Đề tài Thực trạng vận hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện

MỤC LỤC: Trang Lờ nói đầu3 Chương I: Lý luận chung về tỷ giá và chính sách tỷ giá4 1.1. Tỷ giá4 1.1.1. Khái niệm và phân loại4 1.1.1.1. Khái niệm4 1.1.1.2. Phân loại4 1.1.2. Cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái6 1.1.2.1. Thuyết ngang giá vàng6 1.1.2.2. Thuyết ngang giá sức mua (PPP )6 1.1.3. Niêm yết tỷ giá8 1.2. Chính sách tỷ giá9 1.2.1. Khái niệm và hệ thống chính sách tỷ giá9 1.2.2. Các công cụ của Chính sách tỷ giá10 1.2.2.1. Nhóm công cụ trực tiếp10 1.2.2.2 Nhóm công cụ gián tiếp11 1.2.3. Vai trò của chính sách tỷ giá tới tăng trưởng kinh tế11 1.2.3.1. Đối với cán cân thanh toán11 1.2.3.2. Với lạm phát và lãi xuất11 1.2.3.3. Với sản lượng và việc làm12 1.2.3.4. Đối với đầu tư quốc tế12 1.2.3.5. Với nợ nước ngoài12 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến TGHĐ13 1.2.4.1. Sức mua của mỗi đồng tiền trong một cặp tiền tệ13 1.2.4.2. Cán cân thanh toán quốc tế13 1.2.4.3. Yếu tố tâm lý13 1.2.4.4. Vai trò quản lý của ngân hàng trung ương13 1.2.4.5. Năng suất lao động13 1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tỷ giá14 1.3.1. Nhóm các nước có đồng tiền mạnh14 1.3.2. Nhóm các nước đang chuyển đổi về cơ cấu kinh tế (Ba Lan, Nga, Séc )14 1.3.3. Nhóm các nước Châu Á và khu vực ASEAN15 Chương II: Thực trạng chính sách tỷ giá ở Việt Nam17 2.1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá8 2.2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá20 2.3. Thời kỳ 1992-2/199921 2.4. Giai đoạn 1999 đến nay: thả nổi tỷ giá có điều tiết23 2.4.1.Giai từ tháng 2/1999 đến tháng 12/200223 2.4.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 200632 2.4.3. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay38 Chương III: Tác động của tỷ giá đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn gần đây53 3.1.Tác động đến lạm phát 53 3.2.Mục tiêu cân bằng cán cân thương mại57 3.2.1.Tác động chính sách tỷ giá tới cân bằng cán cân thương mại từ 1955 đến nay58 3.3. Ảnh hưởng chính sách tỷ giá tới XNK trong những năm gần đây63 *.Đánh giá những thành tựu , hạn chế của chính sách tỷ giá hiện nay66 Chương IV: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá trong giai đoạn sắp tới70 4.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá70 4.1.1. Một số quan điểm trong lĩnh vực điều hành tỷ giá70 4.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá của Việt Nam trong thời gian tới72 4.2. Mục tiêu và định hướng hoàn thiện của chính sách tỷ giá73 4.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá của Việt Nam trong thời gian tới74 4.3.1. Tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước74 4.3.2. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ76 4.3.3. Hoàn thiện chính sách lãi suất, đảm bảo xử lý tốt mối quan hệ giữa hai công cụ là lãi suất và tỷ giá80 4.3.4. Hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở kết hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác của Nhà nước81 4.3.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường ngoại hối theo định hướng của nền kinh tế thị trường83 4.3.6. Nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN84 4.3.7. Nhanh chóng thực hiện các công cụ phong ngừa rủi ro84 Kết luận87 LỜI NÓI ĐẦU Tỷ giá hối đoái giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế của mỗi quốc gia cũng như các quan hệ thương mại quốc tế thông qua việc phản ánh tương quan giá trị đồng tiền của những nước khác nhau. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, ngày nay tỷ giá hối đoái đã trở thành công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia và là vũ khí lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt trên thế giới. Trong thời gian qua, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần thay đổi phương pháp điều hành tỷ giá. Từ chỗ được giữ cố định, “đông cứng” trong một thời gian khá dài, đến nay tỷ giá hối đoái đã được hình thành một cách khách quan theo tín hiệu thị trường và có sự điều tiết của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh rằng, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái hiện nay là phù hợp với đặc điểm tình hình và mục tiêu phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, để cơ chế điều hành tỷ giá mới có thể thực sự phát huy tác dụng cần thiết phải có những cải cách hơn nữa trong việc quản lý tỷ giá hối đoái. Làm sao để tỷ giá hối đoái sát hợp với tín hiệu thị trường, theo hướng điều tiết của Nhà nước, khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nâng cao uy tín của đồng tiền và tiến tới một đồng Việt Nam có khả năng chuyển đổi luôn là câu hỏi được đặt ra cho không chỉ những nhà hoạch định chính sách mà còn cho tất cả chúng ta những người học và nghiên cứu kinh tế. Đề tài nghiên cứu: “Thực trạng vận hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện” được lựa chọn chính từ những yêu cầu, đòi hỏi đó. Nội dung của bài luận này chỉ dừng lại nghiên cứu việc điều hành chính sách tỷ giá của NHTW Việt Nam và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái trong thời gian tới. Bên cạnh đó, do hạn chế về thời gian, thông tin và trình độ lý luận nên trong quá trình viết không tránh khỏi những sai sót nhất định. Chúng em rất mong nhận được sự hướng dẫn đóng góp của các thầy cô, bạn bè để hoàn thiện hơn trong việc học tập

doc87 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2487 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng vận hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam và các biện pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố định tỷ giá, cán cân thương mại bị thân hụt nặng. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sàn xuất hàng XK đã rơi vào tình trạng khó khăn thua lỗ, tuy có chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương ( lỗ ngân sách bù, lãi nộp ngân sách) nhưng dù sao cũng triệt tiêu động lực phát triển xa hơn. Thời kỳ 1989-1991: quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ra cùng lúc với việc điều chỉnh mạnh giảm giá nội tệ, quá trình tự do hóa thương mại, nhất là khuyến khích xuất khẩu , tử đó giảm bớt một phần gánh nặng bù lỗ cho NSNN. Bảng cán cân thương mại Việt Nam với các nước XHCN Chỉ tiêu 1986 1989 1990 1991 1992 XK 282,2 548,6 214,5 214,5 119,0 NK 1434,2 1209,5 357,0 357,0 91,1 Cân đối -1151,7 -319,8 -319,8 -124,5 +27,9 Nhập khẩu trong giai đoạn 1991-1992 giảm sút nghiêm trọng do sự sụp đổ ngoại thương với Liên Xô và các nước Đông Âu. Những năm trước, phần lớn nhập siêu với Liên Xô chuyển thành viện trợ không hoàn lại. đó là nguồn bù đắp quan trọng cho thương mại mậu dịch của Việt Nam.do nguồn nhập siêu truyền thống không còn, lại thiếu ngoại tệ,buộc nhiều đơn vị phải chọn hình thức trả chậm, bị ép giá, chịu lãi suất cao, tình trạng mua vét USD để trả nợ dẫn đến các cơn sốt USD theo chu kì vào cuối quý, cuối năm. Thời kỳ 1992-1999: Tỷ giá cố định trong thời gian dài Giai đoạn 1992-1997 Tỷ giá cố định trong thời gian dài nhưng lạm phát tích lũy qua các năm lại không nhỏ ( 1992 đến 1997 lạm phát 54.5% trong khi tỷ giá tăng khoảng 5%.VND tăng giá mạnh , kìm hãm XK, kích thích NK khiến cán cân thương mại ngày càng trở nên thâm hụt, dẫn đến vay nợ nước ngoài để bù đắp , gây khó khăn cho nền tài chính quốc gia. Thời kỷ khủng hoảng Đông Nam Á 1997-1999: Tình hình cán cân thương mại bị thâm hụt nghiêm trọng , do hậu quả của việc lên giá có phần quá mức của VND trong giai đoạn trước, xuất khẩu bị hạn chế, nhập khẩu ngày càng tăng dẫn đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại . năm 1996, nhập siêu chiếm đến 18.3% GDP, chỉ tính riêng 2 tháng đầu năm 1997, thâm hụt thương mại là 640 triệu USD. Thời kỳ này, các nước chuyển sang thanh toán bằng USD , ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Việt Nam vì trước năm 1991, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của VN đều bằng đồng rup chuyển nhượng, chỉ có một tỷ lệ nhỏ bằng ngoại tệ tự do chuyển nhượng.cán cân thương mại VN thâm hụt lớn, NK gấp 3 lần Xk , thâm hụt bù đắp bằng viện trợ , cho vay của các nước XHCN. Bảng diễn biến tỷ giá ,lạm phát, tỷ lệ X/N giai đoạn 1992-2000 : Bảng diễn biến tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ X/N CPI – Việt Nam CPI – Mỹ Chênh lệch (5) (2)-(4) Tỷ giá chính thức (6) Tăng (%) so 1992 % lên giá của VND (5)-(7) Tỷ lệ X/N (%) Năm sau so với năm trước(%) (1) 1992= 100% (2) Năm sau so năm trước (%) (3) 1992= 100% (4) 1992 117.5 100.0 103.3 100.0 0.0 10718 0.0 0.0 101.57 1993 105.2 105.2 102.6 102.6 2.6 10840 1.1 +1.5 76.07 1994 114.4 120.3 102.4 105.1 15.2 11003 2.7 +12.5 69.58 1995 112.7 135.6 102.4 107.6 28.0 11221 2.8 +25.2 66.82 1996 105.7 143.4 102.1 109.8 33.6 11040 3.0 +30.6 65.11 1997 103.2 148.0 102.2 112.3 35.7 11175 4.3 +31.4 79.24 1998 107.3 158.8 101.6 114.1 44.7 12985 21.2 +23.5 81.39 1999 104.2 165.4 102.1 116.5 48.9 14016 30.8 +18.1 98.29 2000 98.2 162.4 105.6 123.0 39.4 14501 35.3 +4.1 92.62 Phân tích ảnh hưởng của tỷ giá thực đến hoạt động XNK Để đánh giá tác động này ta cần xem xét đến hai chỉ số đó là chỉ số tỷ giá thực song phương (RER) và chỉ số tỷ giá thực đa biên (REER). Chỉ số tỷ giá thực song phương (RER) Năm (i) E(USD) Mức giá - US Mức giá - VN e(USD) Tỷ lệ X/N Hàng năm 1992=1 ei(USD) Hàng năm 1992=1 CPIi us Hàng năm 1992=1 CPI I vn 1992 10736 1 1.03 1 1.176 1 1 1.0157 1993 10848 1.01 1.029 1.029 1.052 1.052 0.989 0.7608 1994 11051 1.029 1.026 1.056 1.144 1.203 0.904 0.6959 1995 11018 1.026 1.028 1.086 1.127 1.356 0.822 0.6681 1996 11130 1.037 1.029 1.118 1.045 1.417 0.818 0.6511 1997 12291 1.145 1.023 1.144 1.036 1.468 0.892 0.7923 1998 13895 1.294 1.015 1.162 1.092 1.603 0.938 0.814 1999 14028 1.306 1.022 1.187 1.001 1.605 0.966 0.9829 2000 14514 1.352 1.034 1.227 0.994 1.595 1.04 0.9262 2001 15084 1.405 1.028 1.262 1.008 1.608 1.103 0.9267 2002 15403 1.435 1.016 1.282 1.04 1.673 1.1 0.8466 2003 15608 1.454 1.022 1.31 1.03 1.723 1.105 0.7998 2004 15736 1.466 1.033 1.353 1.095 1.887 1.051 0.8249 Đồ thị: Nhận xét: 1992-2000 , tỷ giá thực luôn nhỏ hơn 1 đơn vị, sau đó bắt đầu tăng chậm lên trên 1 đơn vị một chút cho đến năm 2004. Tỷ giá thực thấp làm suy yếu vị thế cạnh tranh thương mại của Việt Nam, điều này được thể hiện rõ ràng là tỷ lệ “X/N” của VN 92-00 luôn thấp hơn một đơn vị 1992-1996: tỷ giá thực giảm liên tục dưới 1 đơn vị, đạt giá trị thấp nhất là 0,818 vào 1996.Tỷ giá thực thấp và giảm liên tục làm cho tỷ lệ “X/N” cũng giảm mạnh trong thời gian này, nguyên nhân do lạm phát cao ( trung bình 10,88%/năm), tỷ lệ lạm phát của Mỹ lại thấp và ổn định (trung bình 2,84%), trong khi tỳ giá được điều chỉnh tăng có 3.67%. 1996-1999 tỷ giá thực tăng, cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam, nguyên nhân lạm phát Vn giảm đáng kể ( 4,35%/năm) , tỷ lệ lạm phát của Mỹ ổn định ở mức trung bình 2,225%/năm, trong khi đó, tỷ giá đã được điều chỉnh mạnh ở mức trung bình 6,5%/năm. Sang năm 2000, tỷ giá thực bắt đầu tăng trên mức 1 đơn vị . do lạm phát Vn và Mỹ tương ứng 1,4% và 2,6/năm, tuy nhiên giá cả hàng xuất khẩu hầu như không giảm, không thúc đẩy XK VN là bao, nhập khẩu gia tăng đột biến làm tỷ lệ X/N giảm trong khi tỷ giá thực tăng. Xét đến tỷ giá thực đa phương (REER) Về mặt ý nghĩa của REER tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu cũng tương tự như tỷ giá thực song phương, nhưng REER thể hiện tương quan sức mua của nội tệ với tất cả đồng tiền trong rổ. Nó phản ánh vị thế tổng hợp về sức cạnh tranh thương mại quốc tế của một nước với tất cả các nước còn lại. Ta có, REER được tính thông qua rổ tiền tệ gồm 11 đồng tiền các nước có quan hệ thương mại với Việt Nam: Singapore, Nhật Bản, Mỹ, Anh, Úc, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc và Indonexia. Sơ đồ 4.5. Diễn biến của tỉ giá thực đa phương và xuất nhập khẩu từ năm 1999 đến 2008 Nguồn: Adb.org, wordbank.org, econstat.com, epp.eurostat.ec.europa.eu và thống kê tài chính quốc tế tháng 5/2008 Qua đồ thị ta thấy trong giai đoạn 1999 – 2003, REER có xu hướng tăng, đã làm cho cán cân thương mại trong giai đoạn này được cải thiện, thậm chí là thặng dư chút ít trong một số năm. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2004 – 2007, REER có xu hướng giảm. Tỷ giá thực giảm làm cho sức mua đối ngoại của VND tăng, VND lên giá thực. VND lên giá thực làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam, thể hiện ở cán cân thương mại trong giai đoạn này thâm hụt rất lớn. Vào năm 2004, ta thấy REER giảm, theo lý thuyết thì sẽ làm xói mòn sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam nhưng thực tế, tại năm này đường chỉ số xuất khẩu nằm cao hơn đường chỉ số nhập khẩu, nghĩa là sức cạnh tranh thương mại quốc tế của Việt Nam được cải thiện. Điều này có thể được xem là do độ lệch về thời gian tác động của tỷ giá lên xuất nhập khẩu (giai đoạn trước REER tăng). Như vậy, khi tỷ giá REER giảm chứng tỏ giá hàng xuất khẩu trở nên đắt hơn và giá hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn một cách tương đối, điều này sẽ góp phần làm giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nếu không điều chỉnh chính thức một cách hợp lý sẽ không có lợi cho cán cân thưong mại của Việt Nam. 2. Ảnh hưởng chính sách tỷ giá tới XNK trong những năm gần đây Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại 7 tháng từ năm 2004 – 2009 Nguyên nhân thâm hụt thương mại gia tăng trong những năm gần đây: Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái: Khi đồng tiền phá giá (giảm giá), giá hàng xuất khẩu trở nên rẻ một cách tương đối sẽ giúp xuất khẩu thuận lợi hơn, trong khi đó hàng nhập khẩu đắt một cách tương đối, và nhu cầu hàng nhập khẩu giảm. Cả hai hiệu ứng này tác động đồng thời làm cải thiện cán cân thương mại. Ảnh hưởng của dòng vốn: Cán cân thương mại là một trong những yếu tố của tài sản quốc gia. Cán cân thương mại phụ thuộc vào chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong  nền kinh tế. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được bù đắp bởi các dòng vốn đầu tư nước ngoài như FDI, ODA, FPI, kiều hối và các dòng vốn vay thương mại khác. Ảnh hưởng của thu nhập: Khi thu nhập trong nước tăng, nhu cầu nhập khẩu hàng hoá cũng đồng thời tăng theo. Trong khi đó, khi kinh tế nước ngoài tăng trưởng, họ cũng tăng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá từ nước khác và làm cho xuất khẩu của đối tác thương mại tăng lên. Do vậy cán cân thương mại phụ thuộc vào tăng trưởng kinh tế. Các chính sách thương mại và phát triển kinh tế: Các chính sách thuế, bảo hộ hàng hoá trong nước cũng ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Những rào cản này hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng để cải thiện cán cân thương mại. Các chính sách liên quan đến phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu khác cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến cán cân thương mại. Ngoài ra, cán cân thương mại còn phụ thuộc vào cơ cấu của nền kinh tế và chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia. Trong phạm vi bài viết này, chúng em sẽ tập trung vào phân tích tác động của tỷ giá hối đoái, qua đó nêu lên những ảnh hưởng của chính sách tỷ giá trong thời gian qua. Với chính sách tập trung vào xuất khẩu, NHNNVN thực hiện chính sách điều tiết có thả nổi, tỷ giá tương đối sát vởi thị trường phi chính thức. Tuy nhiên, việc điều chỉnh tỳ giá không phải là tác động duy nhất và mạnh mẽ nhất đến tình hình cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam. Điều này được giải thích do cơ cấu xuất nhập khẩu. (Xem bảng dưới). Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam Nguồn: Tổng cục Thống kê Từ năm 2002 đến nay, thâm hụt thương mại của Việt nam gia tăng mang tính chất hệ thống. Thâm hụt thương mại gia tăng là gánh nặng đối với cán cân thanh toán quốc tế và làm cho tài khoản vãng lai rơi vào tình trạng thâm hụt. Năm 2007 thâm hụt tài khoản vãng lai lên tới 6,9 tỷ USD, năm 2008 là 9 tỷ USD, năm 2009 là 7,3 tỷ USD (nguồn: thống kê tài chính quốc tế của IMF). Thâm hụt tài khoản vãng lai lớn trong khi cán cân vốn không đủ bù đắp đã ảnh hưởng xấu đến dự trữ ngoại hối và đặc biệt làm cho tỷ giá thiếu cơ sở để ổn định. Hiện tại cán cân vãng lai của Việt nam chủ yếu bao gồm cán cân thương mại, cán cân chuyển khoản và dịch vụ, riêng dịch vụ có mức thu nhập nhỏ, chuyển khoản giảm mạnh trong những năm gần đây, do đó thâm hụt tài khoản vãng lai trong những năm qua gia tăng chủ yếu do thâm hụt thương mại lớn. Bên cạnh đó, đối với hàng xuất khẩu, VN đang phấn đấu thành một nước công nghiệp , tuy nhiên tại điạ vị của Việt Nam hiện nay chỉ là một nước đang phát triển, do đó cùng với mục tiêu tăng sản lượng, tăng giá trị, tăng năng suất đó là cải tiến cơ sở hạ tầng.Tuy nhiên, các thiết bị công nghệ cao hay đội ngũ kĩ sư có chất lượng đều phải nhập khẩu từ nước ngoài, không thể giảm trừ. Nguyên nhân thâm hụt thương mại của Việt nam gia tăng trong những năm gần đây được nhóm chuyên gia quốc tế và Việt nam phản ảnh khá đầy đủ trong bản báo cáo phân tích thâm hụt thương mại thuộc dự án hỗ trợ thương mại đa biên. Đó là có sự bất cập mang tính chất cơ cấu dẫn đến sự mất cân đối thương mại của Việt nam, làm hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu. Theo tính toán tỷ lệ nhập khẩu trong xuất khẩu còn rất cao, chiếm khoảng 2/3 giá xuất xưởng. Tỷ lệ nhập khẩu trong sản phẩm xuất khẩu ở mức cao dẫn tới thực tế là nếu muốn tăng xuất khẩu thì nhất thiết phải tăng nhập khẩu. Nguyên nhân là do đầu tư quá ít vào các lĩnh vực hỗ trợ phát triển các ngành phụ trợ hoặc dây truyền sản xuất trong nước.Thực tế cho thấy Việt nam chỉ là nơi thực hiện lắp ráp cho các tập đoàn đa quốc gia, chưa trở thành cơ sở sản xuất với giá trị gia tăng cao. Do đó , khi tỷ giá tăng, thì chính điều này làm tăng giá của các sàn phẩm nội địa tạo ra 2 ảnh hưởng dễ dàng nhìn thấy: tăng giá trong nước và tăng giá hàng nhập khẩu. Chính vì nguyên nhân trên mà chính sách điều chinh tỷ giá không thực sự thể hiện rõ hiệu quả đối với điều chính cán cân thương mại.Vậy câu hỏi đặt ra là : nên định hướng chính sách như thế nào để phù hợp với cơ cấu cán cân thương mại( biện pháp ngắn hạn) hay chủ trương thay đổi cơ cấu cho phù hợp định hướng lâu dài Năm 2006 2007 2008 2009 2010 Tốc độ tăng trưởng GDP(%) 8.2 8.5 6.3 5.3 6.5 Cán cân thanh toán(%GDP) -10 -11.8 -7.7 -7.6 Lạm phát(%/năm) 8.3 23 6.9 10 Dự trữ quốc gia(tỉ USD) 11.5 21 23 14.1 15.4 Tỉ giá(USD) 16.068 16.003 17.486 18.479 Lãi suất(< 1 năm) 11.8 11.8 11.5 12.7 *.Đánh giá những thành tựu , hạn chế của chính sách tỷ giá hiện nay: **Đánh giá năm 2008 đến nay : Năm 2008: Nhìn chung chính sách tỷ giá của Việt Nam trong năm 2008 khá hợp lý và kịp thời. Trong năm 2008 có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam sẽ phá giá nội tệ và kịch bản khủng hoảng kinh tế 1997 – 1998 Thái Lan sẽ lặp lại ở Việt Nam. Tuy nhiên kết thúc năm 2008 Việt Nam vẫn kiểm soát được tỷ giá VND/USD không quá cao và không biến động nhiều. NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ngày 25/12/2008 là 16.989VND/USD, không cao như dự báo trước đó. Tuy nhiên chính sách giảm giá VND cũng không tránh khỏi một số rủi ro nhất định: Thứ nhất, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã vay USD từ các ngân hàng trong và ngoài nước, gánh nặng tỷ giá lên khoản nợ tăng lên, rủi ro không trả được nợ và ngân hàng phải chịu thêm các khoản nợ xấu. Thứ hai, giá nội tệ giảm làm hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn, mà trong khi có nhiều sản phẩm trong nước không thể sản xuất do đó phải nhập khẩu, kết quả là nền kinh tế sẽ nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài khi VND giảm giá. Thứ ba, tỷ giá VND/USD có thể bị tăng quá mức khi người trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài mất niềm tin vào khả năng quản lý cung tiền của cơ quan điều hành chính sách tiền tệ. Khi đó người dân và các doanh nghiệp đua nhau mua vàng và ngoại tệ khi đồng nội tệ mất giá, trong nỗ lực bảo toàn tài sản, người ta có thể chấp nhận bất kỳ mức giá nào miễn là mua được ngoại tệ. Năm 2009: Nhìn chung thực trạng điều hành chính sách tỷ giá năm 2009 khá thành công, đảm bảo sự ổn định thị trường ngoại hối. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập nhất định: Đợt điều chỉnh tỷ giá tháng 11/2009 cũng làm xói mòn niềm tin vào chính sách vì trước đó NHNN tuyên bố rằng nhất thiết sẽ không phá giá đồng tiền, trong khi thực chất bình quân 9 tháng đầu năm 2009, tỷ giá USD/VND tăng 9,08% so với cùng kỳ năm 2008. Sự bất nhất trong điều chỉnh chính sách, sự thiếu minh bạch thông tin (dự trữ, cán cân thanh toán…) tạo ra những kỳ vọng méo mó, tạo cơ hội cho đầu cơ găm giữ ngoại tệ làm cho tình hình thêm căng thẳng. Bên cạnh đó, vẫn thiếu những công cụ phòng ngừa rủi ro dẫn đến quản lí thị trường ngoại hối có những hạn chế nhất định trong việc chuyển đổi tiền tệ, kiểm soát chênh lệch kỳ hạn. Mặt khác, việc hạ giá đồng nội tệ cũng làm chi phí vốn của các doanh nghiệp vay vốn bằng ngoại tệ sẽ tăng cao, về tổng thể nợ nước ngoài cũng sẽ bị ảnh hưởng. Do đó ổn định tỷ giá ở mức phù hợp là rất quan trọng để điều chỉnh cân bằng cán cân thanh toán. Năm 2010 : Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, trong thời gian tới, đặc biệt là quý IV/2010, diễn biến tỷ giá USD sẽ khá phức tạp, bởi cung cầu ngoại tệ có một số thay đổi nhất định do: nhập siêu đã cao hơn gấp đôi cùng kỳ và còn tiếp tục tăng; nhu cầu vay ngoại tệ đang có xu hướng giảm do lãi suất VND giảm nhẹ, trong khi lãi suất ngoại tệ tăng lên; các hợp đồng vay đáo hạn khiến doanh nghiệp phải gom USD trả nợ... Ông Nghĩa cũng lập luận rằng, với mức lạm phát cao (CPI tháng 9/2010 tăng 1,31% so với tháng 8/2010), mà VND đang trong xu hướng mất giá so với USD, thì thậm chí VND đang được định giá cao hơn so với giá trị thực Ưu điểm : Giá cả ngoại tệ từng bước được gắn với cung cầu ngoại tệ của cà nển kinh tế: tuy còn chưa thực sự linh hoạt, việc nhà nước công bố phá giá VND so với USD 10,2% cho thấy động thái theo sát tình hình thị trường, giảm bớt những tiêu cực của chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá chợ đen. Có những chuyển biến chính sách tỷ giá theo hướng tích cực: Sử dụng rổ tiền tệ làm nền tảng điều hành chính sách tỷ giá: Nhược điểm : Cung cầu ngoại tệ bị biến dạng, không phản ánh thực tế khách quan của thị trường. hiện tượng đầu cơ tích trữ đôla , đẩy giá đôla lên cao liên tục trong thời gian gần đây, gây khó khăn cho việc thực thi tỷ giá chính thức của nhà nước cũng như khó khăn cho các doanh nghiệp sử dụng đồng USD trong sản xuất kinh doanh. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, hạn chế đối tượng được mua đôla kể cả với những lý do chính đáng. Xảy ra hiện tượng các ngân hàng chỉ có mua mà không có bán USD ( do giá đôla thực tế cao hơn tỷ giá chính thức),gây nên tâm lý sùng bái đôla. Ngoài ra, thị trường ngoại tệ liên ngân hang hoạt động kém hiệu quả, phân phối ngoại tệ không linh hoạt khiến cho thị trường chợ đen có điều kiện tồn tại song song và phát triển mạnh mẽ. Thị trường chợ đen hoạt động song song với thị trường chính thức: thị trường chợ đen đã trở thành nơi quen thuộc với rất nhiều cá nhân ,doanh nghiệp mua, bán ngoại tệ bởi tính sẵn có của nó. Hoạt động của thị trường này càng làm cho việc quản lý ngoại hối trở nên khó khăn do không kiểm soát được hoạt động. Hiện tượng đô la hóa vẫn phổ biến: ở Việt Nam, đồng USD được dân chúng coi như đồng tiền lưu thông song song với nền kinh tế. Theo thống kê của Ngân hàng châu Á- Thái Bình Dương, USD được sử dụng chiếm khoảng 20% lưu thông trong toàn nền kinh tế.Nguyên nhân xuất phát chủ yếu từ tâm lý ưu chuộng USD bấy lâu nay của công chúng trong khi những chính sách và kết quả phát triển nền kinh tế chưa tạo được niềm tin với đồng nội tệ. Do yếu tố tâm lý ành hưởng quá mạnh, nên khi có thông tin bất ổn trên thị trường dù kiểm chứng hay chưa, người dân đổ xô mua USD dự phòng, đẩy giá USD lên mà không thực sự phản ánh nhu cầu thực tế, tạo điều kiện cho đầu cơ và khó khăn trong thực hiện mục tiêu chính sách tỷ giá. Nguyên nhân của vấn đề trên có thể tổng hợp lại như sau : Chưa xây dựng được chính sách tỷ giá trong thời gian dài và trong từng thời kỷ trong khi phải đánh đổi với các mục tiêu khác nhưng lạm phát, tăng trưởng , khuyến khích xuất khẩu: Chính sách tỷ giá luôn phải theo sát diễn biến thị trường, chưa có được những dự báo và tiềm lực đủ mạnh để kiểm soát hay định hướng thị trường ngoại hối theo mục tiêu ban đầu. Sự phát triển của thị trường tiền tệ và ngoại tệ vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu của nền kinh tế. Quy định quản lý ngoại hối còn nhiều bất cập: Điều này thể hiện qua hoạt động của thị trường ngoại hối liên ngân hàng trong việc quy định các đối tượng được giao dịch, mua USD. Chế tài xử lí các hành vi vi phạm chưa nghiêm: Chưa có những chế tài rõ ràng xử lí, tạo những kẽ hở trong quản lí. CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRONG GIAI ĐOẠN SẮP TỚI 4.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái 4.1.1. Một số quan điểm trong lĩnh vực điều hành tỷ giá hối đoái Xuất phát từ tính hai mặt của chính sách tỷ giá và những ảnh hưởng trái ngược nhau của sự thay đổi tỷ giá đến hoạt động kinh tế, đã tồn tại những quan điểm trái ngược nhau về định hướng cho chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Quan điểm thứ nhất: Những người theo quan điểm này cho rằng phải bằng mọi biện pháp kinh tế và phi kinh tế ổn định bằng cách “đông cứng” tỷ giá đồng nội tệ, thậm chí nên đánh giá cao đồng nội tệ, tạo động lực cho sự ổn định về kinh tế, giảm rủi ro cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo sức hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích nhập khẩu máy móc thiết bị và các công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tránh nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan điểm này đã được nhiều nhà kinh tế, nhà quản lý ủng hộ và cũng đã được áp dụng thành công trong một thời gian nhất định ở nước ta. Nhưng hiện nay quan điểm này cũng cần phải được nhìn nhận lại một cách đúng mức. Cần phải nhận thấy rằng, sự ổn định và quá trình lên giá của đồng nội tệ là kết quả của quá trình tăng trưởng kinh tế năng động và vững mạnh chứ không phải sự lên giá đó là nguyên nhân của sự phát triển kinh tế. Tuy rằng, ở đây có sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng có lẽ sai lầm lại chính là ở chỗ thực hiện không linh hoạt. Việc ổn định tỷ giá chỉ tỏ ra phù hợp trong một khoảng thời gian nhất định, khi thời gian thay đổi, các yếu tố của thị trường thay đổi thì cũng cần phải có những biện pháp phù hợp hơn với điều kiện mới. Về lâu dài, nếu cứ giữ mãi quan điểm và thực hiện cứng nhắc những biện pháp đó thì có thể sẽ phải trả giá đắt bằng một nền kinh tế trì trệ và những hậu quả khó lường khác cho nền kinh tế. Việc quản lý ngoại hối và điều chỉnh tỷ giá là một quá trình biến đổi theo thời gian, không gian và tuỳ từng điều kiện cụ thể. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bùng nổ ở Thái Lan ngày 2/7/1997, kết thúc thời kỳ tăng trưởng như vũ bão không chỉ của đất nước này mà của cả 5 “con rồng” Châu á là một thực tế chứng minh hùng hồn cho những thành công và thất bại của quan điểm này. Quan điểm thứ hai: Một số nhà kinh tế lại phủ nhận hoàn toàn quan điểm trên và cho rằng trong năm 1997, đồng USD đang lên giá so với các đồng tiền khác, kể cả những đồng tiền được xem là mạnh và có giá trị chuyển đổi đầy đủ như DEM (14,9%), JPY (30,9%), FRF (13,6%)... trong khi đó đồng tiền của các nước Đông Nam á, nơi có những mối quan hệ thương mại chặt chẽ với Việt Nam lại đang bị phá giá một cách “không thương tiếc”. Nếu chúng ta giữ cố định đồng Việt Nam, thậm chí phá giá với mức thấp hơn các nước Đông Nam Á khác đã làm thì sẽ làm cho hàng hoá, dịch vụ sản xuất ở trong nước có giá cao hơn tương đối so với các nước trong khu vực, làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước. Do vậy, để tìm lại lợi thế cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, làm lành mạnh môi trường đầu tư trong nước đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì nhất thiết phải phá giá đồng Việt Nam ở mức cao hơn các nước đã làm để có thể tạo được và sử dụng lợi thế so sánh do tỷ giá đem lại, góp phần tăng cường xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, củng cố lượng dự trữ ngoại tệ của đất nước, kích thích sản xuất phát triển theo hướng sản xuất hàng xuất khẩu, cụ thể: Thứ nhất, xuất khẩu có nhiều điều kiện để phát triển. Trước mắt chúng ta chưa thể tăng nhanh xuất khẩu, do trình độ sản xuất của các doanh nghiệp nước ta còn hạn chế, chất lượng và mẫu mã các sản phẩm chưa cao, khả năng tiếp thị và kiến thức kinh doanh còn hạn chế, nhưng về lâu dài, một mức tỷ giá đủ cao sẽ khuyến khích được nhiều doanh nghiệp mạnh dạn chuyển sang sản xuất hàng xuất khẩu khi mà lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu đủ sức hấp dẫn họ. Chỉ khi đó chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng xuất khẩu mới diễn ra nhanh và có hiệu quả. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy sau khi phá giá đồng nhân dân tệ từ 5,2 NDT/USD lên 8,3 NDT/USD xuất khẩu của nước này đã có sự phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức cao. Thứ hai, hạn chế được nhập khẩu tràn lan, giảm thâm hụt cán cân thương mại; hạn chế sự cạnh tranh của hàng ngoại với hàng sản xuất trong nước; hạn chế việc nhập khẩu các nguyên liệu, phụ liệu sản xuất mà trong nước có thể thay thế được. Thứ ba, nâng cao được trách nhiệm và hiệu quả sử dụng ngoại tệ của những nhà nhập khẩu khi nhập khẩu hàng hoá. Khi nhập khẩu đắt, các nhà nhập khẩu phải tính toán và cố gắng tránh nhập những mặt hàng không hoặc chưa cần thiết hay phải tìm phương án gắn nhập khẩu với xuất khẩu, do vậy sẽ tiết kiệm được ngoại tệ dùng để nhập khẩu hàng hoá. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện nay việc phá giá đồng nội tệ có thể gây nên những hậu quả khó lường như: - Việc đồng Việt Nam bị giảm giá một cách đột ngột sẽ tạo ra một cú sốc làm mất đi sự tin cậy của dân chúng vào đồng nội tệ, gây nên tâm lý “trốn chạy” khỏi đồng Việt Nam và việc chuyển dịch đồng loạt từ VND sang USD của các chủ tài sản sẽ xảy ra, cầu về USD tăng lên đồng nghĩa với việc VND càng bị giảm giá mạnh. - Phá giá đồng Việt Nam sẽ làm tăng chi phí đối với hàng nhập khẩu. Trong khi Việt Nam là một nước có hàm lượng nhập khẩu trong sản xuất và sự phụ thuộc của sản xuất vào nhập khẩu máy móc thiết bị và hàng hoá trung gian rất cao, nên việc tăng chi phí đầu vào sẽ làm tăng giá thành sản phẩm và tất yếu sẽ dẫn đến sự suy giảm sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam trên trường quốc tế. - Ngoài ra, tỷ giá tăng vọt sẽ làm tăng gánh nặng nợ nần của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Như vậy, không phải cứ phá giá đồng bản tệ là xuất khẩu sẽ tăng trưởng mạnh như lý thuyết đã chỉ ra. Biện pháp này chỉ thành công khi chính phủ của nước có đồng tiền phá giá có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, dự trữ ngoại hối dồi dào, có một lực lượng hàng xuất khẩu hùng hậu với khả năng cạnh tranh cao và điều quan trọng là đảm bảo được yếu tố bí mật, bất ngờ... Việc nhấn mạnh một chiều các lợi ích do giá trị nội tệ quá cao hoặc quá thấp mang lại, cũng như quá đề cao vai trò biện pháp phá giá là chỉ tính đến những lợi ích ngắn hạn thậm chí còn là một cách nhìn phiến diện, mang đậm tính lý thuyết. Tăng trưởng xuất khẩu là do nhiều nguyên nhân, không thể chỉ dựa riêng vào tỷ giá hối đoái. Điều quan trọng là chúng ta phải nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế; cải thiện chất lượng, mẫu mã hàng; tăng cường quảng cáo, tiếp thị quốc tế. Nếu công việc này được thực hiện tốt thì hàng xuất khẩu của ta sẽ tăng lợi thế cạnh tranh và khi đó, công cụ tỷ giá mới có thể thực sự phát huy tác dụng trong việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu một cách hiệu quả. 4.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian tới Tỷ giá hối đoái là một khâu xung yếu, là cầu nối quan trọng để một nền kinh tế hội nhập với nền kinh tế thế giới. Có một chính sách tỷ giá đúng đắn sẽ góp phần quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy sản xuất phát triển. Trong những năm qua, đặc biệt là trong những năm đổi mới, chính sách điều hành tỷ giá của chúng ta đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ, góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, đảm bảo tăng trưởng cao ổn định, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo được lòng tin đối với các nhà đầu tư, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, lạm phát được duy trì ở mức ổn định trong phạm vi cho phép. Tuy nhiên, trên con đường phát triển của tỷ giá hối đoái trong những năm qua, Việt Nam cũng không thể tránh khỏi những vấp ngã, những tồn tại trong các cơ chế điều hành ở tầm vi mô như xuất nhập khẩu, vay trả nợ nước ngoài, ngân sách... những vấn đề này sẽ gây khó khăn cho khả năng duy trì một cơ chế tỷ giá hối đoái phù hợp và bền vững. Ngoài ra, những yếu tố bao cấp trong chính các cơ chế, chính sách này là các nguy cơ phương hại hay thậm chí làm phá vỡ những nguyên tắc điều hành tỷ giá hối đoái theo phương châm linh hoạt phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và tăng dự trữ ngoại tệ. Trong thời gian gần đây vấn đề tỷ giá lại được nhiều nhà kinh tế nhắc đến như một rào cản hoạt động xuất khẩu. Nhiều ý kiến cho rằng mức tỷ giá hiện nay là chưa phù hợp với giá trị thực tế của đồng tiền Việt Nam, đồng tiền Việt Nam được định giá cao so với giá trị thực của nó, do vậy kìm hãm xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế, gây sự ứ đọng hàng hoá trong thị trường nội địa. 2. Mục tiêu và định hướng hoàn thiện của chính sách tỷ giá Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chính sách TGHĐ phải liên tục được hoàn thiện và điều chỉnh thích ứng với môi trường trong nước và quốc tế thường xuyên thay đổi. Để góp phần khai thác tối đa những lợi ích và giảm thiểu những tổn thất từ hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách TGHĐ ở Việt Nam trong thời gian tới cần phải có những mục tiêu và định hướng cơ bản để hoàn thiện: i, Về mục tiêu - Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại. - Ổn định tỷ giá trong mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu , cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền chuyển đổi. - Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hoá. ii, Bên cạnh đó là những định hướng cơ bản để hoàn thiện chính sách tỷ giá như sau: Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của Nhà nước.Trong xu thế toàn cầu hóa Việt Nam cần lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế nước ta trong tiến trình hội nhập vì chế độ tỷ giá thả nổi có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu và tỷ giá này thích ứng với điều kiện toàn cầu hóa của thị trường tài chính quốc tế. Bên cạnh đó Nhà nước vẫn có thể quản lý được mức độ biến động của tỷ giá. Thứ hai: Chính sách TGHĐ phải đóng vai trò tích cực trong việc bảo hộ một cách hợp lý các doanh nghiệp trong nước. Thứ ba: Kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, nhưng mặt khác cũng cần gia tăng nhập khẩu các sản phẩm không có lợi thế so sánh để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất và tiêu dùng nội địa. 4.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian tới 4.3.1. Tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước Để xây dựng một chế độ tỷ giá hợp lý ở Việt Nam trong điều kiện cụ thể hiện nay, chính sách tỷ giá cần theo những định hướng sau: - Về chiến lược dài hạn, phải áp dụng tỷ giá thả nổi vì chế độ tỷ giá này phù hợp với quy luật cung cầu ngoại tệ, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế và khu vực, mà Việt Nam là một thành viên. - Về chiến lược ngắn hạn, cần áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết của Nhà nước, vì những điều kiện để áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi chưa xuất hiện đầy đủ, trong đó có các yếu tố sau: +/ Các doanh nghiệp chưa thích ứng với sự biến động thường xuyên của thị trường, năng lực quản trị tài chính chưa tốt. +/ Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong quá trình đổi mới còn nhiều yếu kém. +/ Thị trường hối đoái đang còn giai đoạn sơ khai, dự trữ ngoại tệ của Nhà nước còn thấp. +/ NHNN chưa có sự phối hợp chặt chẽ các chính sách và các biện pháp điều hoà cung ứng tiền tệ trong nước; các cá nhân, tổ chức thanh toán qua ngân hàng còn ở mức độ thấp. +/ Việc điều chỉnh tỷ giá đúng đắn và có hiệu quả của NHNN còn phụ thuộc rất lớn vào chính sách huy động và sử dụng vốn, nhất là vốn nước ngoài. Trong những năm tới, luồng vốn ngoại tệ chảy vào trong nước thông qua nhiều kênh ngày một nhiều, nguồn cung ngoại tệ ngày một lớn. Nếu Việt Nam không có biện pháp quản lý, phân bổ sử dụng các nguồn vốn đó một cách có hiệu quả thì về lâu dài, nguy cơ gánh nặng công nợ ngày một lớn đè nặng lên vai các thế hệ con cháu chúng ta. Ngoài ra, đồng Việt Nam về danh nghĩa không gắn vào USD, nhưng trên thực tế, các đơn vị xuất nhập khẩu của ta đều có thói quen thanh toán bằng USD. Tình trạng đô la hoá còn quá nặng trong nền kinh tế Việt Nam, nên hầu như tỷ giá VND từ sau khi thống nhất đất nước đến nay đều bị gắn chặt với USD. Từ những lý do nêu trên, trong một vài năm trước mắt, Việt Nam chỉ nên thực hiện chính sách thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước, có nghĩa là, chính sách tỷ giá vừa phải dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu của ngoại tệ để kích thích xuất nhập khẩu, đồng thời Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ các nguồn ngoại tệ, để đưa vào sử dụng cho các cân đối thực tế, chống lại việc sử dụng ngoại tệ lãng phí hoặc không quản lý được các nguồn ngoại tệ. Hiện nay, chính sách tiền tệ của Việt Nam được hoạch định với mức lạm phát hàng năm là một chữ số (dưới 10%), và xu hướng chung hiện nay là tỷ giá của VND phải được ổn định một cách tương đối (có sự phá giá nhẹ theo thời gian hay còn gọi là biện pháp lạm phát nhẹ). Do vậy, tỷ giá của VND cũng không thể duy trì ở mức ổn định hoàn toàn như trong giai đoạn 1993 – 1998, hay nói cách khác, sức mua của VND so với ngoại tệ cũng phải giảm đi tương đối và phải gắn với tỷ lệ lạm phát, thậm chí trong trường hợp thiểu phát, chỉ số giá cả không tăng hoặc âm thì cũng phải duy trì một mức phá giá nhẹ để kích thích xuất khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp này, cần phải so sánh, xem xét một cách thận trọng: Khả năng xuất khẩu có thể tăng trưởng hay không? Lợi ích do việc phá giá mang lại có đủ bù đắp những chi phí do hậu quả phá giá hay không? Chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước phải được giảm dần theo thời gian, để tiến tới áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, vì vậy: - Giai đoạn từ nay đến năm 2003, áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước như hiện nay, với biên độ cho phép là 10%. - Sau năm 2003 đến năm 2005, có thể mở rộng biên độ đó lên 50%. - Sau 2005, Nhà nước không ấn định tỷ giá mà chỉ can thiệp vào thị trường ngoại hối, thông qua việc thiết lập và sử dụng Quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia. 4.3.2. Thực hiện chính sách đa ngoại tệ Hiện nay, trên thị trường ngoại tệ, mặc dù USD có vị thế mạnh hơn hẳn các ngoại tệ khác, song nếu trong quan hệ tỷ giá chỉ áp dụng một loại ngoại tệ duy nhất sẽ làm cho tỷ giá bị ràng buộc vào ngoại tệ đó, cụ thể là USD. Khi có sự biến động về giá cả của USD trên thế giới, lập tức sẽ ảnh hưởng đến quan hệ tỷ giá giữa USD và VND, mà thông thường là những ảnh hưởng rất bất lợi. Hiện nay, có nhiều loại ngoại tệ có giá trị thanh toán quốc tế như EURO (EMU), JPY (Nhật), CAD (Canada), GBP (Bảng Anh)... Điều này tạo điều kiện cho ta có thể thực hiện chính sách đa ngoại tệ trong thanh toán quốc tế, từ đó ta có thể chọn những ngoại tệ tương đối ít biến động về tỷ giá hoặc có quan hệ mua bán lớn để thực hiện các khoản thanh toán. Ví dụ EURO là một loại ngoại tệ tuy mới xuất hiện, nhưng đã có vị trí quan trọng, trước hết nó có một thị trường lớn với khoảng 300 triệu dân, có giao dịch xuất nhập khẩu với nước ta tương đối nhiều hơn so với các thị phần khác. Do đó, trong quan hệ với thị trường Châu Âu, ta có thể sử dụng EURO như một loại ngoại tệ có quan hệ chủ yếu, nhằm giảm bớt ràng buộc đối với USD. Theo ý kiến cá nhân tôi, chúng ta nên lựa chọn những ngoại tệ mạnh để sử dụng trong thanh toán và dự trữ, bao gồm một số đồng tiền của những nước mà chúng ta có quan hệ thanh toán, thương mại và có quan hệ đối ngoại chặt chẽ nhất, để làm cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá của VND. Việc lựa chọn những đồng tiền nào đưa vào “cụm tiền tệ”, kỹ thuật tính toán các yếu tố cần thiết để hình thành “cụm tiền tệ”, trở thành cơ sở cho việc điều chỉnh tỷ giá, chúng ta có thể dựa vào kinh nghiệm của IMF khi hình thành đồng SDR, hay của EMU khi hình thành đồng EURO. Phương pháp tính tỷ giá của các đồng tiền tập thể này đều giống nhau, chỉ khác nhau ở số lượng, cơ cấu và tỷ trọng những đồng tiền được chọn đưa vào cụm tiền tệ. Điều quan trọng là làm sao xác định được tỷ giá danh nghĩa tương ứng với một tỷ giá thực của VND trong thời gian tới cho phù hợp với khả năng cạnh tranh thực tế của hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế và nhất là sau khi ta đã gia nhập khối ASEAN, AFTA, APEC và tiến tới là WTO. 4.3.3. Hoàn thiện chính sách lãi suất, đảm bảo xử lý tốt mối quan hệ giữa hai công cụ là lãi suất và tỷ giá Lãi suất và tỷ giá là hai công cụ cơ bản của chính sách tiền tệ và giữa chúng có mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau. Sự thay đổi của yếu tố này tất yếu sẽ ảnh hưởng đến yếu tố kia và ngược lại. Mặc dù có mối quan hệ chặt chẽ như vậy nhưng lãi suất và tỷ giá lại vận động nhằm đồng thời vào nhiều mục tiêu khác nhau, trong đó không ít mục tiêu có tác động ngược chiều nhau. Do vậy, việc phối hợp điều hành cả hai công cụ này nhằm thực hiện những mục tiêu chung của chính sách tiền tệ là không đơn giản. Trước xu hướng hội nhập quốc tế thì việc điều hành lãi suất, tỷ giá cần được thực hiện linh hoạt theo hướng tiến tới mục tiêu tự do hoá. Việc điều hành lãi suất cần gắn liền với điều chỉnh tỷ giá. Riêng đối với tỷ giá, thay cho việc gắn đồng Việt Nam với đồng USD, tỷ giá chính thức nên được gắn với rổ tiền tệ( gồm USD và các đồng tiền của các bạn hàng lớn như Nhật, NIE, khối EU và các nước trong trong khu vực ). Hơn nữa, NHNN cần có các biện pháp tiếp tục phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để tỷ giá thực sự do các lực lượng thị trường quyết định. Đối với cơ chế điều hành lãi suất, NHNN có thể xem xét điều chỉnh linh hoạt lãi suất cơ bản và biên độ lãi suất cho vay, làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường, tiến tới quy định thống nhất một mức biên độ lãi suất cho vay áp dụng chung cho các kỳ hạn, cuối cùng bỏ quy định biên độ, cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động và cho vay theo các nguyên tắc thị trường. Nếu như trước đây, NHNN phải dùng “mệnh lệnh hành chính” để tăng – giảm lãi suất, tỷ giá, tăng giảm lượng cung tiền tệ trên thị trường... thì nay, với việc hoàn thiện một bước các công cụ của chính sách tiền tệ, NHNN dựa vào tín hiệu thị trường điều hành chính sách tiền tệ. Đây là bước tiến căn bản của NHNN trong quản lý thông qua các công cụ điều hành chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, qua việc điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản đối với VND và thả nổi lãi suất ngoại tệ; điều chỉnh linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc; điều hành chính sách tỷ giá... dù chưa hoàn hảo cũng cho thấy các công cụ chính sách tiền tệ đã phát huy tác dụng, đưa lại hiệu quả cho nền kinh tế. Thời gian tới, căn cứ vào diễn biến của thị trường tiền tệ thế giới và tình hình kinh tế các nước, việc điều hành qua công cụ chính sách tiền tệ cần được hoàn thiện và linh hoạt hơn, nhất là về lãi suất, tỷ giá... đảm bảo thực hiện tốt chính sách tiền tệ. 4.3.4. Hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở kết hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác của Nhà nước. Chính sách tỷ giá của Việt Nam được xác định là một bộ phận của chính sách tiền tệ và có nhiệm vụ đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế ở mức độ cao, bền vững. Với tư cách là một chính sách nên tỷ giá phải hướng vào thực hiện những mục tiêu đặc thù của mình: - Ổn định tỷ giá dựa trên mối tương quan cung cầu trên thị trường để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại tệ. - Từng bước nâng cao uy tín đồng Việt Nam, đồng thời tạo ra các điều kiện cần thiết để đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi. - Phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý ngoại hối để khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Từ các mục tiêu trên đòi hỏi chính sách tỷ giá phải được xây dựng dựa trên các quan điểm: +/ Chính sách tỷ giá phải hướng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo đúng bản chất vốn có của nó – là một cơ chế thị trường. Một khi đã xem ngoại tệ là một hàng hoá đặc biệt thì tỷ giá với tư cách là giá cả hàng hoá đặc biệt cũng phải vận hành theo quy luật của giá cả thị trường, việc điều chỉnh tỷ giá phải dựa vào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường và các nhân tố tác động đến nó. Theo quy luật của giá cả, trong quá trình vận động, tỷ giá cũng có thể hoàn toàn tách rời giá trị của đồng tiền, nhưng vì tỷ giá là một trong những vấn đề trung tâm và nhạy cảm nhất của đời sống kinh tế xã hội nên nếu sự tách rời đó vượt quá biên độ cho phép thì lập tức tác động đến các loại giá cả khác trên thị trường bao gồm thị trường hàng hoá tiêu dùng, thị trường tín dụng, thị trường ngoại hối... Nói cách khác, một sự bất ổn của tỷ giá chắc chắn gây ra nhiều tai hại cho nền kinh tế. +/ Chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu để cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Vì tỷ giá là trọng tâm đối với sự vận hành của nền kinh tế thị trường mở cửa và có ảnh hưởng rộng khắp đến khả năng cạnh tranh với bên ngoài, đến tình trạng cán cân thanh toán và mức dự trữ ngoại tệ quốc gia. Một sự thiếu hụt cán cân thanh toán do tỷ giá gây ra chắc chắn sẽ kéo theo sự bất ổn của tiền tệ và làm giảm mạnh lượng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tất cả sẽ tạo thành vòng xoáy cuốn nền kinh tế vào cuộc khủng hoảng tài chính. +/Chính sách tỷ giá không được tách rời sự quản lý của Nhà nước. Bởi vì, trong bối cảnh quốc tế hoá và toàn cầu hoá ngày càng gia tăng, sự vận hành của tỷ giá phải nằm trong sự quản lý của nhà nước – tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải biết huy động sức mạnh quốc tế để phát triển kinh tế, đồng thời phải có kinh nghiệm nhìn xa trông rộng, tìm cách tiếp cận, điều chỉnh tỷ giá linh hoạt kịp thời theo những biến động trong và ngoài nước sao cho giữ được tỷ giá trong mối quan hệ hài hoà với lãi suất, dự trữ ngoại tệ, cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách và duy trì chúng theo hướng tích cực. Chính sách tỷ giá của Nhà nước Việt Nam hiện nay về cơ bản là phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt Nam và tình hình tiền tệ thế giới. Việc Nhà nước Việt Nam lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa có một chính sách tỷ giá có tính chiến lược, yếu kém nhất là chưa xác định được mục tiêu chủ yếu, cụ thể của chính sách tỷ giá và mục tiêu này phải gắn với mục tiêu của chính sách tiền tệ nói riêng và chính sách phát triển kinh tế nói chung. Vì vậy, chúng ta vẫn chưa xác định được giới hạn can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại hối, hay nói rõ hơn là chưa xác định được tỷ giá mục tiêu hợp lý cho từng thời kỳ phát triển kinh tế để có chiến lược điều hành cụ thể. Thực tế cho thấy quá trình điều chỉnh tỷ giá hối đoái của Việt Nam thời gian qua hầu như mang tính tình thế chứ chưa được nghiên cứu đầy đủ ở tầm chiến lược lâu dài. 4.3.5. Hoàn thiện cơ chế quản lý thị trường ngoại hối theo định hướng của nền kinh tế thị trường Thời gian qua, các biện pháp quản lý ngoại hối nghiêm ngặt của chính phủ Việt Nam đã góp phần đáng kể vào sự bình ổn của cung cầu ngoại tệ và tỷ giá hối đoái. Nhưng đây chỉ là những biện pháp quản lý hành chính, mang tính áp đặt. Như chúng ta đã biết, những biện pháp quản lý hành chính thường có hiệu lực tức thời nhưng lại chỉ có hiệu quả trong một khoảng thời gian nhất định (thường là tương đối ngắn) và chỉ khi nó được thực thi một cách linh hoạt. Nhưng, tính năng động và tính linh hoạt thường đi đôi với việc tuỳ tiện trong thực hiện và là nguyên nhân của những quan liêu, tiêu cực làm cho những biện pháp hành chính thường có hiệu quả không cao, thậm chí có lúc còn gây cản trở khó khăn cho những nhà kinh doanh chân chính, phương hại đến môi trường đầu tư trong nước. Ở Việt Nam, quy định buộc các tổ chức kinh tế có nguồn thu vãng lai phải bán ngay 40% số ngoại tệ thu được cho ngân hàng trong thời điểm cung cầu ngoại tệ đã tương đối ổn định là chặt chẽ. Nếu Nhà nước không nới lỏng những quy định này sẽ không khuyến khích các nhà xuất khẩu. Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài hiện đang hoạt động ở Việt Nam sẽ tìm cách tránh quy chế này bằng cách mang ít hơn lượng ngoại tệ mà họ nhận được vào Việt Nam. Điều này sẽ làm tăng chi phí giao dịch trong xuất khẩu và giảm bớt cân đối ngoại tệ của các doanh nghiệp trong nước, đồng thời cũng có ảnh hưởng tiêu cực làm giảm luồng ngoại tệ vào đất nước. Từ những phân tích trên cho thấy rằng, để thực hiện được những mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái, việc Nhà nước áp dụng các biện pháp quản lý hành chính về ngoại hối là rất cần thiết. Nhưng, đây chỉ là những biện pháp tình thế, tức thời nên chỉ được áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định khi tồn tại những điều kiện nhất định. Về lâu dài, cơ chế quản lý thị trường ngoại hối phải được xây dựng theo định hướng của nền kinh tế thị trường, tức là phải hạn chế dần tiến tới xoá bỏ các biện pháp can thiệp trực tiếp, mang nặng tính chất hành chính để thay thế bằng việc sử dụng các công cụ can thiệp gián tiếp của thị trường. Đây cũng là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi theo cơ chế thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác hội nhập với khu vực và thế giới. Một cơ chế quản lý thị trường ngoại hối phù hợp sẽ có tác dụng khơi thông các nguồn ngoại tệ, thúc đẩy quá trình lưu thông một cách lành mạnh và điều đó có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả c chế điều hành tỷ giá hối đoái. 4.3.6. Nâng cao hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN Dự trữ ngoại hối có một vị trí quan trọng trong đảm bảo ổn định tài chính, tiền tệ nói riêng và ổn định kinh tế vĩ mô nói chung và là một yếu tố quan trọng trong chỉ số tín nhiệm quốc tế của một quốc gia. Mỗi quốc gia, mà cụ thể là mỗi NHTW cần duy trì một quỹ dự trữ ngoại hối tối ưu nhất, bao gồm mức dự trữ ngoại hối và cơ cấu dự trữ ngoại hối phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ, chính sách kinh tế, tiềm lực kinh tế của mỗi quốc gia, trong điều kiện thị trường tài chính quốc tế luôn diễn biến phức tạp. Đây cũng chính là tiêu thức để đánh giá hiệu quả quản lý dự trữ ngoại hối của một NHTW. Sở dĩ cần phải xác định “mức dự trữ ngoại hối hợp lý” hay “mức dự trữ ngoại hối tối ưu” vì khi NHNN duy trì dự trữ ngoại hối tức là phải từ bỏ việc dùng ngoại hối cho các nhu cầu khác và do vậy phải mất một loại chi phí là chi phí cơ hội. Việc xác định được “mức dự trữ ngoại hối tối ưu” giúp cho NHNN vẫn có thể sử dụng công cụ này một cách hữu hiệu nhưng với chi phí cơ hội nhỏ nhất. Dự trữ ngoại hối của NHNN nhằm 3 mục đích: nhu cầu giao dịch, dự phòng can thiệp và tích trữ tài sản, trong đó mục đích can thiệp vào thị trường ngoại hối được coi là mục đích quan trọng nhất của việc duy trì dự trữ ngoại hối. Một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh là công cụ quan trọng để NHNN có thể can thiệp, điều tiết, duy trì tỷ giá hối đoái ở mức nhất định theo mục tiêu quản lý tỷ giá hối đoái ngắn hạn và mục tiêu quản lý tỷ giá trung – dài hạn. Với cơ chế tỷ giá hối đoái của Việt Nam hiện nay, việc có một lượng dự trữ ngoại tệ hùng hậu là yếu tố vô cùng quan trọng cho phép NHNN có thể can thiệp, điều tiết tỷ giá hối đoái theo mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Nhưng, với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay: dự trữ ngoại tệ ngày càng giảm sút trong lúc nợ nước ngoài ngày càng gia tăng, nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại phục vụ công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước ngày càng lớn, việc tăng cường lượng dự trữ ngoại tệ trước mắt còn rất nhiều khó khăn. Trong khi đó, vai trò can thiệp điều tiết của NHNN nhằm thực hiện những mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái cũng như chính sách tiền tệ phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay là rất lớn. Với một nguồn dự trữ ngoại tệ còn mỏng manh như vậy, để thực hiện trọng trách của NHNN, không những cần phải nhanh chóng tăng cường dự trữ ngoại hối mà vấn đề đặt ra trước mắt là phải nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng quỹ này để hoạt động điều tiết của NHNN được thực hiện kịp thời, linh hoạt và mang lại hiệu quả cao. 4.3.7. Nhanh chóng thực hiện các công cụ phong ngừa rủi ro Vận dụng dự báo tỷ giá để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Hoạt động dự báo có một tầm quan trọng rất lớn trong việc phòng ngừa rủi ro hoặc đầu cơ. NHTW có thể sử dụng các nhân tố cơ bản như thuyết PPP, hiệu ứng Fisher quốc tế để dự báo. Ngoài ra, NHTW cần theo dõi, phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế một cách có hệ thống để có những cơ sở vững chắc cho đánh giá, dự báo sự vận động của các đồng tiền chủ chốt. Nhanh chóng thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro. Trong điều kiện tỷ giá hiện nay tiềm tàng nhiều nhân tố bất ổn chúng ta cần phải gấp rút triển khai các công cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ đã cho phép các NHTM thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn tiền tệ. Vấn đề là các NHTM và doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và những doanh nghiệp có thu, chi bằng ngoại tệ phải nhanh chóng sử dụng các công cụ này để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Chúng tôi cho rằng chính sách TGHĐ Việt Nam trong thời gian tới phải được phối hợp đồng bộ với các chính sách quản lý vĩ mô khác mới đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu của chính sách đó Đảng, Chính phủ Việt Nam cần phải có những bước đi phù hợp. Chúng tôi hy vọng rằng trong thời gian tới việc quản lý ngoại hối ở Việt Nam sẽ có những bước cải tiến đáng kể đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới. KẾT LUẬN Có thể nói rằng, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế rất phức tạp và rất nhạy cảm. Một chính sách tỷ giá phù hợp với nền kinh tế sẽ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng, nhưng ngược lại một chính sách tỷ giá không phù hợp sẽ trở thành lực cản và thậm chí còn có thể gây nên những hậu quả khó lường. Vì vậy, việc xây dựng chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để có thể thực hiện được những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước là vấn đề mà các quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Là một nước mới chuyển sang nền kinh tế thị trường như Việt Nam thì vấn đề quản lý tỷ giá ít nhiều cũng còn khá mới mẻ đối với chúng ta. Tuy nhiên, với những kết quả đạt được sau hơn 10 năm đổi mới, có thể khẳng định rằng chính sách tỷ giá của Việt Nam đã từng bước được điều chỉnh để phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước. Điều này thể hiện những nỗ lực quan trọng của chính phủ trong việc đổi mới và hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách điều hành tỷ giá nói riêng. Mặc dù vậy, chính sách tỷ giá vẫn cần được cải cách hơn nữa, đặc biệt khi thời gian thực hiện AFTA đang tới gần để chúng ta không bị thiệt hại khi tham gia hội nhập quốc tế mà trái lại, luôn ở vào thế có lợi trong tiến trình này. Ngoài ra, những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh công cuộc đổi mới, nâng cao năng lực sản xuất trong nước – hướng vào xuất khẩu – thay thế nhập khẩu các mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả trên cơ sở dựa vào sức mình là chính là chính.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchinh_sach_ty_gia_o_vn_7144.doc
Tài liệu liên quan