Đề tài Thực trạng và những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh

Xoá đói giảm nghèo hiện nay đang là vấn đề trọng tâm của mỗi địa phương và của cả nước trong quá trình phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xoá đói giảm nghèo huyện Thuận Thành đã có những dấu hiệu khả quan nhờ có sự nỗ lực cố gắng của chính quyền của nhân dân nhưng vẫn còn là khó khăn lớn trên con đường phát triển kinh tế xã hội , phấn đấu trở thành một trọng điểm phát triển Qua quá trình tìm hiểu thực trạng đói nghèo và các mặt phân tích trong bài viết có thể nhận thấy giữa nghiên cứu về lý thuyết đói nghèo và việc áp dụng lý thuyết vào thực tế còn có khoảng cách nhất định. Điều này là tất yếu bởi vì thực tế luôn biến động đòi hỏi việc nghiên cứu lý thuyết phải thay đôỉ theo cho phù hợp. Nghiên cứu thực trạng của một vấn đề để có thể đưa ra những giải pháp giải quyết thực trạng đó cũng chính là quá trình hoàn thiện cơ sở lý luận về vấn đề đó. Các giải pháp nêu trong đề tài này mặc dù không thể đáp ứng được toàn bộ yêu cầu của công tác xoá đói giảm nghèo nhưng cũng đã góp một phần vào nền tảng lý luận chung và công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Thuận Thành.

doc73 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 749 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh sách trợ giúp với những gia đình thuộc diện chính sách xã hội còn thiếu. Hệ thống tín dụng cho người nghèo tuy có phát triển nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của người nghèo. Hiện nay có khoảng 75% hộ đói nghèo do thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Tỷ lệ hộ đói nghèo vay được rất là ít, mức vay cũng ít. Các thủ tục, lãi suất vốn là những trở ngại đối với người nghèo. Nguồn vốn tín dụng này còn rất hạn hẹp, chưa huy động được nhiều nguồn vốn hỗ trợ quốc tế. 2.2- Những nguyên nhân trực tiếp. Nguyên nhân bắt nguồn từ bản thân người nghèo. Nhận thức của một bộ phận dân cư đói nghèo về vấn đề xoá đói giảm nghèo còn hạn chế. Tỷ lệ đân cư đói nghèo này tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng gây ra không ít khó khăn cho việc thực hiện xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Những người này có thể là do nhiều lý do, có thể là do bất mãn, trình độ hạn chế, hay là do lười nhác mà nhận thức được vai trò của người nghèo trong vấn đề xoá đói không được đầy đủ. Dân số và nghèo đói thường có mối quan hệ ngược với nhau. Dân số đông sẽ dẫn đến đói nghèo và trong phạm vi gia đình thì nghèo đói lại dẫn đến đông con. Theo số liệu điều tra ở Thuận Thành thì đa số hộ nghèo là đông con, có những gia đình có tới 7 nhân khẩu ăn nhưng chỉ có 2 vợ chồng là lao động chính, dẫn đến tình trạng đói nghèo vẫn đeo đẳng gia đình họ. Kinh nghiệm sản xuất kinh doanh là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, kinh nghiệm làm ăn, kỹ thuật sản xuất của các hộ nghèo rất hạn chế. Các hộ đói nghèo không được tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới về chăn nuôi, trồng trọt và hoạt động tiểu thủ công nghiệp. Vì vậy các hộ nghèo không tự nghĩ ra được cách làm ăn hiệu quả, chưa biết cách bắt chước hộ giàu. Mặt khác, họ thiếu cả kiến thức sơ đẳng về phòng chống thiên tai, phòng trừ sâu bệnh, quản lý, sử dụng nguồn vốn. Thực tế có rất nhiều hộ nghèo do thiếu kinh nghiệm sản xuất nên mặc dù có vốn nhưng không biết cách quản lý, phát huy nguồn vốn khiến cho đồng vốn bị thất thoát và người không có khả năng trả nợ gốc vay, dẫn đến nghèo vẫn hoàn nghèo. Có rất nhiều những người nghèo mắc vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, rong chơi. Ngay cả dân đang đói nghèo nhưng vốn vay được lại không đầu tư cho sản xuất ném vào cờ bạc để trông chờ sự may rủi, không sao có khả năng thanh toán. Thuận Thành là huyện thuần nông, 87,4% dân số lao động bằng nghề nông mà sản xuất thuần nông kỹ thuật thấp thì tình trạng nghèo đói xảy ra là khó tránh khỏi. Một số làng nghề không rộng khắp mà tập trung trong một khu vực như : làng tranh Đông Hồ, làng hàng mã. Bên cạnh những nguyên nhân về đói nghèo nói trên , thì còn rất nhiều nguyên nhân khác dẫn đến đói nghèo như ốm đau, tai nạn, bị rủi ro, có người mắc vào tệ nạn xã hội. Các rủi ro thường gặp ở hộ nghèo là bất ngờ gặp thiên tai bất hạn do chủ hộ chết, người lao động chính bị bệnh nặng hoặc trong nhà có người mắc vào các tệ nạn xã hội. Đối với các gia đình nghèo, vốn dĩ đã rất rễ bị tổn thương nếu gặp thêm các tai hoạ này sẽ dễ dàng bị đẩy tới tình trạng bần cùng hoá. Từ đây cho thấy việc xoá đói giảm nghèo không thể chỉ tiến hành riêng rẽ một giải pháp nào đó mà phải đồng thời phải xử lý tất cả các giải pháp trọng tâm, trọng điểm, xử lý mối quan hệ giữa các giải pháp trước mắt và lâu dài thông qua sự phân tích mối quan hệ giữa các nguyên nhân gây lên tình trạng đói nghèo. IIi- Các chính sách, chương trình dự án đã và đang thực hiện trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của Thuận Thành. 1- Các chính sách, chương trình dự án đã và đang thực hiện ở Thuận Thành. 1.1- Các chính sách: - Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo: Cung cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo có nhu cầu vay vốn để XĐ - GN đưa mức vay tối đa cho hộ nghèo từ 3 – 5 triệu/ 1hộ, nâng mưc vay bình quân từ 2,1 triệu lên 3,5 triệu /1hộ - Chính sách hỗ trợ về kinh tế : thực hiện khám chữa bẹnh và điều trị miễn phí cho hộ nghèo khi đến cơ sở y tế cấp thẻ BHYT cho hộ nghèo theo quy định của chính phủ. Hình thức khám chữa bệnh nhân đạo – từ thiện thực hiẹn chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người nghèo. - Chính sách hỗ trợ trong giáo dục: thực hiện việc miễn gỉm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường lớp , hỗ trợ sách vở và đồ dùng học tập cho học sinh nghèo. - Chính sách trợ giúp pháp lý cho hộ nghèo - Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở 1.2- Các chương trình dự án: - Dự án hỗ trợ đầu tư hạ tầng cơ sở: quạn tâm tới các xã có tỷ lệ nghèo cao, cơ sở hạ tầng còn yếu hoặc thiếu trên cơ sở các hạng mục (điện đường – trường – trạm – nước sạch) để có kế hoạch đầu tư giúp đỡ. - Dự án hỗ trợ sản xuất phát triển ngành nghề: thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng nhất là cây có giá trị kinh tế cao, giúp cho hộ nghèo cách chế biến , bảo quản nông sản và phát triển các ngành nghề mới. Thông qua đào tạo bồi dưỡng và dạy nghề cho người lao động thuộc diện hộ nghèo để có nghề và tạo việc làm mới giúp cho hộ nghèo tự vươn lên hết nghèo. - Dự án hỗ trợ người nghèo cách làm ăn: Củng cố và phát huy hệ thống khuyến nông ở mỗi cơ sở để trợ giúp hộ nghèo ở từng cơ sở. - Dự án đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ làm công tác XĐ - GN. 2- Thành tựu đạt được của công tác xoá đói giảm nghèo. Trong những năm vừa qua Thuận Thành thực công tác XĐ - GN đã đạt được kết quả tương đối toàn diện từ nhận thức đến vai trò trách nhiệm ở mỗi cấp mỗi ngành, nhất là ở từng cơ sở đã coi chương trình XĐ - GN là nhiệm vụ chỉ đạo thường xuyên. Tổ chức thực hiện các giải pháp về XĐ - GN được coi trọng, dân chủ hơn và có chiều sâu. Như vậy, với Thuận Thành nói riêng để đạt được những thành tựu xoá đói, giảm nghèo như trên thì cũng cho ta thấy khả năng bứt phá vươn lên của chính nội huyện trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội cùng với chương trình xoá đói giảm nghèo của huyện đã tập trung vào các nội dung sau: - Đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng các xã nghèo: đây được đánh giá là giải pháp bền vững, giải quyết tận gốc vấn đề nghèo đói của huyện. Trong những năm qua, huyện đã tập trung xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng cho hầu hết các xã nghèo, bao gồm các công trình như đường xe cơ giới 4 bánh đến trung tâm xã, hệ thống đường điện, trạm biến áp cho các xã chưa có điện, xây dựng trường tiểu học, trạm y tế, chợ xã và liên xã, hệ thống nước sạch nông thôn. - Cho vay vốn phát triển sản xuất: đa số các hộ đói nghèo do thiếu vốn sản xuất, chính vì vậy huyện đã có chương trình huy động vốn và tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo tiếp cận với nguồn vốn có lãi xuất thấp. Để có vốn cho người nghèo vay, ngoài phần hỗ trợ từ trung ương, tỉnh đã huy động từ cộng đồng và thông qua hợp tác quốc tế. - Hướng dẫn cách làm ăn, phổ biến kiến thức công nghệ, kỹ thuật cho người nghèo. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo ở Thuận Thành là do các hộ đói nghèo không biết cách làm ăn. Để giúp cho nhóm hộ này có được kiến thức, biết cách làm ăn thì không chỉ hỗ trợ về vốn mà cần phải hớng dẫn cách làm ăn, giúp họ tiếp cận thị trường, khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. - Hỗ trợ người nghèo về giáo dục, y tế: huyện đã miễn giảm học phí và các khoản đóng góp xây dựng trường cho con em các hộ nghèo để tạo điều kiện cho họ được đến trường. Ngoài ra con em các hộ nghèo học ở bậc tiểu học còn được hỗ trợ sách giáo khoa và tiền mua vở viết. Người nghèo đi khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế của Nhà nước được miễn giảm viện phí, đây là giả pháp nhằm nâng cao dân trí và sức khoẻ cho người nghèo.Ta có thể thấy rõ hơn qua bảng sau: Bảng 3: Báo cáo kết quả thực hiện các giải pháp XĐ-GN năm 2002. Stt Chỉ tiêu Đơn vị Số liệu 1 Số người nghèo được khám chữa bệnh miễn phí người 11.783 2 Tổng số kinh phí khám chữa bệnh miẽn phí 1.000đ 63.303 3 Tổng số người nghèo được mu BHYT Người 8.676 4 Tổng số kinh phí mua BHYT 1.000đ 494.532.000 5 Số con em được miễn giảm học phí và các khoản đóng góp khác Người 1936 6 Tổng số kinh phí được miễn giảm 1.000đ 93.754.000 7 Số học sinh nghèo được hỗ trợ sách vở Người 502 8 Tổng số kinh phí hỗ trợ sách vở 1.000đ 15.326.000 9 Số trường có tủ sách hỗ trợ Trường 28 10 Số trường có quỹ khuyến học Trường 38 11 Tổng kinh phí của quỹ khuyến học Triệuđ 198.327,000 12 Số trường được xây dựng mới Trường 15 13 Tổng kinh phí xây dựng trường 1.000đ 18.181.320.000 14 Số Km đường giao thông nâng cấp Km 7.332 15 Tổng số kinh phí đầu tư 1.000đ 8.561.580.000 16 Tổng số lớp tập huấn Khoa học kỹ thuật Lớp 120 17 Tổng số người tham gia Người 9529 18 Tổng số kinh phí cho tập huấn 1.000đ 33.065.000 19 Hỗ trợ tài liệu Bộ 6.387 20 Tổng số vốn vay từ các kênh Triệuđ 42.460.000.000 21 Dự án giải quyết việc làm 120 của chính phủ Triệuđ 740.000.000 22 Tổng số hộ được vay vốn Trong đó hộ nghèo Hộ 12.587 11.264 (Nguồn: Phòng LĐTB-XH huyện Thuận Thành) Bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn một số tồn tại sau: + Nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo ở một số ngành và UBND xã có việc chưa sát. + Công tác tổ chức cán bộ nhất là cán bộ làm công tác XĐ - GN ở một số ít xã chưa được coi trọng, năng lực cán bộ còn hạn chế. + Một số chương trình thực hiện cho XĐ - GN hiệu quả chưa cao, tổ chức thực hiện các chương trình còn có biểu hiện trông chờ ỷ lại cấp trên. + Đầu tư cho xã nghèo tuy có nhiều cố gắng song còn chưa nhiều và chưa toàn diện. + Thực hiện việc tư vấn trợ giúp cho hộ nghèo về phương pháp cách làm ăn tuy đã được quan tâm song chưa nhiều, chưa thường xuyên nhất là viẹc dạy nghề và tạo việc làm cho hộ nghèo còn han chế. một số hộ nghèo còn thiếu quyết tâm vượt nghèo. + Thực hiện việc cho vay vốn ưu đãi cho hộ nghèo ở một số cơ sở cọn chưa đúng đối tượng việc quản lý và sử dụng vón còn có biểu hiện chưa chặt chẽ ở một số cơ sở để dư nợ quá hạn kéo dài ảnh hưởng đến việc chu chuyển vòng quay của vốn. Phần III Phương hướng và giải pháp chủ yếu xoá đói giảm nghèo ở thuận thành trong thời gian tới I- Quan điểm chung về xoá đói giảm nghèo. 1- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề xoá đói giảm nghèo đối với Việt Nam. 1.1- Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo đối với Việt Nam. Đói nghèo là một vấn đề mang tính chất toàn chứ không chỉ riêng đối với Việt Nam. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay không phát triển thì cũng luôn luôn tồn tại một bộ phận dân cư nghèo đói, do đó họ luôn cố gắng giải quyết vấn đề nghèo đói để phát triển. Đối với LHQ thì một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong lĩnh vực phát triển nhất trong lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội hiện nay là vấn đề xoá đói giảm nghèo và LHQ đã lấy năm 1996 là năm nghèo để làm mốc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn cầu. Đối với Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước (1945) chúng ta đã coi đói nghèo là một trong ba thứ giặc (giặc đói, giặc dốt, và giặc ngoại xâm) đòi hỏi phải tìm mọi cách để hạn chế và tiêu diệt chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “Thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó khăn hơn thắng giặc ngoại xâm”. Như trên đã đề cập, xoá đói giảm nghèo là một bộ phận trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nó có tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội xã hội như tăng trưởng kinh tế giải quyết các vấn đề xã hội, giữ vững an ninh trật tự, ổn định chính trị và có tác động tích cực tới một số chính sách xã hội khác. Mặt khác, xoá đói giảm nghèo còn là vấn đề thực hiện công bằng xã hội và mục tiêu lớn nhất của toàn Đảng và Nhà nước ta là : Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Vì vậy xoá đói giảm nghèo là cực kỳ cần thiết với nước ta, muốn đi lên chủ nghĩa xã hội thì bước đầu phải xoá đói giảm nghèo. Chính sách đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua, đã tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và phần nào nâng cao mức sống của người dân. Tuy nhiên cũng từ đó hố ngăn cách giàu nghèo càng ngày càng xa. Từ đó xuất hiện một bộ phận dân cư do thích ứng nhanh với cơ chế thị trường đã trở nên giàu có một cách nhanh chóng, trong khi đó một bộ phận dân cư đang phải sống trong tình trạng nghèo đói, không đủ điều kiện để đảm bảo cuộc sống tối thiểu. Đây là vấn đề xã hội nhức nhối nếu không được giải quyết sẽ gây ra sự mất ổn định về chính trị xã hội. Vì vậy xoá đói giảm nghèo là việc làm hết sức cần thiết. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra đề mục tiêu: “Giảm tỷ lệ đói nghèo trong tổng số hộ cả nước từ 20-25% năm 1996, xuống còn khoảng 10% vào năm 2000. Bình quân mỗi năm giảm 300.000 hộ. Trong 2,3 năm đầu của kế hoạch 5 năm (1996-2000) tập trung xoá bỏ hết nạn đói kinh niên. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, Bộ Chính trị yêu cầu các Tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban, ban cán sự Đảng, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương chỉ đạo hai tốt hai nội dung: - Chỉ đạo giải quyết một số vấn đề về Chính sách có liên quan đến chương trình xoá đói giảm nghèo. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và triển khai thực hiện của nhà nước. Thực hiện xoá đói giảm nghèo để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Từ những đặc điểm trên có thể cho ta kết luận rằng xoá đói giảm nghèo là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trước mắt và lau dài. 1.2- Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội. Xoá đói giảm nghèo là một chủ chương lớn của Đảng, Nhà nước, là yếu tố quan trọng bảo đảm sự ổn định phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề của toàn xã hội hiện nay. Xoá đói giảm nghèo là sự kết hợp thống nhất giữa các biện pháp về kinh tế với chính sách xã hội và giữ vững ổn định chính trị. Đói nghèo trước hết là vấn đề kinh tế, đồng thời cũng là một vấn đề xã hội nhức nhối. Nó làm tác động sâu sắc vào các quan hệ xã hội, làm phát sinh và lây lan các tệ nạn xã hội, làm mất ổn định xã hội và có thể làm mất ổn định về chính trị. Xoá đói giảm nghèo bằng phát huy tính tự lực, tự chủ, tự vươn lên của chính người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo. Mặc dù xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng để vượt qua được nghèo đói, rút cuộc lại phải bằng chính sự lỗ lực, sự vươn lên của chính người nghèo, hộ nghèo. Nếu mỗi người nghèo, hộ gia đình nghèo, vùng nghèo không tự vươn lên thì không thể xoá được đói giảm được nghèo. Huy động và khai thác hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội để xoá đói giảm nghèo. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ rất khó khăn và không thể thực hiện trong một vài ngày, vài tháng, nó là một quá trình lâu dài. Nó đòi hỏi các nguồn lực vật chất và tinh thần rất to lớn, trong đó trước hết là các nguồn lực vật chất như: tài nguyên đất đai, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, trình độ tay nghề của người lao động và các môi trường chính trị, xã hội, kết cấu hạ tầng khác. Cần khuyến khích mọi người làm giàu, đồng thời ưu tiên xoá đói giảm nghèo ở các đối tượng chính sách và vùng đặc biệt khó khăn. Xoá đói giảm nghèo không phải là chủ trương riêng, tách biệt khỏi các giải pháp phát triển kinh tế, xã hội mà luôn nằm trong tổng thể của quá trình phát triển. Phải khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho một số bộ phận dân cư có điều kiện giàu lên, một mặt có tác dụng như hạt nhân, động lực thúc đẩy kinh tế trong vùng phát triển, mặt khác có tác dụng lan toả, tác động đến sự phát triển của các hộ nghèo. Sáu quan điểm trên đây có mối quan hệ biện chứng, tác động và chi phối lẫn nhau, hợp thành một hệ thống quan điểm chỉ đạo cấp vĩ mô và tăng hoạt động cụ thể ở từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa phương, và cơ sở. 2- Quan điểm của Thuận Thành về xoá đói giảm nghèo. 2.1- Sự cần thiết phải xoá đói giảm nghèo đối với Thuận Thành. Thuận Thành là một huyện thuần nông, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu GDP chiếm tới hơn 60%, kinh tế phát triển không đều, GDP bình quân đầu người đạt thấp khoảng 200USD/người/năm, lương thực bình quân xấp xỉ 370 kg/người/năm. Đời sống nhân dân còn khó khăn nhất là các xã có tỷ lệ đói nghèo trên 20% tổng số hộ. Mặc dù mấy năm qua Đảng bộ và chính quyền các cấp đã cố gắng chỉ đạo tập trung nguồn lực cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo nhưng mức độ chuyển biến còn chậm. Hiện nay tỷ lệ nghèo đói của tỉnh vẫn còn 12,8%, 100% số xã có hộ nghèo đói. Trước thực trạng đói nghèo của huyện như hiện nay có thể nói đó là một thách thức lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Để đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, rút ngắn dần khoảng cách giàu nghèo trước hết phải quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo. Như vậy xoá đói giảm nghèo là mục tiêu quan trọng trong chiến lựơc phát triển kinh tế xã hội huyện Thuận Thành nhằm tạo đà cho nền kinh tế của huyện phát triển 2.2- Quan điểm của Thuận Thành về xoá đói giảm nghèo. HĐND, UBND cũng đã xác định cụ thể quan điểm của huyện về xoá đói giảm nghèo đó là: “Các cấp, các ngành, các đoàn thể cần có biện pháp cụ thể, sáng tạo giúp đỡ hộ nghèo phát triển sản xuất. Xây dựng quỹ hộ trợ xoá đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn. Đồng thời khuyến khích các tập thể hộ gia đình có điều kiện vưon lên làm giàu chính đáng.”. Đã đề ra mục tiêu: “phấn đấu đến năm 2005 giảm hộ nghèo xuống còn 5%. Bình quân giảm 1 năm từ 1,5% - 2% hộ đói nghèo/năm”. Quan điểm của huyện về xoá đói giảm nghèo được thể hiện cụ thể ở các nội dung sau: - Xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của cấp uỷ Đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể các cấp và của cộng đồng xã hội. Đây là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách vừa có tính thường xuyên liên tục của các cấp, các ngành, và các tổ chức đoàn thể, đặc biệt là trách nhiệm của chính bản thân người đói nghèo. Phải gắn xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế, phải vì người nghèo để hạn chế khoảng cách giàu nghèo. - Xoá đói giảm nghèo để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ vững ổn định chính trị. - Xoá đói giảm nghèo được thực hiện theo phương châm xã hội hoá cao, phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo, vươn lên của địa phương và người nghèo. Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo có nghĩa là Nhà nước, nhân dân, và cộng đồng cùng hỗ trợ người nghèo vươn lên theo hướng tự cứu mình là chính. - Xoá đói giảm nghèo cần được tiến hành đồng bộ các giải pháp và phương pháp, chính sách theo phương châm cuốn chiếu, trước hết cần đầu tư vào những nơi có tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao. II- Phương hướng mục tiêu giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo của Chính phủ cũng như của Đảng bộ, cấp chính quyền huyện thuận thành. 1- Phương hướng mục tiêu giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. Từ những năm đầu thập kỷ 90, Đảng và Nhà nước đã đặt ra vấn đề xoá đói giảm nghèo, coi đó là công tác lớn, vừa bức xúc, gay gắt, vừa có ý nghĩa cơ bản, lâu dài nhất là đối với nông dân ở nông thôn. ở hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VII) Đảng ta đã đề ra chủ trương xoá đói giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như trong chiến lược phát triển chung của toàn xã hội. Như vậy, xoá đói giảm nghèo đã đang là vấn đề bức xúc, là yêu cầu khách quan đặt ra đối với nước ta trên con đường phát triển, đặc biệt là phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh hiện nay của khu vực, của thế giới ngày nay với rất nhiều thách thức và nguy cơ đang đặt ra trực tiếp với nước ta. Mặt khác, việc đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta và thực hiện chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo (1996-2000) và những năm tiếp theo ở đầu thế kỷ XXI còn xuất phát từ yêu cầu cơ bản và toàn diện của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chủ nghĩa xã hội là làm cho đời sống vật chất ngày càng cao, đời sống tinh thần ngày càng tiến tới. Chủ nghĩa xã hội là mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chăm sóc sức khoẻ, là đời sống của mọi người dân ngày càng ấm no, tươi vui, sống tự do và hạnh phúc...” Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Chính phủ đã tạo ra một môi trường vĩ mô thuận lợi cho cả người nghèo cũng như người không nghèo. Chiến lựơc này của Chính phủ có thể coi là “kiềng ba chân” gồm sự tăng trưởng kinh tế cao, lâu dài ổn định và công bằng như bảng sau: Sơ đồ 3: Tổng quát chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ. Tăng trưởng kinh tế ổn định lâu dài Cải cách vĩ mô sâu rộng. Tăng trưởng nhanh (10%/năm). CNH, HĐH, ổn định về môi trường xã hội ổn định Quản lý tốt ổn định kinh tế vĩ mô Chế độ pháp trị. Công bằng Các tiêu chuẩn tối thiểu hợp lý, tạo cơ hội thành công bình đẳng cho mọi người.Công khai và không có tham nhũng. Con người. Nhân tố trung tâm (Nguồn: Liên Hợp quốc "Tiến kịp" Hà Nội năm 1995. Tr 135) Phương án thứ nhất, phát triển hơn nữa môi trường thuận lợi và mở rộng đến những vùng hẻo lánh và chậm phát triển hơn bao gồm những biện pháp nhiều mặt. Phương án thứ hai, cho phép một số những người nghèo di chuyển đến những môi trường thuận lợi và có nhiều cơ hội làm việc hơn ở các trung tâm thành phố cũng rất có ý nghĩa và là kết quả tự nhiên của một quá trình phát triển bình thường. Ngoài ra có một số cách kết hợp cân bằng cả hai phương án này. 2- Phương hướng mục tiêu giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo của Đảng bộ cấp chính quyền huyện Thuận Thành. Tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng như giao thông, các công thuỷ lợi, bưu điện xã và một số công trình phúc lợi khác ... phục vụ cho phát triển kinh tế góp phần nâng cao hiệu qủa kinh tế, đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo. Ngoài ra còn tập trung phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trường học, đào tạo thêm đội ngũ giáo viên để tập trung cho phát triển giáo dục, miễn, giảm học phí cho các đối tượng chính sách giúp cho con em các hộ nghèo có điều kiện tới trường. Mở các lớp tập huấn miễn phí phổ biến kiến thức làm ăn, kiến thức pháp luật ... giúp cho người nghèo có thêm kiến thức kinh nghiệm làm ăn để tự vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vấn đề y tế sức khoẻ cộng đồng cũng phải được quan tâm như khám, chữa bệnh miễn phí, cấp thẻ y tế miễn phí cho người nghèo góp phần nâng cao sức khoẻ cho người nghèo... và tất cả các vấn đề trên phải dựa vào tình hình phát triển kinh tế xã hội của huyện cũng như các chính sách khuyến khích giảm nghèo và tạo điều kiện giúp người nghèo tự vươn lên của Chính phủ. III- Các giải pháp chủ yếu xoá đói giảm nghèo của huyện thuận thành hiện nay và trong thời gian tới. 1- Phát triển kinh tế nông nghiệp - nông thôn. Phát triển nông nghiệp và nông thôn là một giải pháp quan trọng trong công tác xoá đói giảm nghèo hiện nay củaThuận Thành. Điều đó xuất phát từ 2 lý do sau: Thứ nhất, Thuận là một huyện có nền kinh tế kém phát triển dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao động ở nông thôn sẽ là một trọng tâm quan trọng của chiến lựơc tăng trưởng. Đây là một quyết sách nhất thiết phải có để vừa mang lại lợi cho quá trình tăng trưởng, vừa là điều kiện cho phát triển công bằng. Thứ hai, đại đa số dân Thuận Thành, lực lượng lao động và người nghèo là vùng nông thôn, 99% người nghèo sống ở nông thôn, ở đó tình trạng nghèo là phổ biến và cao hơn nhiều lần ở thành thị. Chiến lược xoá đói giảm nghèo của Trung ương của tỉnh cần tập trung chủ yếu vào khu vực nông thôn. Để phát triển nông nghiệp và nông thôn có rất nhiều vấn đề liên quan, riêng công tác xoá đói giảm nghèo cần quan tâm tới hai mục tiêu chính là: - Tăng năng suất sản xuất nông nghiệp. - Đa dạng hoá các nguồn thu nhập từ nông nghiệp và phi nông nghiệp. Để thực hiện được 2 mục tiêu trên thì phải có các chính sách phát triển nông nghiệp như sau: * Chính sách đất đai và khuyến nông. Đất đai là một yếu tố quan trọng hàng đầu đối voí sản xuất nông nghiệp, nó quyết định năng suất, sản lượng sản xuất nông nghiệp. Những vấn đề về đất đai cần giải quyết của huyện hiện nay là: Bình quân đất nông nghiệp trên đầu người ở huyện còn thấp chỉ khoảng 500m2/đầu người. Với tỷ lệ đất nông nghiệp thấp như vậy và với tốc độ tăng dân số trong nông nghiệp khoảng 1,4% năm và việc đô thị hóa như hiện nay thì yêu cầu mở rộng đất đai đang đặt ra cấp bách. Ngoài ra do quỹ đất nông nghiệp hạn hẹp như vậy nên đất sử dụng rất manh mún, phân tán khó có thể tiến hành hiện đại hoá trong tương lai được. Do đó về lâu dài chính quyền các cấp cần có cơ chế để cho các hộ nông dân có thể chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đưa đến quá trình tích tụ đất cho sản xuất nông nghiệp, hộ nào có khả năng sản xuất nông nghiệp Nhà nước có thể tạo điều kiện cho hộ nhận thầu diện tích đất hoang hoặc đất chưa sử dụng, có thể cho họ tích tụ đất với diện tích cho phép để tiến tới sản xuất hàng hoá, có như vậy thì mới vực dậy được nền kinh tế nông nghiệp và tạo điều kiện thu hút người nghèo vào làm việc, giải quyết vấn đề thất nghịêp ở nông thôn. Để làm được điều này, Nhà nước cần nới lỏng những quy định khắt khe về mức hạn tiền, thời gian sử dụng đất nông nghiệp, chuyển nhượng và trao đổi đất đã được Luật đất đai năm 1993 thông qua, bởi vì chính những quy định khắt khe về đất này đã là một cản trở rất lớn đối với việc phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn ở nông thôn, làm chậm lại quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. à Những giải pháp cho tình hình đất hiện nay: + Thay đổi các quy định khắt khe về chuyển nhượng và sử dụng đất để đảm bảo cho ngưòi dân có quyền tự do từ bỏ đất nếu hộ cảm thấy cần thiết. Nhà nước đang đặc biệt hạn chế việc chuyển đổi đất nông nghiệp trồng lúa sang sử dụng mục đích khác, đây là một điều không hợp lý vì trồng lúa chưa chắc là cách sử dụng hiệu qủa nhất, bởi vì thực tế cho thấy có nhiều người chuyển đổi đất từ trồng lúa sang làm ao thả cá, trồng rau, hoa đem lại giá trị kinh tế rất cao, cho nông dân đó là: quyền chuyển nhượng, trao đổi, cho thuê, thừa kế và thế chấp, để họ hiểu đầy đủ quyền hạn của mình, qua đó sẽ thúc đẩy thị trường đất đai, tín dụng ở nông thôn và sự kết hợp đất canh tác giải quyết tình trạng đất đai manh mún. + Đối với các hộ không có đất thì tạo các cơ hội cho họ sống bằng sức lao động của mình. Đối với các hộ làm ăn yếu kém, việc mất đất của họ là điều khó tránh khỏi nên tạo điều kiện để họ có thể chuyển sang ngành nghề khác hay đi làm thuê cho các hộ khác. Cần khai thác các hộ làm ăn tốt như đầu tư vốn kỹ thuật để họ mở rộng sản xuất với điều kiện phải thu hút thêm người nghèo. * Khuyến nông và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật (KHKT): Thứ nhất, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật có ý nghĩa rất to lớn trong việc nâng cao sản lượng và năng suất nông nghiệp và cũng là một hướng đi rất cơ bản để cải tạo nông nghiệp tự cấp tự túc thành một nền nông nghiệp cơ khí hoá hiện đại, năng suất cao, mang tính hàng hoá rộng rãi. Nó cũng là cơ sở để tận dụng tiềm năng đất đai, mặt nước, con người nông thôn. Trong điều kiện của huyện hiện nay, thuỷ lợi và cải tiến đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi là yêu cầu cấp thiết nhất. Sự hỗ trợ của Nhà nước, của tỉnh, huyện vẫn là phần có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc tạo ra các công trình to lớn, đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, nhưng cũng cần phải kêu gọi sự đóng góp của nhân dân như xây dựng hệ thống thuỷ lợi nhỏ, kênh mương dẫn nước từ hệ thống hồ đập lớn, tổ chức mô hình sản xuất kết hợp giữa các hộ có vốn với các hộ không có vốn nhưng có sức lao động. Thứ hai, khuyến nông có vai trò quan trọng trong việc định hướng cho người nông dân từ việc mua các yếu tố sản xuất đâù vào đến việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Nó sẽ giúp cho người nông dân có quyết định tối ưu về sử dụng các yếu tố sản xuất, nó cung cấp các thông tin về vấn đề giá cả, dung lưọng thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, các thông tin về vấn đề giống cây trồng, phân bón và phương pháp sản xuất. Công tác khuyến nông trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung quan trọng sau: + Nghiên cứu hệ thống đất canh tác để thiết lập quá trình sản xuất có hiệu quả với từng loại cây trồng khác nhau để hỗ nông dân chọn lựa. + Nghiên cứu thuần dưỡng và phổ biến các giống cây trồng, vật nuôi, có năng suất chất lượng cao như lúa lai, bò lai. + Triển khai các dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y tới từng thôn, xóm Các vấn đề giải quyết trong công tác khuyến nông hiện nay là: Để đẩy mạnh và phát huy hơn nữa công tác khuyến nông cần thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nghiên cứu và khuyến nông. Khuyến nông cần tập trung vào kỹ thuật mới và tập quán canh tác dựa trên công trình nghiên cứu, đồng thời phản ánh lại cho người nghiên cứu các khó khăn của người nông dân. Hệ thống và cách thức làm khuyến nông cần thể hiện tính đa dạng không chỉ truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, các lớp học tập cho cán bộ cơ sở mà còn qua các tổ chức đoàn thể như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên... đặc biệt chú ý tới các xã nghèo Một nội dung quan trọng trong công tác khuyến nông là nâng cao năng lực thị trường cho nông dân, tức là cung cấp các thông tin vè thị trường và dự báo nhu cầu thị trường về các loại mặt hàng trong tương lai để giúp họ chọn sản xuất kinh doanh phù hợp. * Nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng có ý nghĩa rất lớn đến khả năng sản xuất, sự yếu kém về cơ sở hạ tầng nông thôn đang là một thách thứuc lớn đối với công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và công tác xoá đói giảm nghèo. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn và các dịch vụ hỗ trợ thương mại và công nghiệp hoá nông thôn. Việc nối các thành phố, thị trấn với các vùng nông thôn lân cận sẽ giúp tạo ra thị trường to lớn hơn cho các sản phẩm nông nghiệp và giúp cho công nghiệp tránh khỏi những chi phí đắt đỏ ở thành thị. Dân cư nông thôn nói chung và những người nghèo nói riêng sẽ nhận được nhiều điều kiện thuận tiện việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Tình trạng cơ sở hạ tầng của Thuận Thành hiện nay còn rất kém, đặc biệt là đường thôn, liên xã, các xã có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất là những nơi ma có cơ sở hạ tầng yếu kém nhất. Theo điều tra của huyện thì vào năm 1997 toàn tỉnh có 8 xã/18 xã chiếm tỷ lệ 44,4% trong tổng số xã của toàn huyện yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng. Đây là các xã mà công trình hạ tầng cơ sở tối thiểu, thiết yếu như: đường xe cơ giới 4 bánh tới trung tâm xã, nước sạch, điện cho sản xuất sinh hoạt, trường học, trạm xá, chợ... có nhưng chất lượng kém, đã xuống cấp nghiêm trọng. Để phục vụ mục tiêu xoá đói giảm nghèo, vấn đề nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng cần tập trung vào 3 điểm chính: đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi và điện. à Những giải pháp nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng: + Về đầu tư: cần phải tăng đầu tư vào hệ thống đường xá, giao thông, thuỷ lợi mà đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi. Đối với 1 huyện mà nền kinh tế còn phụ thuộc nặng nề vào kinh tế nông thôn thì vấn đề giao thông và thuỷ lợi là lĩnh vực cần được tỉnh và huyện ưu tiên đầu tư. Thực tế những năm qua cho thấy vấn đề thuỷ lợi đảm bảo nước tưới tiêu cho diện tích cây trồng của huyện hiện nay đặt ra vấn đề khó khăn cần được giải quyết, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và sản lượng nông nghiệp, gây ra thất thu lớn cho nông dân. Thực tế đó đặt ra cho huyện cần phải củng cố hệ thống thuỷ lợi đê điều làm sao cho đủ nước tưới cho mùa khô và có khả năng chống úng trong mùa mưa. Tác động tổng hợp của việc xây dựng một kết cấu cơ sở hạ tầng tốt hơn cùng các tác động của chính quyền về mặt thể chế, chính sách sẽ tạo khả năng lớn hơn trong mọi hoạt động của mua bán và chế biến nông sản sẽ giúp cho xoay chuyển tình thế và đảo ngược sự suy giảm trong thu nạp tại nhiều vùng nông thôn huyện ta, từ đó có thể tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo một cách hữu hiệu hơn trước. Ngoài mục tiêu về xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã đặc biệt khó khăn, các xã trong dự án phát triển nông thôn tổng hợp của WB, cần tranh thủ các nguồn vốn của Trung ương. Bên cạnh đó hệ thống thuỷ lợi cần được chú ý phát triển giao thông với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm nhưng phần Nhà nước là chủ yếu, dân chỉ có thể đóng góp bằng ngày công lao động. Điện khí hoá nông thôn là một nội dung rất quan trọng để tạo điều kiện phát triển sản xuất, dịch vụ, thu mua chế biến nông sản cũng như chuyển giao công nghệ cho nông dân, nó vừa phục vụ cho sản xuất và đời sống trước mắt, vừa tạo điều kiện để công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong tương lai. Mặc dù ở Thuận Thành hiện nay 100% số xã có điện nhưng hệ thống điện ở một số xã đã xuống cấp cần phải sửa chữa nâng cấp sao cho yên tâm lao động sản xuất. Trong quá trình xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo, vùng nghèo, huyện và tỉnh cần có giải pháp sử dụng nhiều lao động tại chỗ, như vậy sẽ tạo điều kiện để cho người nghèo có thêm thu nhập, đó chính là một giả pháp nhằm giải quyết công ăn việc làm cho người nghèo và xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh đó có thể nâng cao hiệu quả phục vụ các công trình cơ sở hạ tầng thì cần tiếp tục tiến hành phân cấp các quyết định tài chính, thu nhập và chi phí để thúc đẩy sự linh hoạt và năng động của các cấp chính quyền địa phương trong huyện. Chính quyền địa phương (xã) có lợi thế hơn trong việc giải quyết đầu tư cơ sở hạ tầng nào cho thích hợp với địa phương của mình, vì họ là người năm rõ hơn hết nên có vai trò rất lớn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho khu vực nông thôn. 2- Hoàn thiện hơn nữa hệ thống phúc lợi xã hội và hệ thống bảo trợ xã hội cho người nghèo. 2.1- Chính sách giải quyết việc làm: Đội ngũ lực lượng lao động ở nông nghiệp, nông thôn quá lớn, tốc độ tăng nhanh, khả năng thu hút lại bị hạn chế nên lực lượng lao động bị dư thừa là rất lớn. Theo kết quả điều tra 31/12/2002 lao động của huyện Thuận Thành thì trong năm 2002, trong tổng số với tổng số lao động xã hội là 71.376 người lao động nông nghiệp chiếm 87,4%, lao động chưa có việc làm trong nông nghiệp còn nhiều và tốc độ tăng hàng năm khoảng 1,4%. Đây là vấn đề lớn cần được tiếp tục quan tâm giải quyết. Hệ số sử dụng thời gian thấp dẫn đến năng suất lao động bình quân thấp cũng là do chất lượng lao động thấp (sức khoẻ và trình độ), đất đai ít, không có vốn ... Với năng suất như vậy thu nhập của người dân cũng trở lên rất thấp phần lớn trong số họ là không có khả năng tích luỹ. Đó là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng đói nghèo trở nên rất phổ biến của khu vực nông thôn. * Biện pháp giải quyết việc làm: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm dần lao động thuần nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp trong các đơn vị sản xuất quy mô nhỏ. Thứ nhất, tiến hành đa dạng hoá ngành nghề, thực hiện nguyên tắc khuyến khích ai giỏi việc gì thì làm việc ấy, trên cơ sở giao đất ổn điịnh cho các hộ gia đình đồng thời thông qua các cơ chế chính sách và các biện pháp cụ thể để từng bước tập trung ruộng đất vào các hộ gia đình có khả năng sản xuất kinh doanh nông sản với điều kiện họ phải thu hút thêm người nghèo vào làm việc. Tiến hành khai hoang, cải tạo đất xấu, cố gắng khắc phục tình trạng diện tích đất nông nghiệp thấp như hiện nay. Đa dạng hoá việc làm và thu nhập càng trở thành một hình thức phổ biến ở nông thôn. Thứ hai, cần phát triển mạnh mẽ các ngành nghề phi nông nghiệp. Đây là xu hướng cơ bản để phát triển nông nghiệp nông thôn trong tương lai, trong đó chú trọng đến các ngành nghề sử dụng nhiều lao động nhưng cần lượng vốn ít, hướng đến làm hàng xuất khẩu. Phát triển mạng lưới dịch vụ kèm theo để hỗ trợ các cơ sở sản xuất đó, hệ thống dịch vụ này ở nông thôn hiện nay đang ở trong tình trạng rất yếu kém, nếu phát triển được nó tiềm năng thu hút lao động khá lớn. Khôi phục các nghề truyền thống có giá trị cao, các làng nghề và các xí nghiệp hương thôn sẽ gắn bó với quá trình đô thị hoá ở nông thôn. Để thực hiện mục tiêu phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp thì Nhà nước và tỉnh cần có những chính sách và chế độ khuyến khích các hoạt động này như về ưu đãi tín dụng, giảm các loại thuế, giải quyết những vướng mắc về thị trường. Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác xã kiểu mới trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện và cùng có lợi ở quy mô thích hợp như hợp tác xã liên gia đình, hợp tác xã nhóm hệ ... những mô hình hợp tác xã này sẽ tạo điều kiện cho những người nông thôn tập hợp sức mạnh lại và tận dụng hiệu quả hơn những thế mạnh của mỗi gia đình như nhiều vốn vay hay nhiều lao động. Đây là hình thức tổ chức lao động, giải quyết việc làm có hiệu quả trong cơ chế thị trường vì nó có nhiều ưu điểm như lợi thế nhờ quy mô sản xuất lớn dễ áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, người chủ có khả năng làm ăn gắn bó với kết quả sản xuất kinh doanh. 2.2- Phát triển cơ cấu và cung cấp tín dụng cho người nghèo: Vốn là một trong những là một trong những điều kiện sản xuất cơ bản, theo số liệu thống kê điều tra năm 1999 có tới 75% số hộ nghèo thiếu vốn hoặc không có vốn để sản xuất. Đây là một lý do quan trọng làm cho các hộ nghèo không vượt lên khỏi cảnh đói nghèo được. Trong những năm qua, Nhà nước đã cố gắng cải thiện sự phục vụ tín dụng này lên Ngân hàng người nghèo, các quỹ tín dụng nhân dân, tận dụng vốn vay cho người nghèo từ các dự án nước ngoài, tỉnh cũng đã thực hiện lồng ghép các chương trình để tạo thêm nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo, sử dụng với mức lãi suất ưu đãi cũng như các điều kiện thuận lợi cho người nghèo vay vốn. Nhưng thực tế cho thấy, nông dân nghèo vẫn kém tiếp cận với tín dụng chính quy và chỉ có được phần lớn các tín dụng phi chính quy với lãi suất cao hơn nhiều với lãi suất của khu vực chính quy mà họ không tiếp cận được. Sự tiếp cận yếu kém này rõ ràng là một trở ngại lớn cho công tác xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Vì vậy, để tưng khả năng tiếp cận của các hộ gia đình nghèo với tín dụng cũng như tăng hiệu quả của các khoản vay, cần có những đổi mới thiết thực trong các lĩnh vực như huy động vốn, phương thức vay vốn, cơ cấu lãi suất... Tín dụng cho người nghèo phải thể hiện rõ nét tính ưu đãi của nó dành cho người nghèo như vay không cần thế chấp, vay với lãi suất thấp nhưng đồng thời cũng phải nhận thức đây hoàn toàn không phải là tiền cứu trợ nhân đạo. Trong cơ chế thị trường hiện nay, cần phải xây dựng một cơ chế tín dụng thế nào để vừa đảm bảo hỗ trợ của xã hội vừa kích thích ngươì nghèo tổ chức sản xuất làm ăn phù hợp với những yêu cầu của thị trường. - Miễn giảm lãi suất cho các hộ : những gia đình thuộc diện đói có nghĩa thuộc diện khó khăn nhất trong xã hội, khả năng sản xuất kinh doanh rất thấp, rất dễ bị tổn thương trước những rủi ro bất ngờ trong cuộc sống. Đói với những hộ nghèo như thế thì cần có sự quan tâm giúp đỡ nhiều hơn nữa. Trong vấn đề cung cấp tín dụng, sự hỗ trợ đặc biệt này có thể được áp dụng nhiều miễn toàn bộ lãi suất các khoản tiền vay của họ. Việc xoá bỏ lãi suất tiền vay cho các gia đình thuộc diện đói nghèo là hết sức có ý nghĩa, nó sẽ khuyến khích các hộ này mạnh dạn vay vốn hơn, khoản tiền lãi không phải trả tuy không lớn nhưng cũng rất cần thiết để họ có thể mở rộng sản xuất kinh doanh hay đối phó với những rủi ro bất ngờ. Quản lý hoạt động vốn tín dụng: - Tăng mức độ phục vụ. Hiện nay cơ sở nhỏ nhất của các Ngân hàng người nghèo là cấp huyện và nó tiếp xúc với dân chủ yếu qua chính quyền cơ sở như UBND xã, phường, thị trấn các hợp tác xã... - Thống nhất các nguồn tín dụng. Hiện nay, có rất nhiều nguồn cung cấp tín dụng cho người nghèo đang hoạt động theo các chương trình, dự án khác nhau, và có nhiều cơ quan cùng làm chức năng cung cấp tín dụng cho người nghèo như Ngân hàng người nghèo, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các quỹ tín dụng nhân dân... Để tăng cường hiệu qủa hoạt động tín dụng này cần sắp xếp tổ chức các nguồn vốn này về dưới quyền quản lý và phân phối của một cơ quan chuyên trách như Ngân hàng người nghèo. Các nguồn lực tài chính thống nhất trong tay, ta có thể tự biết chính xác nguồn lực có trong tay là bao nhiêu, phân phối chúng theo thứ tựu ưu tiên, tránh tình trạng chồng chéo, không thiết thực của việc vay vốn. - Tích cực phát huy tiết kiệm tại chỗ. Phát huy tiết kiệm của người đi vay (người nghèo) là hết sức quan trọng, một mặt nó nâng cao khả năng tài chính, trình độ làm ăn của người nghèo lên. Mặt khác, nó cũng đảm bảo hoàn trả vốn cho ngân hàng. Về lâu dài, tiết kiệm tại chỗ sẽ giúp cho người nghèo vượt qua cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Muốn thực hiện tiết kiệm tại chỗ được thì người dân phải làm ăn có hiệu quả. Để giúp cho họ có thể làm ăn tốt về phần mình ngân hàng có thể có những hướng dẫn cần thiết về cách hạch toán làm ăn. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này ngân hàng còn phải kết hợp với nhiều tổ chức khác như hợp tác xã khuyến nông, Hội phụ nữ... 3- Phát huy tinh thần tương thân tương ái của cộng đồng xã hội, trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta nói chung và Thuận Thành nói riêng đòi hỏi không chỉ là trách nhiệm, sự quan tâm và giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, sự cố gắng của bản thân người nghèo hộ nghèo mà còn đòi hỏi sự giúp đỡ của cả cộng đồng xã hội về vật chất và tinh thần. Chúng ta cần phải thực hiện tốt tinh thần “tương thân, tương ái”, “lá lành đùm lá rách” trong công cuộc xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh những đóng góp về tiền của, vật chất trong những trường hợp xảy ra sự cố như thiên tai, những trường hợp cá nhân bị rơi vào hoàn cảnh đặc biệt (bệnh trọng, rủi ro...), chúng ta cần phát huy hơn nữa sự quan tâm giúp đỡ của các tổ chức đoàn thể, ban, ngành, nhóm, cá nhân một cách trực tiếp, có kế hoạch cụ thể vào đối tượng nhận giúp đỡ với phương châm giúp cho đối tượng có ý thức và có khả năng vươn lên vượt qua đói nghèo. Nếu làm được như vậy, hiệu qủa của sự giúp đỡ để giảm nghèo đói sẽ cao và bền vững hơn. Một số đợn vị đã thành lập Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo như Hội phụ nữ huyện, Phòng công nghiệp, Phòng lao động - thương binh và xã hội, Hội nông dân, Hội chữ thập đỏ, Đoàn thanh niên... Các đơn vị nhận giúp đỡ đã thống nhất với chính quyền địa phương về một số hình thức, nội dung hỗ trợ, giúp đỡ phù hợp như: Giúp quy hoạch sản xuất, cử cán bộ kỹ thuật hướng dẫn cách thức sản xuất, bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đây là hình thức hỗ trợ thiết thực giúp đỡ hộ nghèo đói có kiến thức sản xuất, có việc làm và thu nhập, tự mình vươn lên xoá đói giảm nghèo. Có thể nói vay vai trò của các tổ chức đoàn thể với công tác xoá đói giảm nghèo là rất lớn. Các đoàn thể đã giúp các hội viên nghèo không chỉ vay vốn, lao động mà đặc biệt là kinh nghiệm làm ăn, nhờ có phong trào giúp đỡ nhau xoá đói giảm nghèo của các tổ chức đoàn thể đã giúp cho rất nhiều hội viên nghèo thoát cảnh đói nghèo. Trong thời gian tới cần tiếp tục phát huy vai của các tổ chức đoàn thể trong việc xoá đói giảm nghèo ở địa phương. Các giải pháp cụ thể là: - Các đoàn thể tiếp tục phát động cuộc vận động giúp đỡ nhau xoá đói giảm nghèo, các hội viên khá có thể đóng góp tiền, ngày công giúp hội viên nghèo phát triển sản xuất. - Các toàn thể cần tiếp tục tổ chức lớp tập huấn hướng dẫn cách làm ăn cho các hội viên để giúp đỡ hội viên có kinh nghiệm làm ăn. - Các đoàn thể đứng ra tín chấp cho hội viên vay vốn để giúp các hội viên có vốn làm ăn. - Cần mở các buổi nói chuyện trong hội để các hội viên nghèo có thể học hỏi kinh nghiệm làm ăn của các hội viên khá có thể truyền đạt kinh nghiệm của mình cho các hội viên nghèo. - Ngoài ra, ở từng thôn xóm nên thành lập các câu lạc bộ giúp nhau xoá đói giảm nghèo như câu lạc bộ làm vườn, câu lạc bộ chăn nuôi... 4- Một số giải pháp khác. Nghèo là một vấn đề kinh tế - xã hội. Do đó giải pháp để giảm nghèo không chỉ là những giải pháp kinh tế mà còn là đòi hỏi các giải pháp về xã hội. Nói một cách khác để giảm nghèo đòi hỏi các giải pháp kinh tế-Xã hội mang tính tổng hợp. Giúp người nghèo tham gia tích cực vào chương trình Dân số và kế hoạch hoá gia đình. Một quy luật đối với mọi quốc gia, một tỉnh thì hộ nghèo hầu như ở đâu tỷ lệ người nghèo cao thì ở đó tỷ lệ sinh đẻ cao. Và tỷ lệ sinh đẻ cao là một nguyên nhân dẫn đến nghèo đói. Để nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng dân số, cần vận động và đầu tư hỗ trợ cho hộ nghèo các biện pháp y tế đảm bảo sức khoẻ sinh sản cho họ, làm cho người nghèo nhận thức được hậu quả cuả việc sinh đẻ nhiều, cam kết chỉ đẻ 2 con. Tuyên truyền giác ngộ cho người dân nhận thức được vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình có liên quan trực tiếp cuộc sống của mỗi người nhất là đối với người nghèo, tránh vòng luẩn quẩn bế tắc “càng nghèo, càng đẻ; càng đẻ, càng nghèo”. Trong công tác xoá đói giảm nghèo phải coi trọng quan tâm thích đáng vấn đề giới, nhất là phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề phụ nữ, chăm sóc giáo dục trẻ em gái về sức khoẻ sinh sản, ưu tiên tạo việc làm, tăng thu nhập cho phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận đầy đủ vai trò và vị thế phụ nữ tham gia quản lý lãnh đạo. Đấu tranh chống các tệ nạn xã hội. Chống các tệ nạn xã hội khác như cờ bạc, số đề, nghiện hút, mại dâm. Bởi chính các tệ nạn xã hội này đã làm cho nhiều gia đình rơi vào cảnh bần cùng, nghèo đói và tái nghèo đói. Phải xoá bỏ các loại chủ chứa, cờ bạc, tiêm chích, ma tuý, số đề. Đồng thời phát động phong trào đăng ký xây dựng gia đình văn hoá, xã, phường không có tệ nạn xã hội. Trợ giúp pháp lý cho người nghèo. Giúp người nghèo có những hiểu biết phổ thông về luật pháp liên quan đến đời sống hàng ngày (Luật hôn nhân gia đình, Luật chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Luật dân sự...). Giải đáp cho người nghèo về những vấn đề chính sách có liên quan đến quyền lợ và trách nhiệm của người nghèo. Hướng dẫn người nghèo các thủ tục pháp lý về quan hệ dân sự. Bồi dưỡng kiến thức về pháp luật cho cán bộ các xã nghèo; đào tạo nghiệp vụ tư vấn pháp lý cho cán bộ pháp lý và cộng tác viên. Đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Kết hợp chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình phát triển- kinh tế xã hội khác trong chiến lược chung về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn và chương trình việc làm. 5- Kiến nghị cá nhân. Qua nghiên cứu phân tích về nguyên nhân thực trạng nghèo đói của Thuận Thành cũng như 1 số giải pháp xoá đói giảm nghèo mà huyện đã thực hiện cũng như những giải pháp đã được phân tích trên đây trở thành hiện thực và có tính khả thi cao giúp cho công tác xoá đói giảm nghèo ở Thuận Thành đạt được kết quả cao hơn nữa em có 1 số kiến nghị sau: - Chín h sách miễn giảm cần mở rộng hơn, cả đối tượng và mức độ. - Về mức độ và tốc độ đầu tư phải phù hợp đặc điểm từng vùng đói nghèo vì giữa các vùng rất khác nhau về trình độ phát triển của nền kinh tế, trình độ dân trí, khả năng tiếp nhận, sử dụng nguồn đầu tư. - Nâng mức vốn đầu tư hàng năm cho các chương trình, đề án nằm trong Chương trình xoá đói giảm nghèo. - Có chế độ khuyến khích động viên thoả đáng đội ngũ cán bộ trực tiếp giúp các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn xoá đói giảm nghèo. - Huyện phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, biện pháp xoá đói giảm nghèo ở xã. Tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để tìm ra các điển hình tốt về xoá đói giảm nghèo từ đó nhân rộng ra các địa phương khác. - Cần tập trung các nguồn vốn cho xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện vào một đầu mối theo phương thức lồng ghép các chương trình để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. - Đối với một số xã đặc biệt khó khăn, hàng năm huyện cần trợ cấp một khoản ngân sách cho xã để giúp các hộ thoát khỏi cảnh nghèo. - Xoá đói giảm nghèo là một quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ không thể nôn nóng, chủ quan. Vì vậy cần tuyên truyền để nhân dân hiểu tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo và đưa nó trở thành phong trào rộng khắp và cụ thể xuống từng xã nghèo, hộ nghèo, người nghèo ... - Cần chủ động hơn nữa trong việc phát huy nguồn vốn tại chỗ để xoá đói giảm nghèo, không nên quá trông chờ ỷ lại vào Trung ương và các tổ chức khác... kết luận Xoá đói giảm nghèo hiện nay đang là vấn đề trọng tâm của mỗi địa phương và của cả nước trong quá trình phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Xoá đói giảm nghèo huyện Thuận Thành đã có những dấu hiệu khả quan nhờ có sự nỗ lực cố gắng của chính quyền của nhân dân nhưng vẫn còn là khó khăn lớn trên con đường phát triển kinh tế xã hội , phấn đấu trở thành một trọng điểm phát triển Qua quá trình tìm hiểu thực trạng đói nghèo và các mặt phân tích trong bài viết có thể nhận thấy giữa nghiên cứu về lý thuyết đói nghèo và việc áp dụng lý thuyết vào thực tế còn có khoảng cách nhất định. Điều này là tất yếu bởi vì thực tế luôn biến động đòi hỏi việc nghiên cứu lý thuyết phải thay đôỉ theo cho phù hợp. Nghiên cứu thực trạng của một vấn đề để có thể đưa ra những giải pháp giải quyết thực trạng đó cũng chính là quá trình hoàn thiện cơ sở lý luận về vấn đề đó. Các giải pháp nêu trong đề tài này mặc dù không thể đáp ứng được toàn bộ yêu cầu của công tác xoá đói giảm nghèo nhưng cũng đã góp một phần vào nền tảng lý luận chung và công tác xoá đói giảm nghèo ở huyện Thuận Thành. Thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm của những người đi trước đã giúp em tranh bị cho mình một nhận thức đúng đắn về xoá đói giảm nghèo khi thế giới đang bước vào một thế kỷ mới từ đó em đã mạnh dạn đưa ra các ý kiến của mình với hi vọng sẽ hoàn thiện được vốn kiến thức của mình và đóng góp phần nhỏ sức của mình cho công cuộc đổi mới chung của đất nước. Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS.Trần Xuân Cầu, cùng các cô chú phòng Lao động – Thương binh và Xã hội huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo Việt Nam đánh giá sự nghèo đói và chiến lược của Ngân hàng thế giới-1995. 2. Báo cáo chung của nhóm công tác chuyên gia Chính phủ, Nhà tài trợ, Tổ chức phi Chính phủ: Việt Nam tấn công nghèo đói -1999. 3. Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam của TS. Trần Thị Hằng. 4. Viện chiến lược phát triển - Ban nguồn nhân lực và các vấn đề xã hội- “Phương hướng, biện pháp và chính sách giải quyết việc làm tăng thu nhập giảm bớt tình trạng nghèo khổ tuyệt đối Việt Nam thời kỳ 1991-2000”. 5. Đại học Kinh tế quốc dân, Khoa Kinh tế Phát triển- Giáo trình Kinh tế phát triển tập I, II. 6. Giáo trình kinh tế lao động – Trường ĐHKTQD. 7. Giáo trình phân tích lao động xã hội.- TS. Trần Xuân Cầu. 8. Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội huyện Thuận Thành đến năm 1010. 9. Báo cáo tổng kết điều tra khảo sát hộ nghèo huyện Thuận Thành các năm 1997, 1998, 1999, 2000, 2001,2002. 10. Báo cáo kết quả 6 năm thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 11. Báo cáo thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo các năm 1999, 2000. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0082.doc
Tài liệu liên quan