệu USD/dự án
1988
37
371,8
10,05
1989
68
582,5
183,78
1990
108
839,0
158,82
1991
151
1322,3
139,81
1992
197
2169,0
130,46
1993
269
2900
136,55
1994
343
3765,6
127,51
1995
370
6350,8
107,87
1996
325
8497,3
87,84
1997
345
4647,1
106,15
1998
279
2897,4
79,71
1999
278
1534,76
101,09
Bảng trên cho thấy nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án và lượng vố đăng ký. Từ 1995 đến 1996 FDI vào nước ta khá cao, cao nhất trong suốt thời kỳ từ 1988 đến nay. Năm 1995 có 370 dự án với số vốn là 6530,8 triệu USD, năm 1998 con số này là 8497,3 triệu USD . Tuy nhiên từ 1997 FDI có biểu hiện giảm rõ rệt hơn ở 2 năm 1998, 1999 so với năm 1997 số dự án được duyệt năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ bằng 80,58%, số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 33,01%. Quy mô dự án cũng thay đổi nên thời kỳ 1988-1999 bình quân 1 dự án có quy mô là 13,4 triệu USD thì năm 1999 quy mô chỉ bằng 41,19% quy mô thời kyf 1988-1999.
*Về đối tác được cấp giấy phép: tính đến hết năm 1999 nước ta có hơn 700 công ty thuộc 66 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong đó có 13 nước mỗi nước có tổng số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USĐ, chiếm 85,65% tổng số vốn FDI.
* Về địa bàn đầu tư : FDI chủ yếu tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế - xã hội. Điều đó được phản ánh qua những con số dưới đây.
Thời kỳ 1988-1999 FĐI được phân bố các vùng như sau
Cơ cấu đầu tư theo vùng (%)
+Đông Nam Bộ 53,13
+Đồng bằng Sông Hồng 29,6
+Duyên Hải Miền trung 7,64
+Đông Bắc 4,46
+Đồng bằng Sông Cửu Long 2,46
+Bắc Trung Bộ 2,38
+Tây Nguyên 0,16
+Tây Bắc 0,15
Lượng vốn FDI tập trung chủ yếu ở Hà Nội và Thanh phố Hồ Chí Minh nó chiếm tới hơn 1 nửa (50,3%) tổng số FDI trong đó Thành phố Hồ Chí Minh là 28,3%, Hà Nội là 22%.
* Về hình thức đầu tư
Liên doanh là hình thức đầu tư trực tiếp phổ biến nhất hiện nay. Hình thức này chiếm khoảng 61% số dự án và 70% vốn đăng ký. Sở dĩ như vậy vì liên doanh có nhiều điều thuận lợi hơn so với đầu tư 100% vốn nước ngoài ngày nay có xu hướng tăng. Thời kỳ đầu chỉ có 10% số dự án thì nay con số đó lên tới 30% và vốn đăng ký chiếm 20%. Hình thức này có xu hướng tăng là do bên nước ngoài đã hiểu rõ về các điều kiện kinh tế xã hội, luật pháp vaf văn hoá … của Việt Nam và họ yên tâm thực hiện theo luật trong quá trình kinh doanh.
Hình thức hợp đồng, hợp tác đến nay chỉ chiếm 7,1% số dự án và 10% số vốn chủ yếu trong các hình thức dầu khí, thăm dò, viễn thông…
Năm 1993 Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức "hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao" (BOT) và cho đến nay đã có 4 dự án đầu tư nước ngoài thực hiện theo hình thức này với số vốn là 900 triệu USD.
+ Về tình hình thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sau một thời gian triển khai đến nay có 785 dự án có nhu cầu tăng vốn, mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm 5171 USD.
Đến nay cũng có 127 dự án hết hợp đồng (bằng 4,6% dự án bị rút giấy phép) và 466 dự án bị rút giấy phép chiếm 14,6%.
Tính đến ngày 31/12/1999 trên lãnh thổ Việt Nam chỉ còn 2173 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký của các dự án còn hiệu lực là 36086 triệu USD.
Đến hết năm 1998 đã có 838 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh (bằng 33,68% tổng số dự án được duyệt) và 624 dự án trong giai đoạn xây dựng (bằng 25,08% số dự án) cho đến nay số vốn đã thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp bằng 42,4% tống số vốn đăng ký.
Tuy nhiên con số này cũng nói lên rằng tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng số vốn đăng ký còn thấp và không ổn định cụ thể
Năm
% vốn thực hiện/tổng số vốn đăng ký
1993
23,5
1994
3,1
1995
32,1
1996
21,8
1997
18,1
1998
10,1
1999
7,1
1.2.1.2 Dự báo về FDI trong 5 năm tới (đến năm 2005)
Qua phân tích ở trên và xu thế vận động của kinh tế thế giới thì trong 5 tới FDI vào Việt Nam sẽ thay đổi cụ thể: tổng số vốn đăng ký sẽ là 21696 triệu USD vốn thực hiện ước tính 11071 triệu USD và sẽ góp phần vào kim ngạch xuất khẩu 10035 triệu USD, giải quyết chỗ làm việc cho hàng vạn lao động và làm tăng tỷ trọng của FDI trong GDP.
2.2. Viện trợ phát triển chính thức (ODI)
2.2.1. Tình hình viện trợ phát triển của Việt Nam trong những năm qua
Trong khi khẳng định nguồn nội lực đóng vai trò quyết định sự nghiệp đất nước. Nông nghiệp và nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng mọi nguồn vốn nước ngoài, trong đó có vố hỗ trợ phát triển chính thức ODA trong các nhà tài trợ quốc tế cùng với FDI, ODA góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới đất nước. Một trong 5 sự kiện nổi bật năm 1999 theo đánh giá các chuyên gia kinh tế và đầu tư là giá trị vốn ODA các nước và tổ chức quốc tế cam kết dành cho Việt Nam 2,7 tỷ USD, trong đó 700 triệu USD dùng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Tính từ 10/1993 đến nay ODA dành cho Việt Nam khoảng 15,9 tỷ USD trong đó viện trợ không hoàn lại chiếm gần 25%. Đây là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu của công cuộc đổi mới và phát triển của Việt Nam
Năm
Tỷ USD
Tốc độ tăng %
1993
1,82
0
1994
1,94
7
1995
2,26
16,4
1996
2,43
7,5
1997
2,4
1,28
1998
2,2
8,3
1999
2,7
22,8
Số liệu trên cho thấy ODA được cam kết có xu hướng tăng từ 1993-1996, giảm từ 1997-1998 và đến năm 1999 ODA tăng lên đáng kể.
Theo đánh giá mới đây của tổ chức Liên Hiệp Quốc (UNUP) hiện nay tại Việt Nam có trên 45 tổ chức tài trợ ODA đang hoạt động với khoảng 1400 dự án ODA và trên 350 tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế với những cách thức hoạt động và thủ tục rất khác nhau. Dẫn đến nhiều nước tài trợ song phương là Nhật Bản, Anh, Pháp, Đức, Australia, Hàn Quốc, Thuỵ Điển, Đan Mạch, Hà Lan... còn dẫn đầu trong các tổ chức quốc tế tài trợ đa phương là Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á, (AOB), liên minh châu Âu (EU). Quỹ tiền tệ (IMF), quỹ nhi đồng thế giới (UNICEF), chương trình phát triển LHQ (UNDP)... Tuy nhiên, 3 nhà tài trợ lớn nhất chiếm khoản trên 80% tổng vốn ODA cam kết dành cho Việt Nam là Nhật Bản, WB và ADB. Trong thời gian ngắn Việt Nam đã tranh thủ được sự hỗ trợ to lớn và quý báu đó, trước hết là vì Việt Nam đã và đang thực hiện khá thành công chính sách đổi mới và hội nhập quốc tế. Thứ 2 phải kể đến tinh thần ham học hỏi trong việc phát huy nguồn lực trong nước nhằm không ngừng nâgn cao năng lực tiếp thu và sử dụng vốn có hiệu quả.
Việc thu hút ODA đã đạt được những thành tựu ban đầu. Nhưng vấn đề quan trong hơn ở đây đó là giải ngân nguồn vốn này như thế nào?
Do bỡ ngỡ và lúng túng ban đầu nên trong những năm 1993 - 1996 vốn giải ngân bình quân mỗi năm chỉ đạt khoảng 500 triệu USD bằng 25% tổng số vốn ODA cam kết tài trợ. Nhưng từ năm 1997 đến nay tình hình này được cải thiện rõ rệt.
Trong 3 năm 1997-1999 theo đánh giá của bộ Khoa học và Đầu tư ODA được giải ngân bình quân mỗi năm đã vượt trên 1,1 tỷ USD chiếm 70% tổng vốn ODA.
Tính riêng năm 1998 chúng ta đã giải ngân được 1,43 tỷ USD cao hơn năm 19997 là 415 triệu USD. Mặc dù vẫn thấp hơn kế hoạch đầu năm là 170 triệu USD, nhưng đây là mức giải ngân khá cao, chiếm 60% tổng vốn cam kết, cao hơn nhiều số vốn từ 32-42% ba năm trước. Trong đó chi cho xây dựng cơ bản khoảng 35% cho sự nghiệp 17% hỗ trợ ngân sách 3% và cho vay lại khoảng 45%. Theo báo cáo tại kỳ họp thứ 6 quốc hội khoá X năm 1999 Bộ trưởng Bộ KHĐT năm 1999 cho biết từ năm 1993 đến nay giải ngân mới chỉ đạt 6,4 tỷ USD bằng 60% số vốn ODA đã được hợp thức hoá bằng các hiệp định. Cụ thể như sau
Đơn vị: triệu USD
Năm
Vốn cam kết
Giả ngân
Giải ngân/vốn cam kết
Ghi chú
1993
1860
413
22,2
1994
1870
725
36,8
1995
2310
737
31,9
1996
2430
958
39,4
1997
2400
1015
42,3
1998
2380
1430
60,1
1999
2700
1452
53,8
2000
2200
2000
90,1
ước tính
Theo kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 1996-2000 nhu cầu về ODA dự kiến là 7-8 tỷ USD nhưng cho đến nay với chỉ đạt gần 5 tỷ USD. Rõ ràng đến hết năm 2000 này để đảm bảo kế hoạch đặt râ thì việc giải ngân phải đạt 2 tỷ USD. Đây quả thực là một thách thức lớn. Trong khi đó nước ta mới tiếp nhận nguồn ODA chủ yếu từ các khu vực châu á, Âu, châu Đại Dương…, còn châu Mỹ thì rất khiêm tốn. Việc đạt kế hoạch là rất khó.
Vấn đề giải ngân mặc dù đã có tiến độ nhưng tốc độ giải ngân vẫn còn rất thấp so với tiềm năng. Theo MPI (Bộ KH & ĐT) trong 3 năm 1996-1998 nguồn ODA cam kết đạt 7,210 tỷ USD nhưng thực hiện giải ngân chỉ đạt 3,403 tỷ USD bằng 47,2%. Việc giải ngân ODA được thực hiện theo một quy trình rất chặt chẽ. Từ các khâu đàm phán ký kết hiệp định, chọn tư vấn khảo sát, lập dự án nghiên cứu khả thi, đến đấu thầu mua sắm máy móc thiết bị…Quy trình này đòi hỏi thời gian giải ngân vốn ODA khá dài. Tuy nhiên quy trình thực hiện giải ngân chậm chủ yếu do phía Việt Nam : Như thiếu quy hoạch, yếu về năng lực điều phối và quản lý ODA thể hiện:
Thứ nhất các dự án của Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong tiếp nhận vốn ODA nhất là việc thực hiện các thủ tục có liên quan đến đấu thầu, tính toán, chế độ báo cáo định kỳ, bố trí đối ứng kịp thời.
Thứ 2 các vấn đề về lập pháp, hành pháp thủ tục hành chính mặc dù đã được cải thiện ở cấp Trung ương nhưng ở cơ sở vẫn còn nhiều ách tắc đặc biệt là việc đền bù giải phóng mặt bằng.
Thứ 3: việc sử dụng ODA ở một số địa phương, một số dự án chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cần nhớ rằng ODA không có nghĩa là cho không mà chủ yếu là vay ưu đãi, say này phải hoàn trả cả gốc và lãi.
Thứ 4 việc chuẩn bị dự án chưa được tốt, nhất là chuẩn bị nguồn vốn đối ứng. Hầu hết các nguồn vốn đối ứng cho dự án ODA đều được bố trí từ ngân sách Trung ương hoặc ngân sách địa phương. Nhưng vốn ngân sách còn hạn hẹp không được tuỳ tiện lấy ra đối ứng mà vốn đối ứng cần được giao theo những địa chỉ của từng chương trình, từng dự án ODA cụ thể cần phải xoá bỏ tâm lý ODA có nghĩa là cho không ta cứ nhận còn vốn đối ứng thì hạ hồi phân giải.
Việc trình các dự án phải đảm bảo tính khả thi tránh tình trạng số liệu giả mạo.
Với mức giải ngân chưa tương xứng như vậy chúng ta sẽ bị thiệt thòi trên 3 phương diện:
Một là không huy động được các công trình đi vào hoạt động đúng tiến độ.
Thứ 2: các điều kiện ưu đãi của khoản vay ODA giảm sút.
Thứ 3 uy tín về năng lực tiếp thu ODA bị giảm.
*Về phân bổ và sử dụng ODA: ODA đó là đầu tư vào tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội, các ngành KTQD trừ quốc phòng và hầu hết các địa phương kể cả những vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc. Nhất là từ năm 1999 nhờ có ODA mà chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam cả về phương diện phục vụ tinh thần cũng như vật chất nói chung được cải thiện rõ rệt. Theo số liệu của Bộ KH&ĐT cơ cấu sử dụng ODA từ 1993 đến nay như sau: năng lượng điện chiếm 28%, giao thông 27%, nông-lâm-ngư nghiệp và thuỷ lợi 13%, giáo dục, y tế, khoa học công nghệ chiếm 13%, cấp thoát nước chiếm 9% và hỗ trợ ngân sách và các ngành khác 10%. Trong thời gian tới Việt Nam sẽ chú trọng vốn ODA hơn nữa vào chương trình phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo , nhất là đầu tư cho 1.700 xã đặc biệt khó khăn, phát triển kinh tế thu nhập tư nhân. Bởi vì kinh tế nông nghiệp nông thôn cùng các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển nhanh hơn sẽ giúp cải thiện đáng kể mức sống của người dân và thay đổi bộ mặt nông thôn.
*Cần phải tính đến việc trả nợ : năm 2003 Việt Nam phải trả khoản nợ đầu tiên thời gian từ nay đến lúc đó không còn xa. Ngay từ bây giờ Việt Nam cần phải thiết kế lộ trình bảo hộ nước ngoài để bảo đảm tính bền vững của quá trình phát triển đất nước. Vấn đề này, cũng đã được các đại biểu quốc hội nêu ra khá gay gắt tại kỳ họp khoá 6 quốc hội khoá X năm 199. Chính phủ Việt Nam đã có nhiều giải pháp và đã được áp dụng từ năm 1999 mà mới đây nhất chính phủ Việt Nam và Nga đã giải quyết khoản nợ tương đối lớn và khá lâu, trong đó Việt Nam là phía trả nợ. Việt Nam đã ký trả nợ thông qua xuất các loại hàng hoá mà phía Nga yêu cầu và lựa chọn.
2.2.2. Phương hướng thu hút ODA trong những năm tới.
Căn cứ vào tình hình thực tế ODA cam kết cho Việt Nam trong những năm qua, tình hình giải ngân thực tế đã đạt được và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới, chúng ta có thể dự báo trong những năm 2000, 2001, 2002 vốn ODA cam kết lần lượt sẽ là 2,2; 2,53; 2,92 tỷ USD.
ii. những kết quả thu được và hạn chế của FDI và oda
2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
2.1.1. Kết quả, nhu cầu về vốn nước ngoài là hết sức quan trọng cho sự phát triển kinh tế của nước ta.
Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài , Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật. Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời (29/12/1987) đến cuối năm 1999 số vốn nước ngoài đã được cấp giấy phép trên 39,5 tỷ USD. Và những thành quả đạt được của đầu tư trực tiếp nước ngoài thể hiện ở bảng số liệu sau: bảng kê số liệu tổng hợp (bảng1)
-Đầu tư nước ngoài đã có những tác động tích cực và ngày càng rõ rệt trong việc thực hiện chiến lược kinh tế xã hội của nước ta. Trong 12 năm qua với đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 28,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó thời kỳ1991-1995 chiếm khoảng 25,7% và từ năm 1996 đến nay chiếm 29,7%. Đầu tư nước ngoài đã tạo ra môt số năng lực sản xuất mới, ngành sản xuất mới, phương thức kinh doanh mới, có tác động dây truyền đến thị trường và khách hàng ở nước ta.
Đầu tư nước ngoài hiện chiếm 100% công suất khai thác dầu thô, sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, tụ điện, máy in… 70% chế biến thép và kết cấu thép, đèn hình các loại, 59,8% kéo sợi, 39,3% may mặc… Công nghệ được thực hiện trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất… là các công nghệ hiện đại tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn như điện tử, vật liệu ô tô, xe máy, ô tô.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu và thu ngân sách. Mức độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu ở các doanh nghiệp có đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm gần đây cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước. Năm 1991 mới xuất khẩu trên 52 triệu USD thì năm 1995 đạt 440 triệu gấp 8,4 lần, năm 1997 là 1790 triệu USD gấp 34,4 lần, năm 1999 là 2577 triệu USD gấp 49,56 lần, chiếm xấp xỉ 40,7% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Các khoản nộp ngân sách từ các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh trong những năm qua: năm 1994 là 128 triệu USD, năm 1996 là 236 triệu USD, năm 1997, 1998 trung bình là 316 triệu USD và năm 1999 lại giảm xuống chỉ còn 271 triệu USD chiếm 6-7% tổng thu ngân sách nhà nước.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 280.000 người lao động trực tiếp, trong đó 6000 cán bộ quản lý hơn 25000 cán bộ kỹ thuật, hàng chục vạn công nhân lành nghề. Ngoài ra còn tạo việc cho gần 11 triệu lao động gián tiếp. Môi trường lao động mới tạo điều kiện cho người lao động tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Bình quân thu nhập người lao động Việt Nam trong các doanh nghiệp nước ngoài cao hơn cùng ngành nghề ở khu vực từ 30-50%, bình quân tháng khoảng 70USD/người.
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài rất lớn và tăng GDP, năm 1992 chỉ chiếm 2,0% tỷ trọng GDP thì năm 1993, 1994, 1995, 1996, 1997, 1998 và 1999 tăng lên lần lượt là 3,6%; 6,1; 6,3%; 7,4%; 9,1%; 10,1% và 10,3%. Như vậy nó có xu hướng chiếm tỷ trọng lớn trong GDP
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới và quá trình hội nhập của nước ta với thế giới
2.1.2. Những tồn tại của FDI
*Đầu tư trực tiếp nước ngoài Việt Nam được thực hiện chủ yếu do các công ty xuyên quốc gia đã làm nảy sinh nỗi lo lắng.
+Các công ty xuyên quốc gia sẽ làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế nước ta vào vốn, kỹ thuật, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của các công ty đa quốc gia.
+Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu hoặc máy móc thiết bị vào Việt Nam đánh giá nó cao hơn mức bình thường.
+Khi thực hiện các dự án liên doanh, các đối tác nước ngoài thường góp vốn bằng các thiết bị và vật tư, lợi dụng sự yếu kém về trình độ của bên đối tác Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài đã chuyển vào những thiết bị cũ đã đến thời hạn thanh lý.
+Các công ty xuyên quốc gia có xu hướng đẩy các nghiên cứu trong nước tới chỗ phá sản do các công ty này có sức mạnh về tài chính, kỹ thuật và đôi khi được hưởng ưu đãi hơn các doanh nghiệp trong nước.
+Bên cạnh đó việc phối hợp thực hiện các quy hoạch ngành và lãnh thổ hiện đang thực hiện không tốt. Hiện đang xảy ra rất phổ biến ở các địa phương mấy năm gần đây là làm theo phong trào, quan tâm lớn tới các dự án quy mô lớn mà còn xem nhẹ hiệu quả kinh tế xã hội. Cho nên mới có xảy ra tình trạng "đổ xô" đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp, xi măng, đường.
2.2. Viện trợ phát triển chính thức (ODA)
2.2.1. Kết quả của ODA.
* Do ODA có tính ưu đãi (về lãi suất), thời gian sử dụng vốn dài (có khoản viện trợ không hoàn lại) cho nên việc sử dụng ODA được áp dụng vào các chương trình có số vốn lớn, thời gian sử dụng dài, các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ cấu y tế, giáo dục, khoa học, kỹ thuật. Dẫn đến cải thiện được phần nào đối với tạo hàng hoá công cộng của chính phủ và ODA góp phần:
+Bù đắp thêm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế.
+Cải cách hệ thống tài chính, chuyển đổi hệ thống kinh tế.
+Thực hiện các chương trình đầu tư quốc gia, đặc biệt là các dạ án cải tạo, nâng cấp hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội để làm nền tảng vững chắc cho ổn định và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy đầu tư của tư thương trong và ngoài nước.
+Cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, môi trường sinh thái…
-Thực hiện các chương trình nghiên cứu tổng hợp hỗ trợ chính phủ hoạch định chính sách hay cung cấp thông tin cho đầu tư bằng các hoạt động điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyện, hiện trạng kinh tế - kỹ thuật - xã hội các ngành các vùng lãnh thổ.
-Cải thiện nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
* Nói tóm lại, nguồn ODA được ưu tiên cho những dự án kinh tế xã hội không sinh lời trực tiếp, hoặc khả năng thu hồi vốn chậm nhưng lại có ý nghĩa và ảnh hưởng quan trọng đến việc tạo lập một môi trường thuận lợi cho sự phát triển đất nước nói chung và cho khuyến khích đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước nói riêng.
2.2.2. Những tồn tại của ODA.
-Quản lý và sử dụng ODA ở nước ta trong thời gian qua còn bộc lộ một số tồn tại nhất định làm hạn chế hiệu quả sử dụng vốn này.
+Về nhận thức, vẫn còn những quan niệm và cách hiểu biết khác nhau về ODA. Có người cho đây là khoản cho không quà biếu, vật tặng. Một số địa phương có quan niệm sử dụng ODA "vay là được"mà không tính được khả năng trả nợ và hiệu quả sử dụng dẫn tới lãng phí, tham nhũng, gây hiệu quả xấu cho tiếp nhận ODA.
+Quá trình lập duyệt dự án kéo dài, thường kéo dài 1-3 năm, phân bổ vốn cho dự án chưa thật sự gắn với nhu cầu sử dụng vốn trong thực tế.
+Quy trình đấu thầu các dự án ODA phức tạp, tổ chức lỏng lẻo, xuất hiện nhiều tình trạng chạy đua hạ giá bỏ thầu đến mức vượt quá hệ số an toàn về chất lượng công trình.
+Các nguyên tắc và điều kiện đấu thầu theo thông lệ quốc tế chưa được làm quen hoặc chưa công khai nên phần lớn phải mua thiết bị từ các nước tài trợ với giá cao, chuyển giao kỹ thuật lạc hậu, các khoản thanh toán lương bổng, sinh hoạt phí phải trả rất cao cho chuyên gia nước ngoài, chịu sự lệ thuộc nhất định vào kỹ thuật, công nghệ của nước tài trợ.
+Chính sách và công tác đền bù giải phóng mặt bằng, di dân, tái định cư chưa hợp lý, dẫn tới 1 so sánh dự án chậm triển khai.
Vốn đối ứng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng số vốn đầu tư cho dự án ODA nhưng lại ảnh hưởng đáng kể đến tiến độ triển khai dự án do việc lập kế hoạch chưa tốt.
+Về phía nhà tài trợ, quy trình thủ tục giải ngân của họ còn khá phức tạp. Hơn nữa nhiều trường hợp các quy định của họ không rõ ràng không nhất quán.
+Về phía Việt Nam: chưa xây dựng được quy chế phân định rõ nhiệm vụ cho các cơ quna hoặc cá nhân chịu trách nhiệm hoạch định, thiết kế xây dựng dự án, thẩm định và ra quyết định đầu tư, sử dụng vốn, thu hồi vốn vay và trả nợ. Trình độ quản lý còn hạn chế nhất là các ban quản lý tiểu dự án ở các địa phương trong việc phân tích, đàm phán, ký kết hợp đồng mua sắm, xây lắp… công tác quản lý tài chính ODA của Chính phủ chưa tập trung vào một đầu mối dẫn đến trách nhiệm chưa rõ ràng.
phần iii: một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ phát triển chính thức vào Việt Nam
Trong tình hình hiện nay khi nền kinh tế nước ta đang có xu hướng giảm mạnh, cụ thể năm 1986 tỷ lệ tăng trưởng của nước ta tương đối cao là 9,34% năm1987 là 8,15% sang; năm 1998; 1999 giảm xuống chỉ còn 5,8% và 4,7% thì nguồn vốn cho đầu tư phát triển ngày càng trở lên quan trọng và cần thiết. Nó giúp việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước1 cách nhanh chóng hơ. Nhiều nhà kinh tế ước tính số vốn cần thiết cho đầu tư phát triển thời kỳ 2001-2005 lên tới 65-700 tỷ USD. Do vậy cùng với việc khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, phải tiếp thu thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồm lực bên ngoài như nghị quyết trung ương IV đã chỉ rõ: Muốn làm được điều này trong bối cảnh quốc tế cạnh tranh găy gặt, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang chững lại và có xu hướng giảm sút thì chúng ta phải nhanh chóng có những giải pháp đồng bộ, toàn diện, tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn và tổng thể có thể cạnh tranh với các nước trong khu vực, thậm chí đối với các lĩnh vực như nông-lâm-ngư nghiệp; các đaa bàn miền núi nông thôn, các ưu đãi nói chung cũng phải cao hơn trong khu vực. Mặt khác hiệu quả sử dụng và quản lý các dự án cũng phải được nâng cao, tạo lợi thế hơn hẳn các nước khác trong khu vực và các nước được ưu tiên nhận khoản viện trợ cho đầu tư phát triển (ODA).
i. các giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
1. Trong ngắn hạn
-Tiếp tục thực hiện việc giảm chi phí đầu tư, bổ sung chính sách ưu đãi thiết thực, khuyến khích đầu tư đối với các dự án sản xuất và chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Miễn thuế thuê đất trong những năm đầu, mở rộng thúc đẩy thực hiện miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư sản xuất như luật đầu tư nước ngoài bổ sung mới đây đã đưa ra (quyết định 53/1999/QĐ-Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích đầu tư phát triển trực tiếp nước ngoài); áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi nhất….
Xây dựng chính sách đặc biệt khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ sản xuất phụ tùng, linh kiện phục vụ chương trình nội địa hoá.
-Tiếp tục ban hành chính sách cải thiện môi trường đầu tư: xem xét cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thế chấp quyền sử dụng đất, cho phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất của doanh nghiệp Việt Nam. Xử lý nối lỏng các vấn đề về ngoại hối, hỗ trợ tín dụng, cầm cố thế chấp, đăngg ký quyền sở hữu tài sản bảo lãnh tiền vay… kiến nghị sửa đổi thuế thu nhập cá nhân theo hướng mở rộng diện nộp thuế nhưng giảm thuế suất và tăng mức thu nhập bắt đầu chịu thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài sử dụng người Việt Nam vào các cương vị quản lý, điều hành, giảm chi phí không hợp lý cho các doanh nghiệp.
-Đa dạng hoá các lĩnh vực và hình thức thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua việc mở rộng hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, cho phép các thành phần kinh tế hợp tác đầu tư với nước ngoài, cho phép khu vực dân doanh được góp vốn liên doanh hoặc mua cổ phần bằng giá trị quyền sử dụng đất.
-Nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu công nghiệp, hạn chế thành lập các khu công nghiệp mới, vận động đầu tư lấp đầy các khu công nghiệp, đảm bảo hạ tổng ngoài hàng rào…
-Nghiên cứu bổ sung 1 số điều của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng hơn, đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền, tiến tới một khung pháp lý chung giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
-Nâng cao hiệu quả quản lý và năng lực điều hành của nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cụ thể là tập trung vào xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch thu hút đầu tư, đổi mới công tác xúc tiến vận động đầu tư. Đơn giản thủ tục hành chính, chuyển giao phần chủ yếu viêc quản lý trực tiếp cho chính quyền địa phương, các bộ tập trung vào nghiên cứu và xây dựng luật pháp, chính sách, cơ chế, hướng dẫn và kiểm tra giám sát.
-Tăng cường công tác cán bộ, kể cả các cơ quan quản lý Nhà nước, không ngừng đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhằm đủ sức đóng góp vai trò quyết định trong việc đấu tranh bảo vệ lợi ích của bên Việt Nam, khắc phục khâu yếu nhất trong các liên doanh thời gian qua là khâu cán bộ. Cùng với giải pháp trước mắt cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì nhà nước ta cũng phải có 1 giải pháp trong lâu dài sao cho hợp lý.
2. Giải pháp trong dài hạn
-Cải cách hành chính hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
-Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ Chính phủ với các bộ tổng hợp, cán bộ quản lý các ngành, UBND trong quản lý hoạt động đầu tư tập trung nước ngoài theo thẩm quyền trách nhiệm. Triệt để kiên quyết hơn trong việc quy định rõ ràng minh bạch thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục hành chính tạo chuyển biến căn bản mạnh mẽ về cải cách hành chính trong khu vực đầu tư.
-Quy định cụ thể trách nhiệm kinh tế, hình sự đối với các cá nhân, tổ chức trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, tránh tình trạng trốn trách nhiệm một cách chung chung đưa tới hậu quả nghiêm trọng. Hạn chế kiểm tra và can thiệp tuỳ tiện của các cơ quan công an, kiểm soát, thuế vụ tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế.
-Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ nhằm tạo môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn, thông thoáng. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng cần sửa đổi những ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Luật đầu tư nước ngoài 3 lần sửa đổi bổ sung năm 1990, 1992, 1996 và vừa qua kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá X cũng đã thông qua luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm cải thiện môi trường pháp lý. Mặc dù khắc phục được một số hạn chế song vẫn còn một số quy định còn cứng nhắc, nhiều chỗ vẫn chưa thông thoáng so với một số nước trong khu vực như việc giải phóng mặt bằng còn khá khó khăn, thời gian kéo dài, cần được khắc phục dần dần. Bên cạnh đó cũng cần có sự thống nhất giữa các luật giữa luật đầu tư trực tiếp nước ngoài với bộ luật lao động để đảm bảo tuyển dụng lao động, với luật thuế để có chính sách thuế thích hợp.
-Đảm bảo ổn định pháp luật và chính sách, giữ vững nguyên tắc để tạo niềm tin. Các quy định của pháp luật, các thông tư hướng dẫn thực hiện của chính phủ, Bộ ngành phải được nghiêm chỉnh chấp hành không thêm bớt, sửa chữa 1 cách tuỳ tiện, bỏ cách hiểu "phép Vua thua lệ làng".
+Nâng cao chất lượng quy hoạch đầu tư. Quy hoạch đầu tư tốt sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội được nâng cao. Xây dựng hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài phải là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch đầu tư chung của cả nước. Quy hoạch phải gắn với an ninh quốc phòng để dễ kiểm soát, có như vậy thì mới tránh được đầu tư tràn lan, theo phong trào phung phí các nguồn lực.
+Thực hiện tốt chiến lược con người, chuẩn bị cán bộ quản lý, đào tạo mộtt số lượng lao động có tay nghề cao sẵn sàng làm việc trong nhiều lĩnh vực. Yếu tố con người cũng rất quan trọng mang tính quyết định thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong những năm qua nhu cầu lao động, kỹ thuật và lao động lành nghề ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài rất cao nhưng ta không đáp ứng nổi. Chính vì vậy là một điều ái ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào nước ta. Mặt khác cũng vì yếu tố này bị hạn chế cho nên dẫn tới những thua thiệt cho phía Việt Nam, hạn chế cho nên dẫn tới những thua thiệt cho phía Việt Nam và trình độ lao động không cao cũng dẫn tới những thua thiệt cho phía Việt Nam và trình độ lao động không cao cũng dẫn tới tính không hấp dẫn trong thu hút vốn nước ngoài.
+Đổi mới đẩy mạnh công tác vận động đầu tư với chính phủ. Cần có hình thức như mở hội nghị các nhà đầu tư, tài trợ, họp báo, tiếp xúc với nhà đầu tư, quảng cáo, cán bộ ngành cần tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách các nước, các tập đoàn để có chính sách vận động đầu tư.
+Bên cạnh đó cần giữ vững ổn định về chính trị, an ninh, xã hội, phát huy những nét đẹp văn hoá của dân tộc Việt Nam như tính cần cù, chịu khó, thông minh, không ngại khổ. Tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào Việt Nam.
ii. một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn oda
Với những đặc điểm của nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Đây là nguồn vốn của các tổ chức quốc tế, nó được dùng để viện trợ không hoàn lại, cho vay không lấy lãi hoặc cho vay với mức lãi suất ưu đãi cho các nước gặp khó khăn về vốn (chủ yếu là các nước đang phát triển và các nước kem phát triển) để phát triển nền kinh tế. Chính vì thế mà việc tăng cường thu hút nguồn vốn ODA sẽ gắn liền với việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này có hiệu quả. Ngoài ra nó còn phụ thuộc lớn vào tình hình chính trị, tình hình kinh tế văn hoá xã hội của quốc gia đi vay. Như vậy để tăng cường thu hút ODA thì chúng ta phải có những giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ODA.
-Trước mắt cần chú trọng đến công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ, bồi dưỡng cho thông thạo chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ để nâng cao chất lượng đàm phán nhằm đạt được yêu cầu tối thiểu về lãi suất, thời hạn vay,thẩm định giá, định mức chi tiêu, phí tư vấn, chính sách đối với chuyên gia trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.
-Tất cả các dự án sử dụng ODA đều phải thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án đầu tư, thực hiện đúng các quy định về đầu tư xây dựng trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt là khâu lựa chọn dự án, đấu thầu xây lắp và mua sắm vật tư thiết bị tư vấn…
-Đơn giản hoá và nâng cao chất lượng khâu thẩm định dự án, tổ chức đấu thầu, xét chọn thầu, đàm phán các hợp đồng vay bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế, công khai hoá các quy trình, thủ tục, thời hạn, trách nhiệm xử lý trong quá trình triên khai dự án.
-Phân tích cụ thể các điều kiện vay, các điều kiện ràng buộc để bố trí sử dụng vốn hiệu quả, chấm dứt tình trạng sắp xếp nhà tài trợ mới xây dựng dự án, kiên quyết loại bỏ dự án không có luận chứng kinh tế kỹ thuật khả thi, chủ động lựa chọn danh mục các dự án sử dụng theo mục tiêu đã định trước khi huy động vốn, khắc phục tình trạng bố trí sử dụng vốn dàn trải.
-Nghiên cứu đồng bộ và có khoa học các biện pháp chuyển đổi nợ thành đầu tư trong nước, xin xoá nợ, mua bán nợ tăng khả năng trả nợ hoặc làm giảm nghĩa vụ trả nợ trong tương lai.
-Các ngành, địa phương và đơn vị xin sử dụng ODA cần tính toán hiệu quả và xác định đầy đủ nghĩa vụ nghĩa vụ trả nợ, chịu trách nhiệm chính trong quá trình sử dụng vốn và đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu. Đối với 1 số lĩnh vực sử dụng ODA lớn cần phải nghiên cứu chính sách huy động và hoàn trả nợ trong từng giai đoạn, đảm bảo đầu tư sinh lời và có phương án thu 1 phần phí để hoàn trả nợ nước ngoài.
-Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng trong quản lý kinh tế là điều kiện kiên quyết để nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng ODA. Đặc biệt chú trọng về chất lượng quy hoạch tổng thể các nguồn vốn đầu tư, phù hợp và gắn với quy hoạch ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên, mặt hàng sản xuất chủ lực… từ đó sẽ lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu tiên đầu tư nguồn vốn vây ODA.
-Công tác vận động ODA cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương thức thực hiện, chú trọng khâu soạn thảo đề cương nghiên cứu khả thi thi, giao việc cho tư vấn, cần mạnh dạn chối bỏ nguồn vốn không đáp ứng yêu cầu, định hướng và hiệu quả đầu tư của Nhà nước, nâng cao tính chủ động của phía Việt Nam với bên nước ngoài.
-Luật hoá các hoạt động tư vấn gián tiếp nước ngoài, trong đó có việc quản lý và sử dụng hiệu quả ODA, bởi lẽ hiện tại chúng ta có khá nhiều văn bản pháp lý dưới luật về lĩnh vực này, nhưng thực tế quản lý không hiệu quả vừa gây lên tình trạng quản lý chồng chéo giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, vừa chưa tạo được hành lang pháp ý thống nhất để điều tiết có hiệu quả các hoạt động vay nợ nước ngoài.
-Để có sơ sở phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa các cơ quan hữu trách trong việc ra quyết định và quản lý nguồn vốn cũng như đơn giản hoá thủ tục hành chính cần thiết phải hoàn thiện thể chế có một cơ quan chịu trách nhiệm toàn diện từ khâu chuẩn bị dự án đến thực hiện và vận hành khai thác dự án. Có thể nghiên cứu thành lập cơ quan liên ngành (như uỷ ban quốc gia về quản lý nợ) làm nhiệm vụ tổng hợp, phân tích thông tin, đánh giá tình hình xem xét trong mối quan hệ không tách rời vốn các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP), kim ngạch xuất khẩu, cán cân thanh toán, bội chi ngân sách … để đề xuất chiến lược vay vốn và trả nợ nước ngoài, trong đó có việc vay và trả nợ ODA.
-Cùng với những giải pháp trên đòi hỏi nhà nước ta cũng không ngừng tăng cường, giữ vững ổn định chính trị xã hội tạo ra một môi trường thuận lợi để các tổ chức đầu tư có thể yên tâm đầu tư vào nước ta, tránh những tổn thất do sự bạo loạn về chính trị xã hội có thể xảy ra. Ngoài ra nhà nước ta cũng nhanh chóng thúc đẩy và giải quyết những khoản nợ còn tồn đọng từ lâu. Nhằm tạo niềm tin thu hút vốn nước ngoài trong thời gian tới.
Kết luận
Nói tóm lại, nguồn vốn đầu tư quốc tế luôn chiếm giữ một vai trò quan trọng. Nó tác động mạnh tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của các quốcc gia. Vì vậy việc tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và quỹ hỗ trợ phát triển chính thức cùng với việc quản lý và sử dụng 1 cách có hiệu quả các nguồn này là rất cần thiết. Nhất là với một nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, lại đang trong tiến trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì vấn đề thiếu vốn cho đầu tư phát triển là tất yếu và không thể tránh khỏi. Nhà nước ta cũng có những chính sách, luật đối với đầu tư nước ngoài. Mặc dù ban đầu khi ra đời nó còn có những hạn chế nhất định, song cùng với thời gian thực hiện và những kinh nghiệm thu được nhà nước ta đã không ngừng có những sửa đổi điều chỉnh thích hợp với tình hình trong nước cũng như thế giới sao cho thu hút được khối lượng ODA và FDI lớn nhất, sử dụng đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên 1 điều cũng không thể phủ nhận là trong quá trình thực hiện ta còn gặp phải một số khó khăn cần phải khắc phục dần để ngày càng nâng cao vai trò của nó trong sự phát triển đất nước. Mặt khác cũng không vì thế mà có ý niệm "thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và quỹ đầu tư phát triển chính thức bất cứ giá nào"
Hà Nội 24/11/2000
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Tuấn Anh
Tài liêụ tham khảo
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam của Vũ Trường Sơ.
2. Giáo trình: Đầu tư nước ngoài, Xuất bản 1997
3. Giáo trình: Kinh tế quốc tế
4. Giáo trình: Quản lý kinh tế II
5. Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án
7. Nghiên cứu kinh tế số 250 (tháng 3/1999)
8. Nghiên cứu vấn đề kinh tế thế giới số 2 (64)-2000; số 4 (66) - 2000.
9.Tạp chí thông tin tài chính số 1, số 11, số 13, số 16-2000
10. Tạp chí kinh tế và dự báo số 1 - 2000; số 10-1999
11. Tạp chí tài chính số 8/2000; số 4 (426-2000)
12. Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn phát triển chính thức (Ban hành kèm theo nghị định số 20 - CP 15/03/1994)
13. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế - Lê Văn Châu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0287.doc