Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường. Nông nghiệp sử dụng nhiều hóa chất như phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ. làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Trong quá trình canh tác dễ gây xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng núi và khai hoang mở rộng diện tích trên đất rừng. Vì thế cần tìm những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo sự phát triển bền vững của môi trường.
Tóm lại: Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển bao gồm 2 loại đóng góp :
+ Sự đóng góp về thị trường - cung cấp sản phẩm cho thị trường trong và ngoài nớc, sản phẩm tiêu dùng cho khu vực khác .
+ Sự chuyển dịch các nguồn lực (lao động, vốn.) từ nông nghiệp sang các khu vực khác.
2. Mục tiêu, chiến lợc phát triển nông nghiệp của Đảng và nhà nước ta:
Phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng có sức cạnh tranh cao trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái đồng thời áp dụng nhanh chóng những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, khoa học quản lý nhằm tạo ra nhiều sản phẩm với chất lợng cao, tạo việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, làm cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và làm cơ sở để CNH- HĐH đất nớc. Báo cáo của BCH Trung ơng Đảng tại đại hội Đảng lần thứ IX đã nhấn mạnh: "Đẩy nhanh CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn theo hớng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với thị trường và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn ."
46 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1015 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và những giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của xã Phú Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết, từ đó năng suất cây trồng các loại đều tăng.
Cây lúa từ 11,5 tấm/ha (2000) lên 13,8 tấn 1 ha (2004).
Ngô, đậu tương, lạc năng suất đều tăng 0,3 - 0,5 tấn/ha.
Bình quân lương thực đầu người từ 520 kg (năm 2000) nay lên 540 kg (tăng 20 kg so với nhiệm kỳ trước).
Bên cạnh việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế đồng các cấp cấp Uỷ Đảng tập trung sự lãnh đạo xây dựng đề án, tạo nguồn vốn vay ưu đãi, vận động nhân dân đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm, thuỷ sản. Một số hộ nông dân đã mạnh dạn thí điểm chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên đất canh tác ngoài đồng do HTX chỉ đạo chuyển sang trồng cây ăn quả. Song hiệu quả của việc chuyển dịch chưa thật sự rõ nét, thu nhập còn thấp, một số hộ nông dân vẫn ở trạng thái thuần nông, chưa phá được thế độc canh để vươn ra sản xuất sản phẩm mang tính chất hàng hoá đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Bởi vậy Đại hội Đảng bộ xã Phú Sơn nhiệm kỳ (2000 - 2005) đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của xã là nhiệm vụ trọng tâm của các tổ chức kinh tế - xã hội. Trong đó tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nhiệm vụ then chốt là giải phát tích cực để thực hiện mục tiêu trên. Nhận thức này là một bước đi thích hợp trước mắt để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế của xã Phú Sơn giai đoạn 2005 - 2010.
Mặc dù năng suất cây trồng tăng, năng suất có trình độ thâm canh cao, hệ số sử dụng ruộng đất đã đạt 2,65 lần, song giá trị sản lượng sản phẩm làm ra còn thấp mới đạt 30 - 35 triệu đồng/ha.
Tỷ trọng chăm nuôi trong nông nghiệp mới chiếm 20%. Tuy nhiên hiện nay xã đã xây dựng và thực hiện được 6 cánh đồng đạt giá trị sản lượng 50 triệu đồng/ha/năm, với con số đó còn là con số ít cho nên để mở rộng thêm cánh đồng đạt giá trị sản lượng 50 triệu đồng/ha/năm, đồng thời để phá thế độc canh, từng bước xoá bỏ việc sản xuất tự cấp, tự túc, chuyển dần sang nền sản xuất hàng hoá, đa dạng các loại cây trồng, vật nuôi. Phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, nhằm cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, tích luỹ vốn, tạo tiền đề cho việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trên địa bàn xã Phú Sơn. Đảng, chính quyền, HTX dịch vụ nông nghiệp của xã phải tiếp tục suy nghĩ tìm ra và thực hiện hàng loạt các giải pháp về nhận thức, về kinh tế kỹ thuật, về lãnh đạo, chỉ đạo mới thực hiện thắng lợi đường nối trên.
Xuất phát từ quan điểm của Đảng ta trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu...".
Quán triệt tinh thần đó, thực hiện nghị quyết Đảg bộ tỉnh lần thứ 16 - nghị quyết 04 về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp để tạo bước đột phá về kinh tế nông nghiệp nông thôn. Chuyển nhanh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, phát triển nông nghiệp toàn diện và bền vững. Với việc đó trong những năm qua địa phương đã giành được kết quả tương đối toàn diện kể cả kinh tế đồng ruộng đến kinh tế VAC và phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ.
Các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã được đưa vào sử dụng, các giống cây trồng mới có năng suất cao như ngô lai, lạc, giống lúa Khang Dân, Khâm Dục, Q5, NĐ1, nếp thơm 87... cac quy trình kỹ thuật chăm sóc cũng được áp dụng rộng rãi như quy trình công nghệ làm mạ non trên nền đất cứng...
Các tác dự tính, dự báo bảo vệ thực vật đã làm tương đối tốt.
Sức lao động trong nông nghiệp đã từng bước được cơ giới hoá như khâu làm đất qua máy móc công cụ, chăn nuôi gia súc gia cầm đã có những tiến chuyển đáng kể như kết hợp chăn nuôi truyền thống với chăn nuôi dùng thức ăn công nghiệp.
Mặc dù có những chuyển biến tích cực, song thực tế ở địa phương việc chuyển dịch chưa thật vững chắc, hiệu quả chưa cao, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp trồng trọt vẫn chiếm phần lớn, chăn nuôi chiếm tỉ lệ thấp, việc tiêu thụ sản phẩm còn gặp nhiều khó khăn và còn bộc lộ nhiệu tồn tại cần khắc phục.
Do vậy yêu cầu bức thiết đặt ra là: Nếu không tiếp tục đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì không thể nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, dẫn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp sẽ không cao, nó ảnh hưởng đến việc nâng cao và cải thiện đời sống nhân dân, ảnh hưởng đến sự tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của địa phương. Cho nên việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp theo hàng năm là cần thiết để tạo việc làm, làm tăng thu nhập cải thiện đời sống của người nông dân, góp phần đưa nền kinh tế khu vực nông thôn nói riêng và tỉnh .
chương II: thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở xã.
I. thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở phú sơn
1. Hoạt động của HTX dịch vụ:
Tổng số vốn hiện có đến 30/6/2005 là: 1.924.799.746 đ.
Trong đó:
- Vốn cố định: 1.005.786.036 đ.
- Vốn lưu động: 919.013.710 đ.
- Vốn cố định trực tiếp phục vụ cho sản xuất là: 34.201.357 đ, bao gồm: 4 trạm bơm, hệ thống cống đập phục vụ điều tiết nước.
- Vốn lưu động đều nằm ở phần xã viên khê đọng, bởi vậy nó không đáp ứng kịp thời cho nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
HTX dịch vụ nông nghiệp đã có sự chuyển biến tích cực, đáp ứng được phần lớn các nhu cầu đối với hộ kinh tế gia đình, chất lượng phục vụ kịp thời, quản lý sử dụng vốn quỹ chặt chẽ, đảm bảo đúng nguyên tắc và hỗ trợ xã viên chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi bước đầu đã có hiệu quả. Các định mức kinh tế kỹ thuật, các nội qui quy chế hoạt động đã được nghiên cứu, tính toán, được đại hội xã viên phê chuẩn các mức thu.
HTX dịch vụ nông nghiệp đã đứng ra làm dịch vụ cung cấp giống vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ cho yêu cầu của việc chuyển dịch kinh tế. Nắm bắt và cung cấp những thông tin cần thiết phục vụ cho sản xuất, tìm thị trường cho việc tiêu thụ sản phẩm của xã viên làm ra. Đồng thời phối hợp với các đoàn thể: Phụ nữ, Hội nông dân, để tín chấp vay vốn cho xã viên, giúp họ có vốn để sản xuất, áp dụng và tập huấn các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất thông qua các buổi tập huấn kỹ thuật, các lớp học IBM.
- HTX đã chỉ đạo việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất như: Tiếp thu và đưa các giống cây trồng mới, hướng dẫn các biện pháp kỹ thuật chăm sóc gieo trồng từng loại giống cây, kết hợp các biện pháp kỹ thuật thâm canh để cải tạo đất, làm tốt khâu dự tính, dự báo, bảo về thực vật, hướng dẫn các biện pháp kỹ thuật tổ chức phun thuốc phòng trừ bệnh, đầu tư cải tạo đồng ruộng và hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất.
Hướng dẫn các tiến bộ khoa học kỹ thuật khác vào chăn nuôi gia súc, gia cầm, dùng thức ăn công nghiệp: Chú trọng phát triển kinh tế VAC lấy hộ gia đình xã viên làm khâu đột phá để chuyển dịch cơ cấu kinh tế với việc trồng các loại cây, nuôi các loại con có giá trị hiệu quả kinh tế cao.
2. Thực trạng chuyển dịch ( 2002 - 2004):
Trong 3 năm qua Đảng, chính quyền, HTX dịch vụ nông nghiệp đã tập trung lãnh đạo thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển một bộ phận diện tích sang sản xuất hàng hoá, vận động nhândân đầu tư thâm canh. Vì vậy thu nhập từ sản xuất nông nghiệp có những chuyển biến khám, đảm bảo mức thu nhập ổn định cho nông dân, nông nghiệp. Dần từng bước có chuyển biến tích cực theo hướng sản xuất hàng hoá, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích tăng lên đáng kể, năm sau cao hơn năm trước. Chính vì vậy chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi cùng với chủ trương khuyến khích phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được cấp uỷ, chính quyền xác định là nhiệm vụ trọng tâm thời kỳ đổi mới, tập trung chủ yếu vào 3 nội dung: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chuyển vùng sản xuất, và chuyển đổi cơ cấu con vật nuôi.
Bảng 01: Diện tích - Năng suất - Sản lượng.
Năm
Diện tích gieo trồng
Năng suất lúa
(tạ)
Sản lượng
Bình quân
2 lúa
(ha)
Màu
Thóc (tấn)
Màu qui (tấn)
Tổng
Giá trị (ha) triệu
Lương thực người (kg)
2002
491
155
109,8
4802
833
5635
494
2003
800
295
110
4819
954
5864
545
2004
760
342
115
6419
103
6589
567
Bảng 02: Cơ cấu giống lúa đưa vào sản xuất 2004.
Giống
Diện tích 9ha)
Cơ cấu %
Năng suất tạ/ha
Khang dân
138,6
39,1
62,7 NSBQ 60,5
Khâm dục
50,6
14,7
60,6
Tạp giao
36,4
10,2
70,8
Thuần Trung Quốc
17,3
4,8
72,1
Q5
50,6
26,1
60,6
Xi23
17,3
3,5
70,8
Các giống khác
6,8
1,47
72,9
Đối với diện tích 2 lúa xã đã tập trửng dụng mở rộng để quy hoạch khu dân cư, khu trung tâm, nhà văn hoá, các xóm quy hoạch mở rộng đường giao thông cho nên diện tích cấy lúa năm 2004 đã giảm xuống vài ha.
Bên cạnh đó khuyến khích nông dân tập trung chuyển đổi mạnh về cơ cấu giống lúa thời vụ theo hướng tăng diện tích trà muộn, giảm diện tích trà sớm, tăng cường sử dụng các giống lua lai, lúa thuần Trung Quốc để tăng năng suất chất lượng.
Nhưng do đồng rộng của xã còn nhiều vùng trũng ở các xóm, còn thường xuyên ngập úng nên việc đưa trà muộn vào gặp rất nhiều khó khăn do đó Ban quản trị HTX đã đưa ra nhiều giải pháp khắc phục như đắp bờ vùng, bờ thửa, khoanh vùng nước ruộng cao nhằm hạn chế nước tràn xuống vùng trũng, xây đắp cống đập để có biện pháp tiêu úng kịp thời, chỉ đạo các hộ nông dân gieo đủ mạ dự phòng bằng các giống ngắn ngày: Quảng Tế, Khâm Dục... để phòng lúa bị chết khi úng lụt. Chỉ đạo sử dụng mạ cứng cây, đanh rảnh ở vùng trũng để tăng khả năng chống chịu, hạn chế sử dụng phân đạm khuyến khích bón tăng lượng đạm, lân, kali, nhờ vậy mà các năm quan các giống ngắn ngày đã được tăng lên 90%, đến nay diện tích giống lúa dài ngày chỉ còn 10%.
Bên cạnh cây lúa thì việc trồng màu cũng được xã khuyến khích phát triển đặc biệt là cây vụ đông, xã đã đưa cây vụ đông trở thành vụ sản xuất chính trong năm để nâng cao hệ số sử dụng đất, năm 2002 là 2,2 lần. Năm 2003 là 2,5 lần. Năm 2004 hệ số sử dụng đất là 2,65 lần, phấn đấu năm 2006 - 2010 là 2,7 lần.
Diện tích chuyển để trồng màu kết hợp với vùng đất 2 lúa ở chân cao thì diện tích cây vụ đông hàng năm đều được mở rộng, các diện tích chủ yếu: Ngô, khoai tây, đỗ, rau màu các loại.
Ban quản trị HTX mạnh dạn đưa về giống ngô rau. Đây là loại cây mới chế biến thành đặc sản tiêu dùng và xuất khẩu có giá trị kinh tế cao; giá trị vụ ngô gấp đôi giá trị 1 vụ lúa mà thời gian thâm canh cũng tương đương.
Bảng 03: So sánh lúa - ngô.
Loại cây
Diện tích
Năng suất (kg)
Giá bán
Tổng thu (đ)
CPSX
Thu nhập
1. Lúa vụ chiêm
360m2
250
2500
625.000
380.000
245.000
2. Ngô vụ chiêm
36m2
830
1500
1.245.000
450
795.000
Song song với cây rau, một cây có thế mạnh nữa là cây khoai tây. HTX đã đầu tư kinh phí cùng với sự hỗ trợ của các cấp, đặc biệt là Sở Nông Nghiệp đưa nhiều loại giống mới góp phần đưa diện tích khoai tây của xã ngày một tăng, sản lượng làm ra HTX vẫn tiếp tục hợp đồng và thu mua hết với giá từ 1400 - 1500 đ/kg. Như vậy trong những năm tiếp theo giống khoai tây sẽ được trồng nhiều hơn, do đó xã vẫn tập trung chuyển đổi mạnh trồng cây vụ đông, nên cơ bản vẫn giữ vững sản lượng cây trồng, lương thực đầu người vẫn tăng 540 kg/người, tăng so với năm 2003 là 20 kg/người, giá trị kinh tế trên 1 ha canh tác vẫn ổn định và cao hơn năm trước.
Mục tiêu phấn đấu năm (2005 - 2010) là 50 triệu đồng/ha/năm trở lên.
Về chuyển vùng sản xuất: Đến nay xã đã thực hiện chuyển đổi 52 ha, diện tích cấy lúa năng suất thấp sang trồng cây màu có năm suất cao và 17,5 ha sang chăn nuôi thuỷ sản. Tuy còn đang trong quá trình cải tạo thử nghiệm những bước đầu đã cho kết quả khá.
Đối với diện tích vườn tạp xã khuyến khích vận động đầu tư hỗ trợ vốn giống cây trồng cây lâu năm và cây hàng năm như: Cam, quýt, xoài, nhãn, vải, hoè và loại rau màu cho thu nhập cao.
Bảng 04:
Biểu thống kê tình hình chăn nuôi của xã trong 2 năm (2003 - 2004).
Năm
Tổng đàn gia súc (con)
Trong đó
Tổng sản lượng xuất chuồng
Gia cầm
Trâu bò
Lợn nái
Lợn thịt
Tổng số tấn
Lợn thịt
Lợn nái
Tổng số con
Số lượng cá giống tấn
2003
4770
570
1080
3120
400
310
90
35000
68.85
2004
4198
329
540
3329
450
330
100
28000
65.5
Qua biểu mẫu trên ta thấy năm 2003 chăn nuôi đang đà phát triển mạnh, song cuối năm 2003 đầu năm 2004 do dịch cúm gia cầm bùng phát nên chăn nuôi gia súc gia cầm bị cầm chứng lại, phát triển chậm lại, không ổn định, giống vốn trong chăn nuôi còn hạn chế, chưa có mô hình chăn nuôi đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, công tác tiêm phòng trong chăn nuôi và vệ sinh chuồng trại ở một bộ phận nông dân nhận thức còn chưa tốt, cho nên công tác tiêm phòng chưa cao mà ta phải luôn xác định cùng với trồng trọt thì chăn nuôi luôn giữ vai trò quan trọng, góp phần tăng thu nhập đáng kể cho nông dân. Sang năm 2005 chăn nuôi ở xã lại có bước phát trển khá theo hướng phát triển hàng hoá, chuyển mạnh từ nhỏ lẻ, phân tán sang chăn nuôi trang trại, lấy hiệu quả kinh tế làm đầu, lấy nhu cầu thị trường làm định hướng. Tập trung chủ yếu vào 2 loại con vật nuôi chính là: Đàn lợn và đàn gia cầm.
Thuận lợi của xã là trong chăn nuôi xã đã phát triển mạnh ngành nghề chế biến lương thực và thực phẩm như: Làm men, làm bún, làm bánh đa sợi, làm đậu... hơn nữa là nấu rượu, đây là thế mạnh trong chăn nuôi các hộ có thể tận dụng bã rượu, các loại phế phẩm gia phụ tận dụng trong chế biến để chăn nuôi giảm chi phí tăng hiệu quả kinh tế.
Trên 1 diện tích chuồng trại các hộ đã tăng số dầu con lên và đang dần nuôi theo hướng công nghiệp, thực tế hiện nay cho thấy nuôi ở mức trung bình và đang sử dụng thức ăn của nhà thì hiệu quả vẫn chưa cao đôi khi còn không bù đắp được chi phí, nhưng nếu nuôi nhiều với qui mô lớn và sử dụng cám công nghiệp thì sẽ cho lãi suất cao và có hiệu quả hơn. Tuy nhiên mô hình chăn nuôi lợn chủ yếu thực hiện ở những hộ có kinh nghiệm sản xuất và đặc biệt phải có vốn lớn. Song hiện nay ở xã đã có rất nhiều hộ gia đình nuôi theo hướng công nghiệp, các hộ đã đầu tư xây dựng chuồng trại với số lượng lớn khoảng từ 30 - 40 con/lứa cho thu nhập từ vài triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng/hộ/năm.
Tổng đàn lợn tính đến 30/6/2005 là 5837 con; đàn trâu bò 520 con, đàn gia cầm 39.000 con, chủ yếu là gà vịt, ngan Pháp.
Song song với việc chuyển dịch kinh tế nông nghiệp thì việc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ cũng được chú trọng phát triển các ngành nghề truyền thống đang được khôi phục và phát triển đem lại hiệu quả kinh tế cao như nghề dệt khăn, vê đay, dệt chiếu, mở mang nghề phụ mang từ tỉnh ngoài về xã nhà đã thu hút số lao động nhàn rỗi dư thừa trong nông nghiệp hoặc truyền lại cho họ để có việc làm góp phần tăng thu nhập cho mỗi gia đình, thực hiện phân công lao động tại chỗ, tạo thêm sản phẩm cho xã hội. Thương mại dịch vụ được tự do phát triển song phải có sự quản lý của các cấp (theo luật).
+ Tổng số hộ làm nghề 3083 hộ = 83% số hộ trong xã.
+ Số lao động tham gia sản xuất ngành nghề là 6300 lao động chiếm 89% tổng số lao động.
+ Tổng giá trị thu nhập từ nghề truyền thống bình quân 5 năm qua (2001 - 2005) là 30,2 tỷ đồng, chiếm 42,8% trong cơ cấu kinh tế, tăng 8,3 so với những năm trước. Việc thu nhập từ sản xuất nghề truyền thống đã góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập và là nguồn thu nhập chính của nhiều hộ gia đình trong nông thôn.
Tóm lại: Sự hỗ trợ của 3 ngành nông nghiệp, thương mại dịch vụ và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đã tạo ra một bước đột phá mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ của xã trên con đường chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương.
Tổng giá trị sản xuất bình quân trong 5 năm qua (2001 - 2005) là 70,5 tỷ đồng tăng 4,5 tỷ so với những năm trước, trong đó:
- Giá trị sản xuất nông nghiệp là 22 tỷ đồng, chiếm 31,2% trong cơ cấu kinh tế.
- Ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp đạt 30,2 tỷ đồng, chiếm 42,8% cơ cấu kinh tế.
- Kinh doanh dịch vụ 18,3 tỷ, chiếm 26% trong cơ cấu kinh tế.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm qua là 6,5%.
Giá trị sản xuất kinh doanh bình quân đầu người là 5.432.000đ/người/năm. theo số liệu thống kê cho thấy:
+ Số hộ giàu: 975 hộ = 26,4%.
+ Số hộ khá: 251 hộ = 67,70%
+ Số hộ trung bình: 622 hộ.
+ Hộ nghèo còn: 19 hộ.
Như vậy trong những năm qua Đảng bộ xã, chính quyền, HTX dịch vụ nông nghiệp đã xây dựng và tổ chức thực hiện nghị quyết 04 trong côgn tác phát triển kinh tế HTX. Đặc biệt là trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con vật nuôi nhất là trong chăn nuôi ngày một phát triển và dần trở thành ngành sản xuất mũi nhọn trong nông nghiệp nông thôn, nền sản xuất hàng hoá ngày một phát triển, các nông sản hàng hoá ngày một gia tăng mang lại hiệu quả cao. Đây chính là dấu hiệu rất tốt, đảm bảo cho việc phát triển kinh tế của địa phương trước mắt và lâu dài.
ii. những tồn tại yếu kém cần khắc phục.
Kinh tế nông nghiệp của xã trong những năm qua tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể song vẫn còn một số điểm yếu kém cần khắc phục đó là:
1. Tồn tại:
- Sản phẩm của nông nghiệp sản xuất ra chưa đáp ứng được thị trường, mới chỉ sản xuất cái mình có, chứ chưa sản xuất, cung cấp cái thị trường cần. Do đó chưa phát huy hết nội lực trong nhân dân.
- Tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, chưa tương xứng với tiềm năng ở địa phương. Việc tiếp thu công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi vẫn ở qui mô nhỏ, chưa hình thành được các vùng kinh tế sản xuất sản phẩm hàng hoá.
- Việc phát triển kinh tế trang trại, gia trại tốc độ còn chậm, thu nhập từ đây còn chiếm tỷ lệ thấp trong kinh tế nông nghiệp.
- Sản phẩm chăm nuôi ngày càng tăng, hàng năm có tới trên 360 tấn thực phẩm các loại, song việc tiêu thụ còn gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu phục vụ cho việc giết mổ tiêu thụ trong địa phương hoặc bán cho nơi khác không qua chế biến.
- Công tác quản lý đất đai (việc chuyển đổi) có lúc có nơi còn chưa chặt chẽ, một số diện tích chuyển đổi chưa thực hiện đúng theo quyết định 579 của UBND tỉnh.
- Việc phát triển nghề, làng nghề vẫn dừng ở một số nghề truyền thống cũ, chưa có nhiều nghề mới được đưa vào địa phương, do đó việc khai thác tiềm năng về nhân lực, về vốn trong nhân dân chưa đạt kết quả cao.
- Việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật còn chưa mạnh dạn, chưa rút kinh nghiệm kịp thời đối với các loại giống cây trồng mới để nhân ra diện rộng khi đã khảo nghiệm thành công.
- Trồng trọt còn chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất nông nghiệp, mức thu nhập từ nông nghiệp bình quân đầu người còn ở mức thấp so với ngành khác.
2. Nguyên nhân:
- Do điều kiện thời tiết, khí hậu khắc nghiệt ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm.
- Đất nông nghiệp của Phú Sơn thấp hơn so với bình quân chung của huyện nên ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng trang trại, gia trại và quy hoạch khu công nghiệp tập trung.
- Bộ giống cây, con đặc biệt là giống lúa chưa thực sự là những giống lúa đảm bảo đủ tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả (giống do nhân dân tự chọn để qua nhiều vụ).
- Yếu tố đầu ra của sản phẩm cũng là một nguyên nhân hết sức quan trọng, do đầu ra không đảm bảo, giá cả không ổn định cũng sẽ làm giảm năng suất giá trị của sản xuất nông nghiệp.
- Do nhận thức của nhân dân về tiến bộ kỹ thuật, về sâu bệnh chưa tốt nên đã để sâu bệnh phá hại trên diện rộng.
- Cơ chế chính sách của Nhà nước chưa đồng bộ, việc ban hành các văn bản luôn thay đổi làm cho cơ sở gặp khó khăn trong tổ chức thực hiện.
- Sản phẩm nông nghiệp là mặt hàng tuôi sống khó bảo quản gây khó khăn cho sản xuất do công nghiệp chế biến chưa được hình thành phát triển tại địa phương.
- Vốn đầu tư cho chuyển dịch không được đáp ứng đầy đủ nên việc chỉ đạo thực hiện gặp khó khăn.
Từ những kết quả đạt được và những tồn tại nói trên việc tiếp tục thực hiện và đầy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của xã đòi hỏi phải tìm những giải pháp tích cực về kinh tế kỹ thuật trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi là rất cấp bách để nâng cáo thu nhập cho nông dân, thúc đẩy nền kinh tế địa phương phát triển, nhằm thực hiện thành công mục tiêu phương hướng thực hiện kinh tế xã hội mà đại hội Đảng bộ xã (2005 - 2010).
iII. phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới.
Qua kết quả đã đạt được từ những năm qua, xã Phú Sơn xây dựng mục tiêu phương hướng cụ thể cho những năm sau để đáp ứng nhu cầu thị trường, thúc đẩy sản xuất phát triển cần tập trung chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá... phấn đấu các mục tiêu kinh tế sau:
- Trồng trọt: Diện tích phấn đấu từ 1150 - 1165 ha, năng suất lúa đạt từ 115 - 120.
Vụ xuân: Diện tích 318 ha, năng suất 65 tạ/ha.
Vụ mùa: Diện tích 410 ha, năng suất 55 tạ/ha.
+ Cây vụ xuân:
Cây đay 36 ha.
Cây màu, ngô + đỗ: 36 ha.
+ Cây vụ đông: Đạt từ 70 - 85% diện tích canh tác.
Đậu tương đạt 233,6 ha, năng suất 15 tạ/ha.
Khoai tây 33,5 ha, năng suất 180 tạ/ha.
Cây ngô: 19,7 ha, năng suất 50 tạ/ha.
Cây khoai lang 28 ha, năng suất 110 tạ/ha.
Rau màu các loại 27 ha, bình quân mỗi ha đạt 19 triệu đồng.
- Chăn nuôi:
+ Tổng đàn trâu bò phấn đấu có từ 550 - 600 con.
+ Đàn gia cầm: 40.000 - 42.000 con.
+ Đàn lợn có mặt 01/10 hàng năm là 6.000 - 7.000 con, trong đó duy trì lợn nái từ 800 - 1.200 con.
Phấn đấu 50% số thôn xây dựng cánh đồng 50 triệu đồng/ha/năm.
Bình quân lương thực đầu người 550 kg.
Tiểu thủ công nghiệp: 50 tỷ = 50% giá trị sản xuất kinh doanh.
Kinh doanh và dịch vụ 30 tỷ = 30% giá trị sản xuất kinh doanh.
Hộ thuần nông dưới 20%.
Iv. Tình hình tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở địa phương.
Do ảnh hưởng của môi trường (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, khoa học, cung ứng, đối thủ cạnh tranh, và các loại sản phẩm được sản xuất ra) trong khi đó thị trường tiêu thụ hàng hoá nông nghiệp ở các tỉnh, thành phố lân cận như Hải Phòng, Hà Nội... ngày càng được mở rộng và nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng đòi hỏi phong phú hơn về chất lượng như gạo đặc sản, thịt nạc, gà, vịt siêu trứng các loại gia cầm, đặt biệt là các hoa quả tươi như nhãn, vải thiều, chuối, cam quýt.... các loại rau thực phẩm sạch như đậu, đỗ... song Phú Sơn là xã lúa, màu, cây công nghiệp, đồng thời còn là một trong những trung tâm giao lưu buôn bán của huyện, các nông sản hàng hoá tiêu thụ với số lượng lớn, yêu cầu cần mở rộng thị trường để tiêu thụ snả phẩm cho nông nghiệp là một nhu cầu tất yếu trong tình hình hiện nay, do có mật độ dân số lớn, đất chật người đông nên lương thực lẩm hiện nay chỉ đủ để phục vụ nuôi sống con người và có một phần dành cho chăn nuôi, chứ chưa có lương thực để làm hàng hoá. Bởi vì sản phẩm làm ra nông dân chỉ mới chú trọng đến số lượng, chứ chưa thực sự coi trọng đến chất lượng của sản phẩm, do các hộ gia đình chưa mạnh dạn đầu tư và đưa các loại cây, con có giá trị sản phẩm đáp ứng đầy đủ cả về số lượng, chất lượng phục vụ kịp thời cho các nhu cầu, thị hiếu của khách hàng trên thị trường cho nên các sản phẩm nông nghiệp mà nhân dân địa phương sản xuất ra để tiêu thụ được trên thị trường còn gặp nhiều khó khăn.
Trong chăn nuôi giá thành bị hạ thấp hơn so với giá thành sản xuất của nông dân (chỉ tiêu thụ được tại địa bàn), mặt khác do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm nên việc tiêu thụ hay chăn nuôi đang ở mức cầm chừng, nên cần có thị trường tiêu thụ ổn định (mở rộng ra thị trường ở các tỉnh bạn.
Vì vậy để đáp ứng đước các nhu cầu thị hiếu hiện nay địa phương đang dần từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đang là nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao và từng bước phục vụ theo nhu cầu của người tiêu dùng, cần phải chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tiếp thu nhanh các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, song việc lương thực, thực phẩm vẫn được coi là trọng tâm, chuyển dần các diện tích cấy lúa cho năng suất thấp sang sản xuất cây ăn quả, rau màu, thực phẩm cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu nhằm tăng thu nhập và đáp ứng được nhu cầu cho người tiêu dùng. Các sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra là mặt hàng tươi sống, khó bảo quản cho nên Nhà nước cùng địa phương nên chú trọng đầu tư xây dựng và phát triển công nghiệp chế biến tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Chính quyền kết hợp với HTX phải đổi mới nội dung phương thức hoạt động cho phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay, đưa nhanh giống cây trồng, con vật nuôi có hiệuquả vào sản xuất vừa phục vụ tiêu dùng trong nội bộ vừa sản xuất hàng hoá ra các thị trường lân cận, thay đổi tập quán chăn nuôi cũ chuyển dần sang chăn nuôi bằng thức ăn công nghiệp để chăn nuôi sớm trở thành sản xuất chính ở xã Phú Sơn.
Chỉ đạo chặt chẽ lịch thời vụ và quy vùng sản xuất cây trồng mới, tiếp tục đẩy mạnh việc đổi mới phương thức luân canh, xen canh, gối vụ, khai thác triệt để tiềm năng của đất.
HTX nên tìm kiếm các khu công nghiệp, các nhà máy chế biến ở các tỉnh lân cận để có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm làm ra cho nhân dân địa phương, có như vậy việc tiêu thụ sản phẩm mới có hiệu quả và việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp mới thành công đạt hiệu quả cao.
Chương Iii: Giải pháp và kiến nghị
I. giải pháp
1.Tập trung tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục làm chuyển biến sâu sắc nhận thức của các cấp, các ngành và người sản xuất về yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu cây trồng, vật nuôi để chuyển sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá và thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân . Đồng thời cần nhận thức đầy đủ chuyển đổi cơ cấu là công việc phức tạp, khó khăn bởi phải thay đổi tập quán sản xuất cũ của nông dân. Vì vậy đòi hỏi các cấp, các ngành và mọi người phải có quyết tâm cao, khắc phục cả hai khuynh hướng do dự, chần chừ, trông chờ, ỷ lại hoặc nóng vội, chủ quan, đốt cháy giai đoạn .
2. Tiến hành công tác qui hoạch, qui vùng chuyển đổi các loại cây trồng, vật nuôi, bảo đảm tính tổng đồng bộ giữa sản xuất chế biến và tiêu thụ, tạo vùng sản xuất hàng hoá tập trung bao gồm : vùng chăn nuôi, vùng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu, vùng chuyên màu, vùng lúa giống chất lượng cao, vùng nuôi trồng thuỷ hải sản. Việc quy hoạch các loại cây, con phù hợp với kinh nghiệm, khả năng tiếp thu ứng dụng của ngời sản xuất và bảo vệ môi trường sinh thái .
3.Tiêu thụ sản phẩm:
Tích cực tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản, thực phẩm.Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng của quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh của nghiệp. Đó chính là quá trình thực hiện giá trị của sản phẩm, là giai đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất và bước vào lưu thông, đưa sản phẩm từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực tiêu thụ .
Cán bộ quản lý HTX nhạy bén với thị trường tìm hiểu nghiên cứu với thị trường để đưa các loại cây con có giá trị kinh tế cao để mở rộng thị trường tiêu thụ có quan hệ trực tiếp nơi tiêu thụ sản phẩm không qua đối tác như hiện nay để tăng giá thành sản phẩm và giảm khâu chi phí.
Đối với lĩnh vực tiêu dùng, tiêu thụ tốt sản phẩm sẽ đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng đồng thời còn có tác dụng điều chỉnh và hớng dẫn tiêu dùng mới, đặc biệt đối với những sản phẩm mới. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất phải hớng tới tiêu dùng và lấy tiêu dùng làm mục tiêu để hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong cầu nối này. Thông qua tiêu thụ sản phẩm mà nắm bắt thị hiếu của người tiêu dùng về số lợng và chất lợng, chủng loại mặt hàng. Tiêu thụ sản phẩm là một hoạt động nằm trong lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng. Vì vậy tiêu thụ sản phẩm kịp thời và nhanh chóng là tiền đề quan trọng thực hiện phân phối sản phẩm và kết thúc quá trình sản xuất kinh doanh .
Sản phẩm nông nghiệp và thị trường nông sản mạnh nhất vì sản xuất nông nghiệp gắn chặt với điều kiện tự nhiên và mang tính chất của vùng .
Tính chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp có tác động mạnh mẽ đến cầu của thị trường và giá của nông sản. Sự khan hiếm dẫn đến giá cao vào đầu vụ ,cuối vụ và sự dư thừa làm cho giá giảm vào chính vụ. Việc chế biến bảo quản và dự trữ sản phẩm để đảm bảo cung cầu tương đối ổn định là một yêu cầu cần được chú ý đến trong quá trình tiêu thụ sản phẩm .
Sản phẩm rất đa dạng, phong phú trở thành nhu cầu tối thiểu hàng ngày của mỗi người, với thị trường rất rộng lớn trên phạm vi không gian nên việc tổ chức tiêu thụ phải hết sức linh hoạt .
Một bộ phận nông sản như : lương thực, thực phẩm được tiêu thụ nội bộ với tư cách là tư liệu sản xuất . Vì vậy phải có cách tổ chức tốt việc tiêu thụ đối với nông sản được coi là hàng hoá vượt ra ngoài phạm vi tiêu dùng của gia đình .
Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm có các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ :
a. Nhóm nhân tố thị trường :
Nhân tố thị trường có ảnh hởng rất lớn ,chi phối quá trình sản xuất.
Nhu cầu thị trường về nông sản phụ thuộc vào thu nhập , cơ cấu dân cư ở các vùng các khu vực. Cầu nông sản còn phụ thuộc vào cung sản phẩm, phải tìm hiểu nắm bắt các đối thủ cạnh tranh của mình . Để tổ chức tốt việc tiêu thụ sản phẩm các đơn vị phải hiểu rõ được các đối thủ cạnh tranh của mình về mặt chất lượng, số lượng sản phẩm, đối tượng khách hàng.
Giá cả là một yếu tố quan trọng, là thước đo sự điều hoà cung cầu trong nền kinh tế thị trường, giá cả tăng cho thấy sản phẩm đó đang khan hiếm, cầu lớn hơn cung và ngược lại.
Ngoài ra khi xét đến cầu sản phẩm cũng phải tính đến thị hiếu tập quán và thói quen tiêu dùng của cư dân.
+ Nhân tố về cơ sở vật chất kỹ thuật: hệ thống cơ sở hạ tầng (đường xá cầu cống, phơng tiện giao thông vận tải, hệ thống thông tin)
+ Các nhân tố về kỹ thuật và công nghệ của sản xuất và tiêu thụ đặc biệt quan trọng trong khả năng tiếp cận và mở rộng thị trưng tiêu thụ sản phẩm.
b. Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô và cơ chế quản lý:
Chính vĩ mô quản lý của nhà nước có liên quan đến tiêu thụ sản phẩm
- Chính sách nhiều thành phần kinh tế; điều này nói lên cung sản phẩm nông nghiệp do nhiều tác nhân tham gia. Nó thể hiện tính hoàn hảo của thị trường nông nghiệp nghĩa là cùng một loại sản phẩm có nhiều người bán trên thị trường.
- Chính sách tiêu dùng: chính sách này có liên quan đến việc tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư. Chính sách tiêu dùng nhằm vào việc tăng đời sống của nhân dân, trên cơ sở đó tăng sức mua của nhân dân.
- Chính sách đầu tư và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp. Đầu tư trước hết vào việc xây dựng và cải tạo xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng: điện,đường, trường, trạm, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
- Chính sách giá cả bảo hộ sản xuất
c. Nhóm nhân tố về trình độ tổ chức tiêu thụ:
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào trình độ và năng lực tổ chức quản lý, nghệ thuật và khả năng tiếp thị. Vì vậy việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý mà trước hết là đội ngũ cán bộ làm công tác tiêu thụ sản phẩm là hết sức quan trọng.
* Tổ chức tiêu thụ sản phẩm:
- Nghiên cứu và dự báo thị trường:
Thi trường là hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Nắm bắt được thị trường, nghiên cứu đầy đủ dự báo chính xác thị trường tiêu thụ giúp cho đơn vị có kế hoạch và chiến lược đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, nghiên cứu và dự báo thị trường là nội dung quan trọng trước tiên.
+ Nghiên cứu thị trường: nhằm khả năng xác định khả năng tiêu thụ sản phẩm của đơn vị trên cơ sở đó nâng cao khả năng thích ứng với thị trường của các sản phẩm.
+ Dự báo thị trường: trên cơ sở nghiên cứu nắm bắt thị trường để có những giải pháp thích hợp đối với việc tiêu thụ sản phẩm của đơn vị. Song điều quan trọng là giúp cho việc phân tích đánh giá, dự báo thị trường tiêu thụ của đơn vị. Việc dự báo đúng đắn giúp cho đơn vị vạch ra hớng chiến lược tham gia vào thị trường từ đó có quyết định đúng đắn đối với việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
+ Việc nghiên cứu và dự báo thị trường một cách cụ thể, tỷ mỉ với những phương pháp thích hợp giúp cho đơn vị có những điều chỉnh và quyết định đúng đắn trong sự phát triển sản xuất kinh doanh của vùng.
- Xác định giá cả tiêu thụ
Giá cả là phạm trù kinh tế hàng hoá với chức năng là thước đo giá trị, giá cả là tín hiệu cho người sản xuất tiêu dùng và trở thành thông tin quan trọng thể hiện sự biến động cung- cầu trên thị trừơng.Giá cả trở thành công cụ quan trọng điều chỉnh quan hệ cung cầu. Vì vậy giá cả vừa có tác dụng kích thích sản xuất vừa hạn chế đối với người tiêu dùng.
Giá bán = chi phí sản xuất + chi phí lưu thông + lợi nhuận
- Tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm:
Là việc tổ chức đa sản phẩm của đơn vị đến người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng người tiêu dùng là đối tượng phục vụ sản xuất phải lựa chọn phương thức nào để đa sản phẩm tới người tiêu dùng một cách nhanh nhất, kịp thời và thuận lợi nhất.
- Trong nhiều trường hợp cần tổ chức thông tin quảng cáo giới thiệu sản phẩm, hướng dẫn người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của mình thu hút sự chú ý của khách hàng bằng nhiều phương tiện thông tin đại chúng. Đối với các sản phẩm chế biến cần đăng ký sản phẩm của mình cả về quy cách, nhãn, mẫu mã.
+ Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, giới thiệu sản phẩm nắm bắt nhanh và dự báo sớm nhu cầu thị trường để bố trí sản xuất, chấn chỉnh kịp thời các hoạt động kiểm tra, kiểm soát gây ách tắc cho quá trình lưu thông tiêu thụ hàng hoá.
+ Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế và người sản xuất tham gia tìm kiếm thị trường, hợp đồng sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Quán triệt phương châm”chỉ sản xuất những cây con mà thị trường cần”
+ Sở thương mại chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, các doanh nghiệp tìm kiếm thông tin thị trường để hướng dẫn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
+ Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn thành lập bộ phận để cung cấp thông tin về sản xuất và thị trường cho cơ sở.
- Có chính sách khen thởng cho cá nhân và doanh nghiệp tìm được thị trường tiêu thụ nông sản.
4. Tích cực tìm kiếm, khảo nghiệm và đưa vào sản xuất đại trà các giống cây con có giá trị kinh tế cao, sẵn có thị trường tiêu thụ và phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương. Không ngừng tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thật, nhanh chóng ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học ,công nghệ tiên tiến ,nhất là công nghệ sinh học để từng bước chủ động nguồn giốngvà thức ăn nhằm nâng cao năng suất ,chất lượng ,hạ giá thành , tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm .
Đầu tư xây dựng và mở rộng các cơ sở sản xuất giống có chất lượng tốt.
Tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi , kiên cố hoá những kênh mương chủ yếu, phục vụ kịp thời tưới tiêu cho vùng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi .
Đa dạng hoá các hình thức đầu tư để xây dựng ,nâng cấp các cơ sở chế biến nông sản và sản xuất thức ăn chăn nuôi đủ năng lực phục vụ nhu cầu sản xuất .
Tiếp tục thực hiện phương trâm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm “ để nâng cấp , xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng nông thôn ,kiến thiết đồng ruộng nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng , vật nuôi như :hệ thống đường giao thông nông thôn , điện , nước sạch , thông tin .
Mở rộng các hoạt động dịch vụ phục vụ nông nghiệp ,cung ứng kịp thời, đầy đủ các loại vật tư nông nghiệp , đảm bảo đúng chủng loại và chất lượng .Tăng cường quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực giống cây trồng, vật nuôi, thuốc bảo vệ thực vật thuốc thú y thức ăn chăn nuôi , phân bón.
5. Củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn .
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ mở rộng sản xuất theo quy mô trang trại , gia trại .
Tăng cường bồi dưỡng , tập huấn kỹ thuật sản xuất , nghiệp vụ quản lý cho các hộ nông dân và cán bộ quản lý hợp tác xã. Xây dựng các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi để nhân ra diện rộng, tạo điều kiện để cán bộ và nông dân đi nghiên cứu , học tập các mô hình chuyển đổi cơ cấu phù hợp , có hiệu quả về áp dụng ở địa phương mình .
6. Ban hành và triển khai thực hiện kịp thời cơ chế chính sách : giao quyền sử dụng đất chuyển đổi cơ cấu cho hộ nông dân ổn định tuỳ theo từng loại cây trồng , vật nuôi, đồng thời cho phép chuyển đổi phương thức sản xuất từ cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi , trồng cây con khác và xây dựng các trang trại, gia trại .
Hàng năm ngân sách xã dành một khoản kinh phí cần thiết hỗ trợ các cơ sở thực hiện chính sách khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng , vật nuôi . Tiếp tục bố trí kinh phí khuyến nông, sự nghiệp khoa học để hỗ trợ xây dựng mô hình đào tạo nguồn nhân lực và ứng dụng các tiến bộ , kỹ thuật . Tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân vay vốn để phất triển sản xuất , kinh doanh .
Để tăng hệ thống sử dụng đất và giá trị trên một đơn vị diện tích thì ban quản lý hợp tác xã cần sớm đưa cây vụ đông vào . Đối với đồng đất của xã Phú Sơn cây thích hợp nhất là cây ngô và cây khoai tây . Hai loại cây này được trồng từ lâu ở Phú Sơn , song do người dân và ban quản lý hợp tác xã chưa quan tâm đến cây vụ đông cho nên cây ngô và cây khoai tây chủ yếu là cây ngô chưa được phát triển. Muốn tăng tỷ trọng trong chăn nuôi thành ngành sản xuất chính thì bên cạnh đó ban quản lý hợp tác xã cần chỉ đạo và đưa vào những giống ngô có năng suất cao để trồng trên diện rộng , để giải quyết nguồn thức ăn lớn cho chăn nuôi , thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển .
Đối với nuôi trồng thuỷ hải sản : ban quản lý hợp tác xã cần quy hoạch vùng chuyên canh, từng bước chuyển vùng trũng giáp chân đê thành hồ , đầm nuôi trồng thuỷ hải sản .
* Ngành chăn nuôi : phấn đấu đưa ngành chăn nuôi thành ngành sản xuất chính , có thu nhập ngang tầm với trồng trọt .
Tuy đàn lợn đã phát triển khá mạnh song về chất lượng lại chưa được chú trọng , đó là giống lợn hớng nạc chưa được đầu tư, khuyến khích vào địa phương. Đây là một vấn đề mà ban quản lý cần sớm đưa vào , bên cạnh lợn thịt thì đàn lợn nái cũng phát triển khá mạnh . Song lợn nái mẫu ngoại 100% thì ở Phú Sơn chưa có . Để tiếp thu nghị quyết của tỉnh Uỷ và nghị quyết 27 của huyện về phát triển chăn nuôi , ban quản lý hợp tác xã cần xây dựng mô hình gia trại để làm cơ sở nhân ra diện rộng, cần có chính sách hỗ trợ một phần kinh phí hoặc tạo điều kiện hỗ trợ cho vốn ban đầu để phát triển đàn lợn mẫu ngoại . Có như vậy đàn lợn của xã không chỉ nhiều về số lượng mà chất lượng tỷ lệ nạc tăng lên , giá thành hiệu quả kinh tế sẽ lớn lên rất nhiều so với hiện nay .
Trong quá trình phát triển ngành chăn nuôi thì một khâu vô cùng quan trọng có tính chất quyết định thành bại của chăn nuôi đó là công tác thú y, những năm qua công tác tiêm phòng cho đàn gia súc gia cầm ở xã chưa được các hộ gia đình chú trọng.
+ Đàn gia súc gia cầm là nguồn thu nhập chính của 90% hộ gia đình ở xã, vì vậy hàng năm ban quản lý hợp tác xã cần có biện pháp, kế hoạch, thực hiện tốt dịch vụ thú y, pháp lệnh thú y để dịch vụ này hoạt động có hiệu quả tốt hơn, thực hiện theo định mức kinh tế đã được xây dựng trong chuyển đổi HTX
* Ngành thương mại dịch vụ:
Khuyến khích các thành phần đầu tư cho phát triển mở rộng hệ thống kinh doanh dịch vụ liên kết, liên doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá nông sản thực phẩm. Tạo điều kiện để nông dân phát triển hàng hoá. Phát triển mạnh dịch vụ sản xuất nông nghiệp như cung ứng vật tư, giống cây trồng con vật nuôi và các loại hàng hoá phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, xây dựng đời sống dân sinh.
* Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp:
Xây dựng làng nghề xã nghề như: đánh đay, dệt chiếu, dệt khăn, phát triển nghành nghề mộc của địa phương.
Có chính sách cho các hộ gia đình vay vốn để phát triển sản xuất phù hợp với quy định của ngân hàng.
II.một số tình huống ở địa phương cần được sử lý
Thực hiện theo đề án sản xuất cây vụ đông năm 2005 xã PHú Sơn đã tổ chức chỉ đạo cho bà con nhân dân trong xã tích cực trồng cây vụ đông đưa giống cây ưa lạnh (khoai tây) vào diện tích gieo trồng của hộ gia đình bà con nhân dân đăng ký mua giống với HTX, HTX đã đi ký kết hợp đồng với số lượng mà bà con đã đăng ký chủ yếu là giống khoai tây Trung Quốc và có hỗ trợ về giống cho nhân dân đến thời gian đem gieo trồng HTX DVNN đi lấy về và giao cho các thôn chuyển đến từng hộ gia đình đã đăng ký. Xong trước một ngày đem trồng thì giống khoai tây hầu như bị thối hỏng hết bà con đem trả lại HTX và có những lời nói không hay đến ban quản lý HTX. Đồng thời một số diện tích bà con trồng giống khoai sẵn có của mình do ảnh hưởng của thời tiết mưa lớn đã làm toàn bộ diện tích đó bị ngập úng và gây thiệt hại lớn làm cho nhân dân hoang mang và lo lắng. Đứng trước tình hình đó là chủ nhiệm HTX em sử lý tình huống như sau:
1. Họp ban quản lý HTX đề ra giải pháp và xem xét đến nguyên nhân giống khoai tây bị hỏng (và được biết là do khâu bảo quản giống của công ty giống).
2. Giải thích cho bà con hiểu và thông cảm nhận lại toàn bộ giống khoai tây bj hỏng đó và vận động tuyên truyền bà con tiếp tục mua giống khoai tây Hà Lan với gía 6.500đ để thay thế (ban quản lý đứng ra mua giống hộ cho nhân dân).
Đối với những diện tích bị ngập úng tuyên truyền bà con tháo tát nước giải thoát kịp thời việc úng ngập số diện tích đã trồng tăng cường việc chăm sóc và bón phân.
Ban quản lý HTX về nghiệm thu số diện tích bị ngập úng và có chính sách hỗ trợ 50% về giống để nhân dân khắc phục hậu quả trên và xin hỗ trợ kinh phí của cấp trên và chịu trách nhiệm lo giống cho bà con tiếp tục sản xuất
Iii. một số kiến nghị.
1. Đối với HTX dịch vụ nông nghiệp:
Cần giải quyết một số vấn đề sau:
- Tích cực chuyển tải khoa học kỹ thuật, thường xuyên mở các lớp tập huấn về nông nghiệp cho nhân dân.
- Phát huy tốt nguồn vốn sẵn có của HTX đồng thời tranh thủ các nguồn vốn từ bên ngoài để mở rộng các khâu dịch vụ phục vụ xã viên: Tích cực sử dung điện bơm nước vào các giờ thấp điểm để tiết kiệm điện.
- Tập trung mọi nguồn lực, biện pháp, quan hệ đối tác để làm thật tốt dịch vụ bao tiêu sản phẩm cho nhân dân.
2. Với các cơ quan chức năng cấp trên:
1. Nhà nước :
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về giá nâng sản phẩm cho ngời nông dân , ổn định giá vật tư , phân bón ( hiện nay giá phân bón lên rất cao ).
2. Các cấp các ngành cần cải tiến cách tập huấn kỹ thuật cho người nông dân , để qua đó ngời nông dân tiếp thu được những kiến thức tiến bộ mới của khoa học kỹ thuật các giống cây trồng , vật nuôi cho năng suất cao , chất lợng tốt , đáp ứng yêu cầu của thị trường .
3. Xây dựng và phát triển khu công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
4. Tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng cho vùng nông thôn .
5. Khuyến khích phát triển làng nghề và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp .
- Các cơ quan chức năng cấp tỉnh, huyện cần đa dạng hoá hình thức đầu tư xây dựng các nhà máy bảo quản, chế biến nông sản, sản xuất thức ăn chăn nuôi như nhà lạnh, nhà máy sấy, nghiền... tạo điều kiện mở rộng diện tích cây vụ đông, hạn chế việc đi lại ký kết hợp đồng với các Công ty, nhà máy ở tỉnh bạn.
- Để tạo điều kiện cho các HTX dịch vụ nông nghiệp mở rộng hoạt động dịch vụ phục vụ nông nghiệp, cung ứng các loại vật tư nông nghiệp, đảm bảo đúng chủg loại và chất lượng, đề nghị cần tăng cường quản lý Nhà nước tốt hơn nữa trong các lĩnh vực giống cây trồng, con vật nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thức ăn gia súc, phân bón đối với các hộ tư thương buôn bán không có giấy phép kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, để đủ điều kiện kinh doanh các loại vật tư nói trên.
- Nhà nước có chính sách, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp đặc biệt là hệ thống tưới tiêu, thuỷ lợi nội đồng, xây dnựg hệ thống máng cứng dẫn nước.
- Ngân sách ngân hàng, tín dụng: Đề nghị mở rộng phạm vi cho vay vốn với lãi suất thấp để hỗ trợ nhân dân phát triển sản xuất.
- Về công tác khoa học kỹ thuật đề nghị làm tốt công tác khuyến nông, đặc biệt là về giống và công nghệ chế biến nông sản, có chính sách hỗ trợ việc tiêu t hụ snả phẩm nông nghiệp và thủ công.
- Tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ quản lý HTX được đóng bảo hiểm và tổ chức đi tham quan các mô hình sản xuất giỏi. Từ đó xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh ở cơ sở đạt hiệu quả kinh tế cao. Phấn đấu mục tiêu xây dựng "Phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá".
3. Đối với hộ xã viên:
- Tuân thủ và ứng dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ trong sản xuất, xoá bỏ triệt để phương thức sản xuất cũ.
- Chấp hành nghiêm chỉnh nội quy, quy chế về hoạt động dịch vụ mà Đại hội xã viên đã phê chuẩn.
- Tích cực tham gia các lớp tập huấn, hội nghị đầu bờ về việc truyền đạt chương trình khuyến nông do Ban khuyến nông và Ban quản trị HTX tổ chức.
Có như vậy trong quá trình tổ chức thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá thì mới chuyển dịch phát triển nền kinh tế của địa phương, xây dựng nếp sống văn minh, xây dựng nông thôn mới, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
ành công đạt hiệu quả cao.nh Thái Bình nói chung ngày càng phát triển.
*Kiến nghị của bản thân :
Phải đào tạo đội ngũ có trình độ về quản lý kinh tế , các cán bộ khoa học về chăn nuôi , nuôi trông thuỷ sản , nhất là cán bộ thị trường để tạo đầu ra cho sản phẩm
Khuyến khích tất cả bà con xã viên những ai có thể tìm đợc thị trường tiêu thụ nông sản . Có chế độ khen thởng , có thể được tính theo phần trăm hoa hồng hoặc có thể được đi thăm quan các mô hình sản xuất ở xã bạn trong tỉnh hoặc ngoài tỉnh. Hình thức khuyến khích này do đại hội xã viên quyết định .
Có chế độ khen thởng đối với những ai tạo được công ăn việc làm cho bà con
( đưa ngành nghề mới về địa phương ).
Có chế độ khen thưởng đối với những hộ gia đình làm tốt việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho hiệu quả cao .
Cán bộ địa phương xin với cán bộ ở bộ nông nghiệp, sở nông nghiệp, phòng nông nghiệp cho đi thăm quan học hỏi kinh nghiệm ở những nơi có trình độ kỹ thuật , mô hình sản xuất điển hình . Đề nghị với ngân hàng phát triển nông thôn và nông thôn được vay vốn với lãi xuất thấp thông qua quỹ xoá đói giảm nghèo. Xin đầu tư sản xuất từ chương trình khuyến nông : Hỗ trợ về mặt khoa học kỹ thuật, giống cây, con giống .
Đề nghị với cán bộ kỹ thuật của phòng nông nghiệp trực tiếp hướng dẫn cho bà con về mặt kỹ thuật trong trồng trọt cũng như trong chăn nuôi .
Các giống cây trồng, con vật nuôi phải được nuôi trồng thử nghiệm rồi mới đưa vào sản xuất đại trà ở địa phương.
- Ban quản lý hợp tác xã phải chiụ trách nhiệm về những giống mà đã đưa vào sản xuất tại địa phương.
- Mở rộng liên doanh, liên kết để thực hiện thâm canh có hiệu quả
- Cải tiến công tác lãnh đạo và chỉ đạo sản xuất trong quá trình thực hiện thâm canh
+ Những cán bộ trực tiếp lãnh đạo phải không ngừng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế, phải nhạy bén giải quyết các vấn đề mới nảy sinh.
+ Cán bộ lãnh đạo phải không ngừng nâng cao các phương pháp và vận động quần chúng nhân dân, phát huy quyền làm chủ và tính sáng tạo của quần chúng trong sản xuất.
+ Không ngừng hoàn thiện các chính sách kinh tế của nhà nớc đối cới nông nghiệp.
Trong quá trình thực hiện thaam canh cần giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các giải pháp, phù hợp với điều kiện tự nhiên và kinh tế của vùng.
Liên hệ của bản thân:
Với cương vị trưởng đoàn thể( Đoàn thanh niên) vai trò trách nhiệm của bản thân trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở địa phương như sau:
1. Luôn bám sát các chủ trương nghj quýet của đảng, chính quỳên và cụ thể hoá để truyền đạt tới đoàn viên, hội viên thực hiện có hiệu quả tốt.
2. Kết hợp với các ban ngành trong xã thường xuyên mở lớp tập huấn KHKT các khâu chăm sóc tới từng đoàn viên, hội viên tiếp thu và ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp.
3. Vận động tuyên truyền đoàn viên hội viên tham gia lớp học IPM
4. Liên hệ với ngân hàng chính sách xã hội để tín chấp vay vốn cho đoàn viên hội viên được vay để đầu tư cho việc trồng cây và con vật nuôi cho hiệu quả kinh tế cao, khuyến khích, vận động đoàn viên mạnh dạn đầu tư cho việc trồng cây có hiệu quả cao hiện nay như: Hoa và cây cảnh, mạnh dạn xây dựng mô hình trang trại, gia trại tập trung theo đúng quy trình để phục vụ tốt cho việc chăn nuôi gia súc gia cầm.
Kết luận
Qua quá trình học tập trên ghế nhà trường và thời gian thực tập tại địa phương, em nhận thức được rằng lý luận phải gắn liền với thực tế. Phải biết vận dụng linh hoạt những lý thuyết đã học cho phù hợp với thực tế là hết sức quan trọng và không thể thiếu được. Đây chính là thời gian giúp sinh viên vận dụng thử nghiệm những kiến thức đã học, hiểu đúng và hiểu sâu sắc hơn những kiến thức đã có và bổ xung những kiến thức còn thiếu hụt mà chỉ qua thực tế mới có được. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập em đã cố gắng đi sâu tìm tòi học hỏi, trau dồi kiến thức của bản thân.
Trong nền kinh tế thị trường, mục đích của địa phương là sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá để bán thu lợi nhuận. Vì vậy ngoài nhiẹm vụ tổ chức tốt quá trình sản xuất còn phải thực hiện tiêu thụ sản phẩm một cách kịp thời, đúng thời vụ. Để giúp cho chủ nhiệm HTX, chủ tịch UBND xã quyết định phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cần phải tổ chức đưa vào sản xuất những giống cây trồng, con vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên và phù hợp với chất đất của địa phương.
Là một xã thuần nông đi lên bằng cây lúa, do vậy lợi ích hiện nay chưa cao những bước theo đuổi lợi ích lâu dài thì có sự đảm bảo tích luỹ đủ lực và điều kiện để có những bớc tiến xa hơn: phát triển- hiệu quả - ổn định – bền vững.
Chuyên đề được thực tế là do sự hướng dẫn của các thày cô giáo cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của ban Đảng uỷ, UBND ban quản trị HTX dịch vụ nông nghiệp xã Phú Sơn, sự cố gắng của bản thân.
Kết thúc chuuyên đề này, một lần nữa em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các thầy giáo, cô giáo cùng chính quyền địa phương./.
Thái Bình, tháng 8 năm 2005
Sinh viên
Bùi Thị Lan
Tài liệu tham khảo:
- Nghị quyết Đại hội đai biểu Đảng lần thứ IX.
- Nghị quyết trung ương 5 khoá IX
- Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ 16
- Nghị quyêt đại hội đại biểu đảng bộ huyện lần thứ 12
- Báo cáo chính trị đại hội đại biểu Đảng bộ xã Phú Sơn nhiệm kỳ (2000 - 2005)
- Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của UBND xã Phú Sơn qua các năm 2002, 2003, 2004. Phương hướng nhiệm vụ năm 2005.
- Đề án chuyển dịch cơ cáu kinh tế xã Phú Sơn nhiệm kỳ 2000-2005
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7715.doc