Đề tài Thực trạng và phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam

Từ năm 1987, với chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới, nhà nước đã bắt đầu cho phép các đơn vị sản xuất KD được trực tiếp tìm kiếm bạn hàng và ký kết hợp đồng XNK. Tuy nhiên hoạt động tìm kiếm thị truờng XK mới vẫn chưa được quan tâm đúng mức do chúng ta mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, tư tưởng bao cấp vẫn còn tồn tại và trong thời kỳ này ta thực hiện gia công hàng may mặc với Liên Xô, số lượng hàng xuất tăng lên so với trứơc .Thị trường hàng XK tương đối ổn định nên vấn đề tìm kiếm thị trường ngoài chưa trở nên bức thiết. Việc đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm và mẫu mã chưa được chú trọng. Do cơ cấu đầu tư của nước ta thời kỳ này chủ yếu phục vụ cho sản xuất hàng XK đi các nước XHCN( LX và Đông Âu) với đòi hỏi chủng loại và mẫu mã chỉ tập trung một số loại áo jacket. Sơ mi. chất lượng không cao. Vì vậy sản phẩm dệt may trong giai đoạn này chưa đáp ứng được yêu cầu của các nước đang phát triển cả về chất lượng và chủng loại. Ngoài ra lệnh cấm vận của Mỹ cũng làm hạn chế quan hệ kinh tế của ta với các nước khác điều này cũng ảnh hưởng toí việc tìm kiếm thị trường và bạn hàng của các đơn vị sản xuất.

doc52 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1214 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỷ trọng của các nước kể trên có suy giảm. Mặt hàng áo Jăcket luôn chiếm vị trí chủ yếu trong cơ cấu XK hàng dệt may sang EU. Năm 97 VN đã xuất sang EU gần 11,7 Triệu chiếc, tăng hơn gần 5 triệu chiếc(72%) so với năm 93, chiếm trên 50% kim ngạch XK hàng dệt may sang EU. *Ngoài thị trường EU, VN còn xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch sang 1 số nước như Cannađa ( với kim ngạch XK năm 1997 đạt 18,2 trUSD và trên 21,49triệuUSD năm 1998), Thổ Nhĩ Kỳ( kim ngạch XK 578 ngàn USD năm 1998). Thị trường không hạn ngạch. *Thị trường Nhật Bản. Thị trường Nhật bản là thị trường XK không hạn ngạch XK tăng rất nhanh, đặc biệt là từ năm 1994. Năm 1995 là năm đầu tiên VN lọt vào danh sách 10 nước XK hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản. Năm 1996, Vn vươn lên hàng thứ 8 và năm 97 đã trở thành 1 trong 7 nước XK quần áo lớn nhất vào thị trường Nhật Bản với thị phânf hàng dệt thô là 3,6% và hàng dệt kim là 2,3%. Trong khi hàng dệt may sang Nhật của hầu hết các năm 97 giảm mạnh thì xuất khẩu của VN đã tăng đáng kể cả về kim ngạch lẫn thị phần Kim ngạch XK hàng dệt may của VN sang Nhật Bản Hàng may mặc VN xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản không chỉ tăng nhanh về kim ngạch mà còn đa dạng về chủng loại và tăng mạnh về khối lượng. Các loại áo khoác gió nam, quần áo cho người lái xe tải, áo sơ mi, quần âu.. là những mặt hàng may mặc chủ yếu của VN xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. XK hàng dệt may của Vn sang Nhật Bản năm 98 bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng TC-TT khu vực. Kinh tế suy thoái ,sức mua giảm, tồn kho cao và sự mất giá của đồng yên Nhật làm tăng giá thành nhập khẩu đã buộc nhiều công ty Nhật Bản cắt giảm nhập khẩu nói chung và hàng dệt may của VN nói riêng. Nhập khẩu hàng dệt may của Nhật từ VN năm 98 giảm trên 180 triệuUSD. Tuy nhiên sau đó đã dần dần hồi phục tăng lên 419,1 triệuUSD vào năm 99 và đạt mức cao nhất từ trước đến nay là 619,6 triệuUSD vào năm2000. Thị trường Mỹ Mỹ là một thị trường rộng lớn có thể tiêu thụ hàng hoá của hầu như của tất cả các loại thị trường. Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường XK hàng dệt may có nhiều tiềm năng của VN. Sau quyết định bỏ cấm vận VN của Mỹ được thông qua ngày 13/2/1994, mặc dù chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập và tối huệ quốc (MFN) nhưng các doanh nghiệp VN đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Kim ngạch XK hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ tuy còn thấp nhưng có tốc độ tăng trưởng cao. Kim ngạch XK hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ. Việt Nam chủ yếu xuất sang Mỹ một số mặt hàng dệt thoi: găng tay, sơ mi trẻ em...(khoảng 85%tổng kim ngạch) và hàng dệt kim: sơ mi trẻ em, sơ mi nam, nữ, găng dệt kim, áo len..Mặc dù Mỹ có nhu cầu về hàng dệt kim lớn nhưng VN chưa XK được hàng dệt kim sang thị trường này do mức chênh lệch về thuế suất đ/v các nước được hưởng GSảN PHẩM và MFN cao cũng như sự khác biệt trong tiêu chuẩn về sợi dệt và quy trình ráp sản phẩm. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của VN sang thị trường Mỹ còn ít chỉ đạt 26,4 triệuUSD năm 1997. Năm 1998, trong khi nhiều thị trường XK phi hạn ngạch của Vn giảm mạnh thì thị trường mỹ khá ổn định với muức kim ngạch 26,4triệu USD ,với kim ngạch XK như trên là rất nhỉ bé so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ là 55.864triệuUSD(1998) trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc sang Mỹ là 7795triệuUSD, Mehico:7692triệuUSD( chiếm 13,7%), Hồng Kông :4497triệuUSD (8%) *Thị trường SNG& Đông Âu. Trong những năm gần đây, XK sang thị trường truyền thống SNG và Đông Âu đã bắt đầu được khôi phục. Cộng hoà Liên bang Nga đã trở thành 1 trong 10 nước nhập khẩu hàng dệt may lớn của VN với kim ngạch nhập khẩu là 41,4 triệuUSD năm 1997 và 59,3triệu USD trong năm 98 Các doanh nghiệp VN cũng bắt đầu khôi phục lại thị trủòng các nước Đông Âu hiện chủ yếu xuất theo phương thức hàng đổi hàng với trị giá kim ngạch hàng dệt may khoảng 100tr,USD) Kim ngạch XK hàng dệt may sang thị trường liên bang Nga *Thị trường các nước trong khu vực Hàng năm, ngành dệt may Việt nam XK một lượng sản phẩm lớn sang các nước trong khu vực : Hàn quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore..Tuy nhiên, các nước nước này không phải là thị trường tiêu thụ mà là các nước nhập khẩu hoặc thuê VN gia công để tái xuất sang các nước thứ 3. Ước tính khoảng 70% hạn ngạch XK của VN sang EU phải xuất khẩu qua các nước này. Suy thoái kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng TC-TT khu vực đã làm XK hàng dệt may của VN cũng như số lượng và giá trị các hợp đồng thuê gia công hàng dệt may của các nước này với doanh nghiệp VN giảm mạnh trong năm 1998. Theo xu hướng chuyển dịch của ngành dệt may thế giới, đầu tư của các nước phát triển hơn trong khu vực sang sản xuất và gia công tại VN là xu hướng tất yếu. Tuy nhiên, tìm các giải pháp tăng trưởng trong XK, giảm gia công và XK qua trung gian là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả thực tế của ngành dệt may VN. Kim ngạch XK hàng dệt may sang một số nước trong khu vực Triệu USD 1991 1993 1995 1997 1998 Hàn Quốc 3,144 18,413 43,519 75,953 40,22 Đài Loan 10,088 24,561 149,863 197,529 217,97 Singapore - 1,919 6,088 55,796 32,97 HôngKông 8,869 24,068 23,753 - 14,62 Nguồn: Số liệu thống kê VN Tổng cục thống kê Tổng cục hải quan IV. Đánh giá chung *Những mặt được Ngành dệt may đã đạt được những thành công rất đáng chú ý và đầy ấn tượng trong thập kỷ vừa qua. Ngành được quản lý để tiến hành chuyển đổi từ một nền kinh tế mệnh lệnh hướng mạnh vào khối các nước trong cộng đồng tương trợ kinh tế trước đây sang một nền kinh tế hướng ngoại hội nhập mạnh mẽ vào thế giới. Ngành dệt may hiện nay là một trong những ngành kinh tế lớn của đất nước. Trong những năm qua , ngành dệt may đã đạt được những bước phát triển đáng kể. Số lượng cá đơn vị sản xuất hàng dệt may thuộc mọi thành phần kinh tế tăng lên một cách nhanh chóng. Nhiều đơn vị sản xuất kể cả quốc doanh và tư nhân đã được trang bị nhiều dây chuyền thiết bị sản xuất hiện đại. Lĩnh vực sản xuất hàng dệt may cũng là lĩnh vực được các nhà đầu tư chú ý nhiều nhất khi đầu tư vào các ngành công nghiệp nhẹ bởi đây là ngành đòi hỏi ít vốn hơn và thời gian thu hồi vốn nhanh. Để đạt được những thành tích trên, bên cạnh những nỗ lực chính của ngành dệt may, phải kể đến vai trò của nhà nước với 1 loạt các chính sách đổi mới cơ chế quản lý kinh tế như chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, huy động được nguồn vốn trong nhân dân vào ngành dệt may. Với chính sách mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với các nước trên thế giới cho phép các đơn vị sản xuất được trực tiếp XNK. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tìm kiếm bạn hàng và mở rộng trường. Hiệp định về buôn bán hàng dệt may đã ký tắt giữa chính phủ VN & EU đã giúp cho hàng dệt may của ta xâm nhập vào những thị trường khó tính, tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Việc chính phủ Mỹ vừa thông qua hiệp định thương mại Việt Mỹ cũng góp phần quan trọng trong việc mở rộng khả năng xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ trong thời gian tới. Những hạn chế Trong những năm qua, nhành dệt may đã cố gắng khắc phục những khó khăn để phát triển nhưng đến nay vẫn còn những hạn chế nhất định, nhất là việc sản xuất hàng dệt may XK và hoạt đông XK mặt hàng này.Thiết bị và công nghệ sản xuất của ngành dệt may còn lạc hậu nhiều, riêng có dệt kim đã đuợc đổi mới tương đối đồng bộ. So với ngành dệt thì nhành may được trang bị nhiều máy móc hiện đại hơn, hầu hết các đơn vị sản xuất hàng may XK lớn đều đuợc trang bị máy móc hoàn toàn hiện đại. Chúng ta chưa có những chính sách phù hợp để khuyến khích việc sản xuất nguyên liệu cho ngành dệt may nên nguyên liệu được sản xuất trong nước vừa có chất lượng xấu, vừa có sản lượng thấp không thể sản xuất được mặt hàng đủ tiêu chuẩn XK. Hiện nay hàng dệt may xuất khẩu của ta chủ yếu là hàng dệt kim, còn các mặt hàng dệt khác thường không đủ tiêu chuẩn về chất lượng. Sản phẩm vải của ngành dệt không đủ tiêu chuẩn để cung cấp cho may xuất khẩu. Nguyên liệu chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Phần lớn (80%) hàng dệt may XK của ta hiện nay là gia công cho nước ngoài, do vậy giá trị ngoại tệ ta thực thu chưa cao (chiếm khoảng 15-17% trị giá XK). Một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế của các doanh nghiệp nước ta là do thiếu vốn, lãi suất vốn ngân hàng cao. Không có vốn đầu tư ngành dệt không thể có thiết bị hiện đại để dệt vải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Không có vốn các nhà sản xuất không thể đầu tư những phụ liệu cao cấp cho sản phẩm may, cũng như mua nguyên liệu để tạo sản phẩm XK bán theo điều kiện FOB. Thực tế cho thấy nếu các doanh nghiệp có vốn, sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh bán FOB thì sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Việt Nam có ít khách hàng trực tiếp. Mặc dầu có hạn ngạch nhưng hầu hết các doanh nghiệp phải XK thông qua nước thứ 3: Nam triều tiên, Hông Kông ,Đài Loan... bằng cách gia công cho họ để vào thị trường EU. Ơ những thị trường không hạn ngạch mà trước hết là thị trường Mỹ ,khó khăn lớn nhất của VN khi xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ là phải chịu thuế suất cao chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc, chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập do hầu hết nguyên phụ liệu cho sản xuất Việt Nam đều phải nhập khẩu. Sản phẩm XK của VN chủ yếu tập trung ở một số sản phẩm truyền thống dễ làm như: áo Jăcket, áo sơ mi, quần âu.. .Các sản phẩm yêu cầu cao thì còn ít doanh nghiệp VN thực hiện được. Chính vì vậy mặc dầu số lượng hạn ngạch bị hạn chế, nhưng vẫn còn nhiều mã hàng bị bỏ trống vì không có doanh nghiệp tham gia. Những hiểu biết về thương mại quốc tế của các doanh nghiệp VN còn hạn chế trong nước lại thiếu những dịch vụ tư vấn, có quá ít thông tin về thị trường đối tác nước ngoài. Các doanh nghiệp VN lại nghèo không đủ tiền để thường xuyên tham gia các hội chợ, triển lãm,các cuộc xúc tiến mậu dịch ở nước ngoài hoặc lập văn phòng đại diện ở nước ngoài. Những thay đổi về mẫu mã khuynh hướng thời trang mới chúng ta hoàn toàn không nắm được trước để chẩn bị cho sản xuất Từ ngày nước ta có chủ trương chính sách đổi mới đưa quyền chủ động Sản xuất về cơ sở đã có tác động tốt đến các doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Song bên cạnh những thành công đã đạt được, chúng ta còn bộc lộ những thiếu sót đáng tiếc về công tác chuẩn bị, đối ngoại ,quản lý..Thiếu sự quản lý chặt chẽ về tổ chức, các cơ sở chưa phối hợp đồng bộ, nhất là về giá cả gia công với nước ngoài, cạnh tranh tổ chức dẫn đến thiệt hại chung cho cả ngành. Chất lượng sản phẩm XK không được quản lý chặt chẽ, hiện tượng làm ẩu của 1 số cơ sở đã gây ảnh hưởng xấu đến uy tín hàng dệt may VN. Đầu tư thiếu sự hướng dẫn, chỉ tập trung vào một số mặt hàng dễ làm, lợi nhuận cao do đó còn nhiều mặt hàng không được khai thác hết. Tuy nhiên để phù hợp với quy định của các nước Mỹ,EU,Canada,Nhật thì chúng ta cần cải tiến rất nhiều cả về cơ chế và chính sách cho phù hợp với các điều kiện về kinh tế va pháp lý của các nước đó.Các doang nghiệp cần đa dạng hoá sản phẩm của mình đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với các điều kiện về chất lượng của các thị trường khó tính. Chương III: Phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam I. Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam trong những năm tới. Vấn đề cốt lõi để phát triển sản xuất là tìm được thị trường tiêu thụ. Theo quy luật của nền sản xuất hàng hoá, đối với chúng ta không còn tồn tại khái niệm tính toán áp đặt 1 nhu cầu để bố trí sản xuất và cần nắm bắt được những diễn biến của thị trường để phát triển sản xuất theo quy luật khách quan của nó. Chúng ta cũng đưa ra những chính sách ưu tiên họ XK, coi XK là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho ngân sách nhà nước, vì vậy chúng ta phải hoà nhập vào thị trường dệt may nước ta mới có thể cạnh tranh được để tồn tại và có sức vươn lên hơn nữa. Dự đoán chung về thị trường thế giới Một trong những sự kiện quan trọng của nền kinh tế thế giới trong thời gian qua là từ ngày 12-15/4/1994, hội nghị thương mại thế giới đã diễn ra tại Maraket( ma rôc)và hiệp định mậu dịch thế giới đã được 125 nước tham gia ký kết. Một trong những thoả thuận trong văn bản kết thúc vòng đàm phán Urugoay là hiệp định về hàng dệt may ATC ra đời Từ năm 1973, các nước phát triển hạn chế nhập khẩu hàng dệt may bằng cách sử dụng hạn ngạch 2 chiều trong khuôn khổ hiệp định đa sợi(MFA). Những hạn chế như thế dẫn đến sự tăng giá của những mặt hàng này. Theo ATC hiệp định đa sợi sẽ được xoá bỏ trong vòng 10 năm bắt đầu từ ngày 1/1/1995. Đến năm 2005, hiệp định đa sợi sẽ được thay thế bằng hiệp định mậu dịch hàng dệt may, hạn ngạch được bãi bỏ hoàn toàn và mậu dịch hàng dệt may sẽ được thực hiện qua các thoả thuận khi đàm phán. Trong khuôn khổ GATT, hiệp định mậu dịch hàng dệt may là hiệp định nhánh của hiệp định thế giới.Việc xoá bỏ hạn ngạch và thuế quan và thuế quan rất có lợi cho các nước đang phát triển là những nước XK chủ yếu hàng dệt may. Theo dự đoán của các chuyên gia, XK hàng dệt may của các nước đang phát triển sẽ tăng 83% và hàng dệt may sẽ tăng 93% so với mức hiện nay. Đồng thời các nước phát triển cũng sẽ có lợi vì hàng dệt may giảm giá. Theo báo cáo của sở nghiên cứu kinh tế quốc tế Mỹ, nếu như kết quả của việc bãi bỏ hạn ngạch và thuế quan theo ATC người tiêu dùng Mỹ mỗi năm sẽ giảm được 15 tỷ USD chi tiêu và hàng may và 2 tỷ USD vào hàng dệt do sự giảm giá. Tuy nhiên, vì hàng rào thuế quan được dỡ bỏ dần, hàng nhập khẩu sẽ giảm, các nước nhập khẩu sẽ áp dụng biện pháp chống khuynh hướng tiêu dùng để bảo vệ sản xuất trong nưóc, do đó cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn. Theo đánh giá chung, ảnh hưởng của việc loại bỏ MFA đối với tình hình buôn bán hàng dệt may thế giới ở 2 mốc thời gian đầu(1/1/1995) và (1/1/1998) là không đáng kể, có chăng phải từ mốc thứ 3(1/1/2002) Bởi vì, theo ATC thước đo về hội nhập của hàng dệt may trong các giai đoạn đều được tính bằng tổng khối lượng nhập khẩu chứ không phải được tính riêng cho các mặt hàng đang bị hạn chế. Thực tế ở các nước không phải tất cả các hàng dệt may đều bị hạn chế nhập khẩu , do đó các nước nhập khẩu sẽ đưa vào hội nhập trước nhất là các mặt hàng không bị hạn chế hoặc ít bị hạn chế hoặc các sản phẩm có khối lượng lớn nhưng giá trị gia tăng thấp Việt Nam cần thiết gia nhập GATT, đặc biệt là lúc này khi hiệp định đa sới đã được thay thế bằng hiệp định mậu dịch hàng dệt may .Tổ chức GATT sẽ bảo trợ cho Việt nam tốt hơn theo nguyên tắc mậu dịch tự do nói chung và lĩnh vực hàng dệt may nói riêng Việc bãi bỏ hạn ngạch và thuế quan của hàng dệt may cũng tạo được thuận lợi cho VN, thị trường sẽ được mở rộng hơn, số lượng sản phẩm sẽ không bị hạn chế trong hạn ngạch được cấp. Mặt khác cũng đem lại khó khăn là việc tăng cường cạnh tranh cả về chất lượng lẫn giá cả. Chúng ta phải có sự đầu tư thích đáng để hiện đại hoá ngành dệt may sao cho sản phẩm dệt may của ta đủ sức cạnh tranh trên thế giới. Dự đoán trong những năm tới, xu hướng thành phẩm hoá ngày càng tăng, phương hướng phát triển ngành dệt may của các nước sẽ là thoả mãn với mức độ cao nhất về nhu cầu và phương thức sinh hoạt mới của người tiêu dùng vì vậy cơ cấu thị trường hàng dệt may cũng có thay đổi, kim ngạch XK hàng may sẽ lớn hơn kim ngạch XK hàng dệt. Hàng may ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn trong cơ cấu hàng dệt may. Thị trường tiêu dùng cuối cùng của tơ sợi thế giới gồ 3 loại: may mặc( quần áo), dùng trong gia đình( trang trí nội ngoại thất) và dùng trong công nghiệp. Dự báo thị trường XK hàng dệt may của Việt nam. Trong những năm qua, kim ngạch XK hàng dệt may của Việt Nam tăng với tốc độ cao một phần do bắt đầu từ một điểm xuất phát thấp và đang có xu hướng giảm khó có thể tăng cao trong những năm tới. Tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may (% so với năm trước) 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Kim ngạch XK hàng dệt may 165,4 153,4 135,3 117,3 100 111,1 120 Thị trường hạn ngạch 114 122,8 120 107 144,4 106 106 Thị trường không hạn ngạch 316 185,9 146 123,1 77,9 115,8 120 Với những thay đổi cơ bản trong thương mại hàng dệt may thế giới hiện nay như đã trình bày ở ba phần trên, việc mở rộng thị trường XK hàng dệt may của Việt nam vừa thuận lợi vừa đương đầu với rất nhiều thách thức *Xuất khẩu sang EU Với số dân trên 350 triệu người, có nhu cầu tiêu thụ lớn và đa dạng về hàng may mặc. Mức tiêu dùng bình quân tại thị trường này là 17 kg vải /người/ năm. Thị trường EU có lịch sử may mặc lâu đời. Đây là nơi hình thành và phát triển trung tâm thông tin về mode của hàng may mặc .Thị trường EU cũng là khu vực có kỹ thuật sản xuất những sản phẩm may mặc cao cấp truyền thống. Từ năm 1997, EU bắt đầu thực hiện những quy chế sản phẩm mới. Theo quy định này, EU bỏ mức thuế 0% đối với các sản phẩm được ưu đãi thay thế bằng các mức thuế ưu đãi khác cho các sản phẩm dựa trên mức độ nhạy cảm của sản phẩm và phải chịu mức thuế bằng 85% mức thúê hải quan chung. Sản phẩm mới còn quy định các điều khoản ưu đãi xã hội và môi trường cũng như các thông lệ buôn bán với các nước dược ưu đãi. Như vậy thay vì thuế suất 0% như những năm qua, sắp tới hàng dệt may VN xuất sang EU sẽ phải chịu mức thuế mới cũng như các yêu cầu về môi trường và hiệp định quốc tế về lao động. Với triển vọng quan hệ thương mại VN-EU tốt đẹp hàng dệt may của VN chưa bị EU áp dụng các hạn chế nhập khẩu như đối với các hàng dệt may của Trung Quốc, trong giai đoạn 2000-2005 kim ngạch XK hàng dệt may sang EU có thể tăng trưởng với tốc độ bình quân 10% năm đạt kim ngạch 1190-1220 triệuUSD vào năm 2005 Sau năm 2005 chế độ hạn ngạch bãi bỏ, tuy không còn các hạn chế định lượng nhưng đồng thời VN cũng sẽ không được hưởng các ưu đãi về thuế, đòi hỏi sản phẩm dệt may phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì vị trí trên thế giới. Bên cạnh đó EU là thị trường đòi hỏi cao về chất lượng mẫu mốt. “Thời trang “là một yếu tố quyết định để tiêu thụ được sản phẩm dệt may trên thị trường này. Xu hướng buôn bán nội khu vực giữa các nước EU và chiến lược đầu tư sản suất sang các nước Đông âu và nhập lại sản phẩm của các nước EU cũng là 1 khó khăn cho VN trong khả năng tăng XK sang thị trường này. Vì vậy, tốc độ tăng kim ngạch XK trong giai đoạn 2005-2010 có thể giảm xuóng chỉ còn 6-7% năm và kim ngạch XK hàng dệt may sang EU ước đạt 1590-1620 triệuUSD vào năm 2010. *Xuất khẩu sang thị trường không hạn ngạch. -Thị trường Nhật Bản. Xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản tuy có một thuận lợi đáng kể là được hưởng thuế ưu đãi của sản phẩm của Nhật nhưng cũng còn nhiều khó khăn. Cạnh tranh với hàng dệt may của Trung Quốc( được hỗ trợ bằng hệ thống trrợ cấp xã hội của chính phủ) và hàng dệt may của các nước ASEAN( đang trở nên có sức cạnh tranh hơn sản phẩm VN về giá cả) càng ngày càng trở nên khó khăn hơn trên thị trường Nhật. Nhận định chung, đối với thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu cho rằng muốn cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường Nhật thì giá thành phải hạ ở mức đủ sức cạnh tranh, phải không ngừng đổi mới công nghệ một cách đồng bộ để có thể đáp ứng được yêu cầu cao về kỹ thuật và cung ứng các phụ kiện liên quan đến hàng may mặc. So với các thị trường quốc tế khác, Nhật là nước khó tính. Ký hợp đồng với Nhật đã khó, thực hiện hợp đồng càng khó hơn. Chất lượng sản phẩm phải cao, đảm bảo giao hàng đúng thời hạn. Các chuyên gia Nhật Bản không những kiểm tra gắt gao về chất lượng sản phẩm mà còn giám sát cả quy trình sản xuất, kiểm tra ở ngay từ công đoạn sản xuất. Trong những năm qua, nhập khẩu hàng dệt may của Nhật có xu hướng giảm do cuộc khủng hoảng nay đã hồi phục. Kim ngạch Xk hàng dệt may sang Nhật năm 2000 đạt 620 triệu USD và 4 tháng đầu năm 2001 đạt 190 triệu USD Một khó khăn có thể nảy sinh trong thời gian tới là các doanh nghiẹp Nhật Bản đang yêu cầu chính phủ Nhật áp đặt hạn ngạch với hàng dệt may xuất khẩu của VN. Đây là điểm cần lưu ý để tránh đầu tư quá lớn cho các sản phẩm xuất sang Nhật. Tuy nhiên , kim ngạch XK hàng dệt may sang Nhật trong giai đoạn 2000-2005 vẫn có thể duy trì mức tăng trưởng cao, bình quân 10-12% năm và đạt kim ngạch 670-700 triệuUSD vào năm 2005. Tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2005-2010 sẽ khó có thể đạt được mức cao như vậy trong điều kiện tự do cạnh tranh sau năm 2005 và có thể chỉ đạt 7-8%/ năm, đưa kim ngạch XK hàng dệt may sang Nhật lên 800-900 triệuUSD năm 2010 Thị trường Mỹ Khó khăn lớn nhất của Việt Nam trong XK sang Mỹ là chịu thuế suất cao do VN chưa được hưởng MFN . Thị trường Mỹ cũng đòi hỏi phải đáp ứng các quy định chặt chẽ về sản phẩm theo hệ thống quản lý chất lượng ISO9000, tuân thủ các quy định theo luật thương mại Mỹ về thủ tục XNK, về nhãn hiệu hàng hoá và xuất xứ sản phẩm cũng như các quy định khắt khe về thời gian giao hàng. Xu hướng tăng buôn bán nội khu vực với các nước đươch hưởng ưu đãi NAFTA( Thị trường mậu dịch tự do Bắc Mỹ) của Mỹ trong những năm gần đây cũng gây những khó khăn cho các nước XK hàng dệt may Châu á nói chung và Việt Nam nói riêng. Với triển vọng Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã ký, trong đó có điều khoản đãi ngộ MNF với mức thuế suất ưu đãi, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của VN sang mỹ có thể đạt 280-300 triệuUSD vào năm 2005 với mức tăng trưởng bình quân 15-18%/năm trong giai đoạn 200-2005. Tuy nhiên, để đạt mức tăng trưởng này ngành dệt may VN cần tập trung đầu tư công nghệ sản xuất hàng dệt kim với tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với yêu cầu của thị trường mỹ trong điều kiện nhập khẩu hàng dệt kim của thị trường này đang gia tăng. Trong giai đoạn 2005-2010, tốc độ tăng trưởng XK sang Mỹ có thể chậm lại do xu hướng buôn bán nội khu vực của Mỹ tăng lên cũng như việc Trung Quốc được công nhận là thành viên của WTO, tạo ra những lợi thế trong xuất khẩu hàng dệt may của Trung Quốc sang thị trường này, gây sức ép cạnh tranh mạnh mẽ với hàng dệt may cùng chủng loại của VN. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ dự báo sẽ chỉ tăng với tốc độ 9-10%/ năm và đạt kim ngạch xuất khẩu 430-440 triệuUSD vào năm 2010. Thị trường SNG và Đông Âu Trong chuyến đi thăn của Chủ tịch nước Trần Đức Lương sang Nga( 24-29/8/1998), cơ sở pháp lý cho việc thanh toán trong quan hệ thương mại Nga- Việt, Hiệp định khung giữa 2 ngân hàng trung ương được ký kết, bước đầu giải quyết được khó khăn cơ bản của ác doanh nghiệp XK sang Nga là phải chấp nhận hình thức trả chậm( 6-12 tháng) Xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường nga nói riêng, các nước SNG và các nước Đông Âu nói chung cũng có nhiều điểm thuận lợi. đây là thị trường truyền thống rất quen thuộc đối với thị trường VN, mạng lưới kinh doanh của người VN tại các thị trường này tạo điều kiện thuận lợi cho marketting giới thiệu sản phẩm của VN cũng như tìm đối tác KD cho tổ chức nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá...Tuy nhiên việc trở lại các thị trường vẫn còn gặp nhiều khó khăn: + Mặc dù thường được coi là thị trường dễ tính nhưng sức mua và nhu cầu của dân cư các nước SNG đã thay đổi, yêu cầu về chất lượng – nội dung và hình thức sản phẩm ở mức cao với giá cả ở mức chấp nhận được. Hàng phẩm cấp trung bình chỉ tiêu thụ được ở các vùng nông thôn. + Cạnh tranh với hàng trung Quốc, Thổ nhĩ Kỳ ngày càng gay gắt hơn. Hàng may mặc trung Quốc có giá rẻ hơn, đa dạng hơn về màu sắc, mẫu mã sản phẩm, phí vận chuyển thấp lại được trợ cấp XK. Mạng lưới kinh doanh của người Việt tại Nga trong một hai năm gần đây chuyển sang bán hàng Trung Quốc và thổ Nhĩ kỳ. + Xu hướng chuyển dịch sản xuất của cvác nước EU sang các nước SNG và Đông Âu sẽ gây sức ép cạnh tranh mới đối với ngành dệt may VN. + Chính sách thuế của Nga quy định xếp hàng của VN vào nhóm các nước như: Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan ,Trung Quốc.. dsã làm cho hàng VN khó khăn hơn trong cạnh tranh với các nước có trình độ sản xuất cao hơn Xu hướng đầu tư sản xuất và gia công của hàng dệt may EU sang thị trường này không những chỉ làm ảnh hưởng đến xuất khẩu của VN sang SNG và đông Âu. Cùng với thoả thuận cuae các nước này với Thổ Nhĩ Kỳ tạo điều kiện thuận lợi cho XK hàng dệt may của Thổ Nhĩ Kỳ sang khu vực này, xu hướng chuyển dịch đầu tư của E sang khu vực thị trường này sẽ làm giảm tốc đọ tăng trưởng XK của VN trong giai đoạn 2000-2010. Dự báo kim ngạch xuất khẩu sang các nước SNG và Đông Âu đạt 350-380 triệuUSD vào năm 2005 với mức tăng trưởng bình quân 8-10%/ năm và đạt 450-460triệu USD vào năm 2010 .với mức tăng trưởng bình quân 6-7%/ năm trong giai đoạn 2005-2010. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may XK và doanh nghiệp dệt may Việt nam. Ngành dệt may Việt Nam được đánh giá là ngành có lợi thế so sánh cao nhờ các yếu tố sau: Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ Tính đến năm 1997, dân số Việt Nam đã tăng lên tới 75,355 triệu người, trong đó có trên 41 triệu người trong độ tuổi lao động. Người lao động VN có truyền thống cần cù khéo léo, ham học hỏi, tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ mới. Mức lương hiện nay ở VN vẫn còn ở mức khá thấp so với các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực. Tiền công bình quân cho 1 công nhân VN là 0,18 USD/giờ , còn ở Inđonêxia 0,23USD/giờ, Thái Lan 0,87USD/giờ. Lao động dồi dào và tiền lương thấp là thế mạnh cơ bản của VN trong giai đoạn này để tiếp nhận sự dịch chuyển của ngành dệt may từ các nước phát triển và các nước phát triển và các nước Nics, thu hút vốn đầu tư cho sự phát triển của ngành. Tuy nhiên, cần phải nói rằng lợi thế về giá nhân công rẻ không phải là yếu tố ổn định trong cạnh tranh. Khi trình độ khoa học kỹ thuật nâng cao lợi thế về lao động sẽ không còn sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nữa. Vị trí địa lý và điều kiện giao lưu hàng hoá Việt Nam nằm trong khu vực Đông nam á, khu vực trong những năm đầu của thập kỷ 90 có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trên thế giới, với mức tăng trưởng kinh tế bình quân 6-8%/năm trong những năm qua và cũng là khu vực có dân số đông nhất thế giới. Vị trí của VN cũng thuận tiện cho việc phát triển giao lưu hàng hải quốc tế với các khu vực trên thế giới với bờ biển dài, có nhiều cảng nước sâu và khí hậu tốt cũng như có điều kiện phát triển đường bộ và đường sắt theo dự án xây dựng đường sắt xuyên Âu á theo dự án của ADB. Khả năng của nguyên liệu Việt Nam có nhiều vùng có điều kiện khí hậu thổ nhường phù hợp cho việc phát triển cây bông. Chương trình phát triển cây bông đến năm 2010 của Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn đã được đưa vào thực hiện và những kết quả bước đầu. Nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa truyền thống cuả VN đã được phát triển với việc áp dụng kỹ thuật mới, cho ra đời các sản phẩm có chất lượng cao, được ưa chuộng trên thị trường thế giới tuy sản lượng còn thấp. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển sản xuất sợi tỏng hợp và vải khong dệt với triển vọng hình thành và phát triển các cơ sở hoá dầu. Khả năng đổi mới thiết bị công nghệ Theo đánh giá của UNDP trang thiết bị ngành dệt của VN mới chỉ ở mức 2/7, rất lạc hậu so với thiết bị ngành dệt thế giới. Do ngành dệt đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời hạn thu hồi vốn kéo dài nên khó có khả năng đổi mới nhanh thiết bị công nghệ, đòi hỏi phải có những công trình đầu tư lớn, đổi mới trang thiết bị về cơ bản. Bên cạnh đó, trang thiết bị ngành may đã có những thay đổi đáng kể với các thiết bị công nghệ mới của các nước tiên tiến có thể sản xuất những mặt hàng có chất lượng quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp may có quy mô vừa và nhỏ, có khả năng thích nghi linh hoạt, dễ dàng đổi mới trang thiết bị, công nghệ theo biến động của thị trường. Các chính sách hỗ trợ của chính phủ Ngành dệt may có hàm lượng lao động lớn và có tỷ lệ sản phẩm Xk cao- được xếp vào lĩnh vực khuyến khích đầu tư phát triển. Nhiều chính sách thương mại và đầu tư được ban hành trong thời gian qua đã có tác động thiết thưcj trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ những khó khăn của các doanh nghiệp dệt may và thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Khả năng cạnh tranh Xuất phát từ những lợi thế kể trên, mặc dù sản phẩm dệt may của Việt nam hầu như chưa biết đến trên thị trường thế giới nhưng sản phẩm may Xk của VN được đánh giá cao về nhiều phương diện: chất lượng sản phẩm tốt và ổn định, thời gian giao hàng được thực hiện vào loại tốt so với nhiều nước Châu á Bên cạnh đó, hiện sản phẩm dệt may VN vẫn còn kém cạnh tranh hơn nhiều nước trong khu vực về nhiều mặt: + Về giá: Giá hàng dệt may của ta thường cao hơn giá sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực khoảng 10-15%, đặc biệt so với sản phẩm dệt may Trung Quốc, giá của ta có khi cao hơn đén 20%. Một mặt do từ nguyên phụ liệu đến công nghệ thiết bị hầu hết phải nhập khẩu ,một mặt do VN nhận làm gia công cho nước ngoài. + Về cơ cấu sản phẩm Sản phẩm dệt may VN vẫn còn đơn điệu khả năng đa dạng hoá mặt hàng không theo kịp với sự thay đổi của nhu cầu thị trường, đặc biệt là với các trang phục cao cấp. Cơ cấu sản phẩm may chưa phù hợp với yêu cầu phát triển thị trường xuất khẩu. Trong khi nhu cầu nhập khẩu hàng dệt kim tăng lên từ những thị trường nhập khẩu lớn: Mỹ, Nhật Bản ,EU... thì sản phẩm may xuất khẩu của VN vẫn chủ yếu là hàng dệt thoi, hàng dệt kim chỉ chiếm khoảng 10% tổng sản phẩm may xuất khẩu + Về tổ chức sản xuất và nhập khẩu DN dệt may Việt Nam đông nhưng không mạnh, chủ yếu là DN vừa và nhỏ chưa có kinh nghiệm trong tổ chức quản lý Ssản xuất KD, tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm , xúc tiến XK, Hiệp hội ngành hàng chưa có hiệu quả Năng suất lao động thấp, hệ thống tổ chức sản xuất chưa hợp lý , nhiều công đoạn thừa dẫn đến tốc độ may thấp Số công nhân có tay nghề cao , có khả năng thực hiện nhiều công đoạn, nhiều sản phẩm chưa nhiều, làm hạn chế khả năng nhanh chóng chuyển đổi sản phẩm theo yêu cầu của người đặt hàng Việc quản lý lao động chưa được thực hiện chặt chẽ, ý thức về tuân thủ thời gian lao động, về tiết kiệm chi phí của công nhân nhiều nơi còn thấp + Về môi trường kinh doanh Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài, VN kém hấp dẫn hơn nhiều nước trong khu vực do các thủ tục quản lý hành chính trong đầu tư nước ngoài. Thời gian chờ cấp giấy phép đầu tư thường bị phụ thuộc vào nhiềucấp quản lý. Bên cạnh các chính sách khuyến khích đầu tư, điều kiện cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. So với nhiều nước trong khu vực, cơ sở hạ tầng của VN kém cạnh tranh hơn về nhiều phương diện: các dịch vụ tài chính, ngân hàng, điều kiện giao thông vận tải ,kho hàng ,bến bãi vừa thiếu, vừa yếu kém, chi phí điện nước thông tin cao...Với mặt hàng dệt may khối lượng guyên liệu nhập khẩu cũng như thành phẩm XK cần phải chuyển tải rất lớn thì các yếu tố trên càng trở nên quan trọng I. Mục tiêu sản xuất và xuất khẩu trong những năm tới Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là hướng ra XK tăng nguồn thu ngoaị tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất, mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng ,chất lượng và chủng loại, giá cả, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối CNH- HĐH đất nước Mục tiêu cụ thể: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010. Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 2010 1.Sản xuất Vải lụa Triệu mét 1330 2000 Sản phẩm dệt kim Triệu sản phẩm 150 210 Sản phẩm may (quy chuẩn) nt 780 1200 2. Kim ngạch XK Triệu USD 3000 4000 Hàng dệt nt 800 1000 Hàng may nt 2200 3000 3. Diện tích trồng bông ha - 100000 4. Sản lượng bông xơ tấn - 60000 5. Diện tích trồng dâu ha - 40000 6. Sản lượng tơ tằm tấn - 4000 Nguồn: Bộ công nghiệp II. Biện pháp thực hiện 1.Các biên pháp phát triển ở tầm vĩ mô. Nhà nước cần mở rông việc thành lập các trung tâm thương mai Việt Nam tại một số khu vực như sau:Đu Bai mở ra các khả năng khai thác các lợi thế của thị trường nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu vào các nước như I-rắc,I-ran...cung như Gióoc-đa-ni để xuất khẩu sang các thị trường Mỹ ,Tây Âu,Bắc Âu...nhờ các quan hệ về quan hệ thương mại đã ký giữa Gióoc-da-ni và các nước khác. Để đảm bảo cho hàng dệt may Việt Nam từng bước có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới, thì ngay từ bây giờ phải xây dựng một chiến lược phát triển đồng bộ đồng bộ cho ngành dệt may Việt Nam bao gồm cơ chế chính sách hỗ trợ và khuyến khích,đổi mới công nghệ và thiết bị,nghiên cứu mẫu mã sản phẩm và thị hiếu người tiêu dùng...Cần kiến nghị với nhà nước hỗ trợ bằng cách dùng quỹ hỗ trợ xuất khâu trợ giá cho các lô hàng mua đứt bán đoạn xuất khẩu trực tiếp tăng khả năng cạnh tranh. Mặc dù có các chính sách hỗ trợ như vậy ,nhưng nhà nước cần phải đưa ra các tiêu chuẩn về kiểm tra chất lượng ở mức quốc gia,đồng thời khuyến khích cac doanh nghiệp tham gia đăng ký tiêu chuân chất lương quốc tế :ISO 9002,14000... Việc quy định này sẽ giúp cho sản phẩm của Việt Namcó uy tín tốt hơn trên thi trường quốc tế.Tạo động lưc cho doanh nghiệp cải tiến quy trình sản xuất để đạt được tiêu chuẩn chất lượng quy định, đáp ứng tiêu chuẩn của hàng nhập khẩu vào các nước: EU, Mỹ... Do trong một thời gian ngành dệt may không chú ý nhiều tới thị trường nội địa đã làm cho hàng giả, hàng nhái các sản phẩm dệt may Việt nam để tiêu thụ ngay tại thị trường trong nước. Tình trạng nhập lậu ngày càng gia tăng đặc biệt hàng nhập lậu từ Trung Quốc với giá rẻ gây xáo trộn thị trường trong nước. Cũng như hiện trạng phổ biến hiện nay trên thị trường hiện nay là việc các chủ kinh doanh gắn tên ngoại lên hàng Việt Nam không đúng với nhãn hiệu mà cơ sở sản xuất đưa ra. Đã dến lúc nhà nước cần có những biện pháp hữu hiệu, kiên quyết hơn trong việc ngăn chặn hangf nhập lậu để bảp hộ hàng dệt may trong nước, tạo dựng lòng tin cho người tiêu dùng về hàng Việt Nam và khuyến khích “người Việt nam dùng hàng Việt Nam”, đồng thời tạo moi trường cạnh tranh bình đẳng trên thị trường nội địa. Việt Nam cần tăng cường thoả hiệp với 1 số nước trong khối EU để có được khối lượng hạn ngạch nhập khẩu nhiều hơn. Đồng thời, tăng cường đàm phán với Mỹ để được hưởng quy chế tối huệ quốc nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doang nghiệp Việt Nam tăng lượng hàng may mặc vào các thị trường này, cũng như dần dần tạo được uy tín hàng Việt Nam trên trường quốc tế. Không chỉ quan tâm tới việc làm sao để có hạn ngạch và những ưu dãi thuế quan nhập khẩu. Chính vì vậy, trung tuần tháng sáu vừa qua, Bộ htương mại, Bộ công nghiệp, Bộ KH& ĐT đã thống nhất một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu hàng dệt may đặc biệt đôí với mặt hàng áo Jacket có giá trị lớn nhưng tiến độ giao hàng chậm so với cùng kỳ năm 98. Theo đó, các doanh nghiệp có hợp đồng giao hàng ngay trong tháng 6, 7, 8 cần bổ sung hạn ngạch cat.21, sẽ được cấp theo hợp đồng với điều kiện doanh nghiẹp cam kết nộp trước 50% phí hạn ngạch. Số lượng hạn ngạch bổ sung nếu không thực hiện hoặc không thực hiện hét, doang nghiệp không nhận được lại phí hạn ngạch dã nộp. Các doanh nghiệp dược giao hạn ngạch cat.21 nhưmg do tình hình khó khăn về thị trường, nếu trả lại cho Bộ thương mại trước ngày 15/8/99 sẽ được tính vào số lượng thực hiện năm 99 làm cơ sở giao hạn ngạch năm 2000. Chính phủ tăng cường đưa ra các biện pháp kích cầu mạnh mẽ hơn hỗ trợ doanh nghiệp dẩy mạnh tiêu thụ, kích thích sản xuất phát triển. Đối với ngành dệt may, ngoài các giải pháp chung như tăng vốn đầu tư ưu đãi, giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh, thì chính phủ thực hiện cơe chế khuyến khích xuất khẩu như thưởng hạn ngạch cho các doanh ngiệp xuất khẩu nhiều sang thị trường phi hạn ngạch, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu, xuất khẩu mặt hàng mới, tìm được thị trường mới. Chính sách phân bố hạn ngạch hiện nay cần chú ý đến doanh nghiệp ở những vùng khó khăn, mặc dù không ít doanh nghiệp trong số này có hạn ngạch nhưng lại không có khách hàng. Quy chế sử dụng đã mở hướng là cho phép uỷ thác cho đơn vị khác ký hợp đồng, còn mình chỉ thực hiện sản xuát. Đấu thầu hạn ngạch cũng là cách đưa hạn ngạch đến tay những đơn vị có khả năng ký được hợp đồng giá tốt. Quy chế giao hạn ngạch năm 2000 đã mở rộng đấu thầu cho doanh nghiệp cả nước. Hoạt động đấu thầu cần phải được tiến hành công khai và ngày càng được mở rộng hơn vì dây là hình thức lành mạnh trong phân phối hạn ngạch, tạo điều kiện cho các DN dược hưởng ưu đãi để có động lực mạnh mẽ hơn trong việc tham gia xuất khẩu. 2. Các biện pháp phát triển ở tầm vi mô Thị trường nội địa Trong tình hình hiện nay các daonh nghiệp cần phải đưa ra các chiến lược hướng nội. Để có thể tự khẳng định mình trên thị trường trong nueoéc, một điều hiển nhiên là các doanh nghiệp phải tính dén hiệu quả kinh doanh, thông qua việc đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao, tăng năng suất lao động trong sản xuát giảm được giá thành sản phẩm, kết hợp giữa các khâu trong quá trình sản xuất nguyên liệu, phụ liệu phục vụ cho quá trình sản xuất hàng may mặc, hạ giá thành sản phẩm nhưng dảm bảo có lãi. Không chỉ có thế mà một điều quan trọng giúp cho doanh nghiệp tự khẳng định mình, tạo niềm tin với khách hàng đó là việc đặt tên cho mỗi mặt hàng mình làm ra, đáp ứng thị hiếu tiêu dùng hiện tại của khách hàng. Đây có thể được coi là một giải pháp dữ hiệu trong khi trên thị trường quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam gặp rát nhièu khó khăn. Doanh nghiệp tăng mạng lưới phân phối tren tất cả các khu vực của đất nước: miền bắc, miền trung, miền nam và cả miền núi và nhiều phương thức bán khác nhau. để mở rộng thị trường nội địa thì việc bố trí mạng lưới bán hàng rộng khắp, nhằm mục tiêu quan trọng là tăng lượng hàng bán ra của daong nghiệp, kết hợp với các hình thức bán hàng để thu hút khách hàng về với daong nghiệp. Giảm giá thành là biện pháp đầu tiên. Vì phần lớn dân số ở Việt Nam sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc có sức mua rất thấp, cho nên các doanh nghiệp phải bằng nhiều cách để sản xuất những sản phẩm giá cả phù hợp sức mua và tập quán tiêu dùng của người Việt nam. Vì mọi biện pháp sử dụng để mở rộng và phát triển thị trưòng là làm như thế nào dể lôi kéo người tiêu dùng về với mình ngày nhiều. Đồng thời tạo cho người tiêu dùng tiếp cận với nhiều loại hàng may mặc (nhu cầu có thể học hỏi) và dáp ứng nhu cầu về hàng may mặc “mốt” luôn thay đổi. Bên cạnh đó thì việc mở rộng mạng lưí phân phối còn là một biện pháp ngăn chặn hàng giả, việc sử dụng phươ g thức thanh toán linh hoạt cũng có thể làm cho người tiêu dùng sử dụng hàng nôị nhiều hơn. Doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác với các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức các cuộc hội chợ triển lãm giới thiệu mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất trong nước. Thông qua các cuộc hội chợ sẽ giúp cho người tiêu dùng hiểu biết thên về chất lượng hàng dệt may trong nước, đồng thời tạo cơ hội cho doanh nghiệp có điều kiện thực hiện các chiến lược marketting ngay tại hội chợ. Các doanh nghiệp cần phải năng động trong sản xuất kinh doanh đứng vững trên thị trường nội địa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp nhanh chóng tham gia vào hiệp hội dệt may Việt Nam( bất kể doanh nghiệp đó thuộc loại hình doanh nghiệp nào) để có sự thống nhất hoạt động trong thị trường nội địa. Phối hợp với ngành dệt vải dẻ nâng cao khả năng cung ứng cả về số lượng cũng như cất lượng, hạn chế tối đa hàng nhái, hàng giả, hàng nhập lậu trên thị trường. Cùng với việc xem nhẹ thị trường trong nước thì hoạt động marketing của các doanh nghiệp cũng khong được chú trộng, trình độ làm marketing còn nhiều yếu kém và chưa được các nhà kinh doanh chú ý và quan tâm ngang với tầm quan trọng của nó. Nhiều chương trình quảng cáo chưa hướng tới thị trường mục tiêu, mà mục tiêu quan trọng là hầu hết các doanh nghiệp dệt may lớn và trung bình đều thuộc một bộ phận chủ quản nào đó giám sát, cung ứng vốn cho sản xuất. Nên nhiều khi hoạt động theo kiểu chế độ bao cấp. Với tình hình mới như hiện nay các doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh lời ăn lỗ chịu thì việc tăng cường hoạt động nghiên cứu thị trường nội địa không phải làm việc theo khu vực riêng biệt. Mà để phát triển thị trường thì phải đòi hỏi công việc nghiên cứu phải có hệ thống bài bản. Đây là hoạt động tốn kém nhiều chi phí vì vậy hiệu quả của công tác được đặt lên hàng đầu, hiệu quả đạt được thể hiẹn qua lượng hàng của doanh nghiệp được tiêu thụ trên thị trường và khách hàng ngày càng biết nhiều hơn về doanh nghiệp, đáp ứng đồng bộ nhu cầu tiêu dùng của người dân. Doanh nghiệp phải tự nâng cao chát lượng sản phẩm của mình, mhamh chóng tham gia đăng ký tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cũng như tiêu chuẩn quốc tế. Chất lượng là nhân tố quyết định tới sự sống còn của doanh nghiệp. Vì cuộc sống hiện đại không chỉ sử dụng hàng dệt may chỉ để che thân, mặc ấm mà nó còn là thứ hàng hoá để người sử dụng tự khẳng dịnh mình trong xã hội. Hàng dệt may không chỉ tốt bền, trong cuộc sống luôn luôn bận rộn thì còn phải đảm bảo tính thuận tiện trong sử dụng, lịch sự. Do đó việc nâng cao chất lượng không chỉ liên quan bất cứ một khâu nào từ khi sản phẩm còn ở dạng tơ kén cho tới khi trở thành sản phẩm cuối cùng, mà chúng phải nâng cao chất lượng đồng bộ trong tất cả các khâu. Trong tình trạng cạnh tranh khốc liệt thì chất lượng và những hoạt động dịch vụ ở khâu tiêu thụ sản phẩm sẽ quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, việc xác định chất lượng như thế nào là hiệu quả có khả năng cạnh tranh tốt nhất với các đối thủ trên thị trường cả trong và ngoài nước vẫn là một vấn đề gay cấn. Thị trường nước ngoài Trước tiên, các doanh nghiệp Việt Nam muốn xâm nhập vào thị trường quốc tế thì phải nắm vững cho được luật lệ của mõi nước đối với hàng nhập khẩu. Nhanh chóng cải tiến tổ chức sản xuất của ngành cho phù hợp, tiếp cận nhanh với thị hiếu của người tiêu dùng về mẫu mã và chất lượng. Ngoài ra, để xâm nhập thị trường nước ngoài và đứng vững được thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần tự đổi mới công nghệ phù hợp với nhu cầu về chất lượng hàng hoá, nâng cao năng suất lao động nhằm giảm cho phí sản xuất. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam với sản phẩm dệt may các nước khác. Hiệp hội dệt may Việt Nam cần phải có chính sách khuyến khích việc nâng cao chất lượng nguồn nguyên liệu trong nước sản xuất ra. Đó là xây dựng và triển khai lộ trình hội nhập các sản phẩm dệt, may đến năm 2006-2010 và 2020. Triển khai lộ trình công nghệ dến năm 2005 có tính đến 2010. Trong đó tập trung: Xây dựmg chiến lược thị trưưòng, khả năng tạo mốt, hệ thóng phân phối, tiếp thị, quảng cáo, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ tạo ra mặt hàng mới, nâng cao hơn nữa uy tín nhãn hiệu hàng hoá, xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu, sản xuất phụ liệu, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề, đẩy nhanh một bước để đạt được mục tiêu ngành mũi nhọn xuất khẩu, thoả mãn yêu cầu của nhân dân, tạo việc làm cho hàmg triệu lao động của đất nước. Đảm bảo đáp ứng theo những quy định về tỷ lệ theo những quy định về tỷ lệ nguyên liệu có xuất xứ từ việt nam. Một trong những yếu tố quyết định nhất đối với việc phát triển và mở rộng thị trường là phải nâng cao chất luqượng nguyên liệu phục vụ cho ngàng may. Đồng thời, chúng ta đều biết đặc điểm của ngành dệt may là luôn luôn thay đổi về mẫu mã, thị hiếu tiêu dùng thay đổi thường xuyên. Nhưng trong thực tế vừa qua thì biện pháp này vẫn chưa được ngàng dệt may thực hiện một cách dồng bộ. Cái yếu còn lại là ở khâu thiết kế tạo mẫu và nguyên liệu chủ yếu là vải. Vì vậy ,cần phải tiếp tục đẩy mạnh đầu tư nâng cao chất lượng, nhất là đầu tư vào khâu sản xuất nguyên liệu cho may xuất khẩu. Bên cạnh đó chính phủ nên có chính sách phát triển ngàng tạo mốt trở thành một ngành công nghiệp để có thể đáp ứng nhu cầu của thị trường. Các doanh nghiệp cần tăng cường mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài, có thể cung cấp những thông tin đồng thời tham gia tích cực vào việc trưng bày ở 1 số nước. Cùng với đó các doanh nghiệp cần phải tăng cường chiến lược marketting tại các thị trưưòng công ty đang xâm nhập, mở rộng các phương thức thanh toán, dịch vụ đáp ứng tối ưu nhu cầu của thị trường đặc biệt tại tại các thị trường khó tính. V. Một số kiến nghị đề xuất với chính quyền Nhà Nước. Hiện nay không riêng gì hàng dệt may, các mặt hàng XK của ta đều phải cạnh tranh quyết liệt nhất là trong bối cảnh nước ta đang chủ động hội nhập. theo chương trình tham gia AFTA, chúng ta cần phải xoá bỏ hàng rào thuế quan, giảm mức thuế tién tới 0-5%. Như vậy hàng dệt may cũng như các mặt hàng khác của VN không những cạnh tranh ngay trên thị trươngf nội địa mà phải cạnh tranh để XK sang các nước khác. Các doanh nghiệp trong ngành dệt may cần cố gắng vươn lên tự khẳng định mình. Bên cạnh đó sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ở các cấp các ngành là vô cùng quan trọng, có tính chất quyết định đến sự phát triển của ngành. Sau đây là 1 số kiến nghị đè xuất với cơ quan quản lý nhà nước để tạo đièu kiện cho ngành dệt may phát triển trong tương lai có thể thực hiện được mục tiêu đặt ra Các cơ quan quản lý nhà nước tạo môi trường pháp lý về thị trường như triển khai ký kết ,điều chỉnh bổ sung các hiệp định, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghệp XK hàng dệt may, đồng thời cần tháo gỡ những ách tách còn tồn tại đơn giản hoá thủ tục liên quan đến XK hàng dệt may. Các Bộ, các ngành chấm dứt việc tuỳ tiện không theo quy hoạch, tràn lan lãng phí ,kém hiệu quả và đề ra các chính sách khuyến khích huy động các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Nhà nước gìanh cho ngành dệt may 1 quỹ đất cho cây nguyên liệu cho phát triển sản xuất ,tham gia vào vốn liên doanh nước ngoài. Có chính sách khuyến khích và bảo hộ như chính sách ưu đãi về vốn đầu tư, thuế trợ giá. Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho DN dệt may XK. Đồng thời tính phần “XK tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm sản xuất theo quy định tại giấy phép đầu tư, giảm khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện quy định này, đặc biệt là những năm đầu tiên khi sản xuất chưa ổn định. Chấn chỉnh những bất cập trong công tác phân bổ hạn ngạch đấu thầu. Đấu thầu hạn ngạch là 1 chủ trương là 1 chủ trương đúng đắn tuy nhiên cần được tiến hành thận trọng để duy trì được thị trường và bạn hàng truyền thống, giảm thiểu những bất lợi phát sinh từ đấu thầu hạn ngạch. Cho ngành sử dụng một phần vốn ODA, quỹ viện trợ nước ngoài để hỗ trợ XK, nghiên cứu khoa nhoạc, đào tạo và trang bị lại cơ sở vất chất các trường, các viện khoa học nghiên cứu ứng dụng phát triển hơn nữa về thông tin và mẫu mốt. Cho các ngành được hưởng các nguồn kinh phí sự nghiệp mà nhà nước đang thực hiện với các ngành khác Cho vay quỹ tài chính với lãi suất ưu đãi để dự trữ nguyên liệu bông xơ Cần có kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ thương mại quốc tế cho các doanh nghiệp XK hàng dệt may. Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để các nhà sản xuất VN tiếp cận thị trường nước ngoài để nắm bắt được thị hiếu cũng như học tập được kinh nghiệm quản lý và sản xuất của các nước tiên tiến Trên đây là những biện pháp trước mắt cần được nhà nước thông qua. Tuy nhiên tự bản thân các doanh nghiệp cần phải tự tìm ra hướng đi có hiệu quả cho mình. Kết luận Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, XK đóng vai trò quan trọng đối với bất kỳ nền kinh tế nào, nhất là các nước đang phát triển. VN là nước đang trên con đường CNH-HĐH , đang hoà nhập vào kinh tế thế giới và khu vực vì hế XK được coi là 1 tronh những công cụ quan trọng để thực hiện thành công các mục tiêu đã đề ra trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, hàng dệt may VN đã có những bước nhảy vọt, giá trị kim ngạch XK cao chiếm vị trí thứ 2 sau dầu thô. Vì vậy, việc phát triển quá trình sản xuất và XK ngành dệt may VN là công việc hết sức cần thiết đối với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đứng trước những thời cơ và thách thức khi hội nhập với nền kinh tế thế giới trong những năm đầu thế kỷ 21 này chúng ta cần làm tốt công việc nghiên cứu, tìm hiểu, tận dụng mọi nguồn lực nhằm phát huy những lợi thế mặt mạnh và hạn chế những thiếu sót còn tồn tại để khắc phục. Không ngừng đổi mới dây chuyền công nghệ tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã chủng loại đa dạng đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng ở tất cả các thị trường chúng ta hiện có, đồng thời không ngừng mở rộng thị trường, đưa ngành dệt may VN có chỗ đứng trên trường quốc tế. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình thương mại quốc tế Chủ biên PGS.TS: Nguyễn Duy Bột Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế Chủ biên PGS.TS: Trần Chí Thành 3. Tập chí thương mại Việt Nam: số 2,3,4,5/2001 Số 22,23/2000 4. Tạp chí kinh tế và phát triển: Số 4/2001 Những biên pháp cần thực hiện để gia tăng xuất khẩu năm 2001 Văn kiện hội nghị Trung ương, khoá VII Nghị định 12 CP Niên gián thống kê 1999 8. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 11/2001 9. Tạp chí phát triển kinh tế số 118/2000 Số 125,126,127/2001 Mục lục Chương I: Khái quát chung về ngành hàng dệt may trên thế giới. Vai trò và đặc điểm của ngành hàng dệt may trong nền kinh tế và thương mại mại thế giới. Vai trò của ngành hàng dệt may trong nền kinh tế thế giới. Quy định pháp lý và kinh tế của Mỹ, EU, Canađa, Nhật Bản về nhập khẩu hàng dệt may. Tình hình sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thế giới Tình hình sản xuất Tình hình buôn bán Chương II: Thực trạng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua Vai trò của nghành dệt may đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam Tình hình sản xuất Về năng lực sản xuất Thiết bị công nghệ Cơ sở sản xuất Cung cấp nguyên liệu Cơ cấu và chất lượng sản phẩm Thực trạng đầu tư và phát trển Tình hình xuất khẩu Tình hình xuất khẩu hàng dệt may từ năm 1990 trở về trước Thời kỳ từ năm 1991 đến nay Đánh giá chung Những mặt được Những mặt hạn chế Chương III: Phương hướng phát triển hàng dệt may xuất khẩu Việt nam Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam trong những năm tới 1. Dự báo chung về thị trường thế giới Dự báo thị trường xuất khẩu hàng dệt may của việt nam Thị trường EU Thị trường Nhật bản Thị trường Mỹ Thị trường Đông Âu và SNG Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu và doanh nghiệp dệt may Việt nam Mục tiêu sản xuất và xuất khẩu trong những năm tới Biện pháp thực hiện Các biện pháp phát triển ở tầmVĩ mô Các biện pháp phát triển ở tầm Vi mô Một số kiến nghị đề xuất với cơ quan quản lý Nhà nước. Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0418.doc
Tài liệu liên quan