Lời nói đầu
Danh mục các thuật ngữ viết tắt
Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ bảo lãnh của NHTM
1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
1.1.2. Chức năng của NHTM
1.1.3. Các dịch vụ của NHTM
1.2. Dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại (BLNH)
1.2.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của BLNH
1.2.2. Phân loại BLNH
1.2.3. Phạm vi và giới hạn bảo lãnh
1.2.4. Điều kiện và quy trình bảo lãnh
1.3. Các nhân tố tác động đến dịch vụ bảo lãnh của NHTM.
1.3.1. Uy tín của ngân hàng
1.3.2. Tài sản đảm bảo của khách hàng
1.3.3. Pháp luật
1.3.4. Trình độ cán bộ
1.3.5. Khả năng kiểm tra, giám sát
Phần 2: Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam
2.1. Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân về DVBL của NHTM Việt Nam.
2.2.1. Hạn chế về DVBL của NHTM Việt Nam
2.2.2. Nguyên nhân kém phát triển DVBL của NHTM Việt Nam
2.3. Một số giải pháp phát triển DVBL của NHTM Việt Nam
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
2.3.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
2.3.3. Tăng cường hoạt động quản lý, giám sát
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1880 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu bảo lãnh gây ra.
- BLNH được dùng như một công cụ tài trợ
Hầu hết các hợp đồng thi công và thậm chí một số hợp đồng buôn bán lớn đòi hỏi phải có một khoảng thời gian dài mới thực hiện xong. Điều này đặt ra nhu cầu tài trợ cho dự án. Người thi công sẽ rất gặp khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu như phải hoàn tất công trình hay từng hạn mục công trình thì mới nhận được thanh toán của chủ công trình. Vì vậy, công ty xây dựng sẽ thương lượng với chủ công trình về một khoản tiền tài trợ cho mình. Ngân hàng của công ty xây dựng sẽ phát hành bảo lãnh hoàn trả tiến ứng trước như một công cụ tài trợ để công ty nhận được khoản tiền ứng trước từ phía nhà đầu tư. Như vậy, bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, và bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phải phân tích khách hàng như khi cho vay.
- BLNH được dùng như công cụ đôn đốc hoàn thành hợp đồng
Việc thanh toán bảo lãnh dựa trên vi phạm hợp đồng của người yêu cầu bảo lãnh. Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh phát hành, người hưởng bảo lãnh có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh khi người yêu cầu bảo lãnh vi phạm hợp đồng (bất kể ở mức độ nào và gây thiệt hại cho người hưởng bảo lãnh bao nhiêu). Như vậy, người yêu cầu bảo lãnh luôn phải chịu một áp lực của việc bồi hoàn bảo lãnh nên hết sức cố gắng hoàn thành tốt hợp đồng mà hai bên đã ký.
Như vậy, BLNH tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa ngân hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Đồng thời cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác như: kinh doanh ngoại tệ, tư vấn,…
1.2.2. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Có nhiều tiêu thức để phân loại bảo lãnh, sau đây là một số tiêu thức cơ bản:
1.2.2.1. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh
1.2.2.1.1. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (hay bảo lãnh bổ sung):
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ: là loại bảo lãnh trong đó ngân hàng và người được bảo lãnh được xem là có cùng nghĩa vụ. Tuy nhiên, nghĩa vụ của người được bảo lãnh là nghĩa vụ đầu tiên, nghĩa vụ của ngân hàng chỉ là nghĩa vụ bổ sung, nghĩa vụ bổ sung chỉ được thực hiện khi có bằng cứ xác nhận rằng nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm.
Bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi ngân hàng bảo lãnh phải can thiệp khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người hưởng thụ bảo lãnh. Do vậy, nó chủ yếu được sử dụng trong phạm vi nội địa mà ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế.
1.2.2.1.2. Bảo lãnh độc lập
Bảo lãnh độc lập: là loại bảo lãnh hiện đại, trong đó nghĩa vụ của ngân hàng và của người được bảo lãnh hoàn toàn tách rời nhau. Việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào những điều kiện, điều khoản quy định trong văn bản bảo lãnh được thoả mãn mà thôi. Tuy nhiên tính độc lập cuả loại bảo lãnh này không hoàn toàn tuyệt đối mà phụ thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được quy định trong văn bản bảo lãnh giữa ngân hàng người thụ hưởng bảo lãnh.
Bảo lãnh độc lập đem lại sự thuận lợi lớn cho người thụ hưởng và cả ngân hàng bảo lãnh, do vậy nó được sử dụng rất phổ biến trong thương mại quốc tế. Hiện nay, hầu hết các quy định về bảo lãnh trong lĩnh vực quốc tế đều chỉ quan tâm đến loại bảo lãnh này.
1.2.2.2. Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh
1.2.2.2.1. Bảo lãnh trực tiếp
Bảo lãnh trực tiếp: là loại bảo lãnh trong đó, ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh .
Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: Ngân hàng phát hành bảo lãnh, người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh.
1.2.2.2.2. Bảo lãnh gián tiếp
Bảo lãnh gián tiếp: là loại bảo lãnh mà trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hành trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không phải bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh mà chính ngân hàng trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn.
Như vậy, trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất bốn bên tham gia: ngân hàng phát hành bảo lãnh, ngân hàng trung gian, người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người hưởng thụ bảo lãnh là người nước ngoài và ngân hàng phát hành ở ngay tại quốc gia của người thụ hưởng, do vậy quyền lợi của ngưòi thụ hưởng được bảo vệ chắc chắn hơn.
1.2.2.3. Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh
1.2.2.3.1. Bảo lãnh vay vốn
Bảo lãnh vay vốn: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh, về việc cam kết trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ hoặc không trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Bảo lãnh vay vốn gồm: Bảo lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước ngoài (chủ yếu dưới hình thức bảo lãnh mở L/C trả chậm).
1.2.2.3.2. Bảo lãnh thanh toán
Bảo lãnh thanh toán: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn.
1.2.2.3.3. Bảo lãnh dự thầu
Bảo lãnh dự thầu: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đâú thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như: trúng thầu xong không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư… chủ đầu tư thường yêu cầu bên dự thầu phải kí quĩ (đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ bi mất tiền kí quĩ. Do kí quĩ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền kí quĩ bằng bảo lãnh của ngân hàng.
1.2.2.3.4. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
Các hợp đồng được bảo lãnh như: hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết… đều có thể gây tổn thất cho bên thứ ba. BLNH một mặt bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
1.2.2.3.5. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm
Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết.
1.2.2.3.6. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: Là một BLNH do ngân hàng phát hành cho bên
nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng không hoàn trả hoặc hoàn trả không đủ số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ hoàn trả số tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh.
1.2.2.3.7. Các loại bảo lãnh khác
- Bảo lãnh đối ứng: là bảo lãnh do một ngân hàng (bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành cho một ngân hàng khác (bên bảo lãnh) về việc đề nghị bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh.
- Xác nhận bảo lãnh: là một BLNH do ngân hàng (bên xác nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) đối với khách hàng. Trường hợp bên được xác nhận bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì bên xác nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được xác nhận bảo lãnh.
- Đồng bảo lãnh: là việc nhiều ngân hàng cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ của khách hàng thông qua một ngân hàng làm đầu mối. Trong một số trường hợp, để giảm thiểu rủi ro các ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này một ngân hàng đứng ra đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của các ngân hàng thành viên khác. Nếu phải chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập, ngân hàng đầu mối có thể đòi bồi hoàn từ các thành viên theo tỷ lệ tham gia của họ, dựa trên các bảo lãnh đối ứng do các ngân hàng này phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh.
Ngoài các loại bảo lãnh được quy định tại Quy chế, TCTD còn được thực hiện các loại bảo lãnh khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một quy định mở để các TCTD có thể phát hành các loại bảo lãnh mà pháp luật chưa dự liệu được khi thực hiện bảo lãnh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nứơc ta.
1.2.3. Phạm vi và giới hạn bảo lãnh
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, TCTD có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ sau đây:
- Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đén khoản vay
- Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống.
- Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước.
- Nghiã vụ của khách hàng khi tham gia dự thầu.
- Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia quan hệ hợp đồng với bên nhận bảo lãnh, như: thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm, hoàn trả tiền ứng trước…
- Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thoả thuận.
1.2.4. Điều kiện và quy trình bảo lãnh
1.2.4.1. Điêù kiện bảo lãnh
Khách hàng được bảo lãnh phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy đinh của pháp luật.
- Mục đích đề nghị ngân hàng bảo lãnh là hợp pháp và thuộc các dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, hiệu quả.
- Có bảo đảm hợp pháp cho nghĩa vụ được bảo lãnh (Trường hợp ký quỹ 100% số tiền bào lãnh và các khoản phí liên quan không cần thiết điều kiện này).
Các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh bao gồm:
+ Ký quỹ, cầm cố tài sản, thế chấp tài sản
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba
+ Bảo lãnh đối ứng của các TCTD
+ Các biện pháp bảo đảm hợp pháp khác theo yêu cầu của ngân hàng bảo lãnh và phù hợp với quy định của pháp luật.
Việc dùng tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm cho bảo lãnh vay vốn, việc áp dụng hay không áp dụng các biện pháp bảo đảm bằng tài sản cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh phải thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD và các văn bản hướng dẫn của Thống đốc NHTW, của TCTD bảo lãnh.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh trong thời hạn cam kết.
- Có tín nhiệm trong quan hệ tín dụng và giao dịch tiền gửi, thanh toán với hệ thống ngân hàng, không có nợ quá hạn khó đòi (trừ nợ khoanh), không có dư nợ do trả thay bảo lãnh (Trường hợp ký quỹ 100% số tiền bảo lãnh và các khoản phí liên quan không cần thiết điều kiện này).
- Trường hợp bảo lãnh hối phiếu, lệnh phiếu khách hàng phải bảo đảm các điều kiện theo quy định của pháp luật về thương phiếu.
- Có trụ sở làm việc (đối với pháp nhân) hoặc hộ khẩu thường trú (đối với cá nhân, hộ kinh doanh cá thể) cùng địa bàn tỉnh, thành phố nơi các chi nhánh ngân hàng đóng trụ sở (Trường hợp ký quỹ 100% số tiền bảo lãnh và các khoản phí liên quan không cần thiết điều kiện này).
- Trường hợp khách hàng đề nghị được bảo lãnh là đơn vị hạch toán kinh doanh kinh tế phụ thuộc của pháp nhân là doanh nghiệp nhà nước, ngoài các điều kiện trên phải đáp ứng được thêm các điều kiện sau:
+ Đơn vị phụ thuộc phải có giấy uỷ quyền đề nghị được bảo lãnh và cam kết được bảo lãnh của các đơn vị chính. Nội dung ủy quyền và cam kết bảo lãnh phải thể hiện rõ mức được bảo lãnh cao nhất, dự án, phương án sản xuất kinh doanh liên quan đến bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh và cam kết trả nợ khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà đơn vị phụ thuộc không trả được nợ cho ngân hàng.
+ Đơn vị chính có quan hệ tiền gửi, tín dụng trong hệ thống ngân hàng, chi nhánh ngân hàng giao dịch với đơn vị chính phải có văn bản xác nhận về: số dư thực tế tiền gửi, tiền vay, bảo lãnh, các biện pháp bảo đảm tiền vay, bảo lãnh của đơn vị chính.
- Trường hợp bảo lãnh có liên quan đến yếu tố nước ngoài (bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh là tổ chức, cá nhân nước ngoài), ngoài các điều kiện trên, khách hàng còn phải thực hiện đúng các quy định về quản lý vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, quy định về quản lý ngoại hối và các quy định khác của pháp luật.
1.2.4.2. Quy trình bảo lãnh
Trình tự và thủ tục bảo lãnh trong một nghiệp vụ bảo lãnh cũng có nhiều điểm tương tự như trong nghiệp vụ cho vay, như tiếp nhận hồ sơ, thẩm định khách hàng; ký hợp đồng; xử ký nợ quá hạn phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
1.2.4.2.1. Khách hàng lập hồ sơ và đề nghị bảo lãnh
Trong hồ sơ gồm có: Hồ sơ pháp lý; Giấy đề nghị bảo lãnh; Báo cáo tài chính, báo cáo về tình hình sản xuất kinh doanh và các thông tin khác; Hồ sơ tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh theo quy định.
1.2.4.2.2. Ngân hàng thẩm định hồ sơ và ra quyết định bảo lãnh
Nhận được hồ sơ xin bảo lãnh của khách hàng, ngân hàng tiến hành thẩm định hồ sơ đó, chủ yếu là thẩm định các điều kiện bảo lãnh của khách hàng (đã hội tụ đầy đủ và thoả mãn quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh chưa, tài sản bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh đã đủ tiêu chuẩn chưa). Sau khi thẩm định hồ sơ, ngân hàng đưa ra quyết định bảo lãnh hay không bảo lãnh (nếu không bảo lãnh, ngân hàng phải trả lời bằng văn bản cho khách hàng và nói rõ lý do). Khi ra quyết định chấp thuận bảo lãnh, ngân hàng phải cân nhắc lựa chọn hình thức và nội dung bảo lãnh thích hợp nhất với yêu cầu của khách hàng và khả năng, kinh nghiệm nghiệp vụ của ngân hàng.
1.2.4.2.3. Ngân hàng ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng, phát hành thư bảo lãnh
Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng phải phát hành cam kết bảo lãnh. Khách hàng nhận bản cam kết bảo lãnh do ngân hàng phát hành. Ngân hàng kiểm tra theo dõi chặt chẽ tiến trình bảo lãnh nhằm phòng vệ rủi ro, đôn đốc khách hàng thực hiện các nghĩa vụ được bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh là văn bản bảo lãnh của TCTD, bao gồm thư bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh.
Thư bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của TCTD về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh là thoả thuận bằng văn bản giữa TCTD và bên nhận bảo lãnh hoặc giữa TCTD, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho ngân hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Ngoài hai hình thức trên, theo quy định tại Khoản 1, Điều 11 của Quy chế mới thì TCTD còn có thể phát hành cam kết bảo lãnh bằng các hình thức khác pháp luật không cấm và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, theo quy định này thì dù TCTD phát hành cam kết bảo lãnh bằng hình thức nào thì đều phải được thể hiện bằng văn bản.
So với Quy chế cũ thì quy định trên đã có một thay đổi khá quan trọng về mặt khái niệm. Theo Quy chế cũ, hợp đồng bảo lãnh được hiểu là văn bản thoả thuận giữa TCTD với khách hàng về quỳên lợi và nghĩa vụ của các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả. Theo Quy chế mới, văn bản thoả thuận này được gọi là hợp đồng cấp bảo lãnh. Hợp đồng cấp bảo lãnh do bên bảo lãnh, khách hàng và các bên có liên quan (nếu có) thoả thuận các nội dung về số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh, mục đích bảo lãnh, điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, việc hoàn trả của khách hàng sau khi TCTD thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh… TCTD và khách hàng cũng có thể thoả thuận áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả cuả khách hàng đối với TCTD bảo lãnh thông qua các biện pháp như: ký quỹ,cầm cố tài sản, thế chấp tài sản; bảo lãnh của bên thứ ba và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
Nội dung bảo lãnh là các nội dung được thể hiện trong cam kết bảo lãnh, bao gồm: ngày phát hành bảo lãnh, số tiền bảo lãnh, hình thức và các điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh…
Thực hiện cam kết bảo lãnh ngân hàng: Trong thời hạn bảo lãnh, nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh thì TCTD có trách nhiệm thực hiện đúng cam kết bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Khi cam kết bảo lãnh được thực hiện thì số tiền bảo lãnh trở thành một khoản vay thực sự, TCTD mặc nhiên trở thành chủ nợ và có quyền đòi bồi hoàn từ phía khách hàng. Khách hàng có nghĩa vụ hoàn trả ngay số tiền TCTD đã trả thay. Trong trường hợp chưa hoàn trả được cho TCTD, khách hàng phải chịu lãi suất phạt đối với khoản nợ TCTD đã trả thay, tối đa bằng 150% lãi suất trong hợp đồng vay vốn giữa khách hàng và bên nhận bảo lãnh (trường hợp bảo lãnh vay vốn) hoặc lãi suất cho vay thông thường mà TCTD đang áp dụng, kể từ ngày TCTD thực hiện trả thay.
1.2.4.2.4. Khách hàng thanh toán phí bảo lãnh và các khoản khác (nếu có) theo thoả thuận trong hợp đồng bảo lãnh
Phí bảo lãnh được tính cho mỗi khoản bảo lãnh theo công thức:
Phí bảo lãnh = Số dư bảo lãnh * Mức phí bảo lãnh * Thời gian bảo lãnh
Trong đó : + Số dư bảo lãnh: là số tiền đang còn được bảo lãnh
+ Thời gian bảo lãnh: là thời gian ngân hàng chịu trách nhiệm bảo lãnh về số dư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán theo bảo lãnh đã cấp.
+ Mức phí bảo lãnh: Theo Quy chế cũ thì mức phí bảo lãnh do TCTD và khách hàng thoả thuận nhưng không vượt qúa 2%/năm tính trên số tiền còn đang được bảo lãnh ( mức phí này chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng). Ngoài ra, khách hàng còn phải thanh toán cho TCTD các chi phí hợp lý khác phát sinh liên quan đến giao dịch bảo lãnh khi các bên có thoả thuận bằng văn bản. Để thực hiện tự do hoá các quan hệ kinh tế, dân sự, Quy chế mới không quy định mức tối đa của phí bảo lãnh mà để TCTD và khách hàng thoả thuận trên cơ sở TCTD tự cân nhắc chi phí và mức độ rủi ro khi thực hiện bảo lãnh để đưa ra mức phí bảo lãnh và được khách hàng chấp nhận thanh toán.
1.2.4.2.5. Tất toán bảo lãnh
Theo quy định tại Điều 20 của Quy chế mới, nghĩa vụ bảo lãnh của TCTD chấm dứt trong các trường hợp:
- Khách hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh.
- TCTD đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh.
- Việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác.
- Thời hạn của bảo lãnh đã hết.
- Bên nhận bảo lãnh đồng ý miễn thực hiện nghiã vụ bảo lãnh cho bên bảo lãnh hoặc nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật.
- Chấm dứt theo thoả thuận của các bên.
Sau khi thư bảo lãnh hết thời hạn hiệu lực hoặc không có thông báo hoặc xác nhận của bên nhận bảo lãnh về việc hoàn thành nghĩa vụ liên quan đến bảo lãnh, ngân hàng tiến hành tất toán bảo lãnh. Trường hợp bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã đựơc bảo lãnh, bên bảo lãnh phải trả thay và tự động hạch toán nợ vay bắt buộc đối với số tiền trả nợ thay theo lãi suất nợ quá hạn của bên được bảo lãnh đối với bên bảo lãnh và áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ như: phát mại tài sản bảo đảm, trích tài khoản của bên được bảo lãnh (nếu có thoả thuận), khởi kiện ra cơ quan pháp luật và các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luât.
Bên được bảo lãnh có trách nhiệm phối hợp thực hiện và chấp hành các biện pháp xử lý của tổ chức tín dụng bảo lãnh, thực hiện bồi hoàn cho TCTD trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo lãnh.
1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DỊCH VỤ BẢO LÃNH CỦA NHTM
1.3.1. Uy tín của ngân hàng
Bảo lãnh từ một ngân hàng có uy tín giúp tăng độ tin cậy của khách hàng với đối tác của mình qua đó làm cho triển vọng thành công của giao dịch mua bán, vay vốn… trở nên chắc chắn hơn. Các ngân hàng lớn thường có uy tín hơn trong nghiệp vụ bảo lãnh, chẳng hạn bảo lãnh vay vốn thường được sử dụng trong các giao dịch vay vốn mà quy mô khoản vay lớn, thời hạn vay dài và vay cùa nước ngoài; bảo lãnh dự thầu sẽ giúp cho khách hàng có đủ điều kiện tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà việc phải có bảo lãnh của ngân hàng là bắt buộc theo yêu cầu của chủ thầu.
Các ngân hàng có uy tín sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu được bảo lãnh của khách hàng. Các ngân hàng này có thể linh hoạt trong việc thương lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng (bao gồm cả phí dịch vụ). Do đó, khách hàng có thể yêu cầu gia hạn, sửa đổi nội dung hoặc huỷ bảo lãnh khi có nhu cầu. Các ngân hàng này thường có đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm, sẵn sàng hướng dẫn khách hàng lựa chọn DVBL cũng như hoàn tất thủ tục với khách hàng.
Trường hợp khách hàng bị phạt do không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, các ngân hàng lớn có uy tín sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết và được đối tác tin tưởng hơn.
1.3.2. Tài sản đảm bảo của khách hàng
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với những rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ, gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. Yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng muốn có nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ.
Các tài sản đảm bảo thường gồm: ký quỹ bằng tiền; cầm cố bằng các giấy tờ có giá (sổ tiết kiệm, trái phiếu, công trái, kỳ phiếu, cổ phiếu… ), cầm cố bằng động sản (ô tô, xe máy, máy móc, thiết bị… ), thế chấp bằng bất động sản (quyền sử dụng đất và quyền sử hữu các công trình trên đất), thế chấp, cầm cố bằng các tài sản khác do ngân hàng và doanh nghiệp thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật và quy định của ngân hàng.
1.3.3. Pháp luật
Hệ thống pháp luật đồng bộ, thông thoáng; các quy định, chính sách rõ ràng, cụ thể sẽ giúp cho bảo lãnh phát huy hết tác dụng của nó. Các nhà làm chính sách cần nghiên cứu kịp thời, để sớm trình cấp thẩm quyền ban hành một số chính sách đồng bộ, chặt chẽ, phù hợp với nhu cầu phát triển và phù hợp với môi trường kinh tế pháp lý và hành chính.
Nếu các văn bản pháp quy thường xuyên thay đổi; các văn bản của các bộ, các ngành có sự chồng chéo, không đồng bộ sẽ làm giảm hiệu quả của loại hình dịch vụ này.
1.3.4. Trình độ cán bộ
Công nghệ ngân hàng cũng như trình độ đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng có công nghệ hiện đại, đội ngũ cán bộ có trình độ cao, thành thạo về nghiệp vụ bảo lãnh, tinh thông về ngoại ngữ,… sẽ đáp ứng được tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Do vậy thường được khách hàng tin tưởng, có thể sẽ sử dụng nhiều hơn các loại hình dịch vụ khác của ngân hàng. Ngoài ra còn giảm thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình bảo lãnh.
1.3.5. Khả năng kiểm tra, giám sát
Do phải đối mặt với rất nhiều rủi ro nên để đảm bảo an toàn, các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn cũng như hoạt động của khách hàng. Trường hợp phát hiện khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì có thể xử lý ngay, kịp thời thu hồi vốn để hoàn trả cho người cho vay. Ngoài ra ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng để cùng giải quyết khó khăn phát sinh, thúc đẩy và giám sát chặt chẽ khách hàng trong việc nộp tiền vào tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để có nguồn trả nợ.
Ngoài các nhân tố chính trên, còn có một số nhân tố khác cũng tác động đến DVBL của ngân hàng như: tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nhu cầu của khách hàng, yêu cầu của người cho vay…
PHẦN 2
THỰC TRẠNG VỀ DỊCH VỤ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. THỰC TRẠNG VỀ DVBL CỦA NHTM VIỆT NAM
Các ngân hàng lớn ở Việt nam thường có uy tín trong nghiệp vụ bảo lãnh như: Ngân hàng Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng Công thương Incombank, ngân hàng Đầu tư và Phát triển BIDV, ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Agribank, Techcombank… Chẳng hạn: Agribank bảo lãnh cho nhà máy sản xuất đường Quảng Nam, Đà Nẵng với số tiền 2triệu USD vay của Ôxtrâylia; tái bảo lãnh cho nhà máy sản xuất đường Kiên Giang, Biên Hoà với số tiền 2triệu USD của Ôxtrâylia… Phần lớn các khoản vay của doanh nghiệp là các ngành sản xuất vật chất, xây dựng cơ bản… giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất, nhập được kỹ thuạt công nghệ hiện đại, giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh của hàng hoá… thúc đẩy tăng truởng kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh các ưu điểm cũng tồn tại nhiều nhược điểm như: các nhà máy đường xi măng hoạt động sản xuất còn kém hiệu quả, không cạnh tranh được trên thị truờng; nhiều máy móc thiết bị không sử dụng hết công suất, không đủ nguyên liệu để sản xuất…
Techcombank, Incombank, Vietcombank… cung cấp cho khách hàng các loại hình bảo lãnh đáp ứng được các đòi hỏi của bên thứ ba, qua đó thực hiện tốt nhất khả năng kinh doanh cũng như trong các công việc khác, bao gồm các loại bảo lãnh sau: (1) Cho cá nhân như cam kết thu xếp tài chính: Dùng trong sản phẩm cho vay du học nước ngoài, trong đó các ngân hàng cam kết sẽ hỗ trợ cho khách hàng một khoản tài chính để thanh toán chi phí phải trả cho con em đi du học nước ngoài. (2) Cho hộ kinh doanh cá thể: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn tạm ứng. Lợi ích của khách hàng khi đựợc bảo lãnh từ các ngân hàng này là: ngân hàng sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng, linh hoạt trong việc thương lượng về điều kiện bảo lãnh sao cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng, khách hàng có thể ra hạn, sửa đổi nội dung hoặc huỷ thư bảo lãnh khi có nhu cầu; thư bảo lãnh của các ngân hàng này được nhiều ngân hàng và doanh nghiệp trong và ngoài nước chấp nhận; bảo lãnh từ các ngân hàng này giúp tăng độ tin cậy của khách hàng với đối tác của mình giúp cho các giao dịch có triển vọng hơn. Ngoài ra trong từng loại bảo lãnh, khách hàng có những lợi ích riêng. Chẳng hạn trong bảo lãnh vay vốn, khách hàng có thể vay vốn với quy mô lớn , thời gian vay dài; giúp cho khách hàng vay vốn trong các giao dịch mà việc bảo lãnh vay vốn là bắt buộc. Trong bảo lãnh thanh toán, khách hàng có thể mua bán trả chậm, chậm nộp thuế cho nhà nước trong thời hạn cho phép, các hợp đồng thuê tài sản, đại lý tiêu thụ, cung cấp dịch vụ trả tiền sau…; ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ đúng hạn. Trong bảo lãnh dự thầu, giúp cho khách hàng có đủ điều kiện để tham gia vào một giao dịch đấu thầu mà bắt buộc phải có bảo lãnh của ngân hàng; trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì ngân hàng thực hiện nghĩa vụ cam kết; chuyên viên khách hàng sẵn sàng hướng dẫn khách hàng lựa chọn DVBL cũng như hoàn tất thủ tục với ngân hàng. Trong bảo lãnh chất luợng sản phẩm, ngân hàng cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm của khách hàng đối với các cam kết về chất lượng sản phẩm nêu trong hợp đồng mua bán, nếu người bán bị phạt do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với người mua mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh được cam kết…
Các NHTM cổ phần ở Việt Nam cũng ngày càng có uy tín hơn trong nghiệp vụ bảo lãnh, chẳng hạn như NHTMCP Á Châu ACB có mức phí bảo lãnh như sau:
STT
Giao dịch
Mức phí
Mức phí tối thiểu
Mức phí tối đa
1.
Phát hành thư bảo lãnh (phí tính trọn tháng)
- Ký quỹ 100%
0,035% / tháng
150.000đ
- Bảo đảm bằng sổ tiết kiệm ACB
0,08% / tháng
200.000đ
- Bảo đảm bằng tài sản khác
0,12% / tháng
300.000đ
2.
Tu chỉnh thư bảo lãnh
- Tu chỉnh tăng số tiền bảo lãnh
Như phát hành thư bảo lãnh
- Tu chỉnh thời hạn bảo lãnh
Như phát hành thư bảo lãnh
- Tu chỉnh khác
100.000đ/ lần
3.
Phát hành thư bảo lãnh bằng 2 ngôn ngữ (Việt + Anh)
Như phát hành thư bảo lãnh + 100.000đ
4.
Phát hành thư bảo lãnh theo mẫu của khách hàng (được ACB chấp thuận)
Như phát hành thư bảo lãnh + 100.000đ
Trong các lĩnh vực mà ngân hàng bảo lãnh thì lĩnh vực xây dựng cơ bản còn nhiều bất cập. Đánh giá thực trạng bảo lãnh ngân hàng hiện nay trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, ta thấy cần chú ý đến những vấn đề sau:
- Đối với bảo lãnh dự thầu: Sau khi công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt hồ sơ mời thầu đối với công trình đấu thầu, chủ đầu tư lập thư mời thầu gửi các nhà thầu liên quan. Đến thời gian quy định, nhà thầu phải gửi hồ sơ dự thầu để tham gia đấu thầu cho chủ đầu tư kèm theo thư bảo lãnh dự thầu của ngân hàng. Trong thư bảo lãnh, ngân hàng phải ghi rõ tên nhà thầu, tên công trình, số tiền bảo lãnh, thời gian hiệu lực, nội dung bảo lãnh và lãnh đạo ngân hàng ký tên đóng dấu vào thư bảo lãnh, với số tiền bảo lãnh thường là 1%. Mục đích bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về các sai phạm của nhà thầu như phá thầu trong quá trình đấu thầu, không thực hiện hợp đồng khi trúng thầu gây thiệt hại cho chủ đầu tư, không nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng theo quy định… Nếu những vi phạm trên xảy ra, ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm trả cho chủ đầu tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra, khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh dự thầu để nhà thầu được tham gia đấu thầu xây dựng công trình là rất cần thiết, nhằm ràng buộc nhà thầu về mặt kinh tế, phải tham gia đấu thầu thực sự. Nếu nhà thầu không tuân thủ theo quy chế đấu thầu, sẽ phải mất khoản tiền mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Khi trúng thầu (được cấp thẩm quyền phê duyệt trúng thầu) thì ngân hàng lại tiếp tục lập thư bảo lãnh hợp đồng. Lúc đó, thư bảo lãnh dự thầu sẽ hết hiệu lực. Do việc quy định mức bảo lãnh dự thầu và việc thực hiện mức bảo lãnh dự thầu hiện nay thường là 1% (tương đối thấp) nên một số nhà thầu chấp nhận ứng ra số tiền trên để thực hiện tham gia đấu thầu không lành mạnh. Cụ thể là:
+ Tham gia đấu thầu để tạo ra sự cạnh tranh giả tạo, nhằm kiếm lợi nhuận thông qua thỏa thuận với nhà thầu thực sự tham gia đấu thầu.
+ Sẵn sàng đứng tên đấu thầu giúp nhà thầu nào đó thắng thầu với giá thầu thấp.
- Đối với bảo lãnh hợp đồng: Khi công trình được phê duyệt kết quả trúng thầu cho nhà thầu nào đó đạt điểm kỹ thuật cao nhất và giá bỏ thầu thấp nhất thì ngân hàng sẽ làm thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng gửi chủ đầu tư, để làm thủ tục ký hợp đồng thi công.
Thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng phải ghi rõ quyết định phê duyệt tên đơn vị trúng thầu, công trình trúng thầu, số tiền bảo lãnh, thời gian bảo lãnh. Số tiền bảo lãnh thường là 5% giá trị trúng thầu. Mục đích bảo lãnh là cam kết của ngân hàng về các sai phạm của nhà thầu, nếu nhà thầu vi phạm, ngân hàng sẽ trả cho chủ đầu tư tối đa là số tiền bảo lãnh để đền bù thiệt hại do nhà thầu gây ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi có văn bản yêu cầu của chủ đầu tư.
Việc ngân hàng lập thư bảo lãnh hợp đồng để ràng buộc trách nhiệm của nhà thầu về mặt kinh tế, phải thực hiện theo đúng hợp đồng thi công xây dựng đã ký với chủ đầu tư. Nếu không thực hiện đúng hợp đồng, ngoại trừ những lý do khách quan, thì nhà thầu sẽ mất số tiền ngân hàng bảo lãnh. Tuy nhiên, theo quy chế đấu thầu, khi hợp đồng thi công được ký kết, chủ đầu tư sẽ chuyển cho nhà thầu ứng trước một số tiền thưởng thường là 20% giá trị trúng thầu.
Vấn đề phát sinh từ chỗ này: Xét về mặt tài chính, khi trúng thầu, nhà thầu chỉ cần ngân hàng bảo lãnh 5% nhưng được ứng 20% giá trị trúng thầu. Nếu nhà thầu không quyết tâm thực hiện công trình, sau khi được ứng 20% rồi không thực hiện hợp đồng, thì chủ đầu tư sẽ bị thiệt hại 15%. Nếu giải quyết được số tiền này thì cũng mất nhiều thời gian, có khi bị thiệt hại mà công trình buộc phải dừng lại chờ xử lý.
- Đối với bảo lãnh chất lượng công trình: Khi công trình thi công hoàn thành, phải qua giai đoạn bảo hành, nghĩa là trong thời gian nhất định, nếu công trình xảy ra sự cố, hư hỏng, xuống cấp thì nhà thầu phải bỏ ra chi phí để sửa chữa, hoàn thiện. Thời gian bảo hành, tùy theo qui mô công trình mà dài ngắn khác nhau, nhưng thường là 1 năm. Như vậy, để đảm bảo cho nhà thầu bỏ chi phí ra sửa chữa trong thời gian bảo hành, chủ đầu tư phải ràng buộc nhà thầu bằng 1 trong 2 cách:
+ Thanh toán cho nhà thầu 90-95% giá trị công trình.
+ Thanh toán cho nhà thầu 100% giá trị công trình nhưng với điều kiện phải có bảo lãnh của ngân hàng về chất lượng công trình khoảng 5-10% giá trị công trình. Trong thời gian bảo hành nếu chất lượng công trình không đảm bảo, nhà thầu không sửa chữa thì chủ đầu tư sẽ dùng số tiền 5-10% đó để bù đắp chi phí sửa chữa.
Như vậy, việc bảo lãnh bảo hành là nhằm buộc nhà thầu phải thi công đảm bảo chất lượng công trình. Mặc dù quá trình thi công có đơn vị giám sát nhưng nếu nhà thầu không tự giác, không vì uy tín cá nhân mà chạy theo lợi nhuận, sẽ không tránh khỏi ăn bớt vật tư, làm dối, làm không đúng qui trình kết cấu, sử dụng vật tư không đồng bộ… dẫn tới chất lượng công trình giảm, dễ bị hư hỏng…
Tuy nhiên, thời gian bảo hành một năm là chưa phù hợp, vì tuổi thọ một số công trình rất lớn, nên trong vòng một năm chưa thể phát hiện, đánh giá được chất lượng công trình. Ngoài ra, với mức bảo lãnh từ 5 - 10% thì chỉ đủ để sửa chữa những hư hỏng nhỏ. Nếu hư hỏng lớn, chi phí vượt quá tỷ lệ nói trên, thì chủ đầu tư cũng rất khó buộc nhà thầu bỏ ra thêm chi phí để sửa chữa như đã cam kết.
Trên cơ sở thực trạng và các hạn chế của các loại hình bảo lãnh của ngân hàng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, nhiều người đưa ra một số kiến nghị như sau:
+ Nâng mức bảo lãnh dự thầu khoảng 1% lên 10% nhằm chọn lọc những nhà thầu thực sự muốn tham gia đấu thầu, hạn chế những nhà thầu “giả”.
+ Đối với bảo lãnh hợp đồng, tỷ lệ bảo lãnh thực hiện hợp đồng của ngân hàng phải tương đương với tỷ lệ vốn ứng trước của nhà đầu tư, sau khi ký hợp đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, chủ đầu tư sẽ thanh toán cho nhà thầu khoảng 90% khối lượng hoàn thành.
+ Đánh giá nhóm công trình cụ thể căn cứ vào quy mô, kết cấu, tuổi thọ công trình. Từ đó, xây dựng từng nhóm công trình có thời gian bảo hành phù hợp: chẳng hạn đối với nhóm A thời gian bảo hành từ 5-7 năm, nhóm B từ 3-5 năm, nhóm C từ 1-3 năm. Đồng thời nhà thầu cũng phải có bảo lãnh của ngân hàng.
+ Xây dựng cụ thể đồng bộ các luật, nghị định, thông tư, qui chế trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, ngân hàng và các lĩnh vực tổng hợp khác nhằm khắc phục những khe hở, những hạn chế trong quá trình thực hiện.
2.2. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN VỀ DVBL CỦA NHTM VIỆT NAM
2.2.1. Hạn chế về DVBL của NHTM Việt Nam
DVBL còn khá mới nên việc áp dụng chưa thực sự hiệu quả. Bên cạnh đó do việc chưa xây dựng đồng bộ các luật, nghị định, thông tư, quy chế trong bảo lãnh nên DVBL của NHTM Việt Nam còn rất nhiều hạn chế.
Các bên tham gia quan hệ bảo lãnh thường phải ký nhiều hơn một hợp đồng để đảm bảo thực hiện nghiã vụ dân sự. Do đó khiến cho các bên tốn nhiều thời gian và công sức.
DVBL của NHTM Việt Nam còn gặp rất nhiều rủi ro. Sau khi ngân hàng đã tiến hành bảo lãnh tức là đã chấp nhận đơn xin bảo lãnh của nguời xin bảo lãnh và có trách nhiệm thực thi nghiệp vụ bảo lãnh nếu người vay không trả được nợ. Do đội ngũ cán bộ ngân hàng còn thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin, khả năng điều hành còn hạn chế… nên chưa kiểm tra, đánh giá chính xác đối tượng mà mình bảo lãnh. Điều đó dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khi khách hàng làm ăn thua lỗ, lâm vào tình trạng phá sản, không có khả năng trả nợ thì ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ trả thay của mình, nhiều khi dẫn đến tình trạng thiếu tiền chi trả cho khách hàng của ngân hàng, gây mất lòng tin ở khách hàng…
DVBL của NHTM Việt nam chưa đáp ứng được một số nhu cầu của khách hàng. Khả năng nắm bắt diễn biến thông tin thị trường còn chậm.
Các tranh chấp, khởi kiện về biện pháp bảo lãnh ngày càng gia tăng, mâu thuẫn giữa các văn bản áp dụng gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng.
Một số thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động bảo lãnh vay vốn nước ngoài của NHTM Việt Nam. Những thuận lợi đó là: Chính sách đối ngoại của Đảng và Chính phủ ta trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và những thành tựu kinh tế của đất nước đồng thời ngày càng gắn bó Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Chúng ta ngày càng tin tưởng vào đường lối đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế, chính trị với thế giới bên ngoài với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước vì hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển”. Do đó các doanh nghiệp, ngân hàng của Việt Nam có điều kiện tiếp xúc, hợp tác với các doanh nghiệp, ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, đất nước ta đã trải qua nhiều năm chiến tranh bị tàn phá nặng nề, cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng chủ yếu là sản xuất nhỏ, công nghiệp chưa phát triển. Vì vậy, hầu hết vốn vay đều tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng nên thời gian thu hồi vốn chậm. Hơn nữa mặc dù tình hình vay và trả nợ nước ngoài đã được cải thiện song tổng số dư nợ nước ngoài là một con số rất lớn. Tình hình này làm cho các tổ chức nước ngoài rất dè dặt khi quyết định cho nước ta vay, làm hạn chế khả năng thu hút vốn nước ngoài. Bên cạnh đó, các văn bản pháp lý chưa rõ ràng đầy đủ, đặc biệt Chính phủ chưa ban hành nghị định bảo đảm tiền vay làm cơ sở cho việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài.
2.2.2. Nguyên nhân kém phát triển DVBL của NHTM Việt Nam
2.2.2.1. Pháp luật
Chính sách kinh tế nước ta đã xác định phát triển theo nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì bảo lãnh là một nghiệp vụ rất cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay do một số chính sách không đồng bộ nên việc thực hiện bảo lãnh vẫn chưa phát huy hết tác dụng của nó, vẫn còn tồn tại một số hạn chế.
Việt Nam chưa có đủ các quy định về bảo lãnh theo các văn bản dưới luật của Chính phủ, một số khoản bảo lãnh còn có sự chồng chéo không phân biệt được phạm vi bảo lãnh, gây khó khăn trong quá trình thực hiện.
Các văn bản pháp quy của nước ta về hoạt động kinh tế chưa rõ ràng cụ thể và thường xuyên thay đổi; các văn bản của các bộ, các ngành thường chồng chéo và chưa đồng bộ. Do vậy, khi xin bảo lãnh khách hàng thường phải lo liệu qua nhiều thủ tục tốn rất nhiều thời gian và công sức.
2.2.2.2. Các doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp được NHTM bảo lãnh thường là doanh nghiệp Nhà nước có vốn ít, hầu như không được nhà nước cấp thêm vốn, hoạt động của các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào vốn vay. Vì vậy, khi có bất kỳ rủi ro nào nảy sinh cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng chi trả của doanh nghiệp.
- Trong quan hệ vay vốn nước ngoài, nhận thức của nhiều doanh nghiệp chưa đầy đủ, chưa đúng mức, chưa nắm và dự đoán đúng tình hình, diễn biến của thị trường dẫn đến một số doanh nghiệp không tiêu thụ được hoặc phải bán rẻ hàng nhập khẩu làm cho khó có khả năng trả nợ. Các doanh nghiệp còn thiếu kinh nghiệm trong việc đàm phán hợp đồng thương mại với nước ngoài, gây nhiều bất lợi cho phía Việt Nam. Nhiều đơn vị trong nước đã ký kết những điều khoản bất lợi với bên ngoài như: giá cao, chất lượng không đảm bảo, máy móc thiết bị lạc hậu, thiếu đồng bộ… thường bị bên nước ngoài ép theo những điều khoản có lợi cho họ như: lãi suất, thời hạn trả nợ, các loại dịch vụ khác…
- Các doanh nghiệp trong nước thường vay vốn nước ngoài để nhập thiết bị máy móc còn tiền vốn xây dựng cơ bản do ngân sách Nhà nước cấp. Song do tình trạng quan liêu và khó khăn của ngân sách cho nên nguồn vốn xây dựng cơ bản này thường không được cấp đúng thời hạn hoặc bị cắt giảm nên không đảm bảo đúng tiến độ thi công. Hàng hoá nhập về không có nơi bảo quản, cất giữ, bị hỏng hóc… nên khi sử dụng không đạt được công suất dự tính. Việc hoàn thành không đúng tiến độ, máy móc sử dụng không đạt được công suất cần thiết đã ảnh hưởng đến khả năng trả nợ đúng hạn của doanh nghiệp.
2.2.2.3. Trình độ cán bộ
- Đội ngũ cán bộ trong ngân hàng tuy đã được đào tạo song trình độ nghiệp vụ chưa cao, khả năng ngoại ngữ và vi tính còn hạn chế. Do đây là dịch vụ còn khá mới nên đội ngũ cán bộ còn thiếu kinh nghiệm trong việc đánh giá tính khả thi của các dự án, tình hình tài chính doanh nghiệp, năng lực hoạt động của doanh nghiệp… dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không trả nợ đủ, đúng thời hạn hoặc làm ăn thua lỗ không thể trả được nợ, và ngân hàng phải chịu trách nhiệm thanh toán thay cho khách hàng.
- Công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng; cán bộ chậm thích nghi với những công nghệ mới nên hạn chế trong việc phân tích, theo dõi tình hình thị trường tài chính.
- Mối quan hệ của ngân hàng trong nước với tổ chức nước ngoài còn hạn chế, một phần do cơ chế quản lý của chúng ta trước đây, một phần do lệnh bao vây cấm vận của Mỹ.
- Ngân hàng thường chỉ bảo lãnh cho các đối tượng do Chính phủ, các cấp ngành chỉ định nên trong một số trường hợp còn thiếu tự chủ, mang tính bị động.
- Việc lập và xét duyệt các luận chứng kinh tế kĩ thuật của các công trình xây dựng chưa theo một nội dung và trình tự thống nhất, chặt chẽ; chủ yếu mới quan tâm đến phần công nghệ sản xuất và xây dựng; phần kinh tế nếu được quan tâm chỉ là hình thức, còn tuỳ tiện, những chỉ tiêu căn cứ chưa có cơ sở khoa học vững chắc. Số lượng các chỉ tiêu kinh tế còn tuỳ thuộc vào ý kiến chủ quan của từng người và những chỉ tiêu này lại được rút ra từ các công trình, không thể là cơ sở so sánh lựa chọn đầu tư.
2.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DVBL CỦA NHTM VIỆT NAM
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
Do một số chính sách không đồng bộ nên việc thực hiện bảo lãnh chưa phát huy hết tác dụng của nó. Điều này đòi hỏi các nhà làm chính sách cần nghiên cứu kịp thời, để sớm trình cấp thẩm quyền ban hành một số chính sách đồng bộ, chặt chẽ, phù hợp với nhu cầu phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Việc nghiên cứu cho ra đời các đạo luật quy định cụ thể về bảo lãnh như: nội dung, phạm vi điều chỉnh, các hình thức xử phạt, thủ tục kiện tụng… sẽ tạo điều kiện cho bên nước ngoài yên tâm đầu tư vốn vào Việt Nam, các đơn vị trong nước hiểu rõ hơn nghiệp vụ bảo lãnh, hạn chế được việc dẫn chiếm luật điều chỉnh bảo lãnh của nước ngoài. Trong các đạo luật này cần chỉnh sửa và ban hành một số cơ chế chưa phù hợp với môi trường kinh tế pháp lý và hành chính ở Việt nam, do vậy khách hàng thiếu các điều kiện cần và đủ để thực hiện các nguyên tắc và quy định bảo lãnh. Chính phủ cần sớm ban hành nghị định bảo đảm tiền vay làm khung cơ sở pháp lý cho bảo lãnh.
2.3.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
Ngân hàng cần tập trung vào việc đào tạo đội ngũ cán bộ có trìmh độ, thành thạo về nghiệp vụ bảo lãnh, tinh thông ngoại ngữ, có khả năng quản lý các dự án vay vốn nước ngoài… Theo phương hướng này, trước mắt cần kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo ngắn hạn và đào tạo dài hạn, ở trong và ngoài nước, nhằm có được những chuyên gia ngân hàng giỏi chuyên môn, am hiểu luật trong nước và quốc tế. Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì các hợp đồng tín dụng cũng như hợp đồng thương mại thường dẫn chiếu theo luật của một số nước là trung tâm thương mại lớn trên thế giới.
Ngân hàng cần mạnh dạn tuyển cán bộ trẻ có năng lực về chuyên môn, ngoại ngữ, tin học… trong lĩnh vực bảo lãnh, đáp ứng yêu cầu khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Ngân hàng cũng cần sử dụng và phân cấp quản lý cán bộ theo đúng chức năng, năng lực; tổ chức bộ máy gọn nhẹ với sự chú trọng về tiêu chuẩn, trình độ, năng lực của chuyên viên nghiệp vụ bảo lãnh…
Trong tương lai gần, nhu cầu BLNH sẽ ngày càng gia tăng để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Do vậy, việc mở rộng quy mô hoạt động cũng như việc đào tạo thêm cán bộ cho công tác bảo lãnh cần phải chuẩn bị ngay từ bây giờ.
2.3.3. Tăng cường hoạt động quản lý, giám sát
Với một thực tế là rất nhiều các khoản vay đã bị các doanh nghiệp sử dụng sai mục đích, không có hiệu quả thì sau khi đã chấp nhận bảo lãnh, các cán bộ tín dụng phải thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn cũng như hoạt động của doanh nghiệp. Nếu phát hiện khách hàng sử dụng vốn sai mục đích thì phải xử lý ngay, kịp thời thu vốn để hoàn trả người cho vay, đồng thời cần xử lý thích đáng doanh nghiệp này. Trong một số trường hợp cần tư vấn cho khách hàng để cùng giải quyết khó khăn phát sinh, thúc đẩy và giám sát chặt chẽ khách hàng trong việc nộp tiền vào tài khoản tiền gửi tại ngân hàng để có nguồn trả nợ.
Ngoài ra, khi ngân hàng tham gia vào hoạt động bảo lãnh thì phải sử dụng thông tin về đối tác. Do đó, cần mở rộng quan hệ với bên ngoài và cần tạo chữ tín trên thị trường trong cũng như ngoài nước. Với những khoản nợ cũ còn đọng lại phải nhanh chóng có biện pháp phối hợp cùng cơ quan hữu quan giải quyết thanh toán với nước ngoài, cần thanh toán sòng phẳng các khoản nợ đến hạn.
KẾT LUẬN
Việt Nam hiện nay đang trong quá trình hội nhập quốc tế, tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, điều đó đòi hỏi các ngân hàng phải không ngừng nâng cao năng lực hoạt động của mình để có thể đứng vững cũng như cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Một trong các hoạt động của ngân hàng là phải hiện đại hoá công nghệ, phát triển các dịch vụ của mình. DVBL của ngân hàng không chỉ có vai trò quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng mà còn có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung.
Qua nghiên cứu BLNH, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về đặc điểm, bản chất, ý nghĩa cũng như căn cứ phân loại các loại BLNH trên thị trường hiện nay. Đồng thời qua phân tích tình hình, thực trạng về DVBL của các NHTM Việt Nam, chúng ta có thể thấy được những thuận lợi, khó khăn trong BLNH và những nguyên nhân làm cho DVBL của NHTM Việt Nam còn kém phát triển. Từ đó sẽ đưa ra các giải pháp phát triển và hoàn thiện hơn nữa dịch vụ này, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, nhưng do thời gian có hạn, trình độ còn hạn chế và đặc biệt nghiệp vụ bảo lãnh còn khá mới mẻ đối với Việt Nam; do đó, đề tài không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô nhằm làm cho đề án này hoàn thiện hơn và là cơ sở cho những nghiên cứu sau này. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
Hà Nội, ngày 3 tháng 2 năm 2007
Sinh viên
Trần Thị Bích Thảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình lý thuyết tài chính - tiền tệ (Trường ĐH Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê, Hà Nội - 2002)
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính (Frederic S.Mishkin, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội – 2001)
Giáo trình Ngân hàng thương mại (Trường ĐH KTQD, NXB Thống kê, HN – 2006)
Quản trị ngân hàng thương mại (PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, NXB Tài chính)
Ngân hàng thương mại (TS.Đoàn Thanh Hà, NXB Thống kê)
Tạp chí ngân hàng
Thời báo kinh tế, thời báo ngân hàng
Internet: www.vcbs.com.vn/
www.mof.gov.vn/
www.bidv.com.vn/
www.icb.com.vn/
www.vneconomy.com.vn/
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu…………………………………………………………………………1
Danh mục các thuật ngữ viết tắt…………………………………………………...3
Phần 1: Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ bảo lãnh của NHTM…………………...4
1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại………………………………..4
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM 4
1.1.2. Chức năng của NHTM 5
1.1.3. Các dịch vụ của NHTM 6
1.2. Dịch vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại (BLNH)…………………….9
1.2.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của BLNH 9
1.2.2. Phân loại BLNH 12
1.2.3. Phạm vi và giới hạn bảo lãnh 15
1.2.4. Điều kiện và quy trình bảo lãnh 15
1.3. Các nhân tố tác động đến dịch vụ bảo lãnh của NHTM.............................19
1.3.1. Uy tín của ngân hàng 19
1.3.2. Tài sản đảm bảo của khách hàng 20
1.3.3. Pháp luật 20
1.3.4. Trình độ cán bộ 20
1.3.5. Khả năng kiểm tra, giám sát 21
Phần 2: Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam.............................22
2.1. Thực trạng về dịch vụ bảo lãnh của NHTM Việt Nam..............................22
2.2. Hạn chế và nguyên nhân về DVBL của NHTM Việt Nam.......................26
2.2.1. Hạn chế về DVBL của NHTM Việt Nam 26
2.2.2. Nguyên nhân kém phát triển DVBL của NHTM Việt Nam 27
2.3. Một số giải pháp phát triển DVBL của NHTM Việt Nam........................28
2.3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 28
2.3.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ 29
2.3.3. Tăng cường hoạt động quản lý, giám sát 29
Kết luận..................................................................................................................30
Tài liệu tham khảo..................................................................................................31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_ve_dich_vu_bao_lanh_cua_ngan_hang_thuong_mai_viet_nam_5322.doc