Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ hàng hoá là cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vì thế công ty phấn đấu đến năm 2010 thay đổi một bước lớn cơ cấu xuất khẩu với các nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên công ty cũng xác định việc đổi mới cơ cấu xuất khẩu phải tính đến những nhân tố cơ bản như thị trường, khả năng sản xuất trong nước và hiệu quả kinh doanh. Công ty đánh giá cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả là yếu tố quan trọng hàng đầu của vấn đề đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu thông qua chính sách lựa chọn hướng ưu tiên đầu tư vào những ngành xuất khẩu hoặc hướng vào xuất khẩu. Nó cũng là yếu tố quan trọng trong sự lựa chọn cơ cấu mặt hàng và mặt hàng xuất khẩu kinh doanh.
37 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tại công ty Haprosimex Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng tăng của khách hàng và đặc biệt là sức ép từ các đối thủ cạnh tranh ở cả trong và ngoài nước, tháng 12 năm 2000, ban giám đốc công ty quyết định sát nhập tiếp với công ty Dịch vụ ăn uống Bốn mùa lấy tên là Công ty SX-DV & XNK Nam Hà Nội (HAPROSIMEX Sài Gòn) trực thuộc Sở Thương mại Hà Nội, có Cơ sở 1 tại 38-40 Lê Thái Tổ - Hà Nội, Cơ sở 2 tại 28B Lê Ngọc Hân - Hà Nội và văn phòng đại diện phía Nam tại Lý Chính Thắng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Đến lúc này bộ máy của công ty đã đi vào guồng hoạt động thực sự. Cơ cấu tổ chức của công ty ngày càng mở rộng đặc biệt là việc thành lập thêm: Trung tâm dịch vụ việc làm và Trung tâm dịch vụ Bốn mùa. Cho đến năm 2001 vốn cố định của công ty đã lên đến 20 triệu đô la Mỹ, công ty HAPROSIMEX Sài Gòn đã là một công ty kinh doanh XNK độc lập, chịu sự quản lý của Sở Thương mại Hà Nội cũng như sự quản lý của Nhà nước về hoạt động XNK thông qua Bộ Thương mại.
2. Cơ cấu tổ chức của công ty
Công ty luôn có sự thay đổi về cơ cấu, tổ chức, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về ngành hàng, đi sâu triển khai một số chức năng, nhiệm vụ để phục vụ tốt sản xuất kinh doanh: sự ra đời của phòng tạp phẩm tách từ phòng TCMN. Do đó hoạt động của công ty ngày càng đi vào vững chắc.
Giám đốc
Phòng Tổ chức hành chính
Phòng Khu vực & thị trường
Phòng XNK I
Phòng Thủ công mỹ nghệ
Phòng Nông sản
Trung tâm TM-DL-DV Bốn mùa
Phòng Kế toán tài chính
Phòng trưng bày & giới thiệu sản phẩm
Phòng XNK II
Phòng Gỗ mỹ nghệ
Phòng Tạp phẩm
Trung tâm XNK máy và thiết bị
Trợ lý Giám đốc
Phó Giám đốc
Phó Giám đốc
+ Giám đốc là người có quyền hành cao nhất, ra mọi quyết định liên quan tới sự ổn định và phát triển của công ty.
Chính bởi vì vậy để hỗ trợ trong công việc giám đốc bổ nhiệm một trợ lý và 2 Phó giám đốc. Trợ lý và 2 Phó giám đốc là những người trực tiếp truyền đạt mọi mệnh lệnh và quyết định của giám đốc tới từng phòng ban và từng cán bộ công nhân viên.
+ Phòng tổ chức hành chính , Phòng kế toán tài chính: gồm 1 đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm , có trình độ chuyên môn vững vàng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đây là hai phòng cơ bản thuộc bộ máy hoạt động của bất kỳ công ty nào.
Dưới đây xin được trình bày chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của một số phòng chuyên môn và các phòng thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu:
+ Phòng khu vực thị trường: đây là phòng có vai trò và nhiệm vụ hết sức quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với hoạt động kinh doanh XNK của công ty. Phòng có nhiệm vụ nghiên cứu, khảo sát, tiếp cận thị trường, duy trì và tìm ra các chân nguồn hàng mới, làm công tác đối ngoại với bạn hàng trong và ngoài nước. Nói tóm lại nguồn hàng đầu vào và thị trường đầu ra có phong phú, đa dạng và đáng tin cậy hay không chính là thước đo đánh giá chính xác hoạt động của phòng khu vực và thị trường.
+ Phòng trưng bày và giới thiệu sản phẩm: có nhiệm vụ đơn giản là trưng bày các mẫu hàng và tổ chức giới thiệu cho khách hàng đến tham quan.
+ Phòng XNK I và phòng XNK II: phần lớn đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm kinh doanh hàng XK. Điều này cũng dễ hiểu vì đây là 2 phòng mới thành lập nên chưa kịp thời nắm bắt được guồng máy hoạt động của công ty. Nhưng chắc chắn trong thời gian tới với mặt hàng khá đa dạng và một khu vực thị trường lớn phòng XNK I và II sẽ đạt kết quả kinh doanh cao.
+ Phòng gốm mỹ nghệ: kinh doanh mặt hàng gốm nên có những đặc điểm riêng: quản lý chất lượng có nhiều khó khăn, kích thước khó chính xác như mẫu mã, thời hạn giao hàng phụ thuộc nhiều vào thời tiết,... với số lượng cán bộ công nhân viên ít ỏi (10 người) phòng đã luôn nỗ lực để đạt được chỉ tiêu mà công ty giao phó.
+ Phòng gỗ mỹ nghệ: được giao nhiệm vụ tổ chức và xây dựng nguồn hàng gỗ MN, sơn mài và trang trí nội thất XK, xây dựng hệ thống đại lý và cửa hàng tiêu thụ nội địa 1 số mặt hàng như Xuân Hoà, Sơn Mài, khoá Việt Tiệp. Với tinh thần lao động nỗ lực nhiệt tình trong công việc, từ chỗ chỉ XK 1 mặt hàng là thớt gỗ cao su nay XK sản phẩm gỗ đã đa dạng phong phú hơn nhiều.
+ Phòng nông sản: thường xuyên có biến động về giá và mức độ biến động cao. Hơn nữa số lượng, chất lượng hàng hoá lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố thiên nhiên, hàng hoá lại khó bảo quản, mau hỏng nên đòi hỏi quá trình chào bán cũng như thực hiện hợp đồng phải tính toán kỹ, dự đoán nhanh nhạy, tránh tối đa rủi ro tổn thất.
Không có đội ngũ cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh hàng NK nên đã được những kết quả tốt trong quá trình kinh doanh.
+ Trung tâm XNK máy móc và thiết bị: thành lập tháng 4/2000 nên còn đang trong giai đoạn tiếp cận và làm quen với thị trường. Nhiệm vụ chủ yếu và trước mắt của trung tâm sẽ là nhập khẩu một số máy nông nghiệp và một số máy phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, thực hiện các hợp đồng tư vấn thương mại.
+ Trung tâm Thương mại - Du lịch - Dịch vụ Bốn mùa có cửa hàng kinh doanh tại 38 Lê Thái Tổ, kinh doanh chủ yếu mặt hàng ăn uống, nước giải khát cho khách du lịch Hồ Gươm.
3. Chức năng và nhiệm vụ của HAPROSIMEX Sài Gòn
- Xuất qua cảng Sài Gòn các mặt hàng nông, lâm, hải, sản dựa trên điều kiện và tiềm năng to lớn về hàng XK của các tỉnh phía Nam.
- Nhập nguyên liệu, thiết bị vật tư kỹ thuật phục vụ đời sống của nhân dân Thủ đô và các tỉnh.
- Mục đích hoạt động của HAPROSIMEX Sài Gòn là góp phần phát triển sản xuất thông qua liên doanh liên kết tạo thêm hàng XK thu ngoại tệ để nhập khẩu vật tư kỹ thuật, hàng tiêu dùng nhằm phục vụ yêu cầu của sản xuất và đời sống của nhân dân.
Nội dung hoạt động của công ty bao gồm:
Công tác XK là hoạt động kinh doanh chính, quan trọng nhất có tính chiến lược quyết định sự phát triển của công ty.
- Tổ chức sản xuất, khai thác chế biến các mặt hàng nông, hải sản và đặc sản để XK.
- Đưa hàng công nghiệp từ Hà Nội xuống địa phương, cơ sở các tỉnh phía Nam để trao đổi lấy hàng XK.
- Công ty được quyền XNK trực tiếp, uỷ thác và nhận uỷ thác cho các đơn vị kinh tế khác. Công ty có quyền ký kết Hợp đồng với các tổ chức kinh tế nước ngoài. Đồng thời được dự các hội chợ giới thiệu sản phẩm, đàm phán quyết định giá mua, giá bán với tất cả các tổ chức kinh tế nước ngoài và các tổ chức kinh tế trong nước.
II. Tình hình kinh doanh của công ty trong thời gian qua
1. Tình hình XNK với thị trường nước ngoài
Công ty HAPROSIMEX Sài Gòn luôn coi XK là hoạt động kinh doanh chính nên ban lãnh đạo công ty luôn tập trung mọi nguồn lực và sự quan tâm tới hoạt động xuất khẩu.
Trong những năm gần đây tổng kim ngạch XNK của công ty luôn tăng dần theo từng năm.
Bảng 1: Tổng kim ngạch XNK của công ty trong thời gian qua
ĐVT: USD
Kế hoạch
Thực hiện
% TH/KH
1998
8.000.000
1.683.154,00
153,66
1999
10.000.000
11.707.887,00
117,07
2000
15.000.000
19.513.145,04
130,08
6/2001
23.500.000(cả năm)
9.197.840,00
39,14(so với cả năm)
Nguồn: Báo cáo tổng kết các năm; HAPROSIMEX Sài Gòn
Từ khi được thành lập năm 1991, và từ năm 1993 cho đến nay, khi tình hình kinh doanh của công ty thực sự có hiệu quả thì những thành quả mà công ty đạt được vẫn cón hết sức khiêm tốn. Chỉ từ năm 1998, sau khi công ty có một loạt những sự thay đổi và bổ xung về mặt nhân sự , cải cách và đổi mới cách thức hoạt động thì kết qủa kinh doanh của công ty mới thực sự có những bước đột phá và công ty mới tìm được cho mình một chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong và ngoài nước.
- Năm 1998 là năm công ty thu được những thắng lợi to lớn, đánh dấu 1 bước phát triển nhảy vọt của công ty với những kết quả vượt ngoài sự mong đợi của ban lãnh đạo. Công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, tổng kim ngạch XNK được thực hiện đạt 153,66% so với kế hoạch. Có được thành quả này là do sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc của toàn bộ cán bộ nhân viên trong từng phòng ban trong công ty. Và đó cũng là hệ quả trực tiếp của việc công ty cải tổ triệt để bộ máy tổ chức và điều hành công ty, sắp xếp lại từng phòng ban, tuyển thêm các cán bộ có năng lực và kinh nghiệm thực sự trong lĩnh vực kinh doanh XNK.
Ngoài những con số thể hiện kim ngạch XNK trong năm, sự thành công hơn cả của công ty chính là việc mở rộng thị trường, mở rộng được mối quan hệ kinh doanh với nhiều công ty trong và ngoài nước, đặc biệt là việc tạo được một uy tín và tiếng nói đáng tin cậy với bạn hàng. Kể từ đây công ty đã tạo được một tiền đề vững chắc cho sự phát triển của mình trong tương lai.
- Bước vào năm 1999 với những thành quả đáng khích lệ của năm 1998 là một thuận lợi không nhỏ của công ty đồng thời cũng là một sức ép khá lớn cho cán bộ công nhân viên công ty trong việc duy trì và phát huy những thành quả đã đạt được. Với đà phát triển của năm 1998, công ty đã mạnh dạn đặt ra chỉ tiêu 10.000.000 $ cho kim ngạch XNK 1999 và thực tế đã thực hiện được vượt mức kế hoạch = 117,07%.
- Công ty bước vào năm 2000 với những thành tựu khả quan của năm 1999 nhưng không phải ít những khó khăn: do chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của Nhà nước ta những năm gần đây ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong và ngoài nước, thị hiếu về mặt hàng này lại thay đổi nhanh chóng trong khi đó khả năng đáp ứng mẫu mã của công ty còn chậm. Hơn nữa sự tràn ngập của hàng Trung Quốc, sự biến động trên thị trường tiền tệ Châu Âu cũng làm giảm sức mua. Song, với sự nỗ lực và quyết tâm cao, năm 2000, công ty đã có mức tăng khá cao về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và hàng nông sản, phát triển thêm nhiều mặt hàng mới như hàng tạp phẩm, hàng sắt mỹ nghệ,... Công ty tiếp tục có bước nhảy vọt về kim ngạch XNK.
Với tổng kim ngạch XNK đạt 19.513.145,04 USD công ty đã đạt mức thực hiện = 130,08% so với kế hoạch đặt ra.
Như vậy với những con số tổng quát trên chúng ta đã có một cái nhìn bao quát về tình hình kinh doanh XNK của công ty, nhìn chung là rất phát triển, 1 con số đáng mơ ước với nhiều doanh nghiệp XNK đặc biệt là với những công ty còn non trẻ như HAPROSIMEX Sài Gòn.
2. Tình hình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ nội địa
Đây là hoạt động thứ yếu, không nằm trong kế hoạch chiến lược cho sự phát triển của công ty nên chỉ hoạt động trong một số lĩnh vực hạn hẹp.
Như đã trình bày ở trên, chức năng và nhiệm vụ của Haprrosimex Sài Gòn là nằm trong hoạt động kinh doanh XNK. Song với những con người mới, chủ trương và phương hướng hoạt động mới, công ty thấy rằng không thể bỏ qua thị trường trong nước, do vậy mà 2 năm gần đây công ty đã bát đầu có những hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ nội địa vằ để mở rộng phạm vi hoạt động của công ty, nâng cao đời sống choi cán bộ nhân viên và cũng là để phục vụ cho hoạt động XK.
Do vậy ở đây, chỉ xin đơn cử tình hình kinh doanh nội địa trong năm 2000 và 6 tháng đầu năm 2001.
a. Năm 2000 tình hình kinh doanh và tiêu thụ nội địa của công ty vẫn ở mức bình thường không có bước phát triển đáng kể. Do vậy ngoài việc đảm bảo việc chi trả lương cho cán bộ công nhân viên, công tác sản xuất kinh doanh và tiêu thụ nội địa chủ yếu là nhằm phục vụ cho XK, quảng cáo, tiếp thị và đảm bảo nguồn hàng liên tục cho XK.
Dưới đây là những con số cụ thể.
Bảng 2 : Tổng kết hoạt động kinh doanh và tiêu thụ nội địa năm 2000
ĐVT: VNĐ
KH 2000
TH 2000
% TH so với KH
Gốm MN
500.000.000
310.000.000
62
Gỗ MN
5.034.482.000
4.380.000.000
87
Phòng XNK II
1.500.000.000
949.292.462
63,28
TT XNK máy & thiết bị
90.000.000
Phòng XNK I
200.000.000
111.519.820
52
Tổng
7.034.482.000
5.840.812.282
82
Nguồn: Báo cáo tổng kết 2000; HAPROSIMEX Sài Gòn
Nhìn vào bảng số liệu trên, ta thấy tất cả các phòng ban thực hiện chức năng tiêu thụ và kinh doanh nội địa đều không hoàn thành chỉ tiêu được đặt ra. Điều này vừa thể hiện năng lực kinh doanh yếu kém của các cán bộ nhân viên trong công tác tiêu thụ nội địa cũng như sự không chú trọng của ban lãnh đạo trong việc phát triển khâu này của công ty. Mặc dù coi trọng công tác XK, song công ty cũng nên có những sách lược hợp lý trong việc kinh doanh và tiêu thụ nội địa vì thị trường trong nước của chúng ta cũng là một nguồn lợi nhuận không nhỏ hơn nữa dây cũng là cơ sở để công ty nâng cao uy tín và tìm kiếm các mối quan hệ làm ăn.
Chỉ trừ TT XNK máy và thiết bị cho đến 4/2000 mới được thành lập nên chưa thực sự đi vào hoạt động. Do vậy mới chỉ có doanh thu về mặt tư vấn thương mại ( đạt 90.00.000 đồng ). Chắc chắn sang năm 2001, ban giám đốc công ty sẽ có những biện pháp tích cực để củng cố công tác kinh doanh về tiêu thụ nội địa đặc biệt là với Trung tâm Thương mại - Du lịch - Dịch vụ Bốn mùa mới được sáp nhập vào công ty: tiếp tục duy trì cửa hàng kem bốn mùa, kinh doanh quán bar ...
b. 6 tháng đầu năm 2001:
Bảng 3: Tình hình kinh doanh và tiêu thụ nội địa 6 tháng đầu năm 2001 :
ĐVT: VNĐ
KH 2001
TH 6/2001
% so với cả năm
Gốm MN
500.000.000
112.405.000
22,48
Gỗ MN
6.000.000.000
2.200.000.000
36,66
Phòng XNK II
1.200.000.000
485.600.000
40,46
TT XNK máy & thiết bị
700.000.000
455.850.000
68,12
Tổng cộng
8.400.000.000
3.253.855.000
38,10
Nguồn: Báo cáo: Sơ kết 6 tháng đầu năm 200; HAPROSIMEX Sài Gòn
* Như vậy việc kinh doanh và tiêu thụ nội địa chỉ tập trung vào một số ít mặt hàng và các đơn vị, phòng ban nhất định.
- Cửa hàng gốm MN sau khi được chú trọng đầu tư đã bắt đầu hoạt động ổn định nhưng hiệu quả chưa cao 6 tháng đầu năm 2001 mới hoàn thành 22,48% kế hoạch được giao cả năm. Như vậy cả năm 2001 sẽ không đạt được mức 62% kế hoạch như năm 2000.
- Cửa hàng gỗ MN tiêu thụ nội địa một số mặt hàng như Xuân Hoà, Sơn Mài, khoá Việt Tiệp,... nhưng có doanh thu khá lớn 2,2 tỷ VNĐ - 36,66% kế hoạch. Tuy nhiên để đạt được mức 6 tỷ VNĐ nội địa đối với mặt hàng này theo như kế hoạch của cả năm 2001 thì quả là một nhiệm vụ không đơn giản chút nào.
- Phòng XNK 2 tập trung chủ yếu vào sản xuất, kinh doanh mặt hàng khung xe và xe đạp và một số ít hàng sắt mỹ nghệ.
Ngoài ra phòng còn tổ chức giao nhận, vận chuyển mặt hàng bàn ghế Xuân Hoà.
- Trung tâm XNK máy và thiết bị do mới được thành lập nên kinh doanh chưa có hiệu quả cao, mới đạt mức 455.800.000 tiêu thụ nội địa mặc dù số vốn đầu tư vào rất lớn. Đây là lĩnh vực cần nhiều sự quan tâm và đầu tư hơn. Trong khi đó TT Thương mại - Du lịch - Dịch vụ Bốn mùa vẫn tiếp tục trong quá trình sửa chữa, nâng cấp và thay đổi cơ cấu tổ chức nên chưa thực sự đi vào hoạt động.
Song nhìn chung năm 2001 công ty có triển vọng sáng sủa hơn trong việc tiêu thụ và kinh doanh nội địa so với năm 2000 bởi cuối năm bao giờ lượng tiêu thụ, mua sắm cũng cao hơn so với nửa đầu năm.
* Nhận xét chung: Như vậy, công ty HAPROSIMEX Sài Gòn đã và đang đi đúng trên con đường đã chọn. Công ty đã biết tận dụng lợi thế và những ưu điểm của mình để khắc phục những khó khăn và vượt qua thử thách trên thương trường để ngày càng có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và bạn hàng nước ngoài.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian qua
I. Thực trạng xuất khẩu của công ty
1. Về kim ngạch xuất khẩu
Để có một cái nhìn rõ nét về hiệu quả và thực trạng tình hình xuất khẩu của công ty trong những năm qua chúng ta cần xem xét những con số cụ thể.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu qua từng năm
1998
1999
2000
6/2001
P. Thủ công mỹ nghệ
1.150.845
1.316.783
2.394.023,64
1.539.000
P. Gốm mỹ nghệ
278.087
276.800
498.734,36
323.487
P. Gỗ mỹ nghệ
205.980
3.215.851
382.710,32
180.000
P. XNK 1
4.715.500
1.105.360
1.363.681,00
669.000
P. XNK 2
415.500
480.000
477.800,00
350.000
P. tập phẩm
668.900
908.950
1.314.561,94
800.000
P. nông sản
1.988.035
2.566.950
3.669.748,00
2.650.000
Tổng
5.067.847
6.923.698
10.131.256,00
5.462.487
Nguồn: Báo cáo tổng kết 1998, 1999, 2000, HAPROSIMEX Sài Gòn
Nhìn vào bảng ta thấy kim ngạch xuất khẩu năm 1999 tăng gần gấp đôi so với năm 1998 điều đó thể hiện sự phát triển lớn mạnh của công ty trong những năm qua. Đây là một thắng lợi to lớn của toàn bộ công ty sau khi vừa bước vào một giai đoạn mới với toàn bộ cơ cấu tổ chức mới, cách thức làm việc mới và cả những con người mới.
Cũng nhìn vào những con số khả qua của 6 tháng đầu năm 2001 thì chắc chắn kim ngạch xuất khẩu của công ty trong cả năm 2001 sẽ tăng từ 10-20% so với năm 2000 bởi 6 tháng cuối năm bao giờ cũng là thời điểm hàng hoá được tiêu thụ mạnh mẽ. Nhìn chung thì 2 mặt hàng nông sản và thủ công mỹ nghệ vẫn là 2 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Giá trị xuất khẩu của 2 mặt hàng này luôn chiếm từ 60-70% giá trị xuất khẩu của toàn công ty. Điều đáng nói ở đây là 2 mặt hàng này cũng chính là 2 mặt hàng luôn chịu sự biến động mạnh mẽ về giá cả do nhu cầu, thị hiếu luôn thay đổi. Chẳng hạn như 6 tháng đầu năm 2000 xuất khẩu chỉ 663 tấn Hồ tiêu đã có trị giá 2.836.689 USD, thì 6 tháng đầu năm 2001, xuất gấp đôi là 1254 tấn nhưng chỉ có trị giá 2.236.140 USD. Chứng tỏ đây là mặt hàng luôn gặp phải những sự cạnh tranh gay gắt về giá cả.
Song tựu chung lại với mức kim ngạch xuất khẩu hơn 10 triệu USD/năm thì công ty HAPROSIMEX Sài Gòn có được một vị trí vững vàng trong số các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam và điều quan trọng hơn là từ sau khi cải tổ bộ máy tổ chức, đào tạo lại một số cán bộ nghiệp vụ công ty đã và đang đi đúng hướng.
Trước mắt trong 6 tháng cuối năm 2001, công ty sẽ phấn đấu đạt và hoàn thành chỉ tiêu xuất khẩu cho cả năm.
Bảng: Kế hoạch 6 tháng cuối năm 2001
ĐVT: USD
KH cả năm 2001
Nhiệm vụ 6 tháng cuối 2001
P. Thủ công mỹ nghệ
6.000.000
1.461.000
P. Gốm mỹ nghệ
800.000
480.000
P. Gỗ mỹ nghệ
700.000
550.000
P. XNK 1
1.100.000
431.000
P. XNK 2
800.000
450.000
P. tập phẩm
1.500.000
700.000
P. nông sản
3.000.000
3.350.000
Tổng
13.900.000
6.722.000
Nguồn: Sơ kết 6 tháng đầu năm 2001; HAPROSIMEX Sài Gòn
Mục tiêu đặt ra cho cả năm và nhiệm vụ còn lại 6 tháng cuối năm 2001 là tương đối khó khăn nhưng không phải là không thể thực hiện được. Song đòi hỏi Ban Giám đốc cũng như từng thành viên của công ty phải nỗ lực hết mình, phát huy cao tinh thần trách nhiệm và khả năng chuyên môn của mỗi người. Ngoài ra trong thời gian này công ty cần có những phương án để tiếp tục mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác làm ăn lâu dài, có như vậy công ty mới có hướng phát triển bền vững. Bởi lẽ thị trường đầu ra luôn là mối quan tâm hàng đầu đối với mỗi doanh nghiệp xuất khẩu. Đặc biệt tìm kiếm những thị trường đang có cầu lớn về những mặt hàng xuất khẩu của công ty bởi với sự biến động giá cả lớn trong những năm qua, công ty đã chịu khá nhiều thiệt hại.
2. Về giá cả.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp khi tiến hành một thương vụ nào thì yếu tố đầu tiên họ cần phải tính đến đó là giá cả. ở đây trong khuôn khổ bài viết có hạn, chúng ta không thể đưa ra giá cả từng loại mặt hàng của công ty để xem xét và đánh giá được mà chỉ xin đưa ra một số mặt hàng được công ty xuất khẩu thường xuyên với số lượng lớn trong những năm qua.
Bảng 6: Giá xuất khẩu trung bình đối với một số mặt hàng
ĐVT: USD/tấn
1998
1999
2000
6/2001
Hồ tiên
3588,65
3945,72
4278,56
1783,20
Lạc nhân
758,68
806,43
755,5
416,66
Chè khô
2900,55
2880,85
2550,66
Nguồn: Phòng XNK 1; HAPROSIMEX Sài Gòn
Như vậy thông qua giá cả một số mặt hàng nông sản ta có thể rút ra nhận xét giá cả mặt hàng nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới rất không ổn định. Nếu như mặt hàng Hồ tiêu trong các năm 98, 99, 2000 không có biến động gì lớn thì đến 6 tháng đầu năm 2001 đã giảm giá tới hơn một nửa 4278,56 USD/tấn năm 2000 so với 1783,20 USD/tấn 6 tháng đầu năm 2001. Hay như Lạc nhân giá có xu hướng giảm từ năm 1999 đến năm 2000 nhưng sang đến năm 2001 giá tụt hẳn xuống từ 30%-40% làm giá trị xuất khẩu đạt ở mức rất thấp. Chỉ có giá chè khô là tương đối ổn định tuy có giảm nhẹ.
Xảy ra tình trạng này trước hết là do những nguyên nhân khách quan của sự biến động giá cả trên thị trường, lượng cầu của những khách hàng truyền thống trong khi mức cung lại lớn,... song cũng cần phải xét tới các nguyên nhân chủ quan khi một số phòng ban, cán bộ hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
3. Về thị trường
Cùng với sự biến động về giá cả, thị trường xuất khẩu không được mở rộng đang là vấn đề bức xúc cho toàn bộ công ty. Bởi lẽ khi nhu cầu đang giảm dần ở các thị trường truyền thống thì công ty lại chưa kịp hoặc khai thác chưa nhiều những thị trường mới. Nghiên cứu tình hình thị trường xuất khẩu của công ty những năm gần đây chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét.
Bảng: Giá trị xuất khẩu trên từng thị trường
ĐVT : USD
1998
1999
2000
6/2001
Singapore
1.580.000
2.583.000
3.500.600
1.650.140
Thái Lan
780.000
565.600
558.000
650.000
Nhật Bản
-
965.860
1.054.363
580.226
Hongkong
-
1.000.000
1.170.000
412.200
Malaisia
878.585
1.100.000
865.500
200.000
Trung Quốc
-
856.050
510.000
504.954
Inđônêsia
958.000
194.308
450.000
528.600
Tây Âu
-
1.055.000
1.283.000
550.000
Bắc Âu
485.000
780.880
339.793
166.035
Trung Đông
-
-
400.000
300.122
Nam Mỹ
422.262
752.000
-
320.210
Tổng
5.067.847
9.822.698
10.131.256
5.462.487
Nguồn : Báo cáo kết quả 1998 – 2000; Phòng Khu vực Thị trường
Nhìn chung, thị trường xuất khẩu của công ty trong những năm gần đây khá ổn định, kim ngạch xuất khẩu trên từng thị trường có xu hướng tăng lên theo từng năm. Tuy nhiên giá trị xuất khẩu trên từng thị trường vẫn còn ở mức khá thấp so với tiềm năng mà ta có thể khai thác được, chỉ có một số thị trường như Singapore, Hongkong, Malaysia là có mức kim ngạch xuất khẩu khá cao. Trong khi đó với những thị trường lớn như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Âu, Trung Quốc là những thị trường rất lớn, rất có tiềm năng thì chúng ta lại chưa khai thác được. Chẳng hạn như giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc - một thị trường có sức tiêu thụ lớn lại chưa vượt quá con số 1 triệu USD/năm, hay thị trường các nước Bắc Âu thì kim ngạch xuất khẩu của công ty vẫn còn rất hạn chế trung bình chỉ vào khoảng nửa triệu USD một năm, trong khi thị trường chủ yếu vẫn tập trung vào khu vực Đông Nam á. Tuy nhiên về mặt số lượng thì kể từ năm 1998 cho đến năm 2001, số lượng các thị trường mà công ty có quan hệ buôn bán đã tăng lên đáng kể, đặc biệt là việc mở rộng sang thị trường Tây Âu, Nhật Bản, Hongkong, Trung Đông và đặc biệt là Trung Quốc. Do vậy, công ty cần phải luôn xác định được những thị trường nào là thị trường chiến lược và xuất khẩu mặt hàng gì là mũi nhọn. Nhìn vào kết quả của 6 tháng đầu năm 2001 thì có thể dự đoán trong cả năm, giá trị xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc sẽ đạt mức lớn hơn 1 triệu USD, Tây Âu từ 1,2-1,5 triệu USD, nếu như không có biến động gì lớn trên thị trường trong nước cũng như thế giới.
Song điều quan trọng nhất mà công ty phải luôn ý thức được rằng để giữ được uy tín và mối quan hệ lâu dài thì giá cả hợp lý và chất lượng hàng hoá phải luôn được đặt lên hàng đầu. Có đảm bảo được 2 yếu tố này thì công ty mới có thể giữ được bạn hàng cũng như xâm nhập vào một thị trường có đòi hỏi hết sức khắt khe là Mỹ (sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được phê chuẩn).
4. Về sản phẩm xuất khẩu
Đây chính là yếu tố quyết định cho sự thành bại của bất cứ hoạt động kinh doanh XNK nào. Để đảm bảo cho xuất khẩu chúng ta phải có một nguồn hàng dồi dào cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu, thị hiếu của khách hàng.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu 1998, 1999 đối với từng mặt hàng:
ĐVT: USD
1998
1999
KH
TH
%
KH
TH
%
Thủ công mỹ nghệ
900.000
1.865.345
205
2.000.000
2.412.143
125
Gốm mỹ nghệ
300.000
275.087
55
250.000
276.800
120
Gỗ mỹ nghệ
300.000
205.980
70
250.000
321.585
128
Nông sản
1.500.000
2.403.535
185
2.500.000
3.471.900
135
Tạp phẩm
1.000.000
905.950
91
1.000.000
905.950
90,5
Tổng
4.500.000
5.067.847
115
6.000.000
6.922.698
118
Nguồn: Báo cáo tổng kết 1998,1999 ; HAPROSIMEX Sài Gòn
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy năm 1998 là một năm công ty thu được những thành tựu và thắng lợi to lớn về kim ngạch xuất khẩu. Nếu như các mặt hàng gốm mỹ nghệ, gỗ mỹ nghệ và các mặt hàng tạp phẩm có giá trị xuất khẩu đạt chỉ tiêu thì 2 mặt hàng thủ công mỹ nghệ và hàng nông sản lại có giá trị xuất khẩu tăng gấp đôi so với kế hoạch đề ra. Ngoài sự đóng góp của 2 phòng chức năng là phòng nông sản và phòng thủ công mỹ nghệ thì phòng XNK 1 và phòng XNK 2 cũng đã thu được những thành quả đáng khích lệ trong việc xuất khẩu 2 nhóm mặt hàng này, đóng góp vào thành công chung của công ty. Với mặt hàng nông sản chủ yếu là chè khô, hạt tiêu, lạc nhân,... ngoài việc tăng được khối lượng xuất khẩu còn thu được kim ngạch lớn do nguồn hàng khan hiếm nên giá được đẩy lên ở một số thị trường truyền thống của công ty. Trong khi đó hàng thủ công mỹ nghệ như hàng mây tre đan, tranh sơn mài,... được đẩy mạnh xuất khẩu thì công ty còn có thêm một số đơn đặt hàng mới như vật trang trí làm từ sản vật biển, đồ điêu khắc, chạm khảm bằng các loại đó,...
Như vậy trong những năm tiếp theo đây vẫn là 2 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Với đà thắng lợi của năm 1998, công ty bước vào năm 1999 với niềm tin và sự quyết tâm cao độ. Chính bởi vậy các phòng ban và mỗi cán bộ nhân viên đều hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu đề ra, thể hiện qua giá trị xuất khẩu đối với từng nhóm mặt hàng. Đặc biệt chú ý đây chính là năm công ty có nhiều thay đổi về mặt cơ cấu, bộ máy tổ chức và nhân sự nên việc duy trì và phát triển công ty trong giai đoạn khó khăn này là việc làm không đơn giản chút nào. Việc sát nhập với Xí nghiệp Xe đạp xe máy Lê Ngọc Hân đã gây ra không ít xáo trộn về mặt nhân sự nhưng công ty đã nhanh chóng khắc phục để ổn định đi vào sản xuất kinh doanh. Hai nhóm hàng xuất khẩu chủ lực tiếp tục tăng ở mức cao do việc mở rộng được thị trường sang các nước Tây Âu, Trung Quốc và cả Trung Đông nhất là kim ngạch xuất khẩu sang Tây Âu trong năm này đạt > 1 triệu USD thì chủ yếu là hàng nông sản và thủ công mỹ nghệ.
Với những thành tựu khả quan năm 1999 công ty bước vào năm 2000 với những thuận lợi nhưng không phải ít những khó khăn.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu 2000 đối với các mặt hàng
ĐVT
KH
TH
% TH so với KH
Thủ công mỹ nghệ
3.000.000
3.567.137,75
125
Gốm mỹ nghệ
650.000
498.734,36
77,2
Gỗ mỹ nghệ
350.000
382.710,32
115
Tạp phẩm
1.000.000
1.314.561,94
131
Nông sản
3.000.000
4.347.516,63
140
Tổng
8.000.000
10.131.256
126
Nguồn:Báo cáo tổng kết 2000; HAPROSIMEX Sài Gòn
Do chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của Nhà nước ta những năm gần đây, nên ngày càng có nhiều đơn vị tham gia hoạt động xuất khẩu dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt trong và ngoài nước. Trong khi đó một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc và một số nước Đông Nam á lại tràn ngập với mẫu mã đa dạng và giá cả rất cạnh tranh đã là yếu tố tác động rất lớn đến tình hình kinh doanh của công ty.
Song với sự nỗ lực cao, năm 2000 công ty đã có những thành tích đáng khích lệ, có mức tăng trưởng khá cao về kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ và nông sản; củng cố vững chắc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, phát triển thêm một số mặt hàng như hàng tập phẩm, sắt mỹ nghệ. Đồng thời công ty cũng duy trì và hơn thế còn mở rộng được các thị trường mới ở Tây Âu, Bắc Âu đặc biệt là đã có giá trị xuất khẩu sang thị trường Đông Âu. Đây là những dấu hiệu đáng mừng cho công ty.
Trước thực trạng này công ty đã nghiêm túc đánh giá tình hình để đưa ra phương hướng kinh doanh cho công ty trong năm 2001. Và ở đây tình hình thực tế của hoạt động xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm của công ty sẽ cho chúng ta một cái nhìn cụ thể.
II. Một số đánh giá chung về thực trạng xuất khẩu của công ty
1. Về chiến lược và phương hướng kinh doanh trong thời gian qua
Có thể nói trong những năm gần đây trước những biến động to lớn trong và ngoài nước, những thay đổi sâu sắc trong nội bộ công ty, ban Giám đốc HAPROSIMEX Sài Gòn đã liên tục đưa ra những chỉ đạo kịp thời cho hướng đi của công ty trong từng giai đoạn, từng năm, từng quý, từng tháng. Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh XNK nhưng chiến lược của công ty luôn coi xuất khẩu là hoạt động chính, có tính quyết định cho sự phát triển của công ty. Quan trọng hơn là trong từng thời điểm ban Giám đốc công ty đã đưa những quyết định sáng suốt, phù hợp với tình hình thực tế. Chẳng hạn như ngay từ đầu năm 2000, công ty đã chuẩn bị sẵn sàng nắm lấy cơ hội Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết để có thể xâm nhập vào thị trường hết sức béo bở này một cách chủ động và vững chắc; đồng thời cũng củng cố và phát triển từng bước vững chắc các thị trường lớn nhưng còn khá mới mẻ ở Tây Âu, Bắc Âu, Trung Đông, Nam Mỹ,... Hay như việc công ty kịp thời điều chỉnh chiến lược xuất khẩu hàng nông sản trong năm 2001 khi vào đầu năm giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực sụt giảm mạnh để chuyển hướng tập trung tiềm lực xuất khẩu sang một số mặt hàng khác. Chính điều này đã giúp công ty trong những năm qua luôn giữ được sự ổn định và nắm được thế chủ động trong từng bước đi của mình.
2. Về những thành quả đạt được
Nhìng chung là rất đáng khích lệ, công ty trong mấy năm trở lại đây đã có những sự trưởng thành vượt bậc. Với một bộ máy và cơ chế quản lý điều hành tốt, các phòng ban chức năng hoạt động ngày càng hiệu quả công ty đang vươn lên một vị trí mới tương xứng hơn với tiềm năng của nó. Bên cạnh đó công ty vẫn còn tiếp tục khắc phục một số tồn tại để công ty có thể hoàn thành suất sắc nhiệm vụ năm 2001 cũng như phương hướng và nhiệm vụ của công ty từ nay cho đến 2010.
Chương III
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tại công ty HAPROSIMEX Sài Gòn
I. Đánh giá cụ thể một số công tác và hoạt động của công ty trong thời gian qua
Qua quá trình phân tích những kết quả tới số liệu thực tế của hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty trong những năm qua, chúng ta đã có thể đưa ra một cái nhìn cụ thể và chính xác hơn về tình hình hoạt động của từng bộ phận, phòng ban chức năng của công ty HAPROSIMEX Sài Gòn.
1. Về công tác nghiên cứu thị trường
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo nền kinh tế thị trường chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, triết lý kinh doanh đã thay đổi từ bán cái chúng ta có sang bán cái thị trường cần. Bởi vậy công tác tiếp cận và nghiên cứu thị trường rất được quan tâm chú trọng. Công việc này thuộc trách nhiệm của phòng khu vực thị trường. Như vậy đây là một phòng chức năng có nhiệm vụ vô cùng quan trọng - nhiệm vụ đối ngoại để tìm hiểu nguồn hàng đầu vào, mở rộng thị trường đầu ra. Có thể nói phòng khu vực và thị trường của công ty trên cả 2 miền Nam và Bắc trong những năm qua đã hoạt động hết sức hiệu quả. ở trong nước phòng liên tục mở rộng được mạng lưới chân nguồn hàng: miền Bắc từ Lạng Sơn, Móng Cái đến Việt Trì, Vĩnh Phúc,... miền Nam từ Cà Mau, Sóc Trăng đến Kiên Giang, Vũng Tàu đều có các đơn vị cung cấp nguồn hàng xuất khẩu.
Với thị trường nước ngoài, công ty đã có quan hệ với 50 nước, ở nhiều khu vực và thị trường trên thế giới. Số lượng khách hàng luôn được duy trì và lớn mạnh hơn.
Để đạt được kết quả này trong những năm qua ngoài sự đầu tư và quan tâm chỉ đạo của ban Giám đốc phòng còn có một đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệm vụ, tận tuỵ với công việc, luôn có phương châm làm việc thích hợp với từng giai đoạn, từng bạn hàng, từng mối quan hệ và cùng với sự giám sát, chỉ đạo kịp thời của ban Giám đốc, trong những năm qua phòng luôn làm việc dựa trên các nguyên tắc:
- Coi trọng việc củng cố những bạn hàng lâu đời đáng tin cậy, ra sức xây dựng các cơ sở chân hàng mới trên khắp 3 miền, đảm bảo phục vụ tốt cho xuất khẩu.
- Củng cố, xây dựng công tác đối ngoại, tổ chức hội chợ, tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị, xúc tiến thương mại, riêng trong năm 2000 công ty đã tham gia 7 hội chợ quốc tế, có mặt tại một số hội chợ, triển lãm trong nước nhằm phát triển khách hàng, giới thiệu và chào bán các mẫu mã, sản phẩm của công ty.
Mặc dù còn một số khó khăn và tồn tại trong những thành quả mà công tác nghiên cứu thị trường của phòng khu vực và thị trường mang lại là một trong những nhân tố quyết định đem đến sự thắng lợi trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty những năm qua.
2. Về sản phẩm xuất khẩu
- Ngay từ công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu công ty đã có thuận lợi như một mạng lưới châng hàng, các đại lý thu mua hàng rộng khắp cả nước. Đó là những đơn vị thu mua, sản xuất, chế biến, cung cấp hàng xuất khẩu cho công ty. Đây là một thế mạnh rất lớn.
- Sản phẩm xuất khẩu của công ty ngoài những mặt hàng truyền thống với những bạn hàng lâu năm, còn luôn thay đổi đa dạng hoá cả về mẫu mã và chủng loại đáp ứng tốt mọi nhu cầu thị hiếu của khách hàng.
Nếu như năm 1998, 1999, mặt hàng nông sản của công ty chủ yếu là lạc nhân, hạt tiêu, chè,... thì đến năm 2000, 2001 đã xuất khẩu cả hồi, quế hương, cà phê,...
- Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của công ty cũng có những biến đổi mạnh mẽ. Nếu như năm 1998, 1999, tỷ trọng hàng nông sản và thủ công mỹ nghệ của công ty chỉ chiếm ằ 50% giá trị xuất khẩu thì 2 năm gần đây phương hướng đề ra và cả những con số đã thực hiện được cho thấy 70-80% giá trị xuất khẩu là hàng nông sản và thủ công mỹ nghệ. Như vậy công ty đang từng bước thay đổi cơ cấu, tập trung vào những mặt hàng là thế mạnh của mình, những mặt hàng công ty có nhiều bạn hàng và thị trường đầu ra.
Song tập trung vào xuất khẩu hai nhóm hàng này cũng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận những khó khăn và thử thách to lớn. Thị hiếu về mặt hàng thủ công mỹ nghệ luôn thay đổi nhanh chóng trong khi khả năng đáp ứng mẫu mã mới của các đơn vị cơ sở cung cấp hàng còn chậm, trong khi hàng thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc và các nước Đông Nam á có mẫu mã đa dạng, chất lượng tương đối cao còn giá cả cũng rất cạnh tranh. Với hàng nông sản thì luôn có sự biến động rất lớn về giá cả trên thị trường nếu không dự báo và có biện pháp kịp thời thì sẽ rơi vào tình thế bị bất ngờ, bị động, rủi ro sẽ rất cao.
Như vậy, những thử thách trên đòi hỏi toàn bộ công ty cũng như từng cán bộ phải có năng lực thực sự, nhiệt tình tận tuỵ với công việc mới có thể giúp công ty đi lên theo đúng phương hướng chiến lược đã đề ra. Và trong giai đoạn hiện nay, công ty đã đi đúng hướng và đạt được những thành công trước mắt làm tiền đề cho sự phát triển ổn định bền vững.
3. Với đội ngũ cán bộ nhân viên
Một cách tổng quát, đội cán bộ chuyên môn và nhân viên của công ty có trình độ chuyên môn tương đối tốt, am hiểu về nghiệp vụ, có nhiều cán bộ có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực kinh doanh XNK. Song với từng phòng ban chức năng vẫn còn một số khó khăn về vấn đề con người ở nhiều khía cạnh khác nhau.
- Phòng thủ công mỹ nghệ: có đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao,... luôn hoàn thiện tốt nhiệm vụ của công ty giao.
Riêng ở Hà Nội với hơn 10 cán bộ nghiệp vụ có năng lực và am hiểu sâu về xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, phòng luôn duy trì được vững chắc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, khai thác thêm nhiều mẫu mã mới để đáp ứng yêu cầu chào bán và trưng bày triển lãm.
- Phòng nông sản với đội ngũ gồm 20 cán bộ có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh hàng nông sản đã đạt được những kết quả cao. Mặc dù trong năm 1999 gặp rủi ro khách hàng phá sản dẫn đến tổn thất lớn, năm 2000 có 1 lô hàng phải bồi thường do không thực hiện được hợp đồng, đến năm 2001 lại có sụt giảm lớn về giá cả song phòng luôn cố gắng và khắc phục khó khăn để đạt chỉ tiêu đề ra. Trong mục tiêu trước mặt đề ra, phòng sẽ tập trung vào một số mặt hàng chính xuất khẩu như: tiêu đen, chè, lạc nhân.
- Phòng gốm mỹ nghệ: ít người nhưng có cố gắng lớn trong công việc lại giỏi chuyên môn. Song do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mà kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gốm chưa cao, năm 2000 lại không hoàn thành chỉ tiêu được giao (đạt 77,2% kế hoạch năm 2000). Mà nguyên nhân chủ quan ở đây là cán bộ điều hành nghiệp vụ đôi lúc còn hời hợt, không sâu, không triệt để xử lý công việc và bảo thủ, chưa tạo ra sức bật mạnh trong nghề. Nhưng với sự nghiêm túc phê bình và nhận ra khuyết điểm năm 2001 chắc chắn phòng sẽ đạt được chỉ tiêu được giao là xuất khẩu đạt trị giá 800.000 USD.
- Phòng gỗ mỹ nghệ và phòng tạp phẩm (được tách từ phòng thủ công mỹ nghệ) đều hoàn thành tốt chỉ tiêu được giao mặc dù biên chế cán bộ của cả 2 phòng đều ít ỏi (mỗi phòng chỉ có 4 cán bộ chuyên môn). Mặc dù đây là đội ngũ cán bộ rất trẻ, còn thiếu kinh nghiệm nhưng bù lại họ có sự năng động, nhiệt tình là có trình độ chuyên môn vững nên đã nhanh chóng gây được niềm tin của ban Giám đốc, thành công lớn nhất là việc đa dạng hoá sản phẩm mặc dù giá trị xuất khẩu chưa cao.
Như vậy, sơ qua về đội ngũ cán bộ chúng ta có thể thấy rằng chính yếu tố con người là quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh. Nên không có gì ngạc nhiên khi trong chiến lược phát triển đến năm 2010, vấn đề nhân sự được ban lãnh đạo công ty quan tâm và chú trọng đầu tư rất lớn.
II. Phương hướng phát triển của công ty từ nay cho đến năm 2010
Xuất phát từ thực trạng kinh tế đối ngoại, từ những dự báo kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế, công ty HAPROSIMEX Sài Gòn đưa ra chiến lược phát triển công ty tới năm 2010 vẫn là chính sách đẩy mạnh xuất khẩu, xuất khẩu kết hợp thay thế nhập khẩu, và nhập khẩu chỉ là để phục vụ cho xuất khẩu.
Trước mắt, công ty cần đưa ra phương hướng và nhiệm vụ cho 6 tháng cuối năm 2001 để hoàn thành chỉ tiêu đề ra cho cả năm.
Bảng: Phương hướng và nhiệm vụ 2001
ĐVT: USD
KH
TH 6 tháng đầu
% so với cả năm
KH 6 tháng cuối
Thủ công mỹ nghệ
3.000.000
1.539.000
51,3
1.461.000
Gốm mỹ nghệ
800.000
323.487
40,3
480.000
Gỗ mỹ nghệ
700.000
150.000
21,43
550.000
Tạp phẩm
1.500.000
800.000
53,33
700.000
Nông sản
6.000.000
2.650.000
44,16
3.350.000
Tổng
12.000.000
5.576.510
46,46
6.423.490
Nguồn: Sơ kết 6 tháng đầu năm 2001; HAPROSIMEX Sài Gòn
Trước tình hình khó khăn cả trong và ngoài nước, nhìn chung chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu mà công ty đưa ra cho năm 2001 là khá khiêm tốn so với những gì mà công ty đã đạt được trong mấy năm gần đây: giá hàng nông sản sụt giảm mạnh, hàng thủ công mỹ nghệ vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của hàng Trung Quốc và của các nước Đông Nam á. Biến động trên thị trường tiền tệ Châu Âu làm cho sức mua giảm mạnh; tất cả những yếu tố đó gây nên rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh XNK của Việt Nam trong đó có HAPROSIMEX Sài Gòn. Song với những gì đã đạt được trong 6 tháng đầu năm công ty có quyền hy vọng hoàn thành được chỉ tiêu đề ra trong 6 tháng cuối năm. Tất nhiên đây là nhiệm vụ rất khó khăn trong tình hình phức tạp cả trong và ngoài nước như hiện nay. Song đây cũng là lúc để Ban Giám đốc thể hiện năng lực và vai trò lãnh đạo của mình; và mỗi cán bộ nghiệp vụ, mỗi nhân viên công ty thể hiện và phát huy năng lực, kinh nghiệm của mình trong kinh doanh.
Dưới đây là những nội dung chủ yếu của phương hướng và chiến lược phát triển công ty cho đến năm 2010 :
1. Về kim ngạch và giá trị xuất khẩu
Cái mốc cuối cùng để công ty từ đó đưa ra phương hướng, mục tiêu cho việc phát triển công ty đến năm 2010 là năm 2000 vừa qua với kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt 10.231.256,44 USD công ty phấn đấu năm 2010 sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu từ 15-16 triệu USD. Nhìn chung đây là một con số khiêm tốn, nằm trong khả năng thực hiện của công ty.
2. Tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu
Mục tiêu hàng đầu là thâm nhập vào thị trường Mỹ sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được phê chuẩn. Đây là thị trường được ưu tiên hàng đầu trong chiến lược mở rộng thị trường của công ty từ nay đến năm 2010. Ngoài ra công ty tiếp tục khai thác bề rộng và bề sâu ở thị trường khu vực Tây Âu, Bắc Âu.
Một khu vực thị trường nữa cũng nằm trong chiến lược mở rộng thị trường của công ty là Đông Âu. Bởi đây là khu vực thị trường gồm các nước XHCN cũ có nhu cầu thị trường tương đối ổn định và không quá khó tính. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam trước đây đều đã ít nhiều có quan hệ buôn bán với các nước Đông Âu. Ngược lại đã từ lâu đây là các nước có quan hệ hữu hảo với Việt Nam, đã có thói quen tiêu dùng một số hàng hoá của Việt Nam. Với một thị trường lớn và có nhiều thuận lợi như vậy chắc chắn không thể bỏ qua. Vấn đề là liệu công ty sẽ làm gì để thực hiện và làm sao để cạnh tranh trên những thị trường đó?
3. Về mặt hàng xuất khẩu
Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ hàng hoá là cơ cấu hàng hoá xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Vì thế công ty phấn đấu đến năm 2010 thay đổi một bước lớn cơ cấu xuất khẩu với các nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên công ty cũng xác định việc đổi mới cơ cấu xuất khẩu phải tính đến những nhân tố cơ bản như thị trường, khả năng sản xuất trong nước và hiệu quả kinh doanh. Công ty đánh giá cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả là yếu tố quan trọng hàng đầu của vấn đề đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu thông qua chính sách lựa chọn hướng ưu tiên đầu tư vào những ngành xuất khẩu hoặc hướng vào xuất khẩu. Nó cũng là yếu tố quan trọng trong sự lựa chọn cơ cấu mặt hàng và mặt hàng xuất khẩu kinh doanh.
III. Các giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu
1. Các giải pháp về phía công ty
Qua tình hình xuất khẩu thực tế những năm vừa qua, công ty luôn có những đánh giá chính xác và nghiêm túc hiệu quả kinh doanh đạt được để từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy cao độ mọi tiềm năng và nguồn lực của công ty.
a. Về nguồn nhân lực
Đây là vấn đề được đặt lên hàng đầu. Giải pháp của công ty để nâng cao năng lực chuyên môn của từng cán bộ công nhân viên là:
- Mở các lớp học, khoá đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ các phòng ban, có chế độ bồi dưỡng, để khuyến khích cán bộ theo học.
- Thường xuyên hoán đổi công tác của các cán bộ giữa 2 miền Nam - Bắc để tích luỹ thêm kinh nghiệm.
- Tiếp tục tuyển dụng các cán bộ có năng lực thông qua thi tuyển khắt khe, có thời gian thử việc từ 2-3 tháng.
Nhìn chung những giải pháp này đang dần phát huy được hiệu quả khi đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn ngày càng vững vàng.
b. Về công tác nghiên cứu thị trường
Mặc dù đã hoạt động tương đối có hiệu quả song công ty thấy rằng công tác tiếp cận và nghiên cứu thị trường vẫn cần có những giải pháp để đổi mới công tác này.
- Trước mắt ban Giám đốc quyết định phát triển đội ngũ cán bộ nhân viên cả về số lượng và chất lượng. Đòi hỏi từng bộ phận phải đưa ra những kế hoạch cụ thể, phương án chi tiết cho việc xâm nhập và tiếp cận một thị trường mới khi có thời cơ chứ không phải là những báo cáo chung chung.
- Tăng cường đầu tư vốn cho công tác quảng cáo, tiếp thị để thu hút khách hàng.
- Nếu như năm 2000 tham gia 7 hội chợ quốc tế thì từ năm 2001 trở đi hàng năm công ty phải tham gia và giới thiệu sản phẩm ở không dưới 10 hội chợ ở nước ngoài, đó là chưa kể việc tham dự các hội chợ triển lãm trong nước.
Tất cả để đạt được mục tiêu cuối cùng là nâng cao uy tín và chất lượng sản phẩm mà công ty chào bán, hiểu rõ về nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trong từng khu vực thị trường để đưa ra những chiến lược xuất khẩu hợp lý.
- Ngoài ra công ty cũng đồng ý với ý kiến của cán bộ nhân viên là tăng mức công tác phí cho cán bộ khi đi nghiên cứu và công tác với thị trường và khách hàng nơi xa (hiện nay là khoảng 180.000đ/ngày dự kiến sẽ tăng lên 220.000đ/ngày).
c. Về chế độ khuyến khích lợi ích vật chất cho cán bộ nhân viên trong công ty
- Những năm qua công ty đã trích từ lợi nhuận thu được để lập qũy khen thưởng cán bộ có thành tích cao trong công tác đặc biệt là bằng mối quan hệ cá nhân tìm được bạn hàng xuất khẩu cho công ty. Đây là biện pháp dùng đòn bẩy kinh tế rất hữu hiệu. Đồng thời là việc kết hợp các biện pháp khác như giáo dục hành chính để xử phạt nghiêm minh những ai vi phạm kỷ luật gây thiệt hại cho công ty hay làm việc thiếu trách nhiệm,...
- Lãnh đạo công ty cũng nghiêm túc rút kinh nghiệm trong việc quản lý: tăng cường thông tin 2 chiều giữa lãnh đạo công ty và các phòng ban, cần coi trọng luồng thông tin phản hồi từ cấp dưới lên để xem xét và ra quyết định.
d. Về sản phẩm xuất khẩu và cơ cấu hàng xuất khẩu
Công ty đã đưa ra những giải pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu của từng mặt hàng đối với từng thị trường.
Chẳng hạn:
- Với hàng may mặc chú trọng đến việc xuất khẩu sang Tây Âu, vì đây là mặt hàng đang có uy tín của Việt Nam tại thị trường một số nước Tây Âu.
- Khi giá cả hàng nông sản sụt giảm mạnh thì công ty lập tức đưa ra biện pháp để kéo lại là tăng cường xuất khẩu một số mặt hàng như tạp phẩm, sắt mỹ nghệ và gỗ mỹ nghệ; để chờ giá hàng nông sản trở lại ổn định,...
c. Ngoài ra công ty còn có một số giải pháp đã và đang thực hiện rất có hiệu quả như:
- Giảm giá đối với bạn hàng lâu năm, với khách quen và những khách hàng có tiềm năng để giữ chân khách hàng.
- Quan hệ đối với bạn bè trong và ngoài nước để khi có đơn hàng mà họ không đáp ứng kịp thì công ty sẽ nắm bắt lấy cơ hội có thêm khách hàng mới,...
Trên đây là những giải pháp mà công ty đã và đang thực hiện, những giải pháp vừa có tính chất tình thế vừa có tính chất lâu dài để đẩy mạnh xuất khẩu cho công ty.
2. Một số ý kiến cá nhân :
- Hiện nay phòng khu vực thị trường vẫn còn đảm nhiệm quá nhiều chức năng do vậy vẫn chưa thể tập trung nghiên cứu và tìm hiểu thị trường. Để làm được điều này cần tách từ phòng thị trường ra phòng đối ngoại, phòng lễ tân để tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu thị trường và ngay trong công tác nghiên cứu thị trường thì cũng nên thành lập từng tổ, từng ban nghiên cứu chuyên sâu về một số khu vực, thị trường nhất định.
- Về việc kiểm tra, giám định chất lượng hàng hoá, công ty vẫn chưa có cán bộ kiểm tra, giám định chuyên sâu về từng mặt hàng mà chỉ là những kiểm tra chung còn tất cả việc cấp giấy chứng nhận chất lượng, đến việc kiểm tra, giám sát quá trình vận chuyển giao nhận hàng hoá đều phải nhờ đến sự giúp đỡ của các chuyên viên VINACONTROL (Công ty kiểm định chất lượng Việt Nam). Tất nhiên, việc kiểm định của VINACONNTROL là bắt buộc nếu khách hàng yêu cầu và là chứng từ để bên mua chấp nhận hàng hoá XK của chúng ta. Song công ty vẫn cần có cán bộ chuyên sâu kiểm tra chất lượng, cán bộ giám sát từng quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, chứ không nên lệ thuộc quá nhiều vào VINACONTROL.
- Với điều kiện hiện có và những tiềm năng phát triển trong tương lai, công ty nên có kế hoạch sớm mở chi nhánh hay văn phòng đại diện tại nước ngoài, có thể tại Singapore, Đài Loan, Hongkong hay Châu Âu - những thị trường lớn đối với công ty. Hay nói một cách khác nếu công ty muốn tiến một bước dài trong sự nghiệp kinh doanh của mình thì việc thiết lập văn phòng đại diện tại nước ngoài là việc tất yếu phải làm.
- Ngoài ra công ty cần tăng cường thêm cơ sở vật chất như phương tiện đi lại (xe cộ đầy đủ) hay trang bị thêm máy tính cho các phòng ban, đặc biệt là trong phòng thị trường cần có đầy đủ máy tính cho từng cán bộ và kết nối với mạng Internet để truy cập thông tin,...
Trên đây là một số ý kiến và những giải pháp của cá nhân rút ra từ thực tiễn quá trình thực tập tại công ty. Hy vọng sẽ có những gợi ý và đóng góp thiết thực cho sự phát triển của công ty trong tương lai.
Kết luận
Hoạt động xuất nhập khẩu thường xuyên với khách hàng nước ngoài có nhiều khó khăn phức tạp, nhưng lại có hiệu quả to lớn, song cũng có nhiều trường hợp đổ vỡ. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh là tất yếu và gay gắt đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải nhanh nhạy, linh hoạt, dám động não suy nghĩ, dám mạo hiểu làm ăn thì mới thành công trên thương trường quốc tế: "Những ai chưa bao giờ thất bại thì sẽ không bao giờ được nếm mùi thành công".
ở công ty Sản xuất - Dịch vụ & XNK Nam Hà Nội (HAPROSIMEX Sài Gòn) xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, nhập khẩu hỗ trợ cho xuất khẩu. Cùng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ đổi mới, công ty HAPROSIMEX Sài Gòn là một trong những doanh nghiệp không ngừng vươn lên và đạt được những thành tựu, những bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực xuất khẩu.
Như đã nêu ở trên hoạt động buôn bán, giao lưu giữa các nước sẽ đem lại những thị trường tiêu thụ sản phẩm, phát huy được thế mạnh của sản phẩm đặc trưng cho mỗi quốc gia. Xuất phát từ ý tưởng lấy thế mạnh của Hà Nội về vốn, con người và khai thác các điều kiện thiên nhiên ưu đãi ở phía nam, công ty được thành lập vào năm 1991 với số vốn ít ỏi, cơ sở vật chất nghèo nàn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ nhân viên thiếu cả về số lượng, chất lượng nhưng cho đến năm 2000 công ty đã đạt mức doanh thu 139.338.105.869 VNĐ tăng 60,8% so với năm 1999 chứng tỏ hướng đi đúng đắn của công ty cũng như những cải cách thay đổi của công ty về mặt tổ chức, tác phong kinh doanh là phù hợp với xu thế và sự phát triển của thị trường trong và ngoài nước.
Nhưng để đẩy mạnh hơn nữa, công tác xuất khẩu của công ty nên chăng cần cải tiến công tác điều hành quản lý của một số cán bộ phòng ban, nâng cao nghiệp vụ quảng cáo, tiếp thị nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như tăng cường xử lý thông tin hiệu quả. Công ty cần giải quyết tốt khâu đào tạo và nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ kinh doanh, đổi mới và đi sâu, đi sát hơn nữa vào thực tế để nghiên cứu thị trường, tăng vốn mở rộng mạng lưới thu mua, tạo chân hàng, nguồn hàng ổn định để tổ chức khai thác tốt nguồn hàng phục vụ xuất khẩu.
Hy vọng với những gì đã và đang đạt dược, cộng với những tiềm năng và nguồn lực của mình, HAPROSIMEX Sài Gòn không lâu nữa sẽ trở thành một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh XNK ở nước ta.
danh mục tài liệu tham khảo
PGS Đinh Xuân Trình và PTS Nguyễn Như Bột – Thương mại Quốc tế, NXB Thống kê 1993.
PGS Vũ Hữu Tửu – Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương – NXB Giáo dục , trường ĐHNT
SALAND ADAM: Chính phủ và thị trường trong các chiến lược phát triển kinh tế, NXB Khoa học xã hội - 1993
DAVID BERG STANLEY FIHER, RUDIGER DONBUSH, Kinh tế học tập 1, 2.
Các học thuyết kinh tế - lịch sử phát triển, NXB Thống kê 1993
PTS Trần Chí Thành, Tổ chức nghiệp vụ kinh doanh XNK
Trung tâm kinh tế châu á - Thái Bình Dương : Lý luận thực tiễn Thương mại Quốc tế.
Lưu Văn Đạt – Chiến lược kinh tế đối ngoại thòi kỳ quá độ lên CNXH trước mắt đến năm 2005.
Lê Đăng Doanh – Viện trưởng viện nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương.
_ Đổi mới kinh tế ở Việt nam- những thành tựu và triển vọng ( Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương Xuất bản 12/1994
PGS-TS Võ Thành Thu và TS Hồng Vân – Hướng dẫn thực hành kinh doanh XNK tại Việt nam.
PGS-TS Võ Thành Thu- Kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê 1994.
PGS –TS Bùi Xuân Lưu, Giáo trình Kinh tế ngoại thương-1994.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0431.doc