Như đã trình bày ở trên, khi đã hội tụ các điều kiện thì việc thành lập một tập đoàn kinh tế đối với Vinaconex sẽ là công khó vì bản thân là tiền thân của một công ty mạnh khẳng định được vị thế của mình trên thị trường về cả tiềm lực tài chính lẫn tiềm lực về đội ngũ lao động. Việc phát triển thành một tập đoàn kinh tế mạnh là việc cần thiết để có thể bước đi những bước đi lớn hơn không chỉ ở trong nước mà ở ngoài nước, khẳng định vị thế của mình trên thị trường kinh tế, xây dựng cho đất nước những công trình với quy mô lớn hơn, đẹp hơn đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Khi thành lập một tập đoàn kinh tế có các lợi ích sau:
• Tăng vốn cho đầu tư và phát triển sản phẩm (đổi mới).
• Giảm thời gian xâm nhập thì trường.
• Khả năng đóng góp kỹ năng và tài sản bổ sung mà không một công ty nào có thể dễ dàng tự phát triển.
• Tiếp cận với kinh nghiệp và kiến thức chuyển giao từ bên ngoài (chuyển giao công nghệ).
• Nhanh chóng đạt được quy mô và khối lượng tạo đà phát triển (kinh tế nhờ quy mô – lớn hơn sẽ tốt hơn). Mở rộng ra ngoài xâm nhập thị trường xây dựng ở các nước bạn.
• Tạo uy tín về ngành nghề và nâng cao nhận thức về thương hiệu.
Các doanh nghiệp cần tự chủ về điều này và có kiến nghị với nhà nước để có thể có chính sách tạo đà phát triển cho việc hình thành tập đoàn và có sự cạnh tranh công bằng hơn để bước đi những bước đi lớn, nhanh và vững chắc.
52 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1629 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về đầu tư theo dự án của tổng công ty VINACONEX về các khu đô thị, cụm trung cư cao tầng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản và lâu dài của VINACONEX trong hoạt động sản xuất kinh doanh là thực hiện đa doanh, đa dạng hoá ngành nghề, đa sở hữu trên cơ sở trên cơ sở các lĩnh vực sản xuất, đẩy mạnh sản xuất công nghiệp trong đó đầu tư và kinh doanh bất động sản tiếp tục là thế mạnh, là lĩnh vực then chốt tạo đà cho VINACONEX đầu tư mạnh vào các dự án công nghiệp khác, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng. Riêng trong lĩnh vực tài chính, VINACONEX sẽ thành lập các mô hình tài chính phù hợp nhằm thu hút, quản lý các nguồn vốn phục vụ cho phát triển và tăng cường mở rộng đầu tư vào thị trường bảo hiểm và thị trường chứng khoán.
Với các sản phẩm được đa dạng hoá dựa trên một cơ cấu hợp lý, hoạt động đầu tư được đẩy mạnh, giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu lao động được nâng cao cùng quá trình cổ phần hoá vững mạnh, VINACONEX đang phấn đấu trở thành tập đoàn kinh tế mạnh của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á
Mô hình các lĩnh vực hoạt động chính của VINACONEX:
VINACONEX
Đầu tư và kinh doanh bất động sản
Kinh doanh thương mại, du lịch và siêu thị
Tư vấn và thiết kế
Xuất nhập khẩu
Xây lắp công trình
Giáo dục
đào tạo
Xuất khẩu lao động
Sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng
Đầu tư
tài chính
hình 2: Mô hình sản xuất kinh doanh của TCT
Về đầu tư và kinh doanh bất động sản:
Kinh doanh bất động sản là một lĩnh vực có nhiều tiềm năng mang lại hiệu quả cao và được VINACONEX xác định là lĩnh vực kinh doạnh trọng yếu, nhất là đối với một doanh nghiệp có năng lực về xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu và có kinh nghiệm quản lý đầu tư xây dựng. Hiện nay VINACONEX đang tập trung triển khai hàng loạt các dự án đầu tư kinh doanh bất động sản lớn tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố khác.
Về xây lắp công trình:
VINACONEX đang được biết đến là một nhà thầu xây lắp hàng đầu trong ngành xây dựng Việt Nam với năng lực thực hiện các dự án lớn như xây dựng dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật đô thị, giao thông, thuỷ lợi…dưới các hình thức nhận thầu, tổng thầu xây lắp, tổng thầu EPC. Đây là lĩnh vực hoạt động then chốt, sẽ luôn được VINACONEX tăng cường về nguồn lực, đổi mới công nghệ, thiết bị để đảm nhận các dự án quy mô lớn và phức tạp hơn…
Về tư vấn, thiết kế:
Tư vấn thiết kế là một trong những lĩnh vực hoạt động còn mới của VINACONEX. Nhận thưc được trình độ và năng lực tư vấn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chậm sau hàng chục năm so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, VINACONEX luôn tìm tòi và đưa ra những ý tưởng để các sản phẩm của mình có thể bắt kịp xùng với xu hướng phát triển chung hiện nay. Các giải pháp về quy hoạch, kiến trúc, kết cấu… do VINACONEX đề xuất đều hướng tới mục tiêu chung phát triển bền vững, đáp ứng tốt nhất nhu cầu của cuộc sống, mang hơi thở thời đại nhưng cũng đậm đà bản sắc dân tộc…
Về sản xuất công nghiệp:
Gắn kết giữa kinh doanh bất động sản- tư vấn thiết kế và xây lắp, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng là lĩnh vực hoạt động trọng tâm trong các lĩnh vực hoạt động của VINACONEX. Các sản phẩm công nghiệp và vật liệu xây dựng của công ty là những sản phẩm thiết yếu đối với đời sống xã hội, hàm chứa yếu tố công nghệ cao, được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại và mang tính cạnh tranh trên thị trường …
Về xuất khẩu lao động:
Với kinh nghiệm là đơn vị hàng đầu trong xuất khẩu lao động, VINACONEX đã góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm, mang lại lợi ích cho người lao động và doanh nghiệp. Với đội ngũ kỹ sư và công nhân có chất lượng cao kết hợp với việc quản lý có hiệu quả lực lượng lao động và chuyên gia sang làm việc ở nước ngoài, uy tín của VINACONEX trên thị trường quốc tế ngày càng được nâng cao và được các đối tác đánh giá là địa chỉ đáng tin cậy…
Về xuất nhập khẩu:
Trong lĩnh vực kinh doanh máy móc thiết bị, vật tư ngành xây dựng, từ lâu Tổng công ty CP VINACONEX đã là một nhà cung cấp có uy tín cho các doanh nghiệp trong ngành xây dựng, giao thông, thuỷ lợi, đặc biệt là những dây chuyền đồng bộ sản xuất vật liệu xây dựng, thiết bị thi công, thiết bị vật tư chuyên ngành cấp thoát nước và xử lý môi trường. Hiện nay, VINACONEX còn mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu sang tất cả các hoạt động hàng hoá phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng
Về đầu tư tài chính:
VINACONEX đang mở rộng đầu tư tài chính, tham gia thị trường vốn, thị trường tiền tệ, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư của nhà nước và các cổ đông, mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước. Định hướng mang tính chiến lược trong lĩnh vực đầu tư tài chính sẽ làm động lực thúc đẩy và hỗ trợ các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.
Các lĩnh vực khác:
Luôn kiên trì với phương châm hoạt động đa doanh, đa dạng hoá lĩnh vực hoạt động và sản phẩm, Tổng công ty đã không ngừng mở rộng các ngành nghề kinh doanh sang nhiều lĩnh vực khác nhau kinh doanh thương mại, du lịch, khách sạn, khu vui chơi giải trí, giáo dục đào tạo, bóng đá, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ thuê bảo vệ, dịch vụ đô thị…
2.2 Giới thiệc một số dự án trọng điểm tiến hành đầu tư.
Dự án Khu đô thị Bắc An Khánh
Dự án khu đô thị mới Bắc An Khánh, Hà Tây là một trong những dự án phát triển chuỗi đô thị dọc tuyến đường Láng – Hoà Lạc của Thủ tướng Chính phủ, do Tổng Công ty VINACONEX làm chủ đầu tư. Đây là một dự án quy mô lớn, tổng diện tích 264,4 ha, có tầm quan trọng đặc biệt với Tổng Công ty do kết quả hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty trong 5 năm tới phụ thuộc lớn vào nguồn lợi nhuận đem lại từ dự án này.
Dự án nằm ở phía Tây Thủ đô Hà Nội, thuộc địa phận tỉnh Hà Tây. Dự án nằm dọc theo trục đường cao tốc Láng – Hoà Lạc, trong phạm vi từ km 8+400 đến km 10+700, thuộc ranh giới của các xã An Khánh, Lại Yên, Song Phương, Vân Canh - huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Theo quy hoạch tổng thể khu đô thị Bắc An Khánh, đây là khu đô thị được quy hoạch và xây dựng mới đồng bộ thành tổ hợp hoàn chỉnh. Toàn khu được chia thành 6 lô bao gồm các khu chung cư cao tầng, khu biệt thự và nhà liền kề, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại, siêu thị…
Dự án được thực hiện theo cơ chế đổi đất tạo vốn xây dựng hạ tầng, cụ thể là đổi đất tạo vốn xây dựng tuyến đường Láng – Hoà Lạc mở rộng. Tổng Công ty sẽ phải nộp cho tỉnh số tiền sử dụng đất để chuyển sang làm đường tương ứng với tổng số tiền sử dụng đất toàn khu trừ đi các chi phí hạ tầng của khu đất. Tổng vốn đầu tư của dự án là 11.414.400.680.400 đồng.
Tính tới tháng 5/2006, Ban quản lý đã chi trả tiền đền bù giải phóng mặt bằng với diện tích là 80 ha, phần diện tích còn lại 185,9 ha dự kiến sẽ giải phóng mặt bằng xong vào đầu năm năm 2006. Bên cạnh chi phí hạ tầng và đền bù 1.667,59 tỷ đồng, Tổng Công ty sẽ nộp thêm phần chi phí sử dụng đất sẽ chuyển sang làm Đường cao tốc Láng – Hòa Lạc có giá trị 1.472,2 tỷ đồng. Theo phương án kinh doanh cũ trong đó Tổng Công ty tự thực hiện dự án, dự án dự tính sẽ mang lại cho Tổng Công ty 1.733,5 tỷ đồng trong thời kỳ 2007-2013. Hiện nay Tổng Công ty đã ký hợp đồng với Posco E&C (Hàn Quốc) để thành lập Công ty liên doanh (Tỷ lệ 50:50) để triển khai dự án và đang trình các cơ quan có thẩm quyền xin Giấy phép đầu tư cho Công ty Liên doanh. Sau khi liên doanh được thành lập, liên doanh sẽ xây dựng phương án kinh doanh mới phù hợp với tình hình hiện nay.
Dự án khu đô thị Thảo Điền
Dự án đầu tư xây dựng khu nhà ở cao tầng kết hợp thương mại dịch vụ VINACONEX-Thảo Điền tại phường Thảo Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh gồm 5 cụm có chiều cao dự kiến từ 6 tới 40 tầng, được xây dựng trên diện tích 8,222 ha. Sau khi hoàn thành giải phóng mặt bằng, Tổng Công ty sẽ tiến hành hợp tác với các đối tác nước ngoài có năng lực, uy tín để triển khai dự án..
Tổng mức đầu tư cho toàn dự án của Tổng Công ty là: 4.358,088 tỷ đồng, bao gồm 500,044 tỷ đồng nhu cầu vốn cho giai đoạn giải phóng mặt bằng toàn khu và 3.858,044 tỷ đồng nhu cầu vốn cho giai đoạn xây lắp. Hiện nay chủ đầu tư đã ký hợp đồng tín dụng trị giá 199,9 tỷ đồng với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Tính tới cuối tháng 7 năm 2006, dự án đã bồi thường được 6,2 ha trên tổng số 8,222 ha diện tích đất dự án và được thành phố cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để đầu tư dự án. Chủ đầu tư đang tiến hành thi công đường nội bộ, hạ tầng kỹ thuật và nhà mẫu trong tháng 11/2006. Dự án dự tính sẽ mang lại cho Tổng Công ty 752,4 tỷ đồng.
Dự án khu Đô Thị Cái Giá Cát Bà.
Địa điểm: Đảo Cát Bà, huyện Cát Hải thành phố Hải Phòng. Diện tích xây dựng là 171,57ha trong đó đất ở:336.672,0 m2; đất khách sạn dịch vụ thể dục thể thao là 510.824,0 m2. Có tổng mức đầu tư là 4.768,076 tỷ đồng trên cơ sở nguồn vốn tự có của doanh nghiệp và vốn huy động hợp pháp của chủ đầu tư. Dự kiến đến 30/6/2009 hoàn thành.
Khu đô thị Đông Nam Trần Duy Hưng
Nằm trong khu đất N05 thuộc dự án khu đô thị Đông Nam Trần Duy Hưng phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy Hà Nội.
Quy mô dự án: bố trí xây dựng hai khối nhà cao 25 tầng và 02 khố nhà cao 29 tầng với tổng diện tích sàn là 271.244 m2. Tổng mức đầu tư là 1.842,383 tỷ đồng với nguồn vốn tự có, huy động hợp pháp từ khách hàng và vay ngân hàng.
Thời gian thực hiện từ quý I/2007-quý I/2009
Và 1 số dự án khác.
STT
tên dự án
Diện tích
quy mô vốn (tỷ đồng)
1
khu đô thị Cái Giá - Cát Bà
200ha
4581
2
Khu đô thị Hòa Phát
220ha
702,14
3
Khu đô thị Thắng Dầu
98ha
438,49
4
Khu đô thị Vĩnh Điềm Trung
31ha
394
5
Khu đô thị Nguyễn Thái Học-Yên Bái
48081m2
86
6
Khu đô thị Trần Hưng Đạo-Thái Bình
44308m2
124
7
Khu đô thị Trung Hòa Nhân Chính
24,4ha
273,62
8
Khu đô thị Đồ Sơn
10ha
145,15
9
Khu đô thị Nghi Phú -Nghệ An
18,5ha
385
10
Khu đô Thị biệt thự Xuân Mai
2000m2
80
11
Khu đô thị Thanh Xuân Nam
50
12
Khu đô thị mới Điện Nam-Điện Ngọc
46ha
100
13
Bắc An Khánh
3391
14
Thảo Điền
3145
Bảng 1: các khu đô thị
2.3 Phân tích thực trạng
2.3.1 Phân tích cơ cấu vốn đầu tư.
Năm
Vốn đầu tư bất động sản
(tỷ đồng)
Vốn đầu tư xây dựng khu đô thị (tỷ đồng)
Tổng vốn đầu tư
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
2003
726,91
547,75
1.279
56,83
2004
516,5
455,35
1.935
26,69
2005
237
237
2.057
11,52
2006
1.683
1465
4.497
37,42
2007
2.957,2
2365,5
6.062
48,78
2008
628,31
429,31
5.060
12,41
Bảng 2: cơ cấu vốn đầu tư
Biểu đồ1: cơ cấu vốn đầu tư
Nhìn vào bảng cơ cấu vốn đầu tư và biểu đồ cơ cấu ta thấy vốn đầu của Tổng công ty có xu hướng tăng từ năm 2003 đến năm 2007 và có sự giảm sút nhẹ vào năm 2008. Do xu hướng phát triên nên từ 2003 đến 2005 có xu hướng tăng nhưng vốn đầu tư cho bất động sản vòa khu đô thị lại có sự giảm sút vì do năm 2003 là năm mà phải khởi công các dự án quan trọng tiến hành giải vốn đầu tư, đầu tư cho ngành xây dựng nhất là khu đô thị giai đoạn đầu thường là giai đoạn phải bỏ ra nhiều vốn nhất còn sau đó vốn đầu tư được tính dần vào các năm hoàn thành công trình, khi đó các khu đô thị của Tổng lấy được đất và cũng tiến hành xây dựng các khu này nhưng cũng phải giải vốn đầu tư dần vì còn rất nhiều dự án để đảm bảo tiến độ hoàn thành công việc như ta thấy vốn đầu tư của Tổng tăng nhưng sao vốn dành cho bất động sản và khu đô thị mới lại có xu hướng giảm, Tổng Vinaconex là một công ty xây dựng lại có tầm nhìn chiến lược dài hạn không chỉ đầu tư vào bất động sản, khu đô thị mà còn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tuy có sự chuyển hướng từ các ngành nghề khác lấy việc kinh doanh các khu đô thị mới là trọng tâm nhưng có xu hướng giảm đơn giản bởi vì tổng thực hiện đầu tư để tiến hành đổi hạ tầng lấy đất để tiến hành các dự án xây dựng các khu đô thị trong tương lai, chúng ta có thể thấy một số dự án như xây dựng cao tốc Láng Hòa Lạc…
Đến giai đoạn 2005 là giai đoạn mà vốn đầu tư tăng bật mạnh nguyên nhân là đây là giai đoạn mà công ty cổ phần hóa nên việc thu hút vốn từ các tổ chức tín dụng dễ dàng hơn so với trước, điều này cho thấy hiệu quả từ việc tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp, năm 2005 VĐT là 2.057 đến 2006 vốn đầu tư tăng lên 4.497 tăng 2440 tỷ đồng (gấp gần bằng 2.2 lần) việc tăng vốn đầu tư nhanh 1 cách đáng kể điều đó cũng thể hiện việc sử dụng vốn cho đầu tư các khu đô thị cũng tăng, bên cạnh đó cũng thúc đẩy việc đầu tư cho bất động sản tăng. Vốn đầu tư cho khu đô thị luôn chiếm một phần quan trọng và chủ chốt, đây là giai đoạn mà công ty cũng đầu tư cho cơ sở hạ tầng, xây dựng các khu công nghiệp, bắt đầu tập trung chủ yếu vào đầu tư vào lĩnh vực khu đô thị, vì các khu đô thị giai đoạn này của Tổng công ty đều có quy mô lớn, đến năm 2007 vốn đầu tư cho khu đô thị tăng lên 2365,5 tỷ đồng và vốn đầu tư lúc này là tăng lên hơn 6 ngàn tỷ, năm 2006 và năm 2007 có dấu hiệu của việc sốt bất động sản, lúc đó các căn hộ cao cấp và các căn nhà cao cấp thuộc khu đô thị mới rất có giá mọi người tranh nhau mua, nên việc huy động vốn rất dễ dàng, và có thể thu hồi vốn được một phần thông qua việc huy động trực tiếp từ người có nhu cầu mua nhà.
biểu đồ2: thể hiện vốn đầu tư vào khu đô thị trong tổng vốn đầu tư
Đến năm 2008 vốn đầu tư có giảm chút xuống còn hơn 5 ngàn tỷ đồng, và việc đầu tư cho kinh doanh khu đô thị cũng giảm, nguyên nhân sâu xa ở đây cuối năm 2007 thị trường bất động sản bắt đầu hạ nhiệt, đi cùng với nó là nguyên nhân của lạm phát, nền kinh tế thế giới nói chung, kinh tế Việt Nam nói riêng bắt đầu đi vào nguy vơ khủng hoảng kinh tế, giai đoạn đầu giá cả tăng cao, nguyên vật liệu dành cho ngành xây dựng cũng tăng, vốn để huy động cũng khó khăn hơn, lãi suất tăng mạnh nên các công trình thuộc khu đô thị đành phải giảm vốn đầu tư, đầu tư để cầm chừng chờ nguyên vật liệu giảm giá, và tiền huy động chủ yếu dành cho đầu tư phát triển, giai đoạn này vốn đầu tư vẫn mạnh tuy có giảm hơn so với năm 2007 nhưng vẫn tăng nhiều hơn so với năm 2005 vì giai đoạn này tình hình kinh tế khó khăn nhưng mà tổng có một sách lược vô cùng đứng đắn. Do việc đầu tư lúc này khó đem lại hiệu quả cao nên việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, dùng vốn ngân sách nhà nước nhằm làm giảm gánh nặng về vốn, những công trình sử dụng vốn ngân sách thì làm đến đâu thì được rót vốn đến đó mà lại không sợ thiệt.
2.3.2 Việc huy động nguồn vốn
Năm
Tổng vốn đầu tư bất động sản
Nguồn vốn
Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
Nước ngoài
Tín dụng thương mại
Vốn tự có
Các nguồn khác
2003
726,91
145
50
200
80
251,91
2004
516,5
89
-
226,5
56
145
2005
237
-
-
173,8
-
63,2
2006
1.683
130,24
94
895
63,76
500
2007
2.957,2
176
134
1.078
218
1.351,2
2008
628,31
225
-
82,12
20,78
300,41
Bảng 3: huy động vốn từ các nguồn
Việc huy động vốn dành cho đầu tư các khu đô thị này nhìn vào bảng ta thấy huy động từ tín dụng đầu tư của nhà nước không đáng kể, nó chỉ chiếm một phần nhỏ, chủ yếu dựa vào nguồn vốn tín dụng thương mại, vốn tự có và các nguồn vốn khác. Bên cạnh có nguồn vốn nước ngoài nhưng so với việc huy động cũng không đáng kể cho lắm, các công trình xây các khu đô thị mang tính tầm cỡ lớn nhưng việc huy động từ các tổ chức nước ngoài vẫn chưa mạnh, cần phải sử dụng yếu tố này nhiều hơn để có thể huy động vốn nhiều hơn.
Năm
Tổng vốn đầu tư bất động sản
Nguồn vốn
Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước
Nước ngoài
Tín dụng thương mại
Vốn tự có
Các nguồn khác
2003
100
19,94
6,88
27,51
11
34,67
2004
100
17,23
-
43,85
10,84
28,08
2005
100
-
-
73,33
-
26,67
2006
100
7,73
5,58
53,17
3,79
29,73
2007
100
5,95
4,53
36,45
7,37
45,7
2008
100
35,81
-
13,07
3,31
47,81
Bình quân
100
14,44
2,83
32,36
6,05
44,32
Bảng 4: thể hiện tỷ lệ % của nguồn vốn
Trong các năm thì có năm 2008 là năm có sử dụng vốn tín dụng phát triển nhà nước khá cao vì lúc này có sử dụng để xây một số khu đô thị bao gồm là các chung cư cao tầng giá rẻ cho công nhân viên chức, hoặc các công nhân của các khu công nghiệp nhưng mà vốn đầu tư chủ đạo vẫn là nguồn vốn khác, nhìn vào giai đoạn 2008 ta thấy được vốn huy động từ tổ chức tín dụng cũng giảm vì giai đoạn này lãi suất đang lên chính vì thế mà chủ yếu là sử dụng nguồn vốn của nhà nước và nguồn vốn huy động từ các nguồn khác.
2.4 Đánh giá bằng mô hình SWOT
2.4.1. Điểm mạnh
Tổng Công ty VINACONEX có một hệ thống các đơn vị thành viên mạnh trong lĩnh vực xây lắp, kinh doanh bất động sản và sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt ở thị trường miền Bắc. Các đơn vị thành viên của Tổng Công ty hợp thành một tập đoàn mạnh, có đầy đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu đặt ra của các Dự án cấp quốc gia. Tổng Công ty hoàn toàn có ưu thế trong đấu thầu các dự án đòi hỏi nguồn vốn lớn, công nghệ cao, thời gian dài.
Tổng Công ty luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo giúp đỡ của Bộ Xây dựng và các cơ quan hữu quan của Trung ương và địa phương trong quá trình xây dựng và phát triển.
Tổng Công ty có đội ngũ lãnh đạo có tâm huyết, có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm quản lý. Đội ngũ nhân viên Tổng Công ty trong những năm qua không ngừng được củng cố, nâng cao cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo có đủ trình độ chuyên môn, trình độ quản lý dự án.
Được kế thừa thương hiệu có uy tín và các khách hàng truyền thống, sau cổ phần hoá, Tổng Công ty cổ phần VINACONEX sẽ tiếp tục củng cố vị thế là một trong những Tổng Công ty hàng đầu trong lĩnh vực xây lắp và kinh doanh bất động sản tại Việt Nam.
Sau cổ phần hoá, vốn chủ sở hữu của Tổng Công ty sẽ tăng lên gấp 1,5 lần do Tổng Công ty nhận được lượng vốn lớn từ các nhà đầu tư bên ngoài. Là một doanh nghiệp chuyên thực hiện các dự án lớn, vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng thiết yếu của Tổng Công ty. Chính vì vậy, vốn chủ sở hữu lớn sẽ giúp Tổng Công ty thực hiện được các dự án lớn trong hiện tại và tương lai.
Sau cổ phần hoá, Tổng Công ty sẽ lựa chọn được những cổ đông chiến lược mạnh, có kinh nghiệm về các lĩnh vực Tổng Công ty hiện đang hoạt động và dự tính sẽ mở rộng hoạt động. Tổng Công ty sẽ tiếp cận được với các sản phẩm và công nghệ chuyên ngành mới, các tập đoàn, liên minh xây dựng và thị trường quốc tế.
Sự tham gia của các cổ đông bên ngoài giúp nâng cao tính minh bạch và độc lập của Tổng Công ty, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Tổng Công ty đã sớm có mối quan hệ đối ngoại ngay từ ngày đầu thành lập nên có nhiều thuận lợi trong quá trình hội nhập với khu vực và quốc tế.
2.4.2 Điểm yếu
Cũng giống như các đơn vị xây lắp khác, Tổng Công ty có khoản nợ phải trả lớn. Bên cạnh đó, trong quá trình làm nhà thầu thực hiện thi công xây lắp, Tổng Công ty cũng thường xuyên bị chiếm dụng vốn, các khoản nợ phải thu khá lớn.
Các dự án của Tổng Công ty có thời gian triển khai kéo dài, do vậy doanh thu và lợi nhuận của Tổng Công ty không ổn định qua các năm. Doanh thu và lợi nhuận thường ở mức trung bình thấp trong khoảng thời gian đầu tư xây dựng, khi dự án hoàn thành, đi vào hoạt động hoặc được bán, doanh thu lợi nhuận mới tăng cao.
Bộ máy quản lý còn chưa gọn nhẹ, chưa phù hợp với cơ chế vận hành linh hoạt của một Tổng Công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực xây dựng hiện nay, các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất dài từ khâu xây dựng đến hoàn thiện dự án và thường xuyên chịu áp lực về vốn. Do vậy trong giai đoạn đầu, Tổng Công ty sẽ gặp khó khăn về dòng tiền dùng để chi trả cổ tức hàng năm khi các dự án đang trong quá trình triển khai.
Tổng công ty hiện đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu phát triển và thực hiện chiến lược kinh doanh trong những năm tới. Nguồn lực hiện có của công ty chưa đáp ứng đủ nhu cầu phát triển của đất nước, chưa đủ để để xây dựng những công trình tầm cỡ, các công trình lớn đa số đều phải thêu thiết kế và tư vấn từ các tổ chức nước ngoài.
Hệ thống chính sách và cơ chế pháp luật của Việt Nam chưa thật sự hoàn thiện và đồng bộ. Điều này sẽ ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty. Điều này còn ảnh hưởng sâu rộng đến việc phát triển các dự án của công ty, nó làm cho việc thanh khuyết toán công trình có thể dẫn đến chậm chễ.
Việc tiến hành lập và thẩm định dự án cần phải có độ chính xác cao, để xác định đầu tư có hiệu quả.
Chế độ lương, khen thưởng của công ty chưa thực sự hiệu quả để thu hút người lao động, còn là cái nơi để đào tạo người lao động nhưng không được sử dụng họ bởi chế độ đãi ngộ chưa cao lên người lao động bỏ công ty đi nhiều nhất là các cán bộ trẻ. Tiếp đó việc thưởng chưa xứng đáng, tuy là một công ty lớn nhưng việc thưởng phạt vẫn còn thua các công ty tư nhân bên ngoài…
2.4.3 Cơ hội
Sau cổ phần hoá, Tổng Công ty cổ phần sẽ dễ dàng tăng vốn chủ sở hữu hơn thông qua phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng, tạo nguồn vốn thực hiện các dự án lớn trong tương lai.
Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới dự báo sẽ ở mức cao, kéo theo tốc độ đô thị hoá, mở ra các cơ hội lớn cho ngành xây lắp và kinh doanh bất động sản.
Đi với đó là nhu cầu của người dân ngày càng cao, lên việc ở nhà có giá trị hoặc các căn hộ cao cấp sẽ ngày càng tăng điều này sẽ giúp cho việc tiêu thụ sản phẩm của công ty sẽ dễ dàng hơn sau khi có sản phẩm.
Có cơ hội thắng các nhà cạnh tranh về xây dựng khác trên thị trường với tiềm lực kinh tế, thế mạnh về tổng công ty ra đời từ lâu có kinh nghiệm thực tế trải qua nhiều năm từ.
Cơ hội thu hút được nhiều nhân tài, khi nền kinh tế mở cửa, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm và kiến thức từ bên ngoài, học tập kinh nghiệm thi công đẩy nhanh tiến độ thi công công trình một cách nhanh chóng. Để có thể trong tương lai dễ dàng cạnh tranh với các đối thủ quốc tế về ngành xây lắp
2.4.4. Thách thức
Sau cổ phần hoá, Ban lãnh đạo Tổng Công ty cần thích nghi với phương thức hoạt động mới của Tổng Công ty.
Trước cổ phần hoá, là một Tổng Công ty Nhà nước có uy tín và năng lực tốt, trực thuộc Bộ Xây dựng, Tổng Công ty thường được chỉ định thầu trong các dự án đặc biệt và thường trúng thầu những dự án Nhà nước quy mô lớn. Sau cổ phần hoá, thách thức đặt ra với Tổng Công ty là duy trì được cơ chế tìm kiếm dự án như trước.
Trong những năm qua, nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại quốc doanh. Khi chuyển sang mô hình Tổng Công ty cổ phần, việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ khó khăn và hạn hẹp hơn do những quy định thắt chặt trong vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Đây là một trở ngại rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty sau cổ phần hoá.
Thị trường bất động sản đang phục hồi nhưng còn chậm. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới các dự án kinh doanh bất động sản của Tổng Công ty, đặc biệt khi các dự án này đóng vai trò to lớn trong hoạt động kinh doanh của Tổng Công ty trong thời kỳ 05 năm tới.
Cạnh tranh nội địa đã gay gắt còn thêm các Tổng công ty nước ngoài nhảy vào nữa tạo một thách thức rất lớn, một là thắng họ để có thể trở thành tập đoàn có xu hướng tiến ra bên ngoài hay là thua có thể dẫn đến bờ vực phá sản. Nhưng việc đó cũng tạo ra một cách thức rất tốt cho công ty là từ đó có thể học hỏi kinh nghiệm, xu hướng cạnh tranh ra bên ngoài, tích lũy thêm kinh nghiệm từ thương trường, đào tạo được đội ngũ cán bộ giỏi.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP.
3.1 Giải pháp về huy động vốn.
Góp vốn trực tiếp vào các dự án: Đối với dự án khu đô thị với mục đích về tính xã hội cao như các dự án xây dựng khu đô thị cho người có thu nhập thấp, các đối tượng chính sách xã hội để phục vụ di dân tái định cư… thì có thể xin được cấp vốn ưu đãi từ nhà nước trên danh nghĩa là công ty sẽ đứng tên là chủ đầu tư. Hình thức này sẽ làm tăng vốn tự có của dự án, cơ cấu vốn có thêm vốn nhà nước tạo ra được sự an toàn hơn. Sự có mặt của nhà nước làm cho Vinaconex củng cố sự thành công của mình bên cạnh những lợi nhuận về mặt tài chính còn có sự thành công về kinh tế - xã hội, mặt khác khi xây dựng các khu đô thị dành cho người có thu nhập thấp này còn được nhà nước khuyến khích ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp và còn được ưu đãi về lãi suất vay vốn đầu tư. Tuy nhiên ngân sách nhà nước không phải lúc nào cũng rồi rào mà còn rất nhiều công ty cũng có ý định như Vinaconex nên huy động nguồn lực nhà nước cũng khó khăn vì thế công ty muốn dành được sự ưu đãi này nên chủ động về nguồn vốn để có thể đảm bảo cho quá trình kinh doanh.
Trong thời gian để đáp ứng nhu cầu vay vốn, quản lý nguồn vốn này đồng thời đảm bảo tính hiểu quả của đồng vốn cần chú ý:
Xây dựng thống nhất và hoàn thiện cơ chế quản lý, huy động vốn tín dụng ưu đãi để gắn liền với công tác bố trí kế hoạch vốn với khả năng về vốn. Vì sử dụng vốn từ tín dụng ưu đãi đòi hỏi phải có hiệu quả không có sự thất thoát lãng phí nếu không Vinaconex sẽ tự làm mất uy tín và việc huy động lần sau cho dự án sẽ rất khó khăn và có thể làm mất đi một nguồn cung cấp vốn.
Công ty cần mạnh dạn và chủ động hơn trong việc tìm kiếm các tổ chức tín dụng ở nước ngài để phục vụ cho việc đầu tư cho dự án nhất là các dự án khu đô thị ở những nơi mà nhà nước đang ưu đãi vốn đầu tư cho việc phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời ngoài việc tìm kiếm ra còn phải mạnh dạn đề nghị chính phủ cho vay với mức lãi suất thấp hơn, vì các khu đô thị để xây dựng hoàn thành từ lúc khởi công đến lúc đi vào hoạt động nhanh cũng phải mất 5 năm mà còn cả thời gian thu hồi vốn nữa, nhất là các công trình để phục vụ vì lợi ích xã hội thì khả năng thu hồi vốn rất thấp chính vì thế phải đề nghị cho vay ưu đãi dài hạn và có lãi suất hợp lý để đảm bảo cho sự hoạt động của công tý.
Xây dựng kế hoạch vay vốn cụ thể, chính xác. Khối lượng vay vốn, lượng vốn phải dựa trên nhu cầu thực tế của từng dự án, tránh tình trạng sự ứ đọng vốn làm lãng phí cơ hội sử dụng vốn. Thường xuyên đánh giá, kiểm tra việc sử dụng vốn để đảm bảo khả năng thu hồi vốn, và sinh lời của dự án.
Cần có quy định chặt chẽ, chi tiết để gắn trách nhiệm của các Ban dự án với việc sử dụng vốn, hay các công ty con được giao dự án. Dự tính cả biện pháp phòng ngừa giải quyết khi dự án không có khả năng hoàn vốn.
Kiến nghị Chính Phủ hỗ trợ tài chính thông qua tài nguyên đất: ngoài việc hỗ trợ hình thức tín dụng và lãi suất ra thì việc thuê đất và sử dụng đất dự án lại là một vấn đề rất nan giải, có thể cho công ty đổi đất lấy hạ tầng, như một số dự án ở Hòa Lạc công ty đang tiến hành, hay trả chậm tiền sử dụng đất, hoặc cho công ty đấu giá quyền sử dụng đất ở một số khu đất có giá trị. Đây là hình thức khai thác triệt để và hiệu quả nhất của giá trịd dất, tránh lãng phí nguồn tài nguyên không có khả năng tăng thêm này. Mà lại giúp cho công ty có thể dành dự án về cho công ty mình.
Công ty được giao đất để thanh toán giá trị công trình hạ tầng được vận dụng cho hưởng chính ssách ưu đãi tối đa, giảm 50% tiền sử dụng đất và giảm thuế sử dụng đất đến 10 năm kể từ khi được giao đất.
Công ty có thể tiến hành các công trình dự án nhà ở phúc lợi xã hội, các công trình cơ sở hạ tầng như điện đường, trường, trạm,… để đổi lấy các khu đất để xây dựng các khu đô thị trong tương lai phù hợp với quy hoạch của thành phố, của nước.
Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với các đối tác trong và ngoài nước nhằm huy động đa dạng các nguồn vốn, nâng cao tỷ trọng vốn tự có của doanh nghiệp trong tổng vốn đầu tư. Côn ty là chủ đầu tư của một dự án xây dựng khu đô thị lớn có thể liên kết và cùng hợp tác kinh doanh với các công ty khác, điều này làm phong phú hơn về nguồn vốn cho dự án đồng thời các đơn vị chuyên môn trong từng lĩnh vực sẽ đảm bảo cho các công trình có chất lượng cao và rút ngắn thời gian hoàn thànhm nhanh chóng đưa dự án vào khai thác, sử dụng. Như hiện nay công ty đang hợp tác kinh doanh với công ty Hàn Quốc để xây dựng khu đô thị Bắc An Khánh với tổng vốn đầu tư của dự án là 11.414.400.680.400 đồng, và các dự án khác…
Huy động vốn thông qua thị trường vốn: với sự hỗ trợ của thị trường tài chính đã phát triển ở mức độ nhất định và sự ra đời của thị trường chứng khán Việt nam thì công ty đã có thể huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu. Và để có thể phát hành trái phiếu cho công trình thì công ty phải đủ các điều kiện như sau:
Công ty có đủ quy mô lớn
Có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt, phù hợp với quy hoạch thành phố được phê duyệt.
Có phương pháp phát hành trái phiếu được bộ tài chính phê duyệt đảm bảo thu hồi vốn để hoàn nợ gốc và lãi theo đúng thời hạn.
Có chỉ định của thành phố
Công ty phải công khai đầy đủ các thông tin về tài chính và về dự án cần xây dựng.
Cần có sự tranh thủ bảo lãnh của cơ quan nhà nước, các ngân hàng thương mại có uy tín và các tổ chức tín dụng khác để tăng độ tin cậy của công chính đầu tư giúp đợt phát hành thành công.
Báo cáo tài chính của đơn vị trong những năm gần đợt phát hành có sự xác nhận của tổ chức kiểm toán được nhà nước công nhận.
Và sự huy động thông qua thị trường chứng khoán bước đầu đã thu được những thành công kể từ khi công ty tiến hành cổ phần hóa và được niêm yết trên sàn chứng khoán. Trong một số trường hợp thanh toán cổ tức cho các cổ đông hiện hữu thì công ty có thể huy động bằng cách trả cổ tức bằng cổ phiếu hoặc là huy động thông qua phát hành thêm cổ phiếu, nếu huy động vốn thêm nhiều ngoài hai cách kia công ty có thể bán bớt số cổ phiếu cho một số đối tác chiến lược như năm vừa rồi vừa bán số cổ phần cho Vietel.
3.2 Giải pháo về việc sử dụng hiệu quả vốn đầu tư
Xác định đúng nhu cầu của đối tượng, phân loại tầng lớp sử dụng căn hộ.
Bất kỳ một sản phẩm nào sản xuất ra trong nền kinh tế thị trường để thu hồi vốn (trước khi nói đến lợi nhuận) thì phải bán được tức là người tiêu dùng chấp nhận. chính vì vậy mà tổng công ty Vinaconex trước khi có dự định xây một khu đô thị mới để đưa ra thị trường nhằm cung cấp chỗ ở cho người dân thì cần phải xem người tiêu dùng muốn gì, lượng người sử dụng các căn hộ cao cấp, cấp bình thường, đối tượng là người tiêu dùng có thu nhập cao, thu nhập thấp, hay là tùy thuộc vào khu vực, vị trí của khu đất để định giá, và xây dựng có giá tiền phù hợp với túi tiền của người tiêu dùng. Chỉ có như vậy khi sản phẩm của dự án là các khu đô thị mọc ra thì mới tiêu thụ được, đem lại cho TCT số vốn đã bỏ ra ban đầu và thu được phần lợi nhuận như đã ước tính cho những cố gắng trong quá trình đầu tư của mình.
Nhà ở là một sản phẩm, tuy nhiên trong thời gian đầu tiến hành đầu tư vào loại hình này doanh nghiệp chưa thực sự nghiên cứ thị trường mà chỉ chú trọng vào số lượng diện tích, khả năng xây dựng. Hậu quả gây của vấn đề này là nhiều khu chung cư cao tầng mọc lên vẫn chưa được đưa vào khai thác sử dụng, bộc lộ không ít bất cập về tiện nghi, bố trí căn hộ, diện tích sử dụng, và cả chất lượng. Thực tế cầu vượt quá cung đối với những chung cư cao tầng, biệt thự chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn khi số lượng các dự án được triển khai chưa đáng kể. Tuy vậy những điều trên chưa gặp ở công ty vì số dự án mà công ty đã thực hiện bán nhà rất chạy và phục vụ khá đúng đối tượng tiêu dùng nhưng đó cũng là một điều đáng lưu ý để TCT quan tâm nghiên cứu để có những biện pháp đứng đắn trong việc xác định đối tượng tiêu dùng và chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình.
Việc xây hay mua nhà là việc quan trọng của đời người. Ngoài việc phải chi một khoản tiền lớn tích cóp bằng cả sự nghiệp thì cuộc sống của con người còn gắn liền với căn nhà họ lựa chọn. Căn nhà có phù hợp với đặc điểm của gia đình họ không? Diện tích như thế nào? Có phù hợp với đối tượng là già hay trẻ? Có tiện cho sinh hoạt học tập và làm việc của các thành viên trong gia đình ko?(việc này thì đối với những khu đô thị thì tương đối là dễ vì đa số đã hình thành khu đô thị đều đầy đủ điện đường trường trạm và các khu bảo đảm dịch vụ cho gia đình ngoại trừ chỗ làm tự cá nhân quyết định);… Người mua nhà để ở (một số ít đầu cơ) sẽ tính toán trước mọi yếu tố trước khi học quyết định mua nhà. Do vậy muốn sản phẩm nhà ở của mình làm ra được nhiều người tiêu dùng chấp nhận, dự án đạt hiệu quả trên nhiều mặt thì TCT phải nhất thiết nghiên cứu kỹ thị trường mục tiêu cảu mình ngay từ khi lập dự án tiền khả thi.
Đánh giá thấp vai trò này sẽ gây tác động tiêu cực tới ba đối tượng:
Đối với TCT: giảm hiệu quả sử dụng vốn chậm thậm chí thâm hụt vốn do không bán được sản phẩm như dự kiến, có thể dẫn tới mất cơ hội cho việc đầu tư vốn.
Người tiêu dùng: nhu cầu về nhà ở không được đáp ứng đi ngược lại chủ trương đường lối của nhà nước điều này sẽ ảnh hưởng rất xấu tới tâm lý người tiêu dùng và sẽ tác động ngược lại tới uy tín của công ty.
Đối với quy hoạch vùng của thành phố của quốc gia về các khu đô thị.
Hơn nữa trong khi tìm hiểu nhu cầu trên thị trường TCT sẽ có cơ hội tìm ra phương thức huy động vốn hiệu quả nhất vừa khai thác được những ưu đãi của nhà nước(đối với một số dự án), vừa tranh thủ được nguồn vốn của các đối tượng có nhu cầu (huy động vốn trực tiếp từ người tiêu dùng sản phẩm cho dự án).
3.3 Nâng cao chất lượng công trình
Thông thường khi làm các dự án về các khu đô thị mới thì thường có diện tích rộng, công việc nhiều nên thường có nhiều nhà thầu phụ, phải đi thuê các đơn vị thi công khác ngoài công ty mình để đảm nhiệm một số hạng mục công trình. Dù cách nào thì TCT cũng phải có biện pháp quản lý chất lượng công trìh để vốn đầu tư được sử dụng đúng mục đích, phát huy hiệu quả cao nhất.
Do sản phẩm xây dựng – công trình xây dựng – là một loại sản phẩm đặc biệt, trong quá trình hình thành thì có nhiều bên tham gia, nên nguyên nhân xảy ra chất lượng kém rất nhiều và có thể do các ban có liên qua khác nhau. Chất lượng sản phẩm kém phụ thuộc vào công tác khảo sát, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công xây lắp và phụ thuộc cả vào quá trình khai thác và sử dụng nên để đảm bảo cho chất lượng công trình thì tổng công ty phải đảm bảo tất cả các khâu trên và có sự giám sát kiểm tra chặt chẽ tránh sự sai sót không đáng có và có sai sót thì kịp thời khắc phục.
Có thể nói khâu xung yếu nhất đó là quá trình thi công xây lắp. Đây chính là quá trình công trình được chuyển từ ý tưởng trên giấy sang dạng vật chất hiện hữu vì thế khâu này có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm xây dựng. Nếu quá trình được quan tâm đúng mức, thì không những dảm bảo được chất lướng ản phẩm xây dựng trong khâu đó, mà còn có thể hạn chết được những ảnh hưởng của các giai trước và đến sản phẩm xây dựng. Thông thường muốn nâng cao chất lượng sản phẩm thì người ta thường nghĩ đầu tư vào chiều sâu. Đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Trong hoàn cảnh VIệt nam suy nghĩ này không sai nhưng hoàn toàn đúng. Bởi vì chất lượng sản phẩm không chỉ gắn với máy móc thiết bị mà quan trọng hơn nhiều là cách thức tổ chức, hướng dẫn sử dụng và vận hành thi công công trình, ý thức của công nhân viên trách nhiệm của họ gắn với công trình… theo nhiều chuyên gia thì những yếu tố đó ảnh hưởng đến 70% - 80% sự hình thành chất lượng sản phẩm.
Thực tế các công trình dự án của các công ty xây dựng vừa qua ở Việt Nam phần khá lớn là sau khi hoàn thành đi vào sử dụng là phải có sự sửa chữa ở Vinaconex hiện tượng này chỉ trong giai đoạn đầu nhưng hiện nay chưa xuất hiện nữa nhưng cũng là một điều đáng lưu tâm để công ty phải nghiên cứu và sửa chữa những yếu khuyết của mình, để đảm bảo cho công trình có chất lượng hơn tránh sự lãng phí chi phí vốn sau khi đã hoàn thành công trình lại bỏ tiền ra khắc phục.
Nâng cao chất lượng sản phẩm xây dựng mà cụ thể là chất lượng của các khu đô thị sẽ đem lại cho các TCT các lợi ích sau:
Tiết kiệm được chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Lấy được lòng tin của khách hàng, dễ dàng bán được sản phẩm.
Tạo được chỗ đứng trên thị trường.
3.4 Giải pháp về nguốn nhân lực
Nâng cao chất lượng đôi ngũ công nhân hiện có: như ta biết hiện nay các công ty xây dựng nói riêng và tổng công ty Vinaconex nói riêng thì đội ngũ công nhân dành cho ngành xây lắp là rất đông mà nhiều công trình, nhiều dự án nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước của xã hội nên ngoài những công nhân chính thức của tổng ra thì phải thuê thêm công nhân hợp đồng nữa, mà đội ngũ công nhân này chưa kinh nghiệm nên việc tuyển dụng và đào tạo cần phải tích cực. Xét một công trình bình thường thì những công nhân này chưa học họ cũng có thể làm những công việc trên công trường nhưng nếu có sự chú trọng và đào tạo của tổng công ty cùng với đó là cho đi lao động xuất khẩu ra nước ngoài sẽ làm cho tay nghề bậc thợ của công nhân lên cao, và có kinh nghiệm trong thi công xây dựng công trình, mà ở nước ta việc đào tạo đội ngũ công nhân theo một mô hình chính thống chưa có đa số vẫn là dựa theo kinh nghiệp là chính vì thế khi mà bậc thợ của công nhân ở bậc cao là rất khó. Chính vì vấn đề này Tổng nên có sự xem xét bỏ chi phí đào tạo công nhân một cách bài bản để đảm bảo đội ngũ công nhân có chất lượng lao động cao, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, kỹ năng tay nghề thành thạo sẽ giúp giảm ngắn tiến độ thi công công trình giúp cả việc giảm bớt chi phí về nguyên vật liệu lãng phí trong thi công, lãi suất dùng cho dự án để trả cho ngân hàng.
Tuyển đội ngũ nhân viên kỹ thuật, quản lý có chất lượng:
thường xuyên có sự tuyển dụng các sinh viên đại học, thường xuyên đầu tư vào các trường đại học để phát hiện nhân tài bởi ở sinh viên cái giai đoạn đầu là cái giai đoạn có nhiều nhiệt huyết, sự sáng tạo lớn nhất cho công việc của mình vì thế việc sử dụng và tuyển dụng đội ngũ trẻ cần được quan tâm một cách đúng mực, như ở Việt Nam hiện nay việc này chưa được coi trọng, chưa có sự quan tâm và đào tạo đúng mức nên các công ty thường ngại tuyển đội ngũ trẻ vào làm. Đây là một sự nhận thức sai lầm và đứng đắn vì thế tổng cần phải có sự xem xét và cân nhắc trong việc tuyển dụng và đào tạo đội ngũ trẻ đội ngũ kế cận tương lai của đất nước. Để có thể phát huy tính sáng tạo lớn nhất giúp cho sự phát triển của công ty, cũng nhưng những ý tượng sáng tạo tạo nên những khu đô thị đẹp làm tăng thêm bộ mặt của đất nước.
Đi đôi với việc tuyển dụng các sinh viên trẻ có nhiệt huyết thì tuyển dụng các kỹ sư có kinh nghiệm trải qua làm nhiều dự án tương đương để có thể giúp cho đội ngũ nhân viên trẻ có thể học tập và cũng là góp cho Tổng công ty có thêm đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực của mình đóng góp xây dựng Tổng Vinaconex ngày càng vững mạnh phát triển xứng tầm với thế giới.
Thuê các chuyên gia nước ngoài tham gia hợp tác cùng dự án: Do công cuộc đổi mới của đất nước và cũng do sự thiếu hụt trong đào tạo cùng với xây dựng các khu đô thị mới, hay các trung cư cao tầng thì rất thiếu đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế cũng như quản lý xây dựng công trình vì thế phải hợp tác với các đối tác nước ngoài tận dụng được việc thuê chuyên gia nước ngoài giúp cho hoạt động đầu tư của Tổng công ty. Mà từ đó có thêm kinh nghiệm trong ngành và giúp cho việc tránh khỏi những sai sót không đáng có.
3.5 Giải pháp về nghiên cứu khoa học công nghệ - thiết bị máy móc.
Đầu tư vào nhập khẩu thiết bị máy móc ở các nước tiên tiến để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thi công và sự tiến bộ của thời đại: đảm bảo được tiến độ thi công công trình, rút ngắn được tiến độ thi công, giảm được nhân công lao động tiết kiệm chi phí cho công ty.
Nghiên cứu việc phát triển máy móc mình hiện có, bên cạnh việc nhập khẩu máy móc mới thì cùng với đó là phải song song nghiên cứu, chi phí dành cho nghiên cứu tuy lớn nhưng cũng phải tiến hành vì nó đáp ứng cho quá trình tạo ra sản phẩm cho công ty. Nghiên cứu sáng chế các loại máy móc này có ưu điểm là đáp ứng nhu cầu hiện tại và tiến độ của công ty nó phản ánh ngay việc cần thiết sử dụng vào công việc cần làm của công ty và năng suất lao động cần thiết.
Tìm và nghiên cứu phương pháp thi công mới để có thể đẩy nhanh tiến độ thi công nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công trình, hiện nay ở chúng ta tốc đổ một sàn là vẫn chậm tiêu chuẩn sàn 1.000m2 là 7 ngày 1 sàn trong khi ở các nước tiên tiến ở Nhật, Hàn Quốc, Mỹ là 2 ngày/1 sàn điều này chúng ta vẫn có thể rút ngắn tiến độ thi công. Việc để tiến độ thi công dài như thế rất tốn kém như chi phí cho quản lý, nhân công, chi phí về vốn, khả năng quay vòng vốn chậm,… vì thế công ty cần nghiên cứu việc triển khai và nghiên cứu làm sao mà tiến độ thi công có thể đuổi kịp các nước tiên tiến nhưng vẫn đảm bảo chất lượng công trình không để cho công trình vì tiến độ nhanh mà có thể để sau vào khai thác sử dụng lại phải sửa chữa.
Nghiên cứu triển khai việc nghiên cứu nguyên vật liệu mới, về đặc điểm này đã được công ty nghiêm cứu triển khai như công ty ximăng Xuân Mai về việc nghiên cứu chất lượng bê tông và triển khai nghiên cứu khả năng chịu lực của bê tông. Tuy nhiên công ty cần triển khai nghiên cứu nhiều loại nghiên cứu nguyên vật liệu mới.
3.6 Giải pháp về cán bộ, tổ chức bộ máy quản lý của công ty.
Nâng cao trách nhiệm quản lý của các ban dự án: khi thành lập các ban dự án thì cần có sự quy rõ trách nhiệm của ban, của cá nhân tham ra dự án, thường xuyên kiểm tra giám sát việc hoàn thành công việc của các ban.
Nâng cao trách nhiệm của cán bộ Tổng công ty: khi tham ra hoạt động làm việc thì cán bộ của tổng cần được bổ nhiệm phân công trách nhiệm rõ ràng để họ tự chịu trách nhiệm trước công việc và nhiệm vụ được giao của mình.
Tìm phương pháp và mô hình quản lý công ty cho phù hợp với xu thế: Việc này là vấn đề quan trọng của Vinaconex vì công ty có xu hướng phát triển lên tập đoàn thì điều này là yếu tố tất yếu không thể thiếu được. Nếu không thay đổi phù hợp với xu thế tiến bộ của xã hội, sự phát triển của đất nước, thế giới thì sẽ tự đào thải mình thay thế vào đó là sẽ bị sát nhập vào các công ty hoặc tập đoàn khác sau khi mà nhà nước không tham gia quản lý nữa. Thường xuyên nghiên cứu các mô hình tập đoàn kinh tế phát triển trên thế giới để học tập đúng rút kinh nghiệm cho bản thân cho sự phát triển của công ty, từ đó mà có thể đưa Tổng công ty Vinaconex trở thành tập đoàn số 1 ở Việt Nam và trở thành một trong những công ty thuộc top của thế giới về quy mô, doanh thu và lợi nhuận (đó là điều có thể thực hiện được không có gì là khó khăn nếu ban lãnh đạo cùng toàn thể anh em lao động trong công ty cùng nhau hợp sức)
3.7 Chế độ lương, khen thưởng và phúc lợi của công ty.
Tiền lương: tiền lương là khoản mà người cán bộ, công nhân mong muốn nhận vào cuối tháng nhất để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống của mình vì thế mức lương càng cao thì người lao động ai cũng thích nhưng với hiện nay của tổng cần phải nghiên cứu lại chế độ tiền lương cho người lao động bởi xét trên khía cạnh toàn thị trường thì ở tổng trả lương vẫn chưa phải là cao, trả lương thỏa đáng cho người lao động thì có tác dụng tạo tâm lý làm việc hăng say cho người lao động, và kích thích sự nghiên cứu sáng tạo của người lao động trong công ty. Ta biết rằng nguyên tắc là “nước chảy chỗ trũng” tiền lương cao, thì người lao động ở mọi nơi trên cả nước, và ở các nước khác sẽ tự tìm đến công ty làm việc và cống hiến. Tuy là doanh nghiệp nhà nước đi theo sự chỉ đạo đường lối của Đảng Cộng Sản thì phải thể hiện sự tiến bộ, là doanh nghiệp đi tiên phong trong các doanh nghiệp của cả nước như thế mới thể hiện được doanh nghiệp đầu ngành, một doanh nghiệp lớn thể hiện được tầm vóc của mình xứng đáng với sự kỳ vọng của Đảng về các doanh nghiệp nhà nước.
Thưởng: Tiền lương là một khoản cần thiết mà bất kỳ người lao động nào cũng được hưởng nhưng ngoài những cái đó thì còn vấn đề tiền thưởng là một thứ mà khuyến khích động viên họ hăng say hơn, vậy thì ở Vinaconex là một tổng công ty lớn vấn đề này phải làm thế nào? Thưởng bao nhiêu là xứng đáng so với công sức mà người lao động bỏ ra? Và như thế có khích lệ được người lao động hay không?
Là một tổng công ty lớn nhưng nếu về so với sự đãi ngộ của Tổng công ty với nhân viên và lãnh đạo của các công ty con có lẽ còn thiếu một chút thỏa đáng việc thưởng bằng lương cho các anh em ở công ty vào dịp lễ tết thêm 1-2 tháng lương như thế có lẽ vẫn chưa động viên khuyến khích được, chúng ta biết rằng một trong số những người lao động kể cả lãnh đạo của tổng công ty nếu chỉ trông chờ vào đồng lương thì chỉ đủ chi phí cho bản thân và một chút trong gia đình, chứ đừng nói đến việc mua một căn nhà, mà trong khi đó tổng công ty lại là một trong những công ty xây dựng thuộc vào top của Việt Nam và xứng tầm vươn ra thế giới thì tại sao không nghĩ đến điều này; ở các nước phát triển khác họ đều rất quan tâm đến việc ăn ở đời sống vật chất của người lao động, tuy chúng ta là một đất nước đang phát triển chưa phải là một nước phát triển mức sống đó rất khó, nó chỉ khó so với cả nước nhưng sẽ là không khó đối với Tổng công ty Vinaconex, chỉ cần chúng ta dám làm và đi đầu thì tự khắc sẽ có kết quả tốt hơn; việc tặng thưởng những căn nhà có giá trị lớn cho người lao động thì có phải là quá lớn không so với doanh thu và lợi nhuận hằng năm mà công ty có được, so với sự cống hiến của người lao động, của tầng lớp lãnh đạo của tổng công ty và của các lãnh đạo công ty con. Tuy là doanh nghiệp nhà nước nhưng việc cải tổ và cải thiện về chính sách chúng ta phải đi đầu và kiến nghị lên nhà nước nhất là bây giờ công ty lại có thể hoạch toán kinh doanh độc lập vậy thì tại sao không làm?
Thưởng bao nhiêu mới xứng đáng với công sức người lao động bỏ ra: việc đó dựa trên cơ sở năng suất làm việc của công ty và theo nguyên tắc xét duyệt từ trên xét xuống để tặng thưởng cho người lao động và có sự xét duyệt sự cống hiến của các lãnh đạo của tổng công ty nói chung và lãnh đạo các công ty con nói riêng, việc thưởng cho người lao động xứng đáng là một phần quan trọng nhưng then chốt là sự đãi ngộ với các lãnh đạo có tâm huyết với tổng công ty cùng sinh tử với công ty từ thủa mới thành lập để thể hiện được sự đền đáp của công ty. Mà sự cải tổ này cũng chính là những thành viên đứng đầu của công ty, phải có sự cải cách mạnh mẽ để đảm bảo chế độ thưởng phạt phân minh. Ở đất nước chúng ta người lãnh đạo ở cương vị nhà nước bao giờ cải cách cũng nghĩ rằng khi mà cải cách cho ban lãnh đạo thì tầng lớp dưới không phục và lương lãnh đạo tăng như thế thì sẽ gây mất uy tín với cá nhân, nhưng dù có là công ty nhà nước hay công ty tư nhân thì chúng ta cũng phải minh bạch trong việc thưởng dù anh có ở cương vị nào đi trăng nữa là chủ tịch hay là tổng giám đốc nhưng cống hiến của anh là to lớn thì phần thưởng của anh 1 căn hay 10 căn chưa chắc đã xứng đáng, mà anh là lãnh đạo thì anh cũng phải ăn, ở mặc, mua sắm và có nhu cầu bản thân, gia đình... vì thế ban lãnh đạo của tổng phải có sự cải cách mạnh mẽ trong chế độ khen thưởng để giúp cho công ty và cho người lao động tránh tình trạng công ty là cái nôi đào tạo cho các công ty bên ngoài.
Khi đã có mức khen thưởng như vậy: thì việc người lao động cống hiến cho Vinaconex là điều tất yếu còn nếu như những người lao động mà vào không cống hiến được cho công ty, công ty nên để thử thách xem có thực sự cần thiết phải sa thải hay không tránh việc thiếu người làm việc mà thừa người chơi. Với sự đãi ngộ về lương, thưởng như vậy thì không lo gì Vinaconex không thể thu hút được nhân tài.
Phúc lợi: phúc lợi xã hội như việc ốm đau, hiếu hỷ, và sau khi người lao động nghỉ không làm tại công ty nữa thì cần phải chú trọng tới họ và có sự quan tâm đúng mức so với những gì họ cống hiến để tầng lớp kế tiếp nhìn sự đãi ngộ của công ty mà ra sức cống hiến. Chúng ta có thể học cách quản lý của Nhật bản họ có cách thức quản lý và đãi ngộ, chế độ phúc lợi với người lao động rất tốt vậy tại sao chúng ta không học, dù rằng người lao động có chế độ bảo hiểm xã hội nhưng cái quan tâm đó là của xã hội cho sự cống hiến của họ còn cái quan tâm của công ty phải khác. Có xây dựng trường cho con cán bộ anh em trong ngành học, có chế độ y tế khám sức khẻo riêng, định kỳ cho người lao động và nhất là khi chúng ta tiến lên một tập đoàn kinh tế thì điều này càng không thể thiếu được.
3.8 Hình thành một tập đoàn kinh tế.
Như đã trình bày ở trên, khi đã hội tụ các điều kiện thì việc thành lập một tập đoàn kinh tế đối với Vinaconex sẽ là công khó vì bản thân là tiền thân của một công ty mạnh khẳng định được vị thế của mình trên thị trường về cả tiềm lực tài chính lẫn tiềm lực về đội ngũ lao động. Việc phát triển thành một tập đoàn kinh tế mạnh là việc cần thiết để có thể bước đi những bước đi lớn hơn không chỉ ở trong nước mà ở ngoài nước, khẳng định vị thế của mình trên thị trường kinh tế, xây dựng cho đất nước những công trình với quy mô lớn hơn, đẹp hơn đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Khi thành lập một tập đoàn kinh tế có các lợi ích sau:
Tăng vốn cho đầu tư và phát triển sản phẩm (đổi mới).
Giảm thời gian xâm nhập thì trường.
Khả năng đóng góp kỹ năng và tài sản bổ sung mà không một công ty nào có thể dễ dàng tự phát triển.
Tiếp cận với kinh nghiệp và kiến thức chuyển giao từ bên ngoài (chuyển giao công nghệ).
Nhanh chóng đạt được quy mô và khối lượng tạo đà phát triển (kinh tế nhờ quy mô – lớn hơn sẽ tốt hơn). Mở rộng ra ngoài xâm nhập thị trường xây dựng ở các nước bạn.
Tạo uy tín về ngành nghề và nâng cao nhận thức về thương hiệu.
Các doanh nghiệp cần tự chủ về điều này và có kiến nghị với nhà nước để có thể có chính sách tạo đà phát triển cho việc hình thành tập đoàn và có sự cạnh tranh công bằng hơn để bước đi những bước đi lớn, nhanh và vững chắc.
KẾT LUẬN
Với quyết tâm to lớn và sự lỗ lực của cả nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Vinaconex đang có những bước chuyển mình thực sự để đóng góp những thành công cho nước nhà. Đời sống kinh tế của cả nước ngày càng được nâng cao, gắn với nó là quá trình đô thị hóa diễn ra một tốc độ và quy mô hớn. Nhu cầu về nhà ở đòi hỏi rất lớn về cả số lượng và chất lượng, điều kiện sống cũng ngày đòi hỏi ngày càng cao. Vấn đề này đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ về nhà ở và chỉ có việc quy hoạch các khu đô thị là hợp lý nhất đảm bảo mỹ quan cho các thành phố nói riêng và cả nước nói chung, mà trong đó Vinaconex đóng góp không ít. Bên cạnh đó việc phát huy các thế mạnh của tổng Vinaconex, điểm yếu cần phải xem xét lại để tổng Vinaconex có thể phát triển mạnh mẽ hơn nữa, thực sự có những bước nhảy vọt tương lai là một tập đoàn lớn là trụ cột thuộc các công ty nhà nước để có thể phát triển ra bên ngoài cạnh tranh với những đối thủ lớn hơn, xây dựng cho mình những công trình vĩ đại để lại cho hậu thế, việc Vinaconex có trường tồn vĩnh viễn và phát triển không còn đòi hỏi vào ban lãnh đạo sáng suốt và thế hệ kế tục của Vinaconex?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quản lý cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản – Bộ kế hoạch đầu tư.
Tài liệu về các số liệu – ban đầu tư tổng công ty Vinaconex
Định hướng phát triển Việt Nam – Bộ xây dựng.
Và từ một số webside khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22452.doc