Trên đây là những kiến thức sơ lược về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam, nhất là mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong điều kiện hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, việc tiến hành vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Đảng và nhà nước cần có những giải pháp hỗ trợ cũng như sự góp sức của tất cả các ngành, các cấp cũng như sự ủng hộ của nhân dân.
Các chính sách, giải pháp cần phải được thực hiện một cách đồng bộ và linh hoạt. song điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải lựa chọn được một mô hình thị trường chứng khoán thích hợp với Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.
36 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ty được buôn bán trên thị trường này nhiều hơn, thậm chí một số chứng khoán được niêm yết trên SGDCK cũng được mua bán ở thị trường này.
Hoạt động giao dịch buôn bán chứng khán trên thị trường OTC cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh ra cho công ty chứng khoán đang quản lý tài sản của mình yêu cầu thực hiện giao dịch hộ mình. Thông qua hệ thống viễn thông, công ty môi giới- giao dịch sẽ liên hệ tới tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá sàn bán thấp nhất của loại chứng khán đó. Sau đó công ty này sẽ thông báo lại cho khách hàng của mình và nếu khách hàng chấp thuận, thì công ty sẽ thực hiện lệnh này và giao dịch của khách hàng sẽ được thực hiện.
Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: Còn gọi là thị trường thứ ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do.
2.Chức năng của TTCK
Thị trường chứng khoán là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán là lĩnh vực thu hút được đông đảo người tham gia nhất, với thời gian nhanh nhất, nó tạo cơ hội thuận lợi và khả năng rộng rãi cho các nhà đầu tư chọn được cách đầu tư có hiệu quả nhất.
Thị trường chứng khoán ra đời và hoạt động lành mạnh sẽ thúc đẩy nền kinh tế thị trường của ta phát triển nhanh và toàn diện, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn tài chính, bảo đảm cung cấp kịp thời các nhu cầu v ề vốn đầu tư phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ và giảm lạm phát, giảm bội chi ngân sách.
Thị trường chứng khoán thực sự là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Nếu xét cụ thể thì có thể thấy thị trường chứng khoán có các chức năng cơ bản sau:
2.1.Chức năng thứ nhất:huy động vốn cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu và qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Thông qua thị trường CK, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Thị trường chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế.
2.2. Chức năng thứ hai: thông tin
Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời(cho các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ) về tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan.
2.3. Chức năng thứ ba: cung cấp khả năng thanh khoản
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và năng động.
2.4 Chức năng thứ tư:đánh giá giá trị doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá chính xác doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường. Việc này kích thích các doanh nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới.
2.5 chức năng thứ năm: tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính sách vĩ mô
Chính phủ có thể mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát, ngoài ra chính phủ có thể sử dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư.
3.Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán.
Sự vận động của bất kỳ một thị trường nào cho dù đơn giản hay phức tạp đều có nguyên tắc hoạt động riêng của nó . các nguyên tắc này đảm bảo sự tồn tại và phát triển của thị trường theo những định hướng nhất định. Đối với thị trường chứng khoán, cơ chế vận hành của nó được dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
3.1.Nguyên tắc trung gian
Thị trường chứng khoán hoạt động không phải do những người muốn mua hay muốn bán chứng khoán trực tiếp thực hiện, mà phải thông qua các môi giới, làm nhiệm vụ trung gian trong việc tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thật, và thị trường chứng khoán hoạt động được lành mạnh, hợp pháp, bảo vệ được lợi ích của các nhà đầu tư .
Nguyên tắc trung gian trong giao dịch chứng khoán được thưc hiện thông qua các nhà môi giới và các thương gia chứng khoán hay còn gọi là các nhà kinh doanh chứng khoán .
Các nhà môi giới thực hiện việc mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng .Các nhà môi giới có thể cung cấp đầy đủ ( môi giới chọn gói) các dịch vụ có liên quan đến chứng khoán cho khách hàng, như làm đại diện cho khách hàng để thương lượng mua hoặc bán chứng khoán , chi trả cổ tức cho khách hàng, ứng vốn cho khách hàng trong các vụ mua trước bán sau(giao dịch bảo chứng), cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn đầu tư , mua bán chứng khoán.
Các nhà kinh doanh chứng khoán cũng là những người trung gian mua bán chứng khoán trên thị trường, nhưng không phải cho khác hàng mà cho chính bản thân họ, bằng nguồn vốn đầu tư của họ để hưởng lợi từ chênh lệch giá trong quá trình mua bán .
Các trung gian môi giới phải là những người có kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có khả năng phân tích, đánh giá và nhận định xu hướng phát triển của nền kinh tế.
3.2. Nguyên tắc công khai .
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều phải tuân thủ theo nguyên tắc công bằng, công khai và minh bạch. Các thông tin về chứng khoán được giao dịch, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty có chứng khoán được niêm yết, cũng như số lượng, giá chứng khoán đều được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bản thân các công ty có chứng khoán niêm yết có nghĩa vụ công bố thông tin theo định kỳ, tức thời và thông tin theo yêu cầu một cách trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư. Ngoài ra, các tổ chức phát hành chứng khoán có nghĩa vụ nộp cho sở giao dịch và uỷ ban chứng khoán các báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động kinh doanh và các báo cáo khác có xác nhận của kiểm toán độc lập.Trong những trường hợp có những biến động làm ảnh hưởng đến giá và khối lượng chứng khoán giao dịch, các tổ chức phát hành phải báo tức thời lên sở giao dịch và uỷ ban chứng khoán để có biện pháp xử lý kịp thời (tạm ngừng giao dịch, đình chỉ giao dịch loại chứng khoán đó ). Đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thông tin, cũng phải chịu trách nhiệm về thông tin đã công bố, nếu thông tin sai sự thật, làm thiệt hại đến nhà đầu tư, thì công ty đó phải chịu trách nhiệm bồi hoàn những thiệt hại do mình gây ra, và phải chịu kỷ kuật trước uỷ ban giám sát thị trường.
3.3.Nguyên tắc định giá.
Trên cơ sở quan hệ cung cầu về mua bán chứng khoán, các thông tin về chứng khoán cũng như kết quả phân thích chứng khoán, nhà môi giới có trách nhiệm xác định mức giá chứng khoán theo nguyên tắc định giá chứng khoán. Giá chứng khoán được hình thành thông qua hệ thống đấu giá hoặc đấu lệnh giữa các nhà môi giới. Khi giá chứng khoán được xác định thì các nhà đầu tư có nghĩa vụ thực hiện theo mức giá đó .
3.4. Nguyên tắc: các lệnh mua, lệnh bán tập trung ở một trung tâm điều hành: Sở giao dịch chứng khoán.
Những nguyên tắc trên, cùng với luật lệ quy chế về thị trường chứng khoán và công tác thanh tra tại chỗ làm cho người mua và người bán chứng khoán có thể yên tâm.
4.Những mặt tích cực và tiêu cực của thị trường chứng khoán.
4.1.Những mặt tích cực
4.1.1 . Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào công cuộc đầu tư:
Bất kỳ một loại hình doanh nghiệp nào cho dù là sở hữu nhà nước hay tư nhân khi cần vốn đầu tư cũng đều thực hiện thông qua hai giải pháp :
Giải pháp nội lực, tức là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ thông qua lợi nhuận có được do làm ăn có hiệu quả.
Giải pháp ngoại lực, tức là huy động các nguồn lực từ bên ngoài, thông qua các hình thức tài trợ tín dụng từ phía ngân hàng(nguồn vốn ngắn hạn ) và thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn ( vốn dài hạn ). Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi dân chúng có nguồn tiết kiệm dồi dào, và ý thức cũng như phong trào tiết kiệm trong dân chúng tốt.
Việc đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường không những đem lại lợi nhuận thông qua cổ tức, mà còn tham gia quyền kiểm soát đối với các tổ chức phát hành cổ phiếu khi các nhà đầu tư nắm giữ một khối lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết. Đây chính là tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư của dân chúng.
4.1.2 Giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sánh. Ngân sánh Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế xã hội càng dễ dàng thành công. Nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của nhà nước và các khoản thu nhập khác từ khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, chính sách thuế không phải lúc nào cũng thuận chiều với chính sách kinh tế. Trong thực tế ,các khoán thu ngân sách thường không đáp ứng đủ và kịp thời các khoản chi , lúc đó ngân sách nhà nước sử dụng giải pháp vay vốn từ dân chúng thông qua việc phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương. Thông qua thị trường chứng khoán việc phát hành các trái phiếu chính phủ được thuận lợi và thường xuyên hơn.
4.1.3 Thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những nước đang phát triển. Chúng ta ai cũng có thể nhận ra rằng vốn đầu tư trong nước (dù có huy động tối đa nguồn tiết kiệm của dân chúng) cũng chỉ có giới hạn. Do vậy phải có vốn đầu tư từ nước ngoài. Trên thực tế, các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án sản xuất-kinh doanh, và gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai loại hình đầu tư này nếu như không có thị trường chứng khoán thì không phát huy được tính hiệu quả cao của nó. Thị trường chứng khoán đáp ứng được khả năng sinh lợi, khả năng hoàn vốn, cũng như khả năng chuyển đổi sở hữu khi thấy cần thiết, là nơi luôn tạo ra sự chuyển dịch các luồng vốn đầu tư (từ lĩnh vực đầu tư này sang lĩnh vực đầu tư khác) và cung cấp các thông tin một cách chính xác để tìm hiểu các đối tác đầu tư.
4.1.4 . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để di chuyển vốn đầu tư.
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn dầu tư được mua đi bán lại trên TTCK như một thứ hàng hóa. Người nắm giữ chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư (tính linh hoạt của chứng khoán).
4.1.5 . Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp thông qua việc bán cổ phần cho các thành phần kinh tế trên cơ sở chuyển đổi từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu khác nhau. Chính quá trình này tạo ra hàng hoá (cổ phiếu) cho thị trường chứng khoán, ngược lại thị trường chứng khoán cũng tạo cơ sở luân chuyển các chứng khoán giữa các nhà đầu tư, tạo động lực kích thích quá trình cổ phần hoá phát triển.
4.1.6.Kích thích các doanh nghiệp tuân thủ luật pháp và quan tâm tới hiệu quả.
Các tổ chức phát hành chứng khoán niêm yết, phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết: Tổng tài sản có của tổ chức niêm yết, tỷ lệ nợ trên vốn khả dụng, hệ số sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng đươc xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc niêm yết giao dịch chứng khoán tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ luật pháp, bởi lẽ chỉ có như vậy các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và các nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua. Để tạo ra khả năng hấp dẫn của chứng khoán không còn cách nào khác các doanh nghiệp phải tính toán để quản lý một cách có hiệu quả.
4.2. Những mặt tiêu cực .
Mặc dù thị trường chứng khoán có tác dụng tích cực là công cụ hữu hiệu để huy động vốn dài hạn, mà hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều sử dụng, song bên cạnh đó nó còn có những mặt tiêu cực làm ảnh hưởng tới hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, người ta ví thị trường chứng khoán như con giao hai lưỡi , nếu không biết cách sử dụng, phát huy hiệu quả, thì ngược lại nó sẽ là công cụ làm rối loạn nền kinh tế và gây ra những tác hại khó có thể lường hết.
4.2.1. Chứa đựng yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Yếu tố này dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo
4..2.2. Hiện tượng giao dịch nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường.
4.2.3 . Đưa tin sai sự thật về một loại chứng khoán hoặc hoạt động của doanh nghiệp.
Việc tung tin sai sự thật về hoạt động của công ty niêm yết cũng như các chứng khoán được giao dịch trên thị trường, sẽ tạo sự hỗn độn thị trường, gây tình trạng bán ồ ạt một loại chứng khoán nào đó với giá thấp hoặc mua vào các chứng khoán với giá thấp nắm giữ và thao túng hoặc thâu tóm công ty.Việc tung tin sai sự thật sẽ gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, và còn nhằm hành vi như đầu cơ, truộc lợi, lũng đoạn thị trường.
4.2.4. Dễ huy động vốn, đồng thời cũng dễ bị rút vốn ồ ạt gây lên khủng hoảng thị trường.
Cơ chế vận hành của thị trường chứng khoán cho phép nhà đầu tư có thể đầu tư hoặc giải tư nhanh gọn để rút vốn. Điều này có thể gây tác hại khôn lường đối với thị trường. Khi một lĩnh vực đầu tư có xu thế phát triển, mọi người đổ xô vào mua chứng khoán đó, làm giá chứng khoán đó sai lệch với giá trị thực của nó. Khi tình hình thị trường có những biến động bất lợi, có ảnh hưởng tới giá chứng khoán, thì mọi người đổ xô đi bán để rút tiền đầu tư, làm cho thị trường hỗn loạn và nhiều khi gây nên sụp đổ thị trường.
5. Các điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán.
5.1. Phải có hệ thống niêm yết:
Niêm yết là việc một chứng khoán cho vào giao dịch chính chức tại sở giao dịch chứng khoán sau khi đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết do sở giao dịch chứng khoán đó qui định. Việc chứng khoán của một tổ chức phát hành được niêm yết sẽ đem lại cho chính tổ chức đó và các nhà đầu tư nhiều lợi thế đáng kể như : hoạt động mua bán được tiến hành trong một thị trường trật tự và được quản lý chặt chẽ, tính thanh khoản của chứng khoán được tăng cường, giá cả được xác định một cách minh bạch và công bằng, quyền lợi của người sở hữu chứng khoán được bảo vệ tối đa bởi các qui định của pháp luật
5.2. Hệ thống công bố thông tin của tổ chức niêm yết
Công bố thông tin của tổ chức niêm yết là việc tổ chức niêm yết tiến hành thông báo tất cả các thông tin quan trọng cho công chúng đầu tư biết để họ có thể đưa ra các quyết định đầu tư thích hợp. Nói cách khác việc công bố thông tin của tổ chức niêm yết là nhằm 2 mục tiêu chính: bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tất cả các nhà đầu tư, duy trì một thị trường công khai công bằng và có trật tự thông qua việc đảm bảo cho người đầu tư có cơ hội như nhau khi tiếp cận thị trường. Đòi hỏi phải có hệ thống công bố thông tin chuẩn xác, nhanh chóng, kịp thời tới nhà đầu tư.
5.3. Hệ thống giao dịch .
Hoạt động giao dịch trên thị trường chứng khoán, đặc biệt là trên thị trường tập trung, được chuẩn hoá cao độ. Tại tất cả các sở giao dịch chứng khoán, lệnh giao dịch chỉ được phép vào hệ thống sau khi đã đáp ứng đầy đủ các qui định về đơn vị giao dịch, đơn vị yết giá, giới hạn trần/sàn (nếu có). Vì vậy, nhiệm vụ của hệ thống giao dịch là đảm bảo sao cho chỉ có các lệnh hợp lệ mới được phép tham gia giao dịch, đồng thời thực hiện việc khớp lệnh để đưa ra kết quả giao dịch trên thị trường.
5.4. Hệ thống thông tin thị trường
Thông tin thị trường được định nghĩa là tất cả các thông tin có liên quan đến hoạt động của thị trường chứng khoán và công tác quản lý thị trường của các cơ quan chức năng. Hệ thống thông tin thị trường cùng với hệ thống công bố thông tin tổ chức niêm yết tạo thành một tổ hợp công bố thông tin hoàn chỉnh. Tác dụng của nó là giúp cho các nhà đầu tư có cơ sở để đưa ra các quyết định mua bán kịp thời và hỗ trợ cho các cơ quan quản lý trong việc điều hành hoạt động của thị trường dựa trên các số liệu hiện hành cũng như các số liệu thống kê đã được tích luỹ trong quá khứ. Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, việc chú trọng phát triển hệ thống thông tin là đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các sở giao dịch chứng khoán để có thể hoạt động, tồn tại và phát triển.
5.5. Hệ thống giám sát thị trường
Bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng đều phải tuân thủ các nguyên tắc và giới hạn cụ thể do pháp luật quy định nhằm đảm bảo sự ổn định và an toàn cho xã hội. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, nơi các hoạt động giao dịch, quản lý điều hành diễn ra rất đa dạng, liên tục và gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích các chủ thể tham gia thị trường. Chính vì vậy việc xây dựng và vận hành có hiệu quả hệ thống kiểm tra giám sát là điều kiện tiên quyết đảm bảo thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, ổn định và đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các chủ thể khác trên thị trường.
5.6. Hệ thống đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.
Chúng ta thường nghĩ rằng một khi các lệnh mua bán đã được hệ thống giao dịch so khớp và đưa ra kết quả thì mọi việc xem như đã hoàn tất. Tuy nhiên, trên thực tế thì mọi việc lại không đơn giản như vậy, vì so khớp lệch và đưa ra kết quả giao dịch chỉ là bước đầu trong toàn bộ quá trình thực hiện giao dịch. Công việc tiếp theo sau khi các lệnh giao dịch đã được so khớp là tiến hành thanh toán sao cho người bán nhận được đúng số tiền và người mua nhận đủ số chứng khoán như đã thỏa thuận. Toàn bộ quá trình thanh toán sau giao dịch sẽ do hệ thống đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán đảm nhận.
5.6. Hệ thống pháp lý .
Phải có hệ thống pháp lý rõ ràng, minh bạch, tạo môi trường đầu tư lành mạnh thúc đẩy chứng khoán và thị trường chứng khoán ngày càng phát triển.
CHƯƠNG II
Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam.
1. Thực trạng hoạt động kinh tế ở việt nam
1.1 Sự cần thiết của việc phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam
Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD.
Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau:
- Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia.
- Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn.
- Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp.
- Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng.
1.2 Những thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
1.2.1 Những thuận lợi
Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543,5 tỷ USD.
Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư trực tiếp (FDI) mà chưa chú trọng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán.
1.2.2 Những khó khăn
Những thuận lợi đã có,nhưng những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành TTCK ở Việt Nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về TTCK cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các “hàng hoá” cần thiết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức, các công ty chứng khoán và chưa có uy tín hàng đầu thế giới. Lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có TTCK nên chất lượng chưa được kiểm chứng.
Từ thực trạng và những thuận lợi trên đòi hỏi chúng ta cần phải chuẩn bị mọi mặt chu đáo hơn nữa, tạo ra những điều kiện tiền đề thật hoàn chỉnh để hoạt động của TTCK Việt Nam phát triển một cách bền vững.
2. Điều kiện tất yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
2.1. Chuẩn bị điều kiện vật chất tiền đề.
Trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động như một sở giao dịch chứng khoán thu nhỏ, có quy mô và hình thức thích hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của thị trường chứng khoán ở nước ta. Hệ thống giao dịch chứng khoán sẽ được tự động hoá với các trạm làm việc được kết nối bởi các máy tính cá nhân với một số máy chủ thông qua mạng giao diện cục bộ liên kết với các máy tính của các thành viên trung tâm.
2.2. Khuôn khổ pháp lý ban đầu cho thị trường chứng khoán.
Bước đầu việc ra đời một tổ chức Nhà nước - Uỷ ban chứng khoán quốc gia là một việc làm cần thiết. Tổ chức này trực thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý các mặt hoạt động liên quan đến phát hành chứng khoán và kinh doanh chứng khoán trong giai đoạn đầu của tiến trình hình thành thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán quốc gia sẽ là tổ chức Nhà nước chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản pháp quy liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh yếu tố quản lý Nhà nước, vấn đề môi trường pháp lý cho sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cần được xác lập dựa trên cơ sở nền tảng pháp lý sẵn có của các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ trên thị trường chứng khoán, biểu hiện bằng những văn bản luật pháp cụ thể về phát hành chứng khoán, giao dịch chứng khoán, tác nhân tham gia và vận hành từng cơ sở giao dịch. Hệ thống các văn bản pháp quy này được hoàn thiện trên cơ sở sự đồng bộ của các bộ luật liên quan hiện có và những bộ luật cần phải có trong quá trình phát triển như luật thương mại, luật kinh doanh...
2.3. Chuẩn bị về con người:
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh doanh cho các nhà điều hành thị trường, các nhà môi giới chứng khoán và thương gia chứng khoán là việc làm hết sức cần kíp trong giai đoạn đầu. Tạo điều kiện để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong công tác điều hành thị trường cũng như việc nâng cao năng lực pháp lý và năng lực hành vi cho các chủ thể tham gia. Bảo đảm sự thành công và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong quá trình vận hành và phát triển thị trường chứng khoán.
3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán
3.1. Thực trạng về quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam.
Đổi mới, sắp xếp và phát triển doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của đảng và nhà nước ta. Một trong những giải pháp hữu hiệu để đổi mới là tiến hành cổ phần hóa.
Qua 15 năm thực hiện đến cuối năm 2005, chúng ta đã thành lập được 2897 công ty cổ phần trên cơ sở cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Năm 1993 mới có 2 đơn vị
Năm 1994 có thêm 1 đơn vị
Năm 1995 có thêm 3 đơn vị
Năm 1996 có thêm 5 đơn vị
Năm 1997 có thêm 7 đơn vị
Năm 1998 có thêm 100 đơn vị
Năm 1999 có thêm 250 đơn vị
Năm 2000 có thêm 212 đơn vị
Năm 2001 có thêm 204 đơn vị
Năm 2002 có thêm 164 đơn vị
Năm 2003 có thêm 532 đơn vị
Năm 2004 có thêm 756 đơn vị
Năm 2005 có thêm 754 đơn vị
Qua những con số trên đây thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những bước thăng trầm nhưng nói chung là theo hướng ngày càng được đẩy mạnh .
Theo báo cáo của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%), tiếp đó là bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn nhà nước tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn nhà nườc và phát hành thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá ngành công nghiệp – giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thương mại – dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 5,8%. Nếu phân theo địa phương thì tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương 65,7%, bộ-ngành thương mại 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%.
Sau 15 năm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước(CPH DNNN) có thể thấy nhận thấy các chuyển biến rõ rệt :
Sự chuyển hướng từ CPH các doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực sang CPH DNNN ở hầu hết ngành, lĩnh vực trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại.
Chuyển biến từ việc chỉ CPH các DNNN qui mô nhỏ về vốn và lao động, làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doang nghiệp lớn làm ăn có lãi. Trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế ( như điện lực, xi măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau CPH ngày một tiến bộ.
Việc CPH không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu tư, của những người lao động trong doanh nghiệp, mà còn thu hút cả vốn của những người dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.
Chuyển từ CPH theo hướng cơ bản khép kín, nội bộ sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phiếu ra bên ngoài để thu hút vốn nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đây được coi là sự chuyển biến “có chất nhất thể hiện sự thay đổi căn bản quan điểm và chủ trương về CPH, góp phần tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trinh cải cách hệ thống DNNN một cách công khai minh bạch và tạo điều cho các thành phần kinh tế trong và ngoài nước cùng tham gia.
Những chuyển biến nói trên đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp CPH trên cả các chỉ tiêu chủ yếu: Về vốn, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lượng lao động. Kết quả các cuộc điều tra cho thấy: Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ(năm 2001) lên tới 63,6 tỷ (năm 2004) có tới 92,5% số doanh nghiệp được điều tra cho rằng có lãi, lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 149,8%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%, mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%, thu nhập bình quân tháng của lao động tăng 34,5% so với trước khi CPH, lao động tăng do mở rộng sản xuất, cổ tức cao hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng.
Trong những năm qua với những biện pháp và chính sách phù hợp của nhà nước quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã diễn ra một cách mạnh mẽ và trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế xã hội. Việc đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã góp phần tạo động lực rất lớn thúc đẩy chứng khoán và thị trường chứng khoán phát triển, việc cổ phần hoá sẽ tạo ra nhiều chứng khoán cho thị trường chứng khoán. Tuy vậy, các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp của nhà nước hiện nay vẫn con bộc lộ nhiều yếu kém, chưa khuyến khích được sự tự giác của mọi người, chưa cho mọi người thấy rõ được cái lợi thực sự của quá trình cổ phần hoá đem lại và đặc biệt là chưa tạo ra sự giao thoa giữa cổ phần hoá và thị trường chứng khoán. Cổ phần hoá chưa thực sự là nhân tố, là động lực thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
3.2 Thực trạng quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán.
Trong những gần đây, được sự quan tâm của đảng và nhà nước với những chính sách hợp lý, thị trường chứng khoán phát triển rất mạnh. Năm 2006 được coi là năm sôi động nhất và có những bước phát triển thần kỳ của thị trường chứng khoán Việt Nam, số lượng các công ty niêm yết trên thị trường đã tăng vọt so với những năm trước, các nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán ngày càng nhiều và việc Việt Nam phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế được coi là một động thái tích cựu thúc đấy sự phát triển của thị trường chứng khoán. Đặc biệt năm 2006 là căn bản xây dựng xong luật chứng khoán và đầu tư chứng khoán, tạo hành lang pháp lý nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán ngày càng phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và thực sự trở thành nhân tố tạo lên sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, việc quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán còn bộc lộ rất nhiều hạn chế. Nhà nước chưa thực sự kiểm soát được giá của các cổ phiếu giao dịch trên thị trường, nên việc càc nhà đầu tư bất chính dùng các thủ đoạn để truộc lợi vẫn thường xuyên diễn ra, hơn nữa nhà nước chưa có chế tài xử phạt nghiêm khắc những cá nhân, tổ chức có hành vi sai phạm. Việc xây dựng luật chứng khoán vẫn còn nhiều bất cập, hiện nay việc xác định cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán còn nhiều tranh cãi:
Ngày 28/11/1999 chính phủ đã ban hành nghị định số 75/CP về việc thành lập ủy ban chứng khoán nhà nước- cơ quan trực thuộc chính phủ, thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán.
Sau đó “để cải cách thủ tục hành chính”, ngày 19/2/2006 chính phủ đã ban hành nghị định 66 chuyển ủy ban chứng khoán nhà nước(UBCKNN) về bộ tài chính. Theo đó UBCKNN là tổ chức trực thuộc bộ tài chính, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoản trên toàn bộ lãnh thổ nước CHXHCNVN.
Việc quản lý thị trường chứng khoán ngoài chính phủ và UBCKNN còn có thêm bộ tài chính đứng giữa với vai trò trung gian. Việc quản lý chồng chéo, nhiều cấp bậc này sẽ gây lên sự không thống nhất về mặt quan điểm và tạo lên nhân tố cản trở sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Vậy để việc quản lý thị trường chứng khoán ngày càng đạt hiệu quả cao, nhà nước cần xây dựng một bộ luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán hoàn chỉnh, và cần xây dựng một cơ quan quản lý độc lập trong lĩnh vực này, đó chính là ủy ban chứng khoán nhà nước.
CHƯƠNG III
GiảI pháp quản lý nhà nước nhằm mở rộng và phát triển thị trường chứng khoán ở việt nam
I .Vai trò quản lý nhà nước đồi vời sụ phát triển thị trường chứngkhoán ở Việt Nam
Từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, các quốc gia trên thế giới đã dần tự do hoá trong thương mại, dỡ bỏ dần hạn chế với doanh nghiệp , nới lỏng kiểm soạt tín dụng, lãi suất và phân bổ các nguồn lực tài chính thông qua thị trường. Nhưng quá trình thự do hoá này cũng làm xuất hiện mối lo ngại ngày càng tăng về sự an toàn và hiệu quả của hệ thống tài chính.Thị trường chứng khoán là một thị trường bậc cao, một thị trường mang tính tự do cao nhất trong các loại thị trường. Vì vậy, quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán là một thành tố rất quan trọng nhằm đảm bảo tính hiệu quả của thị trường .
Thị trường chứng khoán cần phải được quản lý, điều hành giám sát chặt chẽ của noà nước. Điều đó suất phát từ những ý do cơ bản sau :
- Thị trường chứng khoán là nơi tập trung của nhiều đối tượng với nhiều mục đích khác nhau. Cần phải có những quy định mang tính bắt buộc chung để có thể dung hoà lợi ích của tất cả những đối tượng tham gia thị trường, đảm bảo cho thị trường không hoạt động hỗn loạn .
- Thị trường chứng khoán là thị trường tập chung các nguồn vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Do đó, nó tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung. Quản lý chặt chẽ thì mới đảm bảo tính hiệu quả, công bằng, lành mạnh trong hoạt động của thị trường chứng khoán, tận dụng triệt để các nguồn vốn cho phát triển kinh tế.
- Thị trường chứng khoán là một thị trường bậc cao. Đây là nơi thực hiện giao dịch các sản phẩm tài chính có giá trị rất lớn ,hoạt động trừu tượng nên khả năng sử dụng các kỹ thuật tiên tiến để gian lận trên thị trường là rất lớn. Vì vậy, cần phải có những cơ chế quản lý thích hợp để hạn chế và loại bỏ các hành vi gian lận, gây tác hại xấu đến thị trường.
- Thị trường khoán là nơi thu hút một bộ phận rất lớn các nhà đầu tư. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà dầu tư, thị trường chứng khoán phải có sự quản lý, giám sát của nhà nước một cách chặt chẽ, đảm bảo các giao dịch diễn ra một cách công bằng, chống lại các trường hợp gian lận, gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
- Thị trường chứng khoán có tính quốc tế cao. Trong nền kinh tế mở, các hoạt động đầu tư không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà nó đã và đang mang tính chất quốc tế hoá một cách sâu rộng. Nhà nước quản lý nhằm gián tiếp điều tiết đầu tư trong và ngoài nước một cách có hiệu quả.
Quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán , đặc biệt là đối với thị trường mới hình thành , vừa có chức năng “ giữ kỷ luật’’ , vừa có chức năng “thúc đẩy thị trường phát triển’’ .
II . Giải pháp quản lý nhằm mở rộng và phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thị trường chứng khoán là một thị trường hoạt động mang tính tự do cao và khá phức tạp. Để thị trường hoạt động đều đặn lành mạnh, có hiệu quả và phát triển cần phải có những giải pháp hữu hiệu của nhà nước . Các giải pháp
1. Cổ phần hoá doanh nghiệp
1.1.Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành cổ phần hoá(CPH) ở bất cứ một doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nào. Do đó, giải đáp những thắc mắc cho cán bộ công nhân viên (CBCNV) trong doanh nghiệp cũng như những người có liên quan phải được coi là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên cần làm, và nên làm trước khi công việc CPH được tiến hành.
Bởi vì chủ trương CPH ở nước ta hiên nay là ưu tiên cho CBCNV trong doanh nghiệp (DN) cho nên đối tượng đầu tiên cần được phổ biến chính là họ. Việc phổ biến chủ trương cần phải đạt được những yêu cầu tối thiểu sau:
- CBCNV trong doanh nghiệp phải ý thức một rõ ràng CPH là một yêu cầu tất yếu khách quan, không sớm thì muộn cũng phải thực hiện. Trong giai đoạn này, tiến hành càng sớm thì DN càng được lợi do Nhà nước vẫn còn dành rất nhiều ưu đãi cho các DNNN tiến hành CPH. Hơn nữa CPH sớm sẽ giúp cho doanh nhgiệp có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức sản xuất kinh doanh, chuẩn bị tốt hơn cho việc cạnh tranh khốc liệt trong tương lai khi chúng ta là thành viên của WTO.
- Họ cũng cần hiểu rằng, CPH trước hết là vì lợi ích của các DN, của CBCNV của DN. Sau khi trở thành CTCP, họ sẽ được hoàn toàn độc lập tự chủ trong SXKD, song tất nhiên họ cũng phải biết tự mình chống đỡ với những cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều không thể tránh khỏi. Nhưng đây cũng là cơ hội để cho những người có thực lực, thực tài, những DN thực mạnh vươn lên tự khẳng định mình. Còn đối với những DN yếu, những người thiếu năng lực, trình độ thì cũng phải nhận ra một điều là đã đến lúc họ phải thay đổi, phải tự vươn lên hoàn thiện mình nếu không họ sẽ bị đào thải theo qui luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
- Phải làm rõ cho người lao động hiểu những lợi ích mà họ được hưởng khi DN của họ tiến hành CPH. Song cũng đồng thời phải làm cho họ hiểu rõ cả những trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vác, những rủi ro có thể xảy ra để họ có cái nhìn đầy đủ toàn diện, làm cơ sở cho nỗ lực quyết tâm của họ.
Để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên thì đài, báo, vô tuyến truyền hình là những phương tiện hết sức đắc lực. Tuy nhiên cần phải cung cấp thêm cho CBCNV trong doanh nghiệp những văn bản, có nội dung liên quan trực tiếp đến chủ trương CPH. Sau đó tổ chức các buổi nói chuyện có mời các chuyên gia giỏi về nhằm giải đáp những thắc mắc của họ đồng thời cũng tạo điều kiện cho họ được đóng góp ý kiến tham gia việc xây dựng đề án CPH...
1.2. Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý
Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân loại DNNN thành 4 nhóm.
- Nhóm doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
- Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính.
- Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
- Nhóm doanh nghiệp thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên).
Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoài DN, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
Đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau:
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của doanh nghiệp.
- Cho doanh nghiệp vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ CPH cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều DNNN hiện nay.
Việc hỗ trợ của quỹ CPH sẽ doanh nghiệp giải quyết những khó khăn, từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói “làm ăn có lãi” là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định cho sự thành công của việc CPH nhiều doanh nghiệp.
Chính phủ và Nhà nước phải sớm có chủ trương củng cố và phát triển công tác đào tạo trong ngành quản trị kinh doanh. Khi nền kinh tế phát triển, công tác quản lý được chuyên môn hoá thì nhu cầu đối với các Giám đốc giỏi sẽ không nhỏ. Trong khi đó công tác đào tạo ngành quản trị kinh doanh hiện nay vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu, nhất là yêu cầu về chất lượng, vì rằng nếu không có các nhà quản lý giỏi thì các động lực về kinh tế cho dù có mạnh đến đâu cũng khó có thể bù đắp được cho những thiếu hụt về trình độ.
1.3. Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành CPH
Sau khi CPH , thay đổi cơ cấu trong doanh nghiệp , để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh thì việc làm tất yếu của các doanh nghiệp là phải giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Con số này quả là không nhỏ trong nhiều DNNN hiện nay.
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính xã hội sâu sắc. Việc giải quyết vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là doanh nghiệp và Nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan. Trong sự hợp tác đó thì doanh nghiệp là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn Nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải các mâu thuẫn giữa doanh nghiệp với người lao động
- Đối với doanh nghiệp: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN với một số nội dung chính là.
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu có thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại có các chính sách đào tạo lại , tái sử dụng sau đào tạo hoặc hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại DN có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu có)
- Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động:Hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại doanh nghiệp để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc.
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế sản xuất kinh doanh.
Công tác đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược mà mang tính chiến lược
1.4. Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh nghiệp
Trong quá trình cổ phần hoá, việc xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn .
Thứ nhất: Việc xác định còn phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc chồng chéo, nhiều khi gây ra tình trạng phân công trách nhiệm không rõ ràng, đã làm chậm quá trình này.
Thứ hai: Trong thực tế, đối với tài sản cố định, đặc biệt là đối với máy móc thiết bị tại DN sản xuất thường xuất hiện sự mâu thuẫn giữa giá trị ghi trong số sách. Nguyên nhân là do nhiều trường hợp DN trước đây đã mua về các thiết bị đã lỗi thời, hỏng hóc nhưng được tân trang, làm mới với giá gốc khi mua cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế.
Thứ ba: Nhiều DN chuẩn bị không đầy đủ tài liệu, nhất là cơ sở pháp lý về nhà cửa, đất đai, các biên bản kiểm tra quyết toán, quyết toán thuế do đó đã làm chậm lại hoạt động của ban thẩm định
Do đó, nên chăng để tạo điều kiện tốt hơn cho doanh nghiệp, ban thẩm định nên đánh giá dựa trên giá trị sử dụng thực tế còn lại theo giá thị trường hiện tại. Như thế, sẽ phản ánh đúng hơn giá trị của tài sản. Nhà nước nên xây dựng các khung pháp lý, điều khoản rõ ràng trong việc đánh giá trị của doanh nghiệp khi cổ phần hoá.
1.5. Thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Thị trường chứng khoán sẽ thực sự tạo ra một lực đẩy mới đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá trong doanh nghiệp. Một số tác dụng của thị trường chưng khoán:
Thứ nhất: TTCK góp phần làm tăng khả năng chuyển nhượng của các TTCK, trong đó có cổ phiếu do đó sẽ làm tăng sức hấp dẫn của hình thức đầu tư dưới dạng cổ phiếu.
Thứ hai: TTCK cho phép các nhà đầu tư có nhiều thông tin hơn về các DN thông qua sự biến động của các chỉ số trên thị trường này. Nó tạo ra sự giám sát công khai, khách quan đối với DN do đó làm tăng niềm tin của các nhà đâù tư, nhất là những người ở ngoài DN.
Thứ ba: Nó làm tăng khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài của các DN CPH, do đó sẽ đem lại nhiều động lực thúc đẩy DN tiến hành CPH.
Với những ưu điểm cơ bản nêu trên có thể thấy sự ra đời của TTCK ở nước ta sẽ là một sự hỗ trợ đắc lực cho việc đẩy mạnh CPH trong thời gian tới
Vấn đề trước mắt cần làm là Nhà nước nên sớm xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động giao dịch cổ phiêú của các CTCP qua TTCK, hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, thúc đẩy các DN làm quen với chế độ công khai tài chính trên TTCK qua đó làm cho hoạt động của TTCK được diễn ra một cách suôn sẻ, thực sự phát huy được những tác dụng tích cực của mình.
Những giải pháp nêu trên đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp ở nước ta trong thời gian tới.
2. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Chính phủ.
Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích các tổ chức kinh tế nhà nước phát hành cổ phiếu rộng rãi ra công chúng để mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và để trở thành những công ty cổ phần công cộng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại và các công ty tài chính cổ phần.
3. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Doanh nghiệp.
Giải pháp để đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu của Doanh nghiệp là Nhà nước phải có văn bản luật cụ thể về vấn đề phát hành trái phiếu Doanh nghiệp. Các DN có đủ điều kiện phát hành trái phiếu đều được phát hành thông qua một cơ quan phát hành trái phiếu như các công ty chứng khoán. Hiện nay mới có hai công ty chứng khoán, và 6 công ty chứng khoán khác đang được xem xét cho phép hoạt động. Vấn đề phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ trở nên vô cùng đơn giản khi phát hành thông qua các công ty chứng khoán, mà hiện nay và sắp tới, số lượng các công ty chứng khoán sẽ tăng lên đáng kể.
4. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
Qua thực tiễn các nước cho thấy cơ quan quản lý độc lập. Đối với Việt Nam về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước độc lập là một bước đi đúng đắn và để hỗ trợ cho sự hoạt động của Uỷ ban chứng khoán, nhà nước cần có sự tài trợ về ngân sách, đồng thời giải quyết thoả đáng chế độ lương bổng cho cán bộ uỷ ban trong thời gian đầu.
5. Hệ thống pháp lý
Muốn có một thị trường chứng khoán ổn định phải có một hệ thống luật pháp hoàn chỉnh. Tính ổn định của thị trường chứng khoán nói lên sự thành công của thị trường. Do đó ngay từ đầu Việt nam cần phải có một hệ thống luật pháp đầu đủ và có hiệu lực để quản lý, bao gồm các nội dung phát hành và kinh doanh chứng khoán, yết giá và giao dịch, lưu giữ chứng khoán và thanh toán vốn và cổ tức.
Để thị trường chứng khoán Việt Nam đạt tiêu chuẩn của thị trường chứng khoán quốc tế, có khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, yêu cầu hệ thống luật pháp của thị trường chứng khoán phải được ban hành bởi các đạo luật của Quốc Hội. Đây là một vấn đề mà Việt Nam chưa thể làm được. Vì Việt Nam chưa có thực tế về hoạt động của thị trường chứng khoán, Việt Nam chưa được phổ cập kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Quốc hội chưa có cơ sở để thông qua các đạo luật này. Do vậy, văn bản luật pháp có giá trị pháp lý cao nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam trước mắt nên ban hành với hình thức pháp lệnh và chỉ nên quy định những nét tổng quát. Vì thủ tục ban hành pháp lệnh đơn giản hơn luật, việc bổ sung và sửa đổi pháp lệnh cũng dễ dàng hơn và có hiệu lực cho cả người đầu tư trong nước và nước ngoài.
6. Về sự tham gia của nước ngoài
Chúng ta cần có sự mở cửa thị trường một cách thích hợp nhằm thu hút vốn và công nghệ nước ngoài, cho phép nước ngoài được phép sở hữu một tỷ lệ phần trăm nhất định và các công ty chứng khoán nước ngoài được liên doanh với các công ty chứng khoán Việt Nam.
7. Các tổ chức trung gian
Việt Nam nên cho phép các công ty chứng khoán Việt Nam phát triển các hình thức hoạt động kinh doanh: bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Riêng hình thức quản lý danh mục đầu tư phải hoạt động tách rời dưới hình thức công ty con nhằm bảo vệ lợi ích của quỹ.
KếT LUậN
Trên đây là những kiến thức sơ lược về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết sức cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở Việt Nam, nhất là mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong điều kiện hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, việc tiến hành vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Đảng và nhà nước cần có những giải pháp hỗ trợ cũng như sự góp sức của tất cả các ngành, các cấp cũng như sự ủng hộ của nhân dân.
Các chính sách, giải pháp cần phải được thực hiện một cách đồng bộ và linh hoạt. song điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải lựa chọn được một mô hình thị trường chứng khoán thích hợp với Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.
Tài liệu tham khảo.
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam
NXB – thống kê 11/1995
PTS.nguyễn văn luân- trần quốc tuấn- ngô minh châu
2.Thị trường chứng khoán vận hành như thế nào?
NXB TPHCM 3/1998
3.Thị trường chứng khoán Việt Nam mô hình và bước đi.
NXB-Chính trị quốc gia 5/2000
TS. Nguyễn Quốc Việt – Nguyễn Sơn.
4.Hướng tớ một thị trường chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam-1993
trung tâm phát triển ngoại thương và đầu tư
Trần Du Lịch – Lương Hữu Định
Trần Bá Tước – Huyền Bửu Sơn
5.Tạp chí khoa học và thương mại số 6 – tháng 6/2004.
Tác giả: Đinh Vân Sơn
6. Những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - Uỷ ban chứng khoán nhà nước
7. Tạp chí tài chính 4/1996
8. Nghiên cứu kinh tế số 333-tháng 2/ 2006
Tác giả: Phạm Quang Huấn
9.Thị trường chứng khoán những bước tiếp cận cần thiết để tham gia – Nhà xuất bản trẻ(5/1999).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0638.doc