Việt Nam chúng ta cải cách hoàn thiện mình để tận dụng được lợi thế do FDI mang lại như nhiều nước đã làm được. Đảng, nhà nước không ngừng phát triển lý luận về FDI và học tập những kinh nghiệm của các nước đã có được thành công với nguồn vốn FDI để vừa có một sự phát triển bền vững và vẫn nằm trong khuôn khổ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhằm giúp cho chúng ta nắm vững những yêu cầu trên bài tiểu luận đã phân tích một cách tổng quát nhất về FDI: lịch sử hình thành FDI, đặc trưng cơ bản của FDI, những tác động cơ bản của FDI, thực trạng vai trò của FDI ở Việt Nam để từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát huy tối đa ưu thế của FDI. Nghiên cứu bài tiểu luận giúp cho sinh viên nắm bắt những yêu cầu cơ bản nhất về nhận thức FDI. Để từ đó có những định hướng cho hành động trong tương lai giúp đất nước phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2925 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng vai trò của FDI với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ do toàn cầu hóa và khu vực hóa đem lại, kết hợp ngoại lực với nội lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển nhanh đất nước.
Trong thế giới hiện tại, FDI là một trong những công cụ quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các quốc gia tiếp nhận FDI có điều kiện tăng vốn đầu tư, tăng năng lực sản xuất, giải quyết việc làm, đẩy nhanh quá trình đổi mới thiết bị, tiếp thu công nghệ hiện đại và nâng cao trình độ quản lý, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác kinh tế quốc tế. Thông qua đó, kết hợp với phát huy nội lực, các quốc gia tiếp nhận đầu tư nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, tạo thế và lực cho việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
d).Sự phát triển nhận thức và quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Một khó khăn lớn của hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu phát triển là thiếu vốn đầu tư. Đây là yếu tố quyết định để các nước có thể đầy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống vật chất của nhân dân. ở các nước đang phát triển thường có nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên chưa sử dụng hết hoặc không được sử dụng vì thiếu các điều kiện vật chất của quá trình lao động sản xuất. Bản thân các nước đang phát triển lại ít có khả năng tự tích lũy vì năng xuất lao động thấp, sản xuất hầu như không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Trong hoàn cảnh như vậy, nguồn vốn từ bên ngoài sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với bước phát triển ban đầu của các nước này. Đặc biệt là trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới hiện nay, các nước đang phát bị đặt trong tình huống phải tạo được tốc độ phát triển nhanh để đuổi kịp và từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới, nguy cơ tụt hậu không cho phép các nước đang phát triển được chậm chễ hay có cách lựa chọn nào khác. Trong điều kiện trên thế giới có nhiều quốc gia có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì các nước đang phát triển có cơ hội tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật của nước ngoài để phát triển kinh tế. Thực tế cho thấy quốc gia nào biết thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo ra bộ mặt phát triển nhanh chóng của nền kinh tế.
Ngoài những đặc điểm chung của một quốc gia đang phát triển Việt Nam còn có những nét đặc thù riêng của một đất nước đã phải trải qua nhiều năm chiến tranh ác liệt. Nền kinh tế sau chiến tranh đã bị tàn phá nặng nề lại vấp phải những sai lầm nghiệm trọng trong quản lý và điều hành cả trên tầm vĩ mô và vi mô, nên đã rơi vào khủng hoảng nghiệm trọng. Một nền kinh tế què quặt, nghèo nàn, lạc hậu: Đời sống của đại đa số nhân dân khó khăn thiếu thốn là gánh nặng không thể vượt qua được.
Sau khi vượt qua được khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam bước vào giai đoạn ổn định và phát triển (từ năm 1991-2000).Cũng lại nhờ vào nguồn lực bên ngoài, thông qua vay nợ, viện trợ và hợp tác đầu tư ( trong thời kỳ 1991-1995-vốn FDI là 4,205 tỷ USD, so với 15,695 tỷ USD tổng vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế, vốn FDI chiếm 26,8%), cùng với khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn lực trong nước chúng ta đã tạo ra được một bước phát triển đầu tiên khá vững chắc.Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn này là 8,2% và nhờ có sự tăng trưởng kinh tế mà đã tăng được tỷ lệ tích lũy lên gần 20% GDP vào năm 1995. Thực tiễn trên đây là kết quả của những thay đổi trong nhận thức và quan điểm của chúng ta về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế đối ngoại, vì vậy nó bị chi phối trước hết bởi đường lối phát triển kinh tế nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng.
Sự thay đổi tư duy kinh tế đối ngoại ở Việt Nam chủ yếu nảy sinh từ tình hình thực tiễn mới diễn ra từ những năm 80 gắn liền với quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói chung. Điểm mốc thời gian đánh dấu sự thay đổi này là năm 1986, năm diễn ra Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6, Đại hội của đường lối đổi mới toàn diện đời sống kinh tế xã hội.
Sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV, với chính sách đổi mới toàn diện đất nước chúng ta đã đánh giá cao vai trò rất to lớn của các quan hệ kinh tế quốc tế nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng. Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ cũng hiểu rằng, trong điều kiện nền kinh tế còn ở tình trạng lạc hậu, nếu muốn phát triển nhanh thì phải biết lợi dụng vốn và kỹ thuật của các cường quốc công nghiệp và nếu có phải trả (học phí) để có được trình độ kỹ thuật công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến thì cũng phải và nên làm.
Trên cơ sở những quan điểm đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đưa ra. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã đựơc soạn thảo và ban hành vào tháng 12/1987. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt ra đời phù hợp với xu hướng của sự hợp tác nhiều mặt, nhiều chiều, tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Việt nam cũng như các quốc gia đang phát triển khác đang rất cần thu hút vốn và kỹ thuật –công nghệ của các nước tiên tiến trên thế giới.Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng hoạt động này còn đang diễn ra một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước và các khu vực trên thế giới, hơn nữa chúng ta lại là nước nhập cuộc sau và môi trường đầu tư trong nước chưa được thuận lợi. Vì vậy Luật đầu tư nước ngòai của chúng ta đã thể hiện tính cởi mở cao, hấp dẫn, tạo ra những lợi thế so sánh trong cuộc cạnh tranh quyêt liệt này.
Lần thứ hai sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua ngày 23/12/1992. Rõ ràng là qua quá trình thực hiện, chúng ta mới hiểu biết nhiều hơn về đầu tư nước ngoài và cũng khẳng định được nhận thức trước đây của chúng ta về vấn đề này. Vì vậy lần sửa đổi bổ sung này chúng ta hoàn chỉnh thêm một bước bộ Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng về hoạt động ĐTNN, chúng ta đã có quan điểm rõ ràng về thu hút và sử dụng nguồn lực bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH nền kinh tế. Chúng ta coi nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của nên kinh tế. Chúng ta chủ trương, đồng thời với việc tận dụng triệt để mọi thế mạnh và nguồn lực trong nước, cũng cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để khai có hiệu quả nguồn lực bên ngoài.
3.Đánh giá chung:
Từ sự phân tích trên, có thể kết luận rằng việc tiếp nhận vốn phát triển từ nước ngoài là lợi thế hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước đi sau. Dù những gì có khả năng gây ra bất lợi (xét thuần túy liên quan đến kinh tế) thì đây vẫn là một xu hướng khách quan, một sự lựa chọn cho phép các nước nghèo thoát khỏi tình trạng lạc hậu, để gia nhập nhanh hơn vào quỹ đạo phát triển hiện đại (Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam- Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Lê Văn Châu).
II.THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA KHU VỰC KINH TẾ CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.
1.Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 đến nay:
a)Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là một nguyên nhân quan trọng trong gia tăng và phân hóa thu nhập của các nhóm dân cư ở các vùng. Khi phân tích khả năng đầu tư của từng vùng đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, các nhà kinh tế đều thừa nhận những vùng kinh tế phát triển mạnh là vùng thu hút đầu tư cao nhất. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là một minh chứng cho nhận định trên. Không ai có thể phủ nhận vai trò của vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là những nước tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào nguồn vốn như nước ta.
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
FDI/GDP
14%
15%
17.7%
24.3%
24.3%
27.1%
28.1%
28.3%
Năm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
FDI/GDP
29%
27.6%
29.6%
31.1%
32.1%
33.7%
35.3%
35.5%
Bảng1:Tỉ lệ vốn FDI/GDP đơn vị phần trăm (nguồn tổng cục thống kê)
Theo cục đầu tư nước ngoài, dự kiến vốn FDI đăng kí ở Việt Nam giai đoạn 2006 đến 2010 khoảng 25 tỷ USD. Đây là một con số dự đoán theo hướng thận trọng. Một số nhà nghiên cứu kinh tế ở Việt Nam và thế giới còn cho rằng con số này khả năng sẽ tăng lên 46 tỷ USD đăng ký và 29 tỷ thực hiện. Việc gia tăng nguồn vốn FDI vào Việt Nam sẽ hứa hẹn tạo ra nhiều chỗ việc làm mới nhưng đòi hỏi người lao động phải có chuyên môn kinh tế. Như chúng ta đã biết, giai doạn 2000-2004 FDI vào Việt Nam liên tục tăng kéo theo chỗ việc làm được tạo ra ngày càng nhiều. Nếu như năm 2000 mới chỉ là 407565 việc làm thì đến năm 2004 dã là 1044851 việc làm và do vậy suất đầu tư cho một chỗ cũng giảm mạnh do phần lớn các doanh nghiệp FDI đã đi vào giai đoạn sản xuất. Trên cơ sở tính toán suất đầu tư cho một chỗ việc làm của khu vục kinh tế này và dự báo nguồn vốn FDI thực hiện ta có thể dự báo chỗ việc làm cho khu vực kinh tế này tạo ra từ nay đến năm 2010 như sau.
FDI thực hiện (triệu đồng)
61.104.000
73.536.000
89.888.000
110.640.000
136.336.000
Số lao động (người)
1.163.186
1.00.685
1.712.152
2.107.428
2.596.876
Năm
2006
2007
2007
2009
2010
Bảng 2:Dự đoán tỷ lệ vốn trên tỷ lệ lao động,vốn FDI tính theo triệu đồng (nguồn tạp chí kinh tế)
Theo tạp chí nghiên cứu kinh tế số 347 T4/2007: Tính từ đầu năm dến 18/12/2006 cả nước có 797dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép với tổng vốn đăng kí 7,57 tỷ USD bình quân một dự án đạt 9,5 triệu USD lớn gấp đôi quy mô của năm 2005, còn phần tăng vốn đạt 2,36 tỷ USD, với quy mô tăng vốn bình quân 4,9 triệu USD/dự án so với 3,6 triệu USD/dự án trong năm 2005 kết quả này đã vượt xa dự kiến ban đầu của kế hoach năm 2006 và vượt xa kỷ lục đã lập năm 1996 là 8,6 tỷ USD là kỷ lục trong gần 20 năm nay kể từ khi hình thành khu vực FDI tại việt nam. Đây là hiệu ứng của việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO bởi nếu không có sự kiện này thì chưa chắc có đã có kết quả như vậy cho dù các nghành các địa phương các địa bàn trọng điểm có “trải thảm đỏ”mời gọi các nhà đầu tư như đã làm mấy năm trước. Và chính nhờ kết quả hiệu ứng này mà bộ kế hoạch đầu tư mới đây đã đưa ra dự báo khả năng 2007 có thể thu hút được trên 11 tỷ USD vốn FDI đăng kí mới và kết quả thu hut cả thời kì 2006-2010 có thể đạt lớn hơn 55 tỷ USD.
Trong quan hệ hợp tác đầu tư, tính đến nay đã có trên 70 quốc gia và vung lãnh thổ có hoạt động đầu tư tại Việt Vam . Việt Nam dã kí kết 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với hầu hết các nhà đầu tư lớn , đã có trên 100 tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia có mặt ở Việt Nam. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đang kí ở Việt Nam cho đến nay đã đạt 60 tỷ USD trong đó vốn thực hiện trên 30 tỷ USD . Đầu tư của các nước công nghiệp như Mỹ, EU, ÚC và các công ty đa quốc gia-những đối tác có quy mô vốn lớn ,công nghệ nguồn và hịên đại lại chiếm một tỷ trọng khiêm tốn. Tuy nhiên đã và đang có những thay đổi đáng chú ý ở thời kì 2001-2005, đặc biệt là 2006 quy mô vốn FDI của Nhật, Mỹ, Trung Quốc tăng lên nhanh chóng và có nhiều dự án to lớn do những tập đoàn đa quốc gia thực hiện.năm 2006 có 10 dự án FDI được xem là nổi bật:
1.Dự án nhà máy thép tài khu công nghiệp phú mỹ 2 Bà Rịa Vũng Tàu 1,126 tỷ USD . Dự án do Công ty Poscotaapj đoàn thép hàng đầu của Hàn Quốc đầu tư 100% vốn, thời gian hoạt động là 48 năm được chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 1 đầu tư 340 triệu USD hoàn thành năm 2009 có công suất 700.000 tấn/năm ; giai đoạn hai dự kiến công suất sẽ đạt 3 triệu tấn /năm sau khi hoàn thành nhà máy sẽ tạo ra khoảng 10.000 việc làm mới.
2.Dự án sản xuất linh kiện máy tính của công ty TNHH Intel Products Việt Nam 1 tỷ USD. Tháng 11 Intel nâng tổng vốn đầu tư lên 1 tỷ USD trở thành dự án lớn nhất từ trước tới nay của Mỹ vào Việt Nam. Dự kiến khoảng 4000 lao động Việt Nam sẽ làm việc cho nhà máy này. Đồng thời với việc tăng vốn đầu tư Intel cũng quyết định mở rộng diện tích nhà máy lên 150.000m. Đây là nhà máy lớn nhất trong hệ thống 7 cơ sở lắp ráp và kiểm tra chíp bán dẫn của Intel trên thế giới và dự kiến đi vào hoạt động năm 2009.
3.Dự án luyện cán thép tại khu công nghiệp Dung Quất – Quảng Ngãi 556 triệu USD của công ty TNHH Tycoons-World Wile Steel VietNam (TWS) do công ty TNHH Tycoons Steel International có trụ sở tại Thái Lan làm chủ đầu tư.
4.Dự án khu đô thị Tây Hồ Tây 314 triệu USD
5.Dự án xây dựng khách sạn 5 sao ở Bà Rịa Vũng Tàu 300 triệu USD là dự án 100% vốn của tập đoàn Winwost Investmet của Mỹ, dự án thời hạn 50 năm được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm đầu và giảm 50% múc thuế trong 3 năm tiếp theo.
6.Dự án xây dựng nhà máy sản xuất linh kiện điện tử của tập đoàn Meiko 300 triệu USD do tập đoàn Meiko của Nhật Bản đầu tư 100% vốn tại khu công nghiệp Phùng Xà – Hà Tây. Dự kiến thu hút trên 7000 lao động và đạt doanh thu 1,7 tỷ USD /năm.
7.Dự án xây dựng cảng container 249 triệu USD
8.Dự án xây dựng khu đô thị An Khánh 211,9 triệu USD
9.Dự án chung cư quốc tế Booyu 171 triệu USD
10.Dự án cụm công nghiệp dệt may ITG Phong Phú 65,6 triệu USD
Theo tạp chí kinh tế qúy 1/2007 ước đạt 19,5% kế hoạch năm, bằng 41,1%GDP trong đó :
-Nguồn vốn ngân sách nhà nước đạt 20,6% kế hoạch
-Vốn đầu tư tín dụng theo kế hoạch đạt 18% kế hoạch năm
-Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đạt 19,4% kế hoạch
-Vốn đầu tư nước ngoài đạt 23% kế hoạch
Thu hút đầu tư nhà nước tiếp tục xu hướng phát triển, đạt 2,503 tỷ USD tăng 22% so với quý 1/2006. trong đó vốn đầu tư đang kí mới là 2,071 tỷ USD với 196 dự án được cấp phép, vốn tăng thêm 432 triệu USD với 109 lượt dự án. Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ước đạt 1,055 tỷ USD tăng 27% so với cùng kì năm trước.
Trong tháng 4/2007 đã có 102 dự án được cấp phép với tổng số vốn đầu tư khoảng 894 triệu USD cũng có thêm 25 lượt dự án tăng vốn với số vốn đầu tư tăng thêm 117 triệu USD. Như vậy tính trong 4 tháng đầu năm 2007 đã có 3,515 tỷ USD vốn đầu tư tăng 54,7% so với cung kì năm ngoái trong đó có 298 dự án mới với tổng vốn là 2,964 tỷ USD tăng 55% về lượng vốn và 134 lượt dự án tăng vốn với tổng đầu tư 548,4 triệu USD tăng 52,9% so với cùng kì năm ngoái.
Dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư trong 4 tháng đầu năm là các địa phương Bà Rịa Vũng Tàu, Thừa Thiên Huế, Bình Dương ,Quảng Ngãi và thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi đó xét về nhà đầu tư thì Hàn Quốc dẫn đầu tiếp đó là Ấn Độ ,Singapo. Thái Lan và Mỹ. Với kết quả đạt được của 4 tháng đầu năm có thể kì vọng năm 2007 việt nam sẽ đón nhận dòng vốn FDI vượt mức 12 tỷ USD và hướng tới con số 17 tỷ USD.
b)Đầu tư FDI theo cơ cấu ngành:
Hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam đều có dự án đầu tư của các nước thuộc khối APEC, trong đó tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng , dịch vụ và nông lâm nghiệp. trong tổng số vốn đăng ký thuộc loại các dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép năm 2006 thì công nghiệp và xây dựng chiếm tới 68,4%, dịch vụ 30%.
Số dự án được cấp phép
Số vốn đăng ký (nghìn USD)
Tổng số
Vốn pháp định
Tổng số
797
7.565.675
3.184.224
Công nghiệp nặng
235
4.104.448
1.637.940
Công nghiệp nhẹ
237
762.782
351.819
Dầu khí
4
106.600
106.600
Công ngiệp thực phẩm
14
77.360
24.999
Xây dựng
40
120.185
44.880
Xây dựng khu CN
1
51.000
15.000
Xây dựng khu đô thị
2
526.091
154.238
Xây dựng văn phòng
11
478.520
157.660
Khách sạn du lịch
12
482.687
358.390
Dịch vụ
141
211.741
97.429
Giao thông, bưu điện
20
448.475
116.705
Tài chính ngân hàng
2
17.000
16.000
Văn hóa y tế giáo dục
23
55.748
33.985
Nông lâm nghiệp
53
119.910
67.250
Thủy sản
2
3.130
1.330
Bảng 3:Thống kê đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ 1/1 đến 18/12/2006
(nguồn tổng cục thống kê)
Nhận thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài không đồng đều giữa các ngành ,lĩnh vực. ngoài ra một số dự án về dầu khí , công nghệ thông tin ,điên tử, FDI thời gian qua tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp nhẹ, lĩnh vực dịch vụ, khách sạn nhà hàng… không đòi hỏi vốn lớn , thu hồi vốn nhanh , tận dụng lợi thế về lực lượng công nhân giá rẻ ở nước ta, trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thu hút được lượng FDI rất ít khong tương xứng tiềm năng nhu cầu của nghành.
Theo UNCTAD hiện các nước phát triển tiếp nhận 72% vốn FDI của thế giới trong ngành dịch vụ, các nước đang phát triển chiếm khoảng 25%. Tuy nhiên xu hướng FDI tập trung cho khu vực dịch vụ hiện nay đã có nhũng thay đổi đáng kể so với những năm 90 của thế kỉ trước. ví như trong lĩnh vực dịch vụ thương mại và tài chính , năm 2002 lượng FDI thế giới vào 2 lĩnh vực này giảm từ 65% tong năm 1990 xuống 47% trong năm 2002. các ngành dịch vụ điền nước , viễn thông và kinh doanh đang có xu thế nổi bật trong việc tiếp nhận FDI trong thời gian tư 1990 đến 2002 lượng FDI vào nghành năng lượng điện nói chung tăng 14 lần vào viễn thông kho chứa và vận tải tăng 16 lần vào dịch vụ kinh doanh tăng 9 lần FDI vào các lĩnh vực dịch vụ khác như y tế, giáo dục cũng tăng từ 5 đến 12 lần mặc dù giá trị tuyệt đối còn rất nhỏ. Diều này cho thấy xu hướng lưu chuyển dong vốn FDI đang được hướng vào các lĩnh vực cung cấp dịch vụ công cộng trên phạm vi toàn cầu. trong xu thế nêu trên, hoạt động FDI của TNCS vào các nước đang phát triển sẽ là các ngành dịch vụ nhất là dịch vụ du lịch , xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trong đó đáng chú ý là các ngành như giao thông vận tải , ngân hàng ,bảo hiểm văn phòng địa ốc … đây là lĩnh vực mà ở hầu hết các nước đang phát triển bỏ ngỏ hoặc hoạt động cầm chừng kém hiệu quả do có những yêu cầu cao về kỹ năng nghiệp vụ công nghệ và là những lĩnh vực kinh té phức tạp có sự nhạy cảm cao nên với các nước đang phát triển hoặc các nền kinh tế mới nổi đây là sân chơi hấp dẫn với TNCS.
Ở Việt Nam hiện tại vốn FDI của TNCS sẽ vẫn tiếp tục hướng vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng ( các dự án cấp mới thì công nghiệp xây dựng có tới 66% về số dự án và 68,3% tổng số vốn đang kí)ngành dịch vụ chiếm 26,6% về số dự án và 30.01% tổng số vốn đăng ký đầu tư. Nhưng trong giai đoạn từ nay đến 2010, khả năng lĩnh vực dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ phát huy được lợi thế cạnh tranh về kinh nghiệm, kỹ năng quản lý hoặc đòi hỏi công nghệ cao mà Việt Nam chưa có thế mạnh như giao thông vận tải viễn thông, tài chính ngân hàng,… sẽ là hướng cuốn hút FDI của TNCS.
c) Cơ cấu theo vùng :
Mặc dù đến nay đã có 61 tỉnh thành phố có dự án FDI nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở hai vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc.
Phía Nam chiếm: 58% số vốn đăng ký
59% số vốn thực hiện
Phía Bắc chiếm: 26% số vốn đăng ký
24% số vốn thực hiện
So sánh thu hút đầu tư tại một số địa phương giữa 7 tỉnh phía Bắc: Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và 4 tỉnh phía Nam: Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu:
Chỉ tiêu
7 tỉnh phía Bắc
4 tỉnh phía Nam
Dân số (triệu người)
10
5
FDI (thực hiện trên đầu người)
60 USD
570 USD
Đầu tư tư nhân (tính trên đầu người)
84 USD
103 USD
Xuất khẩu (tính trên đầu người)
50 USD
785 USD
Bảng 4: So sánh thu hút đầu tư tại một số địa phương.
(Theo tạp chí nghiên cứu kinh tế số 342 tháng 11/ 2006 ta có bảng số liệu về FDI được cấp phép theo vùng)
Vùng kinh tế
Số dự án
Vốn đăng ký (triệu USD)
Tổng số
Trong đó số vốn pháp định
Tổng số
Nước ngoài góp
Việt Nam góp
Tổng số
7279
66244,4
30.270,6
25.285,4
4985,2
Đồng bằng sông Hồng
1474
16.968,5
7.841,4
6.103,6
1.737,8
Đông Bắc
326
2.139,5
928,0
715,3
212,7
Tây Bắc
27
105,4
41,8
34,2
7,6
Bắc Trung bộ
112
1427,8
485,3
345,8
139,5
Duyên hải Nam Trung bộ
318
3762,2
1898,4
1273,5
624,9
Tây Nguyên
106
1024,5
212,2
159,3
52,9
Đông Nam bộ
4571
35.941
15655
13.744
1910,4
ĐB Sông Cửu Long
296
1977,5
853,2
699,1
154,1
Bảng5:đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép theo vùng 1988-2005
2.Đánh giá hoạt động đầu tư ở Việt Nam thời gian qua:
a) Tác động của FDI
Thứ nhất: Tác động của FDI đến quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước nhà.
Với điều kiện thực tế của hầu hết các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì FDI là giải pháp tốt nhất để thu hut công nghệ hiện đại.
Thông qua nguồn vốn FDI chúng ta đã nhập được nhiều công nghệ hiện đại qua đó nâng cao năng lực công nghệ của nước nhà. Trước năm 1987 việc chuyển giao công nghệ chủ yếu thông qua viện trợ của nước ngoài và thông qua đầu tư mới của nhà nước nhưng vẫn bằng vốn viện trợ của nước ngoài. Chuyển giao công nghệ qua hình thức này hầu hết mang hình thái cung úng giao nhận nên chuyển giao công nghệ thường là không thích hợp, không đồng bộ, chắp vá, cũ nát và lạc hậu.
Tuy nhiên sau khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành (ngày 29/12/1987) việc chuyển giao công nghệ đã có sự chuyển biến tích cực. chuyển giao công nghệ lúc này đã gắn với phương hướng kinh doanh và theo định hướng thị trường. điều này được thể hiện rõ qua thực tế là hầu hết các chương trình chuyển giao công nghệ được thực hiện bởi sức ép cạnh tranhtreen thị trường chuyển giao công nghệ đã trở thành hoạt động của chính bản thân các doanh nghiệp, thuộc quyền chủ động của doanh nghiệp, vì mục tiêu nâng cao sức mạnh canh tranh của sản phẩm hàng hóa dịch vụ và tối đa hoa lợi nhuận.
Tính đến hết năm 2005 co khoảng trên 70% dự án có nội dung chuyển giao công nghệ . chuyển giao công nghệ chủ yếu tập hợp vào lĩnh vực công nghiệp , chiếm 50,7% trong tổng số các hợp đồng chuyển giao công nghệ; trong nông nghiệp chiếm 5,3%, dịch vụ chiếm 2,3% các lĩnh vực khác chiếm 41,75%. Cho đến 2005 90% số hợp đòng chuyển giao công nghệ tại việt nam là qua FDI.
Hoạt động của khu vực FDI đã tạo ra nhiều ngành nghề mới , năng lực sản xuất mới và công nghệ mới trokng các ngành sản xuất quan trọng của nền kinh tế , tạo ra bước ngoặt trong nền kinh tế mũi nhọn như: thăm dò , khai thác đầu khí sản xuất thép xi măng lắp ráp sản xuất ôtô xe máy tàu thủy phát triển viễn thông quốc tế và nội hạt xây dựng hệ thôngs khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế. nhiều công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như thiết kế chế tạo máy và sản phẩm cơ khí điều khiển chương trình, sản xuất ống thép bằng phương pháp và hàn tự động theo đường xoắn ốc, sản xuất ống gang chịu áp lực bằng grafit….nhiều dây chuyền sản xuất tự động được đưa vào như dây chuyền lắp ráp hàng điện tử, sách điện tử, lắp ráp tổng đài tự động kỹ thuật số, dây chuyền thêu tự động , nhiều đầu máy điều khiển tự động bằng vi tính. Hoạt động này đã tạo ra nhiều sản phẩm tốt hình thức đẹp đáp ứng nhu cầu thị trương và xuất khẩu . thêm vào đó sự cạnh tranh của của các khu vực kinh tế có vốn FDI của hàng hóa đã thúc ép các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm. tất cả đầu đạt tiêu chuẩn việt nam một số đạt tiêu chuẩn iso. Các doanh nghiệp này cũng đi đầu trong việc quản lý công nghệ.
Vai trò của FDI trong chuyển giao công nghệ trước hết thể hiện trong lĩnh vực đầu khí khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân và xếp hạng thứ 33 trong cộng đồng các nước sản xuất dầu khí trên thế giới; đứng thứ 4 Đông Nam Á. Đạt được kết quả cao như vậy nhờ vào Vietso Petro doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như BP (tập đoàn dầu khí vương quốc Anh) Shell… đã góp phần chuyển giao nhiều công nghệ hiện đại nâng cao hiệu quả khai thác và chất lượng sản phẩm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Đặc biệt với dự án khí liên hợp Nam Côn Sơn (với tổng trị giá 1,189 tỷ USD) hai tập đoàn BP và Shell đã đâù tư xây dựng vào hai đương ống chạy dưới đáy biển để vận chuyển khí và chất lỏng từ ngoài khơi vào đất liền.
Ngành bưu chính viễn thông là nghành có thay đổi lớn nhất ở Việt Nam mà các nhà đầu tư nước ngoài đóng góp phần quan trọng bởi đây là điểm mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài tại việt nam với các đại diện như France Telecom hay Siemen… các hợp đồng kinh tế hợp tác kinh doanh giữa Việt Nam và các đối tác EU đã đạt kết quả ca, đưa vào việt nam những công nghệ mới được xem là tiên tiến nhất, tạo bước nhảy vọt cho mạng lưới dịch vun viễn thông Việt Nam từ một nước lạc hậu nhất trở thành một nước có mạng lưới viễn thông tiên tiến trong khu vực chỉ trong 10 năm.
Ngoài ra các ngành khác cũng thu hút được nhiều công nghệ hiện đại được chuyển giao từ các nhà đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng tiếp thu nhiều kỹ thuật và phương pháp sản xuất chế biến như: đường trồng rau sản xuất thức thức ăn gia súc. Điển hình là nhà máy Bourbon Tây Ninh có công suất 8000 tấn mía/ngày đạt công suất cao nhất cao nhất trong các nhà máy đường Việt Nam có vốn FDI.
Có thể thấy FDI vào Việt Nam đáp ứng dược cả hai yếu tố cơ bản và quan trọng nhất là vốn và công nghệ. Chính hai nhân tố này sẽ tạo đà và kích thích sự phát triển của những lĩnh vực khác trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Bởi những tác động kinh tế không chỉ dừng lại ở vốn và công nghệ mà Việt Nam có điều kiện trong phát triển các lĩnh vực khác, nâng cao hiệu quả sử dụng và khai thác nguồn lực trong nước về vốn đất đai và tài nguyên con người.
Thứ hai:Tác động của vốn FDI đối với xuất khẩu .
Nhấn mạnh vai trò thương mại trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thế giới, trong một bài phát biểu, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhận định” xuất khẩu có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế”.
Trong 3 năm gần đây tỷ trọng xuất khẩu đóng góp vào GDP luôn ở mức trên 60%. Theo tổng cục thống kê xuất khẩu cả năm 2006 đạt 39,6 tỷ USD tăng 22,1 % so với 2005, FDI chiếm 57,7 % cao hơn so với 42,3 %. So với các năm trước thì tỷ trọng có xu hướng gia tăng.
Điều này cho thấy, vai trò ngày càng quan trọng của FDI trong xuất khẩu ở Việt Nam, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. nếu chỉ tính sản phẩm không phải dầu thô thì FDI chiếm tỷ lệ đáng kể là 37% với giá trị xuất khẩu là 14,5 tỷ USD tăng 30,1% so với 2005.
Về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực năm 2006 có thêm cao su và café đạt kim nghạch xuất khẩu trên 1tỷ USD nâng tổng số các mặt hàng có kim nghạch trên 1 tỷ USD lên con số 9, bốn mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, dày dép, thủy sản. kim nghạch mỗi mặt hàng trên 3 tỷ USD và các trung tâm là Mỹ, EU và Nhật Bản, một số mặt hàng có kim nghạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD vẫn dữ mức tăng trưởng cao như điện tử và máy tính(chiếm 4,5 % và tăng 24% ); Thủy sản chiếm 8,5% và tăng 23,1 %. Sản phẩm gỗ chiếm 4,8% và tăng 21,9 % trong đó thủy sản có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Và đang tiếp tục khai thác để mỏ rộng thị trường sang Nhật Bản, EU, Mỹ, Hàn Quốc.
Kim nghạch xuất khẩu cả quý I-2007 đạt tốc độ tăng trưởng cao. Đạt gần 10,484 tỷ USD, tăng 17,9% so với cùng kỳ 2006 và bằng 22,4% kế hoạch năm trong đó xuất khẩu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô đạt 4,113 tỷ USD tăng 31,7%, đa số các mặt hàng xuất khẩu đều tăng so với cùng kỳ 2006. Dệt may tăng 30 %, sản phẩm gỗ tăng 25,3 %, hàng điện tử máy tính tăng 17%, dây cáp điện tăng 21,2%, sản phẩm nhựa tăng 53,6%, hàng thủ công mỹ nghệ tăng 26,5 %, café tăng 82,9%. Kim nghạch nhập khẩu quý I ước đạt 11,799 Tỷ USD tăng 33,6 % so với cùng kỳ 2006 trong đó nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,243 tỷ USD tăng 24%.
Thứ ba: tác động tới việc làm và nâng cao tay nghề cho đội ngũ lao động và cán bộ quản lý trong nước.
Việc đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn hay nghiệp vụ (nói chung là tay nghề ) là vấn đề tất yếu đối với mọi doanh nghiệp, mọi nền sản xuất, vì người lao động là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất. Thiếu yếu tố này hoặc có nhưng chất lượng kém thì hoặc là không có quá trình sản xuất hoặc sản phẩm tạo ra không có sức cạnh tranh.
Nguồn vốn do các công ty xuyên quốc gia mang tới thì họ luôn chia sẻ một phần đáng kể để quan tâm tới tay nghề của người lao động. thông qua nhiều hình thức đào tạo dài hạn, ngạn hạn, chính quy hoặc tại chức. Ngoài sự quan tâm tới tay nghề của người lao động thì về mặt cán bộ quản lý người ta đã đặt lên vị trí hàng đầu, nhất là những cán bộ quản lý cấp chiến lược.
Song trong việc đào tạo tay nghề cũng như phân bổ bồi dưỡng cán bộ quản lý thường tồn tại trong xu hướng mâu thuẫn. Một mặt không đào tạo và bồi dưỡng có nghĩa là không thể tồn tại, nhưng mặt khác khi đào tạo bồi dưỡng cũng có nghĩa là góp phần tạo đối thủ cạnh tranh cho mình. Do vậy các nhà đầu tư luôn sử dụng phương án thích hợp. thông thường đào tạo chủ yếu để giải quyết công việc hôm nay còn việc đào tạo dài hạn phải hết sức cân nhắc và có những biên pháp bảo vệ để tránh thất thoát. Đối với cán bộ quản lý việc lựa chọn cũng thực hiên nghiêm ngặt, đặc biệt là cán bộ chủ chốt thường không thể để người có quốc tịch Việt Nam đảm nhận và việc đào tạo bồi dưỡng bao giờ cũng gắn với việc quản lý, tránh tình trạng chuyển sang xí nghiệp Việt Nam.
Tuy có mặt hạn chế như trên nhưng nguồn vốn FDI vẫn đem lại nhiều việc làm cho thị trường lao động Việt Nam và vẫn đem lại một bộ mặt mới cho lực lượng lao động nước nhà không những có trình độ tay nghề cao mà còn học tập được phương thức quản lý tiên tiến của tư bản.
b) Hạn chế trong đầu tư FDI:
Những hạn chế trong hệ thống văn bản pháp luật về FDI
Thứ nhất : Tính không đồng bộ , mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam.
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều cải cách luật đầu tư cho phù hợp với quy định quốc tế, song vẫn còn một số đặc điểm cố hữu mà Việt Nam chưa khắc phục được. Đó là công tác ban hành và thực thi văn bản dưới luật, hướng dẫn thực hiện luật còn yếu kém, lủng củng.Tình trạng phổ biến hiện nay là quá nhiều văn bản dưới luật .Trong đó thông tư của bộ nhiều hơn số lượng luật và pháp lệnh. Chính số lượng văn bản hành chính quá nhiều nên khó tránh khỏi sự mâu thuẫn chồng chéo trong các thể chế.
Hai là : Một số quy định ban hành còn chậm , thiếu rõ ràng mà thậm chí còn bỏ ngỏ.
Cụ thể các hạn chế tiêu chí cấp phép và hạn chế cấp phép đối với nhà đầu tư nước ngoài vẫn dừng lại ở quy định khung, các nguyên tắc cơ bản , chưa thể hiện tính rõ ràng, làm cho các nhà đầu tư không xác định được dự án của mình có thuộc diện có được cấp giấy phép đầu tư hay không . Bên cạnh những nguyên nhân cơ bản dẫn tới việc cấp giấy phép đầu tư nước ngoài không rõ ràng , là do các quy định phân loại dự án đầu tư không nhất quán , hiện nay đang sử dụng cả ba tiêu chí phân loại dự án đầu tư đó là :
+ Ngành nghề kinh doanh .
+ Quy mô vốn đầu tư .
+ Quy mô sử dụng đất .
Thứ ba : Các văn bản ban hành sai thẩm quyền , vượt cấp còn diễn ra khá phổ biến.
Để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa phương , từng địa phương đã chủ động ban hành nhiều quy định hướng dẫn về trình tự thủ tục đầu tư và các chính sách ưu đãi đầu tư . Đã xuất hiện tình trạng một số quy định chính sách của địa phương vượt quá khuôn khổ pháp luật hiện hành , đặc biệt là chính sách miễn giảm thuế, quy định giá tiền thuê đất….gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về thu hút FDI , phá vỡ tính pháp lý của các văn bản cao hơn.
Thứ tư : Một số văn bản còn gây cản trở môi trường đầu tư.
Một số quy định liên quan đến lao động, việc làm đang trở thành rào cản lớn đối với hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài . Chẳng hạn luật lao động mới ( có hiệu lực từ 1 – 1 – 2003 ) đã gây trở ngại lớn đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc khai thác lao động ở Việt Nam vì quy định này chỉ cho phép ký 2 lần hợp đồng với người lao động . Điều này dễ trở thành nguyên nhân chủ yếu gây cạnh tranh và thiệt hại trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
Trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tiến tới một mặt bằng pháp lý chung đã có những thay đổi bất lợi cho các nhà ĐTNN. Chẳng hạn, việc thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã làm giảm ưu đãi về thuế, nhất là đối với các dự án đầu tư vào Khu công nghiệp, Khu chế xuất tại các trung tâm đô thị lớn và các dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư. Việc giảm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án ĐTNN cũng như chính sách đối với ô tô, xe máy đã làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại về sự thiếu nhất quán của chính sách ĐTNN của nước ta, đồng thời, cản trở việc quyết định đầu tư của một số dự án, trong đó có những dự án quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao.
Theo Nghị định số 105/2003/NĐ-CP ngày 17/9/2003 của Chính phủ, việc hạn chế tỷ lệ lao động nước ngoài trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN dưới 3% cũng đã gây khó khăn cho một số doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh. Mặc dù, các Hiệp hội doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã nhiều lần kiến nghị, trong đó có các kiến nghị nêu tại Diễn đàn doanh nghiệp năm 2003 nhưng đến nay vẫn chưa được sửa đổi.
Thứ năm: những căn bệnh cố hữu trong hoạt đọng của việt nam liên quan đến khu vực kinh tế FDI.
Các vướng mắc về quy hoạch ngành vẫn chưa được tháo gỡ, trực tiếp cản trở ĐTNN, nhất là vào những lĩnh vực như xi măng, sắt thép, giáo dục-đào tạo.v.v.
Nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ gặp ách tắc do chủ trương chưa rõ ràng. Việc suy giảm đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ đã làm hạn chế kết quả thu hút ĐTNN năm 2004 (đặc biệt, cho đến nay, sau 4 năm Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 06 của Chính phủ về ĐTNN trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo vẫn chưa được ban hành)
Các sáng kiến chung về cải thiện môi trường đầu tư như Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản, cơ chế chấp thuận nhanh trong Thỏa thuận hợp tác xúc tiến đầu tư với EDB (Singapore) chưa được triển khai đồng bộ ở các ngành, các cấp.
Danh mục các dự án quốc gia kêu gọi vốn ĐTNN được ban hành năm 2001 không còn thật phù hợp với yêu cầu của giai đoạn phát triển mới và mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Kinh phí đầu tư cho công tác xúc tiến đầu tư còn hạn hẹp nên chưa chủ động tổ chức được nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư hướng vào các địa bàn trọng điểm như Mỹ, châu Âu Nhật Bản.v.v.
Bộ máy hành chính cồng kềnh, việc thiếu phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước dẫn tới việc xử lý dự án kéo dài ảnh hưởng tới môi trường đầu tư.
Trong quá trình thẩm định dự án, ngoài yếu tố còn thiếu các thông tin hướng dẫn và các tiêu chí cụ thể để chấp thuận dự án, còn tồn tại tình trạng thiếu thống nhất ý kiến giữa các bộ, ngành. Thậm chí, đối với không ít trường hợp, các bộ, ngành chức năng chậm trả lời hoặc không có ý kiến trả lời về dự án, dẫn tới tình trạng chậm trễ trong thẩm định cấp giấy phép đầu tư so với thời gian quy định của pháp luật. Ngoài ra, các quy định về thẩm định dự án còn phức tạp so với các nước trong khu vực.
Một số vấn đề trong việc quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Thứ nhất : Do hiện tượng chuyển giá từ công ty mẹ ở nước ngoài gây ra hiện tượng “ lỗ giả , lãi thật “ hay “ lãi công ty mẹ , lỗ công ty con “
Lợi dụng Việt Nam chưa có cơ quan thẩm định kỹ thuật , giá cả thiết bị mà các nhà đầu tư nước ngoài đưa vào liên doanh với hình thức vốn góp , các nhà đầu tư nước ngoài đã khai vốn giá trị của các máy móc thiết bị này để nâng giá trị góp vốn của mình, tăng mức trích khấu hao hàng năm. Không những thế họ còn đưa các thiết bị cũ , lạc hậu để thu lợi nhuận ngay từ vòng ngoài khi liên doanh còn chưa hoạt động
Thứ hai : ý đồ gạt bỏ đối tác Việt Nam của bên nước ngoài
Các nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận thua lỗ , thậm chí còn lỗ nặng nề để được lọt vào một lĩnh vực nhất định mà luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam chưa cho phép thực hiện mô hình công ty 100% vốn nước ngoài. Sau đó lợi dụng chiêu bài lỗ do các chính sách tiếp thị, quảng cáo, chi tiền lương cho người nước ngoài với chi phí rất lớn họ sẽ gạt bỏ dần sự có mặt của các đối tác Việt Nam
Một số vấn đề về thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Vốn đầu tư thực hiện tăng nhưng tỷ trọng vốn ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm do tốc độ tăng vốn ĐTNN thực hiện chậm hơn tốc độ tăng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác.
Mặc dù tính chung cả tăng vốn, vốn đầu tư cấp mới tăng đáng kể so với năm 2003, nhưng vốn đầu tư cấp mới đạt thấp so với tiềm năng thực tế của nước ta, cũng như so với những năm trước khủng hoảng kinh tế khu vực và với nhu cầu thu hút vốn ĐTNN cho việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Số dự án lớn gắn với chuyển giao công nghệ nguồn còn ít. Những ưu thế về trị an và lao động của ta đang giảm dần (tình trạng thiếu lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều lao động đã lan từ các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ ra tới vùng trọng điểm kinh tế Bắc Bộ - Hải Phòng, Hải Dương)
Cơ cấu ĐTNN còn mất cân đối kể cả về cơ cấu vùng và ngành. Đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng giảm sút so với các năm trước. Mặc dù, Chính phủ đã áp dụng chính sách ưu đãi nhưng ĐTNN vào các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn chưa đáng kể.
Vẫn còn nhiều dự án được cấp phép khá lâu, trong đó có những dự án được cấp phép trước khủng hoảng tài chính khu vực nhưng triển khai chậm, thậm chí chưa triển khai.
Một số dự án gặp vướng mắc kéo dài như dự án thủy điện Krông Ana, dự án DRI Đà Lạt chưa được xử lý dứt điểm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Tình trạng tranh chấp trong các liên doanh tiếp tục gia tăng, trong đó có những liên doanh tranh chấp giữa các đối tác kéo dài nhiều năm như Trường Quốc tế Hà Nội… làm cho các nhà đầu tư thiên về hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài.
Việc quản lý dự án ở một số địa phương còn nhiều bất cập như chậm giải quyết các đề nghị của nhà đầu tư hoặc do xử lý các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai dự án chưa thỏa đáng, đã gây nên các tranh chấp kéo dài giữa các đối tác trong liên doanh và có trường hợp giữa các nhà đầu tư với chính quyền địa phương (như tình trạng xảy ra đối với các dự án Đá Hòn Thị ở Nha Trang, Krông Ana ở Đắc Lắc, Tam Hiệp ở Tây Ninh, DRI ở Đà Lạt. v.v... nêu trên).
c) nguyên nhân của những hạn chế trên:
Thứ nhất: nhận thức chưa đầy đủ về vị trí vai trò của FDI
Chỉ thấy tác động tiêu cực và mặt trái của FDI trong việc chi phối đến tình hinh kinh tế xã hội, tác động xấu đến môi trường, tình trạng tiếp thu công nghệ - kỹ thuật lạc hậu dẫn đến bài xích, hoặc do dự việc sử dụng FDI mà không thấy vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế.
Nhấn mạnh quá mức đến việc phát huy nội lực mà không thấy hết vai trò của việc thu hút đầu tư nước ngoài, tranh thủ hợp tác quốc tế để khai thác tốt hơn nội lực, dẫn đến tình trạng tuyệt đối hóa nội lực, tách rời mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, nhất là tâm lý lo ngại tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực năm 1997.
Giải quyết mâu thuẫn giữa tăng cường thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI với việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nhất là trong việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ liên quan đến lĩnh vực thương mại và đầu tư, cũng như những cam kết của Việt Nam về mở cửa lĩnh vực đầu tư khi gia nhập ổ chức thương mại thế giới
Thứ hai: thực tế chưa làm rõ chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài một cách toàn diện
Công tác quy hoạch còn nhiêyuf bất cập nhất là quy hoạch ngành (quy hoạch ngành thép, xi măng, viễn thông, cảng biển…) trong khi đó một số ngành, lĩnh vực chưa có quy hoạch gây khó khăn cho việc xác định chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài (quy hoạch mạng lưới các trường đại học, dạy nghề…).
Thứ ba: luật pháp liên quan đến đầu tư đang trong quá trình hoàn thiện, việc thực hiện luạt pháp còn chưa nghiêm.
Một số luật pháp điều chỉnh trực tiếp hoạt động đầu tư nước ngoài còn chưa được ban hành như luật cạnh tranh và kuật chồng độc quyền, còn chưa thồng nhất giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài… tình trạng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật còn chậm, nhiều vẫn đề chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp quy.
Thứ tư: so với một số nước trong khu vực, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang giảm dần do các chi phí đầu vào cao, thủ tục hành chính còn rườm rà.
Báo cáo của tổ chức Nhật Bản JETRO cho thấy chi phí đầu tư ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực nhất là so với Trung Quốc. Cho đền nay, cước phí dịch vụ cảng biển và vận tải biển ở Việt Nam, cước viễn thông quốc tế, giá điện, phí đăng kiểm và chi phí giải phòng mặt bằng tại Việt Nam cao hơn trong khu vực, bên cạnh đó lợi thế về nguồn lao động giá rẻ bị mất dần. Trong khi đó các ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam kém phát triển, điển hình là ngành sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy và may mặc. các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu, và chỉ thực hiện láp rắp gia công tại Việt Nam, nên giá trị tăng thực tại Việt Nam thấp, đồng thời thực tế này làm giá thành sản phẩm cao hạn chế sức cạnh tranh của sản phẩm.
III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ FDI.
1. Hoàn thiện chiến lược thu hút đầu tư và sử dụng FDI cho đến năm 2010 và xa hơn nữa đẩy nhanh tiến trình hành động quốc gia về xuc tiến đầu tư, đổi mới nâng cao hiệu quả công tac vận động xuc tiến đầu tư.
Thời gian vừa qua chúng ta thành lập được một số trung tâm xuc tiến đầu tư ở các bộ ngành, tuy nhiên ở nhiều tỉnh thanh phố hiện nay vẫn chưa có bộ phận chuyên trách này, ở những nơi đã có thì hoạt động cũng chưa có hiệu quả. Do đó để chủ động quảng bá vận động thu hút đầu tư FDI cần:
-tiếp tục thành lập và hoàn thiện phương thức nội dung hoạy động của các trung tâm xúc tiến đầu tư nước ngoài.
-có chương trình, kế hoạch xúc tiến đầu tư cho từng dự án được quy hoạch, phù hợp với đặc điểm của từng nước, từng công ty có dự án.
-chính phủ các bộ ngành tỉnh thành phố cần định kì tổ chức gặp gỡ các nhà đầu tư có dự án đang hoạt động tại Việt nam để lăng nghe ý kiến, trao đổi, cùng tháo gỡ những vướng mắc…
-huy động tối đa tiêm năng của việt kiều trong thu hút đầu tư FDI. Kinh nghiệm của trung quốc cho thấy hoa kiều không chỉ là nhà đầu tư trực tiếp tại trung quốc (theo thống kê có tới 70-75% số dự án đầu tư vào trung quốc là của người gốc hoa) mà còn là lực lượng hùng hậu tiến hành tuyên truyên quảng bá chionhs sách vận động làm môi giới cho trung quốc. việt nam hoàn toàn có thể học hỏi và áp dụng kinh nghiêm này.
-Tăng cường công tác nghiên cứu thị trương đối tác, nâng cao chất lượng thông tin. Bố trí ngân sách cho hoạt đọng xúc tiến đầu tư.
2. Cải thiện môi trường đầu tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và các chinh sách.
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư cần được thực hiện trên cả năm mặt: luật pháp, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính, môi trương kinh doanh, hệ thống trọng tài kinh tế và tòa án.
Việt Nam sẽ tiến hành sửa đổi nhiều văn bản pháp luật không còn phù hợp, điều chỉnh quan hệ kinh tế đối ngoại Việt nam tương thích với hệ thống quốc tế, triệt để tôn trọng các nguyên tắc tự do, minh bạch và công bằng trong quan hệ kinh tế đối ngoại về thương mại, đầu tư và dịch vụ. điển hình là khẩn trương cụ thể hóa các quy định pháp luật và cam kết trong văn kiện gia nhập WTO. Cần kết hợp giữa hệ thống luật thương luật và dân luật trong việc ban hành các quy định pháp luật vì hệ thống pháp luật Việt Nam được hình thành với một lịch sử phức tạp và việc ý thức chấp hành luật của người dân chưa cao, có những quy định còn thiếu coa những sự kiện pháp lý phat sinh chưa có tiền lệ hoặc có nhưng chúng lại khong tương thích với các chuẩn mực quốc tế. đây cũng là những thách thức giảm thiểu bất cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại. đi cùng với giải pháp này là việc tuyên truyền , giáo dục dể tăng cương hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách cung như nâng cao ý thưc tuân thủ các quy định của pháp luật của giới doanh nhân và công dân để quy định pháp luật được thực sự thực thi nghiêm chỉnh.
Bên cạnh đó tiến hành nâng cấp cơ sở hạ tầng nền kinh tế phục vụ cho các giao dịch đối ngoại đặc biệt là hệ thống sân bay bến cảng đường giao thông dặc biệt là đường cao tốc kho tang đặc chủng bến tàu lưu trữ và trung chuyển đạt tiêu chuẩn quốc tế mạng thông tin liên lạc viên thông hiện đại có tốc độ truyền cao. Cần cải thiện cơ bản hệ thống cơ sở hạ tầng các trung tâm, cửa ngõ giao dịch kinh tế quốc tế và tại các vùng kinh tế động lực của cả nước. cơ sở hạ tầng thuận lợi là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp tiếp cận thị trường nước ngoài. Đồng thời cần đẩy mạnh cong cuộc cải cách hành chính tăng cường hiệu lực quản lý liên quan đến các giao dịch kinh tế và kinh doanh dồi ngoại với cơ cấu gọn nhẹ, cơ chế năng động và đội ngũ công chức có đủ.
3. Nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút FDI: đây là giải pháp quan trọng để đẩy mạnh thu hút FDI và thực hiện cơ cấu đầu tư theo dự định của chính phủ.
Chính phủ cần xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút FDI theo ngành và theo vùng kinh tế đến năm 2010 và những năm tiếp theo. Trành tình trạng như lâu nay “mạnh ai nấy làm” dẫn đến phá vỡ quy hoạch chung, khiến môi trương đầu tư của Việt nam kém hấp dẫn quy hoạch này phải hướng vào thực hiện mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Các bộ ngành địa phương cần tiến hành quy hoạch chi tiết cho mình trên cở sở quy hoạch chung tổng thể. Kinh nghiệm cho thấy chất lượng thu hút FDI thời gian qua chưa cao một phần là do việc xác địn kinh doanh còn mang tính chủ quan, thiếu khoa học, chưa tính đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng như thị trương quy mô trình độ vốn đầu tư.
4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực hay phát triển thị trường lao động trong doanh nghiệp FDI.
Xu hướng đầu tư FDI sẽ ngày càng chuyển sang các ngành có hàm lượng vốn và công nghệ cao. Vì thế cần có chính sách giáo dục đào tạo hợp lý để hình thành đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề đáp ứng được nhu cầu của các dự án. Phát triển thị trường lao động trong các doanh nghiệp FDI nhằm thúc đẩy đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nâng cao chất lượng đào tạo để có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn ngoại ngữ tác phong làm việc theo lối công nghiệp.
Vấn đề tiền lương trong doanh nghiệp FDI phải được quy định rõ ràng dựa trên cơ sở năng suất lao động của ngành điều kiện lao động đặc thù của ngành, điều kiện lao động đặc thù của ngành, hệ số sử dụng thời gian lao động trong ngành và các yêu cầu khác của ngành để từ đó đưa ra các quy định tiền lương tối thiểu, ban hành quy định chung vế phương pháp trả lương cụ thể cho người lao động trong doanh nghiệp FDI. Tăng cường vai trò của của tổ chức công đoàn để bảo vệ các quyền lợi của người lao động.
5. Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước:
Khu vực có cốn đầu tư nước ngoài: nhà nước cần tăng cường chất lượng công tác thẩm định các dự án đầu tư kết hợp với công tác giám định công nghệ nhằm ngăn ngừa một số đối tác nước ngoài thiếu thiện chí. Để khắc phục tình trạng can thiệp qua sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp FDI nhà nước cần xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ với các bộ ngành tỉnh thành phố trong việc quản lý hoạt động của FDI theo đúng thẩm quyền, trách nhiệm của mình, cần quy định rõ ràng cụ thể các thủ tục hành chính ở mọi khâu mọi cấp xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Các nhà đầu tư nước ngoài: tiếp tục hoàn thiện các quy trình ban hành văn bản để bảo đảm tính thống nhất đông bộ của luật pháp. Hình thành đầu mối quản lý thống nhất đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài từ trung ương đến địa phương, xây dựng cơ chế phối hợp giữa trung ương và địa phương. Xây dựng chế độ kiểm tra rõ ràng minh bạch tránh tình trạng tùy tiện hình sự hóa các quan hệ kinh tế.
Ngoài ra cần tăng cường hơn nữa sự quan tâm đến việc quản lý dự án sau giấy phép, nắm chắc tình hình thực hiện dự án nhằm xủ lý kịp thời cá vướng măc phát sinh giúp cho các dự án triển khai thuận lợi. cụ thể là: các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy phép để có biện pháp thích hợp đối với tưng loại dự án.
6. Mở rộng hình thức và lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động và xúc tiến đầu tư.
Về hình thức thu hút đầu tư nước ngoài: nên nghiên cứu và cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đa dạng hóa các hình thức đầu tư vốn đang được áp dụng phổ biến ở các nước như: mua lại và sat nhập trong một lĩnh vực, công ty cổ phần FDI, công ty quản lý vốn, công ty mẹ công ty con hoạt động theo hình thức đa mục tiêu, đa chức năng: cho phép nhà đầu tư nước ngoài mua (có thể 30%) cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa, được nhận khoán quản lý hoặc thuê các doanh nghiệp đủ điều kiện, phát triển các khu kinh tế đặc biệt (khu chế xuất, khu thương mại tự do).
C- KẾT LUẬN
FDI đã được thừa nhận là một thành phần kinh tế quan trọng trong nền kinh tế, góp phần quan trọng trong thúc đẩy kinh tế nước nhà thoát khỏi tụt hậu và phát triển nhanh. Tuy rằng còn nhiều mặt hạn chế về cả hai phía: phía nhà đầu tư nước ngoài và phía chủ nhà Việt Nam nhưng những hạn chế đó không ngừng được các bên xem xét khắc phục để tạo ra hiệu quả tốt nhất, tận dụng được ưu thế tuyệt đối của FDI.
Việt Nam chúng ta cải cách hoàn thiện mình để tận dụng được lợi thế do FDI mang lại như nhiều nước đã làm được. Đảng, nhà nước không ngừng phát triển lý luận về FDI và học tập những kinh nghiệm của các nước đã có được thành công với nguồn vốn FDI để vừa có một sự phát triển bền vững và vẫn nằm trong khuôn khổ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhằm giúp cho chúng ta nắm vững những yêu cầu trên bài tiểu luận đã phân tích một cách tổng quát nhất về FDI: lịch sử hình thành FDI, đặc trưng cơ bản của FDI, những tác động cơ bản của FDI, thực trạng vai trò của FDI ở Việt Nam để từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát huy tối đa ưu thế của FDI. Nghiên cứu bài tiểu luận giúp cho sinh viên nắm bắt những yêu cầu cơ bản nhất về nhận thức FDI. Để từ đó có những định hướng cho hành động trong tương lai giúp đất nước phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin – NXB chính trị quốc gia.
-Kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn
( kỷ yếu hội thảo khoa học ) –NXB chính trị quốc gia.
-Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam – NXB chính trị quốc gia.
-Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI.
-Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 342 tháng 11/2006.
-Tạp chí con số và sự kiện các số trong năm 2006.
-Trang web Bộ Kế Hoạch Đầu Tư: www.mpi.gov.vn.
-Trang web Tổng Cục Thống Kê: www.gso.gov.vn.
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC Trang
A-Đặt vấn đề.
1
B-Nội dung
2
I.Cơ sở lý luận và thực tiễn.
2
1.Khái quát FDI
2
2.Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn.
5
3.Đánh giá chung.
13
II.Thực trạng vai trò của FDI với Việt Nam
14
1.Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam từ 1988 đến nay.
14
2.Đánh giá hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam thời gian qua.
21
III.Một số giải pháp nhằm thú hút và sử dụng có hiệu quả FDI.
30
C-Kết luận.
34
-Tài liệu tham khảo.
35
-Mục lục
36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35825.doc