khác nhau so với việc tham gia hội chợ, triển lãm tại các nước Châu Mỹ và EU. Tại Nhật Bản, tham gia hội chợ, triển lãm với mục đích là giới thiệu sản phẩm mới, duy trì quan hệ với khách hàng đang kinh doanh và mở rộng quan hệ các khách hàng mới chứ không phải là cứ đi hội chợ là đỏi hỏi phải ký ngay hợp đồng như ở các nước EU Chính vì thế, các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh đồ gỗ nội thất của Việt Nam cần chú ý lựa chọn hội chợ cho phù hợp và xác định mục đích tham gia hội chợ để chuẩn bị cho tốt nhất.
Mỗi năm, tại Nhật Bản có khoảng 30 hội chợ lớn nhỏ về đồ gia dụng, trong đó có sản phẩm đồ gỗ nội thất. Nhiều hội chớ có qui mô rất lớn, thu hút được đông đảo doanh nghiệp các nước tham dự như: Hội chợ Tokyo International Gift Show tổ chức vào mùa thu hàng năm, thu hút trên 2000 doanh nghiệp tham gia; hội chợ International Furniture Fair Tokyo tổ chức vào tháng 11 hàng năm với sự có mặt khoảng trên 500 doanh nghiệp
90 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1020 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về kim ngạch xuất khẩu và sức cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ nội thất của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i: Gần đây, mối quan tâm đến các vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng cao đã nâng cao ý thức sinh thái và bảo vệ môi trường của người tiêu dùng. Các sản phẩm đồ gỗ tái sinh cũng như đồ gỗ có nguồn gốc xuất xứ đang chiếm được thị phần lớn tại Nhật. Nên cung cấp thông tin về các chất liệu hoá chất xử lý gỗ để tăng độ tin cậy an tâm của khách hàng khi giao dịch.
Một đặc điểm nổi bật của người tiêu dùng Nhật Bản là họ coi trọng các tiêu chuẩn của Nhật Bản, chẳng hạn như tiêu chuẩn nông sản Nhật Bản ( JIS), Tiêu chuẩn công nghiêp Nhật Bản (JAS)... hơn là các tiêu chuẩn quốc tế. Vì thế, hàng hoá chỉ cần đáp ứng được các tiêu chuẩn này cũng có thể dễ dàng được tiêu thụ ở thị trường Nhật Bản.
3.6. Điều kiện khí hậu khắc nghiệt của Nhật Bản.
Có một vấn đề tưởng chừng như không mây quan trọng nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến uy tín, chất lượng của sản phẩm đồ gỗ nội thất của Việt Nam đó chính là vấn đề khí hậu rất khắc nghiêt và đặc trưng của Nhật Bản.
Do địa thế và lãnh thổ trải dài 25 vĩ tuyến nên khí hậu của Nhật Bản hết sức phác tạp và ảnh hưởng lớn đến việc bảo quản các loại đồ đạc bằng gỗ.
Đặc điểm lớn nhất của khí hậu Nhật Bản là có 4 mùa : Xuân, Hạ, Thu, Đông rất rõ rệt. Vào mùa Xuân và mùa Thu, thời tiết rất dễ chịu, trời ít mưa và quang đãng. Trong khi thời tiết mùa hè và mùa Đông lại là hai thái cực hoàn toàn đối ngược nhau.
Vào mùa Hạ, các luồng khí từ Thái Bình Dương thổi tới làm cho phần lớn lãnh thổ của Nhật Bản nóng và ẩm. Đầu mùa, ngoại trừ đảo Hokkaido, các khu vực còn lại đều có mưa nhiều, bắt đầu từ miền Nam rồi sau vài tuần chuyển lên phía Bắc. Độ nóng của mùa hè cao nhất là vào tháng 8 với thời tiết ngột ngạt, rất khó chịu. Từ giữa mùa hạ đến đầu mùa thu có nhiều bão phát sinh ở vùng phía Tây của Bắc Thái Bình Dương đổ bộ vào Nhật Bản. Khí hậu nống, ẩm và mưa nhiều trong khoảng thời gian này rất dễ làm cho các loại đồ gỗ nội thất bị ẩm mốc và mối mọt néu không được xử lý kỹ.
Trái ngược với mùa Hạ, vào mùa Đông, khí hậu Nhật Bản trở nên khô và rất lạnh. Đặc điểm khí hậu này khiến đồ gỗ nội thất rất hay bị cong vênh, bị biến dạng và nứt.
Do đặc điểm về khí hậu phức tạp này, khi sản xuất và cung cấp đồ gỗ nội thất cho thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp cần chú ý xử lý gỗ thật kỹ để hạn chế các tác động của điều kiện thời tiết lên chất lượng của sản phẩm, đảm bảo uy tín chất lượng cho hàng hoá Việt Nam.
CHƯƠNG IV
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH ĐỒ GỖ NỘI THẤT VÀO THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN.
4.1. Phương hướng, mục tiêu về nâng cao năng lực cạnh tranh của đồ gỗ nội thất trên thị trường Nhật Bản trong những năm tới.
Trong đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006- 2010 của Bộ Thương Mại ( nay là Bộ Công Thương) đã xác định sản phẩm gỗ ( trong đó có nhóm hàng đồ gỗ nội thất) thuộc nhóm hàng xuất khẩu cần tập trung mở rộng qui mô sản xuất. Đây là nhóm những sản phẩm công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao trong những năm gần đây do nhu cầu thế giới tiếp tục tăng, sản xuất trong nước có lợi thế so sánh và không bị giới hạn về khả năng mở rộng qui mô sản xuất.
Mục tiêu đặt ra cho hoạt động xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 là 18.546 triệu USD, tăng 28,9 % so với giai đoạn 2001-2005. Trong số các chủng loại sản phẩm gỗ thì đồ gỗ nội thất vẫn được đánh giá là chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu các sản phẩm gỗ. Theo dự kiến, trong giai đoạn 2006-2010, kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng đồ gỗ nội thất sẽ đạt khoảng 15.000 triệu USD, chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam.
Bảng: Mục tiêu xuất khẩu đồ gỗ nội thất của Việt Nam giai đoạn (2008-2010)
Năm
Đồ Gỗ
Đồ gỗ nội thất
2008
Kim ngạch XK
( triệu USD)
3.555
2.808
Tăng (%)
27,8
27,8
2009
Kim ngạch XK
( triệu USD)
4.482
3.586
Tăng (%)
26,1
27,7
2010
Kim ngạch XK
( triệu USD)
5.564
4.339
Tăng (%)
24,1
25,7
Giai đoạn
( 2006-2010)
Kim ngạch XK
( triệu USD)
18546
14.619
Tăng (%)
28,9
( Nguồn: Bộ Thương Mại)
Nhật Bản vẫn là thị trường lớn của đồ gỗ nội thất Việt Nam. Sản phẩm đồ gỗ nội thất của Việt Nam đang dần được khách hàng chấp nhận và ngày càng ưa chuộng. Tuy nhiên, tỷ trọng đồ gỗ nội thất của Việt Nam tại thị trường này còn quá nhỏ bé so với các quốc gia khác trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaixiatrong khi tiềm năng của thị trường này thì lại rất lớn. Mục tiêu phấn đấu cho năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ nội thất sang thị trường Nhật Bản là 677 triệu USD, chiếm khoảng 22,5 % thị phần của nước này.
Với nhu cầu sử dụng đồ gỗ nội thất ngày càng tăng của Nhật Bản, con số dự kiến đó không phải là khó. Tuy nhiên cái khó là làm thế nào để nâng cao được năng lực cạnh tranh của đồ gỗ nội thất trên thị trường Nhật Bản. Và muốn nâng cao được năng lực cạnh tranh thì trước hết cần phải hạn chế được những khó khăn của ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam ( như phụ thuộc quá nhiều vào nguyên liệu, thiếu tính liên kết trong sản xuất chế biến gố) Tiếp đó, là cần tăng cường nghiên cứu và thực hiện hiệu quả các biện pháp thâm nhập và phát triển thị trường tại thị trường Nhật Bản. Để làm đuợc việc đó chúng ta cần có chiến lược đúng đắn, lâu dài và ổn định.
4.2. Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng đồ gỗ Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
Ngành chế biến gỗ đã trở thành một trong 5 ngành có giá trị xuất khẩu hàng đầu Việt Nam. Tiềm năng lớn nhưng sức ép cũng gia tăng, đặc biệt từ Trung Quốc, Đài Loan, và các nước trong khu vực như Inđônêxia, MalayxiaChất lượng, mẫu mã sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa thật phong phú, còn phụ thuộc vào mẫu mã của nước ngoài nhiều. Mặc khác phần lớn doanh nghiệp chế biến gỗ của nước ta xuất phát từ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên vẫn tồn tại lối làm ăn nhỏ lẻ, manh mún thiếu thông tin về thị trường, giá cả; trình độ tay nghề, tác phong công nghiệp còn hạn chế vì không được đào tạo bài bản. Và đặc biệt một hạn chế lớn nhất cho ngành chế biến sản xuất sản phẩm gỗ là phụ thuộc quá nhiều vào ngành nguyên liệu nhập khẩu.
Những tồn tại trên khiến cho doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ tụt hậu, thị trường xuất khẩu đồ gỗ có nguy cơ bị thu hẹp. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam còn thấp hơn các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Đài Loan, Philipindo chất lượng hàng hoá và khả năng tiếp cận thị trường thế giới nói chung và thị trường Nhật Bản nói riêng còn yếu.
Và để đạt được mục tiêu phát triển trên thị trường Nhật Bản thì Nhà nước, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các doanh nghiệp cần phải kết hợp với nhau thực hiện đồng thời các biện pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của đồ gỗ nội thất của Việt Nam trên thị trường thế giới nói chung và những biện pháp trên thị trường Nhật Bản nói riêng.
4.2.1. Giải pháp để nầng cao năng lực cạnh tranh của đồ gỗ nội thất xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường thế giới nói chung.
Theo Bộ Công Thương, để đạt được mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ đến năm 2010 l à 5.56 tỷ USD như trong chiến lược xuất khẩu của Bộ Thương Mại để ra và đạt 7 tỷ USD vào năm 2020 như trong chiến lược phát triển l âm nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đồng thời để có thể phát triển bền vững, trong thời gian tới ngành gỗ cần tăng cường đầu tư, tạo năng lượng mới cho sản xuất, chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu, tăng cường thu hút FDI. Xây dựng và mở rộng các khu công nghiệp chế biến lâm sản ở các vùng có khả năng cung cấp đủ nguyên liệu, ổn định.
Đẩy mạnh hiện đại hóa công nghiệp chế biến quy mô lớn, từng bước phát triển và hiện đại hóa công nghiệp chế biến quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn và làng nghề truyền thống. Đẩy mạnh chế biến ván nhân tạo, giảm dần chế biến dăm giấy xuất khẩu. Khuyến khích sử dụng các sản phẩm từ ván nhân tạo và gỗ từ trồng rừng; Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ; Các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ cần liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu, trong đó, mỗi doanh nghiệp sẽ chuyên môn hóa một khâu để hoàn chỉnh sản phẩm.
Bên cạnh đó là quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến gỗ, xúc tiến việc xin cấp giấy chứng chỉ rừng; Tổ chức tốt việc nhập khẩu nguyên liệu lâm sản đáp ứng cho nhu cầu sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; đồng thời tăng cường trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn để khẩn trương đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
Ngoài các sản phẩm đơn thuần làm từ gỗ, cần phát triển các mặt hàng nội thất làm từ các chất liệu khác hoặc kết hợp nhiều chất liệu trong một sản phẩm nội thất. Việc đa dạng hóa sản phẩm không những giúp thâm nhập thị trường dễ hơn mà còn tránh khả năng bị kiện bán phá giá. Mở rộng các thị trường xuất khẩu như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và những thị trường tiềm năng như Canada, Nga và các nước Đông Âu
Giải pháp tạo nguồn nguyên liệu.
Với mức sản lượng khai thác 300 nghìn m3/năm, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu xây dựng và đồ gỗ trong nước( 250 nghìn m3) và một ít cho sản xuất hàng mỹ nghệ xuất khẩu ( 50 nghìn m3), ngành chế biến đồ gỗ nói chung và đồ gỗ nội thất nói riêng thiếu hụt một lượng gỗ nguyên liệu khá lớn. Để bù đắp lượng thiếu hụt này, hàng năm ta phải nộp khoảng 0.75 – 1 triệu m3 gỗ để sản xuất hàng xuất khẩu ( chiếm đến 80% nguyên liệu đầu vào của công nghiệp chế biến gỗ).Tuy nhiên, việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu cũng vô cùng bị động và bấp bênh do nguồn cung cấp không ổn định, giá cả thế giới biến động, do sự thay đổi trong chính sách phát triển cùa các quốc giatrong khi đó, ta lại đang thiếu các đầu mối nhập khẩu có uy tín và hiệu quả. Thêm một khó khăn nữa là phía bán lại xuất khẩu theo lô hàng lớn từ 5.000 m3 đến 7.000 m3 trở lên. Các nước giàu như Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan thì có lợi, nhưng đối với Việt Nam thì lại rất gay go. Bởi vì, các doanh nghiệp của chúng ta đều nhỏ, khó có doanh nghiệp nào có đủ 10 triệu USD để mua lô hàng lớn như thế. Cho nên chúng ta phải nhập khẩu nhỏ lẻ rồi gom dần hàng, lại càng làm giá nguyên liệu trở nên đắt đỏ hơn ( do tăng, tăng thêm chi phí gom, gửi đồ). Ở Việt Nam cũng không có kho hải quan nào cho để gỗ lâu, cũng không có càng nào dành riêng cho để gỗ như ở Nhật Bản.
Để đảm bào nguồn nguyên liệu ổn định cho việc sản xuất hàng xuất khẩu cần thực hiện triệt để các giải pháp sau đây:
Đối với gỗ nhập khẩu:
Để giải bài toán nguyên liệu, ngoài việc tiếp tục duy trì với các đầu mối cung ứng gỗ truyền thống, trong thời gian tới, các doanh nghiệp trong ngành nên mở rộng và đẩy mạnh hơn nữa việc nhập khẩu gỗ từ các thị trường tiềm năng khác để chủ động hơn trong nguyên liệu đầu vào và để có mức giá ổn định. Trong các thị trường tiềm năng có thể là thị trường Canada với chủng loại gỗ hết sức đa dạng, cả về gỗ mềm lẫn gỗ cứng và giá bán từ nước này cũng rất cạnh tranh. Và một thị trường cung cấp gỗ nguyên liệu rất lớn, đó là Châu Phi, điển hình là các nước Nam Phi, Cộng Hoà nhân dân Công Gô... Đây đều là những nước có diện tích rừng tự nhiên rất lớn, riêng Công Gô có tới 175 rừng nguyên sinh- đứng đầu Châu Phi. Chủng loại gỗ Trắc, Mun, Lát, Teak
Các doanh nghiệp có thể nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ thị trường này dưới hình thức nhập khẩu gỗ tập trung. Đây chính là hình thức nhập khẩu, trước mắt do một nhóm doanh nghiệp xuẩt nhập khẩu hội tụ đủ các điều kiện: năng lực ngoại thương, vốn, bộ máy và cơ sở vật chất (kho, bãi trong nước và nước ngoài, thiết bị khai thác cơ giới, vận tải và pháp nhân tại nước ngoài). Sau đó, các doanh nghiệp này se giao dịch, buôn bán với doanh nghiệp trong nước theo cơ chế thị trường và đảm bảo giá thành hạ so với các nguồn cung cấp khác. Để thực hiện hiệu quả hình thức này, đòi hỏi Bộ Thương Mại phải chỉ đạo các vụ chức năng, cơ quan thương vụ tại các nước nói trên, cùng các hiệp hội Gỗ và Lâm sản lựa chọn được các đối tác phù hợp đảm bảo được chất lượng nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường được thế giới quan tâm, và lựa chọn các doanh nghiệp có đủ năng lực.
Bên cạnh, việc mở rộng thị trường nhập khẩu gỗ nguyên liệu, cũng nên nhanh chóng hình thành các chợ đầu mối để tạo thị trường cung cấp gỗ cho các doanh nghiệp. Trong hội nghị xuất khẩu gỗ toàn quốc tháng 3/2004, Bộ trưởng Bộ Thương Mại Trương Đình Tuyển đã đưa ra ý kiến về thành lập đầu mối nhập khẩu gỗ tập trung. Theo đó, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đang cùng các doanh nghiệp thành viên xúc tiến thành lập 3 đầu mối nhập khẩu gỗ nguyên liệu có qui mô lớn ở 3 miền Bắc, Trung, và Nam theo hình thức mỗi đầu mối là một công ty cổ phần với nguồn vốn tối thiểu 10 triệu USD. Khi đó những nhà sản xuất nhỏ có thể chủ động được nguồn nguyên liệu thay vì phải tự tìm kiếm nhiều nơi, qua nhiều khâu trung gian. Tuy nhiên, cho đến nay dự định này vẫn chưa trở thành hiện thực. Nhà nước nên có sự hỗ trợ và chỉ đạo để Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam sớm thực hiện được dự định này. Đó là sự hỗ trợ về mặt bằng để xây dựng kho bãi chứa gỗ, nguồn vốn vây ưu đãi trong chương trình tín dụng và hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ.
Để khắc phục tình trạng khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu của các doanh nghiệp có nhu cầu ít, từ vài chục đến vài trăm m3 do chưa có nhà nhập khẩu gỗ nào dám lập ra các vựa gỗ để bán lẻ vì chi phí tồn trữ cho mặt hàng này rất lớn và sau một mùa không tiêu thụ được gỗ sẽ xuống cấp rất nhanh. VÌ thế, đòi hỏi phải có sự tham gia của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam để giới thiệu đến các doanh nghiệp lớn hơn hoặc nhà nhập khẩu gỗ sử dụng cùng loại gỗ để có thể phối kết hợp trong việc nhập khẩu.
Trong thời gian gần đây, có một biện pháp tao nguồn nguyên liệu được các doanh nghiệp hướng tới, đó là nhập khẩu theo dạng “đầu tư ra nước ngoài”, có nghĩa là mang tiền ra nước ngoài mua hẳn một khu rừng đang đến chu kỳ khai thác thương mại, sau đó thuê mướn nhân công lao động tại chỗ khai thác rồi vận chuyển về Việt Nam. Làm như thế vừa làm cho doanh nghiệp chủ động được nguồn nguyên liệu với giá cả phải chăng, đảm bào có giấy chứng nhận quốc tế về rừng trồng, bảo vệ môi trường. Ngoài việc ra nước ngoài mua rừng, các doanh nghiệp trong nước đang tính đến phương án đầu tư xây dựng hẳn nhà máy chế biến gỗ ở nước ngoài, vừa tận dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, vừa tận dụng được chi phí lao động thấp. Sau đó đưa sản phẩm về Việt Nam, hoàn thiện khâu cuối cùng trước khi xuất khẩu. Cách thức nhập khẩu nguyên liệu gỗ đầu vào theo hai cách này quả thực rất hiệu quả và rất đáng xem xét với doanh nghiệp có tiềm năng về vốn. Để thực hiện có hiệu quả phương thức này, đòi hỏi Nhà nước phải có sự hỗ trợ và tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu thị trường mua rừng. Bên cạnh đó, phải đơn giản hoá thủ tục hành chính và mạnh dạn áp dụng lái suất vay vốn ưu đãi cho những nhà nhập khẩu gỗ nguyên liệu???
Đối với gỗ rừng trồng:
Để nâng cao hiệu quả sản lượng gỗ rừng trồng, ngày càng chủ động hơn nguồn nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ xuất khẩu, trước hết, phải qui hoạch đất trồng rừng một cách hợp lý, không lệ thuộc vào vùng, miền mà theo thực tế khách quan của thổ nhưỡng, thời tiết, khí hậu, cùng với sự lựa chọn một số chủng loại cây phục vụ thiết thực cho công nghiệp chế biến gỗ và lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu hàng đầu. Có thể chọn vùng thuận lợi, miền xuôi tổ chức trồng rừng và lấy hiệu quả để vượt tới vùng sâu vùng xa vì theo như báo cáo trước đây của Cục Lâm nghiệp, bằng các loại cây có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với từng vùng kinh tế sinh thái sẽ đạt năng suất sinh khối bình quân từ 16-20 m3/ha/năm mà hiện nay chúng ta nhập khẩu gỗ rừng trồng vể để sản xuất đồ gỗ phải trên 2 triệu đồng/m3. Đồng thời, cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư trồng rừng, qui định thực hiện một cách nghiêm khắc đối với dự án trồng rừng, ngăn chặn tình trạng chiếm chỗ nhờ sang tay hoặc chỉ lợi dụng thu hoạch tài nguyên hiện có.
Cần phải gắn kết được bốn nhà như trong lĩnh vực nông nghiệp- mà ở đây là nhà trồng rừng, nhà khoa học, nhà sản xuất đồ gỗ nội thất và Nhà nước để bảo đảm loại cây trồng phải phù hợp với yêu cầu của thị trường trước mắt và lâu dài. Tư vấn cho doanh nghiệp về giống cây trồng, đất đai và các biện pháp khoa học kỹ thuật tiên tiến trong ươm trồng để có tiến độ phát triển tốt. Vấn đề cực kỳ quan trọng nữa không thể thiếu là nguồn vốn đầu tư dài hạn trên 10 năm ắt phải cần sự hỗ trợ về mặt cơ chế của Nhà nước.
Nhà nước cũng cần ban hành chính sách bán rừng sản xuất, kể cả từng trồng và rừng tự nhiên (đặc biệt đối với rừng nghèo: 2 triệu ha) cho các doanh nghiệp chế biến gỗ, không phân biệt quốc doanh hay tư nhân. Đồng thời, có chính sách ưu đãi về thuế, kể cả thuế thu nhập doanh nghiệp, cả cá nhân đầu tư trồng rừng và tạo hành lang pháp lý cho việc chuyển nhượng, trao đổi, thừa kế rừng trồng. Thực thi chính sách này sẽ có những lợi ích nhất định.
Đào tạo nguồn nhân lực
Chúng ta phải có đội ngũ công nhân kỹ thuật giỏi, đội ngũ kỹ thuật, thiết kế chuyên nghiệp theo kịp thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản. Nhu cầu hiện nay là 120.000 công nhân kỹ thuật, nhưng thực tế mới chỉ có 20.000 công nhân. Hai Bộ Thương Mại và Bộ Lao động, Thương binh và xã hội đã quan tâm đào tạo, cấp thêm kinh phí chiêu sinh, nhưng qui mô mỗi trường khá nhỏ bé, chỉ có 100-200 mỗi năm. Nhà nước cũng đã cấp kinh phí 3 triệu đồng cho mỗi công nhân được đào tạo nhưng chỉ đáp ứng được một nửa yêu cầu.
Hơn nữa, việc đào tạo công nhân kỹ thuật cũng như kỹ sư kinh tế cho ngành chế biến gỗ đang rất xa vời thực tế. Do đó, chiến lược cải cách, đầu tư vào việc đào tạo, hướng dẫn nghề gỗ tại các trường kỹ thuật, đại học là hết sức cần thiếtNhà nước cần chỉ đạo các trường đào tạo biên tập, sửa đổi giáo trình đào tạo. Thêm vào đó, cũng cần mở thêm các trường đào tạo nghề chế biến đồ gỗ nội thất ở các vùng tập trung nhiều cơ sở chế biến gỗ như Thành phố Hồ Chí Minh – Biên Hoà – Bình Dương, các tỉnh miền trung và Tây Nguyên (ở Bình Định và Gia Lai Kon Tum). Đồng thời, tăng mức hỗ trợ về kinh phí để các trường đang hoạt động tiếp tục mở rộng qui mô đào tạo, đầu tư các trang thiết bị, máy móc hiện đại để học viên sau khi ra trường không bị bỡ ngỡ mà có thể thích ứng ngay với công việc tại các doanh nghiệp.
Đổi mới công nghệ chế biến đồ gỗ nội thất
Tăng cường xúc tiến thương mại
Thứ nhất, nhà nước cần hỗ trợ công tác nghiên cứu thị trường và cơ hội xuất khẩu. Trong các hoạt động này, đại diện thương vụ Việt Nam đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên đại diện thương mại chung khó có thể bao quát vấn đề của từng ngành. Vì vậy, để nâng cao hoạt động của các thương vụ, có thể cử một đại diện thương vụ của ngành đồ gỗ nội thất.
Đại diện ngành sẽ tạo điều kiện cung cấp thông tin về chính sách, thị trường, nhu cầu, thị hiếuđể các nhà xuất khẩu Việt Nam có hướng điều chỉnh chiến lược cho phù hợp. Các đại diện tìm hiểu hệ thống phân phối của Nhật Bản, từ đó giúp doanh nghiệp tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp.
Bên cạnh đó, các đơn vị như Phòng Thương Mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cần tích cực phối hợp tổ chức cuộc hội thảo, hội nghị, chuyên đề với các chủ đề khác nhau nhằm cung cấp các thông tin cần thiết cũng như kinh nghiệm thực tế cho các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất.
Để từng bước giảm tỷ lệ buôn bán qua trung gian, tăng cường xuất khẩu trực tiếp, Nhà nước cần hỗ trợ ngành chế biến đồ gỗ nội thất thành lập trung tâm thông tin của ngành. Trung tâm này sẽ thực hiện các chức năng chủ yếu như: thu thập, phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp về các thay đổi trên thị trường đồ gỗ nội thất. Từ đó, dự báo tình hình thị trường trong thời gian tới, đồng thời tổ chức hội thảo các dịch vụ tư vấn. Phạm vi các số liệ và thông tiin mà trung tâm này thu thập bao gồm số liệ chung về kinh doanh cho đến các số liệu về thị trường cảu từng nước. Những số phân tích riêng được làm theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp kinh doanh đồ gỗ nội thất vủa Việt Nam. Chẳng hạn như các số liệu chi tiết của thị trường, số liệu liên quan đến tình hình cạnh tranh, tình hình chính trị của Nhật Bản, kèm theo các điều kiện qui chế cũng như lời khuyên nên dùng những chiến thuật gì về tiếp thị cho phù hợp với từng thị trường.
Việc tham gia tích cực vào hệ thống thông tin ngành chế biến đồ gỗ nội thất chắc chắn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được các thông tin về thị trường Nhật Bản một cách tỷ mỷ, rộng rãi và sâu sắc hơn hẳn. Từ đó, họ có thể xây dựng được các chính sách phát triển sản xuất và mở rộng thị trường đúng hướng, cũng như tự giới thiệu mình với các bạn hàng với chi phí thấp nhất.
Việc xây dựng hệ thống thông tin này đòi hỏi phải có sự nỗ lực tham gia và hợp tác của các cơ quan quản lý hữu quan: Bộ Thương Mại, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, Tổng cục Hải quancũng như sự hợp tác của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, đày đủ và kịp thời.
Thứ hai, Nhà nước cần tổ chức tuần lễ hội chợ triển lãm ngành nghề gỗ tại Việt Nam với sự kết hợp sức mạnh của các ngành thương mại, du lịch, văn hoá truyển thốngđể tạo nên một ngày hội, một tuần lễ đầy ấn tượng với khách hàng nước ngoài.
Thứ ba, Bộ Thương Mại, Cục xúc tiến thương mại và Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cần tổ chức các đợt tham gia hội chợ, triển lãm tại Nhật Bản vơi gian hàng chung trong lĩnh vực đồ gỗ nội thất của Việt Nam với qui mô lớn, mang tinh thần ý chí chung và sự hợp tácbình đẳng cho từng doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế tham gia triển lãm với các gian hàng rải rác, nhìn vào khong tạo được sự thống nhất, tổng thể thế mạnh của đồ gỗ nội thất Việt Nam, làm giảm hiệu quả quảng bá của Việt Nam. Từ đó, tạo điểu kiện để thương hiệu đồ gỗ nội thất Việt Nam có khả năng thâm nhập sâu rộng hơn trong thị trường các nước đối tác.
Thứ tư, cần sớm xây dựng sàn giao dịch điện tử cho mặt hàng đồ gỗ nội thất, đồng thời tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài trong việc tiếp cận đến sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam.
Một số kiến nghị khác
Nhà nước nên thành lập một trung tâm nghiên cứu khoa học về công nghệ chế biến gỗ thuộc Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam dể nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực chế biến gỗ và tổ chức chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ. Một ngành công nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất xuất khẩu không thể thiếu một trung tâm nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này.
Thực tế cho thấy, ở các nước có nền kinh tế lâm nghiệp phát triển đểu có các viện nghiên cứu về công nghiệp chế biến gỗ và sản phẩm gỗ. Thậm chí, ở Nhật Bản hoặc Canada, ở bản thân các doanh nghiệp chế biến gỗ lớn đều có các trung tâm nghiên cứu sản phẩm gỗ.
Các kết quả nghiên cứu khoa học của trung tâm này sẽ đưa ra được các giải pháp công nghệ tiên tiến, sáng tạo nhiều mẫu mã, kiểu dáng, sản phẩm mới, giảm tiêu hao nguyên liệu tới mức tối đa, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao nhưng giá thành hạ dể phù hợp vớí thực tế thiếu thốn nguyên liệu gỗ của nước ta.
Để các biện pháp trên thật sự có hiệu quả cần phải có sự liên kết chặt chẽ, phối hợp thực hiện của cả Nhà nước, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam và các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất.
.
4.2.2. Giải pháp để nầng cao năng lực cạnh tranh của đồ gỗ nội thất của Việt Nam trên thị trường Nhật Bản.
4.2.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước và Hiệp hội gỗ và Lâm sản Việt Nam.
Nâng cao hiệu quả của các cuộc đàm phán với Nhật Bản.
Theo dự kiến,Việt Nam và Nhật Bản có thể hoàn tất việc ký kết hiệp định thương mại tự do song phương vào tháng 11 năm 2008.Chính phủ Nhật Bản muốn giảm mức thuế nhập khẩu trung bình 5,05% hiện nay đối với hàng hóa của Việt Nam xuống 2,8% vào năm 2018. Trong khi đó, Nhật Bản cũng muốn Việt Nam giảm 1 nửa mức thuế hiện nay đối với hàng hoá Nhật, từ 14% xuống 7%.Nhật Bản sẽ giảm thuế cho nhiều mặt hàng của Việt Nam và loại bỏ thuế cho hàng ngàn mặt hàng khác ngay khi hiệp định có hiệu lực.
Chính phủ cần đẩy mạnh đàm phán để tiến tới kí kết FTA song phương với Nhật Bản. làm cơ sở pháp lý và phương hướng thúc đẩy cho quan hệ thương mại giưa hai nước. “Hiệp định Bảo hộ đầu tư Nhật- Việt I” ( kí tháng 11/2003), Sáng kiến chung Việt - Nhật ( kí tháng 12/2003) và Sáng kiến hợp tác Việt Nam-Nhật Bản do bộ trưởng bộ thương mại công nghiệp Nhật Bản đưa ra trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 1/2004, “Tuyên bố Tokyo” bày tỏ quyết tâm của hai bên về tăng cường hơn nữa quan hệ song phương giữa hai bên (19/10/2006 -tại Tokyo) là những tín hiệu tốt đẹp trong quan hệ Việt Nam- Nhật Bản, song chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa các cuộc tiếp xúc và đàm phán với phía Nhật Bản để có được những hiệp định có ý nghĩa thật sự quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa hai nước. Bởi vì, theo xu thế tự do hoá toàn cầu và khu vực, chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản đang có xu hướng cởi mở hơn. Điều đó, đồng thời đem lại tác động hai mặt cho việc xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Đó là giảm bớt các rào cản, có những thuận lợi hơn trước tuy nhiên môi trường cạnh tranh cũng quyết liệt hơn. Vì vậy hơn bao giờ hết chúng ta cần phải đạt được những thoả thuận song phương để tự tạo ra lợi thế cho mình trong cạnh tranh để thâm nhập và trụ vững được trong thị trường đầy tiềm năng này.
Thi ết l ập quan h ệ v ới c ác hi ệp h ội v ề đồ gỗ n ội th ất Nhật Bản đ ể h ợp t ác kinh doanh.
Hi ện nay, ở Nhật Bản c ó c ác Hi ệp h ội v ề đồ gỗ nội thất sau:
+ Hi ệp h ội c ác nh à sản xuất đồ gỗ nội thất Nhật Bản ( Fed eration of J apan Funit ure Man ufact urers Associati ons)
+
+
+
+
4.2.2.2 . Giải pháp từ phía doanh nghiệp chế biến sản phẩm gỗ, đồ gỗ nội thất.
1) Nghiên cứu thị trường và cơ hội xuất khẩu.
“Nhập gia tuỳ tục” là một nguyên tắc không thể thiếu khi tiếp cận bất cứ một thị trường nào. Thị trường Nhật Bản rất đa dạng và năng động, vì vậy các doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường Nhật nên có sự nghiên cứu, xem xét phong tục, tập quán, văn hoá tiêu dùng, sở thích, niềm tin và mức độ chi trả để đưa ra những quyết định nhạy cảm về hàng hoá xuất khẩu hay dịch vụ có thể phù hợp nhanh chóng được với xu hướng của người tiêu dùng.
Hơn nữa, đối với sản phẩm đồ gỗ nội thất ,hoạt động nghiên cứu thị trường và cập nhật thông tin về thị trường lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, văn hoá, xu hướng thẩm mỹ, đặc điểm về điều kiện khí hậu... đặc biệt là đối với thị trường nổi tiếng là khắt khe như Nhật Bản. Tuy nhiên, theo công ty nghiên cứu thị trường TSN( taylor Safres Nelson) thì các doanh nghiệp Việt Nam ít nghiên cứu thị trường nhất thế giới. Tổng chi phí nghiên cứu thị trường tính trên đầu người chỉ đạt 0.12 USD; tổng chi phí quảng cáo trên đầu người đạt 0.24 USD thấp nhất trong số 60 quốc gia được điều tra. Trong khi đó, Nhật Bản dẫn đầu Châu Á và đứng thứ 7 trên thế giới.
Vậy nếu các doanh nghiệp muốn thành công trên thị trường Nhật Bản thì trước hết phải học cách quảng cáo sản phẩm đề xâm nhập được vào thị trường Nhật Bản, nghiên cứu kỹ thị trường Nhật Bản, hệ thống phân phối hàng hoá cũng như tính cách kinh doanh của người Nhật Bản. Do đó, các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất xuất khẩu Việt Nam cần hết sức coi trọng đến hoạt động này để đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với những đặc điểm tiêu dùng của người Nhật Bản, cạnh tranh được với những sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.
Để có thông tin về khách hàng và thị trường đồ gỗ nội thất Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam có thể liên hệ trực tiếp với Vụ Châu Á- Thái Bình Dương, Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương, Cơ quan thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, Văn phòng đại diện tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh của tổ chức xúc tiến thương mại JETRO, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng nên dành ngân sách thích đáng để có tổ chức những cuộc đi khảo sát, thăm dò thị trường Nhật Bản. Những cuộc thăm dò thị trường như vậy sẽ giúp doanh nghiệp có được những thông tin chính xác, hơn nữa, đó cũng còn có thể là những thông tin mà đối thủ cạnh tranh của họ chưa hề có được. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thị trường này rất tốn kém và phức tạp, vì thế nếu các doanh nghiệp tiến hành một cách đơn lẻ thì khó mang lại hiệu quả cao, chính vì vậy các doanh nghiệp nên liên kết với nhau trong việc tìm hiều và nghiên cứu thị trường Nhật Bản. Có thể liên kết với các doanh nghiệp trong nước hoăc doanh nghiệp nước ngoài (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản) để có được những thông tin chính xác hơn.
2) Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Có ba yếu tố quyết định đến chủ yếu đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đó là sản phẩm (chất lượng, mẫu mã), giá cả và thương hiệu của sản phẩm. Để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ nội thất trên thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất xuất khẩu của Việt Nam cần thực hiện một cách đồng thời các biện pháp tác động đến cả 3 yếu tố nêu trên.
Các giải pháp nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm.
Để không ngừng nâng cao chất lượng, đồng thời liên tục đổi mới và đa dạng hóa kiểu dáng, mẫu mã của đồ gỗ nội thất, các doanh nghiệp cần tập trung thực hiện các biện pháp sau đây:
Đổi mới công nghệ chế biến đồ gỗ nội thất
Công nghệ là điều quyết định nhất đến năng suất chất lượng của sản phẩm, nâng cao khả năng tận dụng nguyên liệu, với những công nghệ khác nhau có thể tạo ra những chủng loại sản phẩm khác nhau, đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của thị trường Nhật Bản.
Các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất xuất khẩu sang Nhật Bản nên đầu tư vào các công nghệ chế biến gỗ tiên tiến, hiện đại, nhất là hệ thống thiết kế mẫu mã sản phẩm, công nghệ sấy khô, sơn phủ bề mặt và công nghệ hoá chất , kỹ thuật số phục vụ chế biến gỗ. Để khắc phục tình trạng đồ gỗ bị cong vênh, biến dạng và nứt do khí hậu khô của Nhật Bản, cần phải đầu tư công nghệ và thiết bị riêng.
Đồi mớí và đa dạng hóa kiếu dáng, mẫu mã sản phẩm
Khách hàng Nhật Bản có quan điểm mua sắm là mua hàng bằng mắt, nghĩa là yếu tố đẹp được đặt lên hàng đầu trong việc thu hút sự quan tâm của khách hàng. Để đồ gỗ nội thất của Việt Nam có thể cạnh tranh được trên thị trường Nhật Bản thì các doanh nghiệp Việt Nam phải tạo được sự đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm và phải đáp ứng được yêu cầu thẩm mỹ của người tiêu dùng Nhật Bản.
Để tạo ra nhiều kiểu dáng phong phú, đa dạng cho mặt hàng đồ gỗ nội thất, đòi hỏi doanh nghiệp phải đào tạo cho mình một đội ngũ chuyên gia thiết kế kiểu dáng, mẫu mã, đội ngũ thiết kế mỹ thuật chuyên nghiệp, am hiếu sở thích, màu sắc, kết cấu hình dáng trang trí của ngưởi tiêu dùng Nhật Bản. Nếu doanh nghiệp có đủ tài chính, có thể thuê các chuyên gia thiết kế của nước ngoài, đặc biệt là chuyên gia người Nhật Bản với lợi thế là am hiểu về thị trường và tâm lý của người Nhật Bản.
Khi thiết kế và sản xuất sản phẩm cho thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp cần nắm rõ các đặc điểm như kích thước phải nhỏ hơn các sản phẩm cùng loại xuất đi Mỹ hay Châu Âu do diện tích nhà ở, văn phòng của người Nhật Bản nhìn chung là nhỏ nên kích thước đồ dùng trong nhà cũng phải nhỏ hơn.
Người Nhật nói chung không thích gam màu chói loá, mà thích màu trầm như đen, nâu. Mặt khác, nên kết phối nhiều loại nguyên liệu trong một sản phẩmđể tạo ra sự phong phú hơn về mẫu mã. Mỗi sản phẩm phải được thiết kế để có thể sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, có nhiều giá trị sử dụng khác nhau.
Nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là đòi hỏi thiết yếu của người tiêu dùng Nhật Bản, nên các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú trọng hàng đầu. Chỉ khi đáp ứng tốt nhu cầu này thì sản phẩm mới được uy tín và chỗ đứng vững chắc trên thị trường này.
Sống trong môi trường có mức sống cao nên người tiêu dùng Nhật Bản được đánh giá là có những yêu cầu khắt khe nhất đối với chất lượng sản phẩm. Họ đặt ra những tiêu chuẩn đặc biệt chính xác về chất lượng, độ bền, độ tin cậy và sự tiện dụng của sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý hơn nữa công tác nâng cao chất lượng sản phẩm. Các giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm gồm:
Thứ nhất: Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên liệu đầu vào, bảo quản tốt nguyên liệu, tránh để xuống cấp nhanh chóng.
Thứ hai, tuân thủ đúng qui trình kiểm tra chất lượng trước khi giao hàng. Trên mỗi khâu của quá trình sản xuất, đều cần có một bộ phận kiểm tra, đánh giá để qua từng công đoạn, chất lượng luôn được đảm bảo.
Thứ 3: Đặt ra những qui định và yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng đối với từng công đoạn sản xuất.
Thứ 4: Nâng cao tinh thần trách nhiệm của người công nhân kỹ thuật tham gia vào tất cả các khâu sản xuất ra sản phẩm về tầm quan trọng của việc đảm bảo chất lượng sản phẩm.
Các giải pháp nâng cao tính cạnh tranh về giá.
Hàng hoá vào thị trường Nhật Bản qua nhiều khâu phân phối lưu thông nên đến tay người tiêu dùng thường có giá cả rất cao so với giá nhập khẩu. Các nhà xuất khẩu phải chấp nhận thực tế này để chào hàng cạnh tranh. Tăng cường chủ động đi khảo sát thị trường, thăm các siêu thị của Nhật Bản để hiểu thị hiếu và nhu cầu tiêu dùng của người Nhật là rất cần thiết.
Các đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam trên thị trường đồ gỗ nội thất Nhật Bản hầu hết là các nước Châu Á, thậm chí là các nước Đông Nam Á. Do trong cùng một khu vực địa lý, có những đặc điểm kinh tế rất giống nhau, nên việc định giá sản phẩm cũng có những điểm tương đồng nhau. Do vậy doanh nghiệp cần phải cân nhắc hết sức cẩn thận khi đưa ra những quyết định về giá cho mặt hàng đồ gỗ nội thất của mình. Để mức giá vừa đảm bảo bù đắp chi phí và có khả năng chớp có hội thị trường, doanh nghiệp cần phải xây dựng một cơ cấu giá hợp lý trước khi báo giá chính thức cho khách hàng. Cơ cấu này bao gồm tất cả các khoản chi phí liên quan đến việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm cũng như các loại thuế phải nộp. Một cơ cấu giá hợp lý phải thoả mãn các mục đích sau:
+ Tạo ra một khung chi tiết cho phép người sản xuất dựa vào đó để tính toán mức giá.
+ Có thể bán theo mức giá cụ thể khác nhau tuỳ theo tình hình đàm phán cụ thể.
+ Là cơ sở để so sánh các mức giá cạnh tranh.
+ Là công cụ để phát hiện những khoản phí bất hợp lý nhằm nâng cao khả năng tiết kiệm chi phí trong các giai đoạn sản xuất và xuất khẩu.
Khi báo giá, doanh nghiệp xuất khẩu phải lựa chọn mức giá cụ thể hoặc mức cơ cấu giá để thông báo cho người mua. Đồng thời, khi báo giá ngưòi xuất khẩu cũng phải đưa ra nhũng vấn đề liên quan đến luật lệ thương mại, giúp cho người mua và người bán hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của họ như các khoản và điều kiện bớt giá, đồng tiền và phương thức thanh toán.
Để có thể thực hiện có hiệu quả các giải pháp về nâng cao tính cạnh tranh về sản phẩm và tính cạnh tranh về giá của sản phẩm đồ gỗ nội thất xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp nên Sử dụng chuyên gia tư vấn Nhật Bản trong việc cải tiến mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Nhật, quản lý chất lượng, giảm giá thành: Hiện nay Nhật Bản đang có chương trình cử chuyên gia của tổ chức JODC (Japan Overseas Development Corporation) sang giúp các nước đang phát triển trong việc giảm giá thành sản xuất, tăng cường chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ và thiết bị, kinh nghiệm quản lý, nghiên cứu phát triển sản phẩm và thị trường, phát triển nguồn nhân lực (chương trình JESA-I) hoặc trong các lĩnh vực cải tiến kỹ thuật công nghệ, quản lý chất lượng, hiện đại hoá hệ thống kế toán, tư vấn phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp (Supporting Industries) bảo vệ môi trường... (JESA-II). Chương trình JESA-II giành cho các hiệp hội, tổ chức nhà nước và tư nhân với toàn bộ chi phí do phía Nhật chịu. JESA-I giành cho các doanh nghiệp với 75% chi phí do phía Nhật chịu. Thông tin về chương trình này có thể tìm hiểu qua Văn phòng đại diện JETRO.
Các giải pháp nâng cao uy tín và thương hiệu của sản phẩm
Trong 3-4 năm gần đây, đồ gỗ xuất khẩu luôn nằm trong 5 mặt hàng có doanh số tăng nhanh. Tuy nhiên, nếu so sánh với cường quốc xuất khẩu đồ gỗ ở Châu Á là Trung Quốc, thì đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam chỉ giới hạn ở mức khiêm tốn, với vài thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Mỹ, EU Nguyên nhân của tình trạng này là do hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu, nguồn nguyên liệu sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu, trong khi các nước cung cấp nguyên liệu chính cho Việt Nam là Inđônêxia và Malaixia đang có chiều hướng hạn chế nguồn này. Mặt khác các hợp đồng xuất khẩu đã ký của doanh nghiệp Việt Nam với đối tác đều đi kèm với các mẫu mã thiết kế riêng của theo từng đơn đặt hàng. Do vậy, để đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng Nhật Bản, nhà sản xuất buộc phải đầu tư thêm phân xưởng gia công. Đây là khó khăn rất lớn cho ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu trong nước, tạo nguy cơ cho nhiều doanh nghiệp sao chép kiểu dáng sản phẩm của nước ngoài mà không có sản phẩm thương hiệu Việt Nam
Trong khi đó, người tiêu dùng Nhật Bản rất coi trọng chữ tín trong mọi hoạt động kinh doanh,họ sẽ mất lòng tin nếu doanh nghiệp xuất khẩu không đảm bảo chất lượng sản phẩm cũng như thời hạn giao hàng theo đúng như qui định trong hợp đồng.
Do vậy, các doanh nghiệpViệt Nam phải luôn đảm bảo đúng thời hạn giao hàng như đã định. Muốn làm được điều này, ngay từ khi kí kết hợp đồng với đối tác Nhật Bản, các doanh nghiệp phải bắt tay ngay vào tổ chức sản xuất (thậm chí là liên kết với các doanh nghiệp khác trong nước để cùng sản xuất). Đồng thời, phải tiến hành chuẩn bị ngay các phương tiện xếp dỡ, vận chuyển để có thể có đủ năng lực, nên phấn đấu xuất khẩu theo điều kiện giao hàng CIF để chủ động trong việc thuê tàu vận chuyển và mua hàng bảo hiểm.
Bên cạnh đó, để nâng cao uy tín đồ gỗ nội thất của mình, các doanh nghiệp cần phải tạo dựng được cho mình một thương hiệu sản phẩm trên thị trường Nhật Bản. Có như vậy, mới có được chỗ đứng vững chắc trên thương trường.
Để xây dựng được thương hiệu, trước hết các doanh nghiệp cần phải lựa chọn được mô hình thương hiệu hợp lý, phù hợp với mặt hàng đồ gỗ nội thấtvà điều kiện thực tiễn của doanh nghiệp về tài chính, nhân lực, thị trường
Đối với mặt hàng đồ gỗ nội thất, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong hai mô hình thương hiệu: mô hình thương hiệu gia đình( thương hiệu chung cho tất cả hàng hoá, sản phẩm của một doanh nghiệp) và mô hình thương hiệu tập thể ( thương hiệu của một nhóm mặt hàng hay một số thương hiệu hàng hoá nào đó, do một cơ sở sản xuất hay một cơ sở khác sản xuất và kinh doanh, thường là trong cùng một khu vực địa lý, gắn với các yếu tố xuất xứ, địa lý nhất định). Hai mô hình này rất phù hợp với doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, hạn chế về mặt tài chính
Để quảng bá thương hiệu cho sản phẩm trên thị trường Nhật Bản, các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất Việt Nam cần :
+ Đăng ký hoàn tất thủ tục về sở hữu trí tuệ và bản quyền, nhãn mác hàng hoá tại cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam( Cục sở hữu trí tuệ_ Bộ Khoa học và công nghệ).
+ Yêu cầu Cục sở hữu trí tuệ quảng bá sản phẩm của Nhật Bản và áp dụng các hình thức quảng bá, xúc tiến thương mại theo đúng qui định của nước này.
+ Nghiên cứu kỹ nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng Nhật Bản để đưa ra các thương hiệu và hình thức quảng cáo phù hợp nhằm tạo ấn tượng mạnh mẽ cho người Nhật Bản về những nét độc đáo của sản phẩm Việt Nam.
+ Tìm kiếm sự hỗ trợ và giúp đỡ của các Đại sứ, Thương vụ Việt Nam tại Nhật Bản, các tổ chức quốc tế để thu xếp ổn thoả các tranh chấp về thương mại nếu có trên thị trường Nhật Bản.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại.
Xúc tiến thương mại sẽ giúp gây được sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp, giúp lôi kéo được người tiêu dùng và gợi ý được ý muốn sẵn sang mua hàng của họ. Do đó, xúc tiến thương mại là hoạt động cực kỳ quan trọng trong việc đưa sản phẩm của doanh nghiệp tiếp cận và thâm nhập vào thị trường mục tiêu.
Các doanh nghiệp cần biết rõ hơn tính chất, đặc điểm hội chợ chuyên ngành của Nhật Bản để việc tham gia hội chợ, triển lãm, lễ hội tại Nhật Bản có hiệu quả thực sự, tránh lãng phí.
Ngoài ra, tại Nhật Bản, việc tham gia hội chợ, triển lãm có ý nghĩa và mục đích khác nhau so với việc tham gia hội chợ, triển lãm tại các nước Châu Mỹ và EU. Tại Nhật Bản, tham gia hội chợ, triển lãm với mục đích là giới thiệu sản phẩm mới, duy trì quan hệ với khách hàng đang kinh doanh và mở rộng quan hệ các khách hàng mới chứ không phải là cứ đi hội chợ là đỏi hỏi phải ký ngay hợp đồng như ở các nước EU Chính vì thế, các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh đồ gỗ nội thất của Việt Nam cần chú ý lựa chọn hội chợ cho phù hợp và xác định mục đích tham gia hội chợ để chuẩn bị cho tốt nhất.
Mỗi năm, tại Nhật Bản có khoảng 30 hội chợ lớn nhỏ về đồ gia dụng, trong đó có sản phẩm đồ gỗ nội thất. Nhiều hội chớ có qui mô rất lớn, thu hút được đông đảo doanh nghiệp các nước tham dự như: Hội chợ Tokyo International Gift Show tổ chức vào mùa thu hàng năm, thu hút trên 2000 doanh nghiệp tham gia; hội chợ International Furniture Fair Tokyo tổ chức vào tháng 11 hàng năm với sự có mặt khoảng trên 500 doanh nghiệp
Bên cạnh việc tham gia hội chợ, triển lãm, các doanh nghiệp kinh doanh đồ gỗ nội thất của Việt Nam cũng nên quan tâm đến việc tăgn cường các hoạt động quảng cáo cho sản phẩm của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng tại Nhật Bản. Nhật Bản có hệ thống báo trung ương và địa phương vô cùng đa dạng và phong phú cùng với hệ thống các kênh truyền hìnhĐây là các phương tiện quảng cáo phổ biến nhất tại Nhật Bản. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thực sự sử dụng có hiệu quả các phương thức quảng cáo này.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ như Việt Nam, thích hợp nhất là nên lựa chọn việc đăng quảng cáo trên một số tuần báo, nguyệt san, đặc san (ở Nhật Bản có khoảng 2.250 báo) vì nó có thể giúp chúng ta nhắm đúng đối tượng khách hàng. Tuy nhiên, cũng cần chú ý, hầu hết các cơ quan báo chí, phát thanh truyền hình của Nhật Bản không liên hệ trực tiếp với khách hàng mà thông qua 5 hãng quảng cáo hàng đầu Nhật Bản là Dentsu Inc, Tokyo Agency, International Inc, Daiko Advertising Inc và Asatsu Inc. Đồng thời, trong thị trường này kiểu quảng cáo bằng ngôn ngữ và hình ảnh được đánh giá là có hiệu quả, còn trong khi đó kiểu quảng cáo giật gân, so sánh hoặc nói xấu đối thủ cạnh tranh thưòng không được chấp nhận trên thị trường này.
Các doanh nghiệp nên chú ý tới một phương tiện quảng cáo cũng rất hiệu quả với chi phí tương đối thấp đó là quảng cáo trên các phương tiện giao thông công cộng. Tại Nhật Bản, các phương tiện giao thông công cộng hàng năm vận chuyển khoảng 21 tỷ lượt người, nên nếu quảng cáo trên phương tiện này thì có thể truyền đạt thông tin tới rất nhiều người ở đủ mọi lứa tuổi, giới tính, làm ở nhiều ngành nghê với các mức thu nhập khác nhau
Các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu cần đạt chứng chỉ FSC.
Yếu tố quyết định để người tiêu dùng ở các nước chọn một sản phẩm gỗ chế biến không chỉ là chất lượng hay mẫu mã, mà còn là xuất xứ của nguồn nguyên liệu tạo ra sản phẩm đó. Đây là xu hướng chung của người tiêu dùng thế giới cũng như người tiêu dùng Nhật Bản, đối tượng chính của sản phẩm gỗ Việt Nam.
FSC (Forest Stewardship Council) tên của Hội đồng quản trị rừng quốc tế cũng là một loại chứng chỉ rừng do chính hội đồng này quản lý. FSC là chương trình toàn cầu kiểm định nguyên liệu đến thành phẩm.
FSC trong ngành chế biến gỗ giống như chứng chỉ ISO, hệ thống quản lý chất lượng quốc tế áp dụng cho các ngành nghề như HACCP, tiêu chuẩn chất lượng của ngành thuỷ sản, GMP đối với ngành dược, hoặc SA 8000 tiêu chuẩn sử dụng lao động và trách nhiệm xã hội trong ngành giày da và dệt mayChứng chỉ FSC ngày càng trở nên quan trọng với sản phẩm gỗ chế biến xuất khẩu của Việt Nam. Bởi nó đảm bảo cho người tiêu dùng những sản phẩm mà họ đang sử dụng là những sản phẩm thân thiện với môi trường.
Theo số liệu thống kê của Hội đồng quản trị rừng quốc tế hiện có trên 3000 đơn vị, tổ chức có chứng chỉ FSC, bao gồm: các công ty chế biến, chủ rừng doanh nghiệp thương mạiTrong số hơn 1000 doanh nghiệp chế biến Việt Nam chỉ có 84 doanh nghiệp có chứng chỉ FSC. Qua khảo sát trên2000 công ty có chứng chỉ trên thế giới ta thấy, nhờ có chứng chỉ FSC mà doanh thu của các công ty gia tăng đáng kể
5) Các điểm cần chú ý khi phát triển trên thị trường Nhật Bản
Ngoài việc thực hiện các biện pháp trên, doanh nghiệp nên quan tâm đến một số điểm cần lưu ý khi hoạt động trên thị trường Nhật Bản như sau:
Nắm bắt được thị hiếu:
- Tính đa dạng của thị trường (4 mùa, lứa tuổi, khu vực v.v..).
- Sản xuất phải gắn kết với thị trường (Market-in). Điều quan trọng là phải có phản ứng nhanh nhậy với khuynh hướng của người tiêu dùng.
- Không phải là “có cầu mới có cung” mà phải chuyển sang cách nghĩ “cung tạo ra cầu”.
- Chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho phong phú cho dù chỉ một mặt hàng để người tiêu dùng có thể lựa chọn (Ví dụ: to nhỏ, nhiều chức năng, hình thái v.v..)
Định giá thành sản phẩm:
Thị trường quyết định giá cả. Người tiêu dùng Nhật Bản có đặc điểm nếu họ thấy cần thiết thì dù đắt cũng mua. Ngược lại, những thứ mà thị trường không ưa thì giá dù rẻ cũng không thể bán được. Tuy nhiên, dù giá sản phẩm tại Việt Nam có rẻ đi chăng nữa, song nếu giá vận chuyển và thuế cao sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên và có thể cao hơn so với hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, việc định giá chào hàng không nên dựa vào giá bán lẻ tại thị trường Nhật Bản.
Bảo đảm thời gian giao hàng:
Điều tối quan trọng là phải bảo đảm thời hạn mà bên mua yêu cầu. Nếu giao hàng chậm không bảo đảm được thời hạn giao hàng sẽ làm mất đi cơ hội bán hàng. Nếu mất uy tín, bên mua sẽ không đặt hàng đến lần thứ hai.
Duy trì chất lượng sản phẩm:
- Không nhất thiết mọi chủng loại hàng hoá đều phải có chất lượng cao, mà điều quan trọng là chất lượng hàng hoá phải ổn định.
- Không nên đưa ra những sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu sử dụng cần thiết. Vì nếu cố đầu tư để có chất lượng cao sẽ làm tăng giá thành sản phẩm và người tiêu dùng sẽ không muốn mua nữa.
Luật lệ thủ tục của nhập khẩu của Nhật Bản rất rườm rà, phức tạp. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có chiến lược nhằm đáp ứng những yêu cầu trên, chủ động và vạch ra những chiến lược lâu dài trên thị trường này.
Các doanh nhân Nhật rất trọng chữ tín, giờ hẹn, trao đổi thông tin, đàm phán rất lâu và kỹ. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam luôn phải tạo ấn tượng tốt trong buổi gặp mặt đầu tiên, coi trọng lời hứa dù là việc rất nhỏ. Mặt khác nên tạo cơ hội để các doanh nhân Nhật tận mắt chứng kiến tổ chức, năng lực sản xuất của bạn. Bởi khi giao dịch chính thức thì doanh nghiệp Nhật Bản lại nổi tiếng là trung thành và ổn định với bạn hàng.
Các doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý đến việc chọn đối tác khi làm ăn ở Nhật và phải kiên trì với các hợp đồng có số lượng nhỏ, kéo dài rất lâu của doanh nhân Nhật. Nhu cầu của người Nhật thay đổi thường xuyên vì vậy các nhà nhập khẩu có khuynh hướng bắt đầu từ cái nhỏ, số lượng ít trước khi quyết định cái lớn hơn. Thực tế, rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam từ chối các đơn hàng nhỏ lẻ hoặc không đủ kiên trì tiếp tục, không nhiệt tình trong giao tiếp kinh doanh dẫn đến mất khách hàng tiềm năng trong tương lai.
Hệ thống phân phối hàng hoá Nhật Bản có sự cấu kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối theo vòng khép kín và bài ngoại, hạn chế bán các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong hệ thống phân phối của Nhật Bản còn tồn tại song song hệ thống nhập khẩu. Theo đó, bất cứ một công ty nào cũng có thể nhập khẩu bất cứ một sản phẩm nào từ nước ngoài song song với các tổng đại lý nhập khẩu. Tuy nhiên, dịch vụ chăm sóc khách hàng, bảo dưỡng, bảo hành của hệ thống nhập khẩu song song không tốt vì các tổng đại lý cỏ thể từ chối chăm sóc sản phẩm được nhập khẩu theo hệ thống nhập khẩu song song.
Nhận định về năng lực cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường Nhật Bản ông Shigeru Takayama- chuyên gia tư vấn cao cấp của JETRO nhận định:“Chỉ có đồ gỗ Việt Nam mới có thể cạnh tranh được với đồ gỗ Trung Quốc trên thị trường Nhật Bản”. Điều này rất có khả năng trở thành hiện thực vì hàng Việt Nam có những điểm mạnh và cơ hội khác để thâm nhập thị trường Nhật Bản. Với tất cả những ưu thế, cùng một số giải pháp điều chỉnh, hi vọng rằng trong tương lai: đồ gỗ Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh và bền vững trên thị trường Nhật Bản.
KẾT LUẬN
Ngành công nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Từ năm 2004, đồ gỗ đã chính thức trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mang lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho Việt Nam. Từ đó đến nay, xuất khẩu sản phẩm gỗ đã vươn lên và duy trì ở vị trí thứ 5 trong câu lạc bộ các mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD của Việt Nam. Trong đó, phải kể đến sự đóng góp to lớn của mặt hàng đồ gỗ nội thất ( chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ chung của cả nước)
Trong số các thị trường xuất khẩu chủ yếu của đồ gỗ nội thất Việt Nam, Nhật Bản là một trong những thị trường lớn với kim ngạch luôn tăng đều đặn qua các năm. Hiện nay, Nhật Bản đang đứng ở vị trí thứ 2 ( chỉ sau Mỹ) về kim ngạch xuất khẩu trong số các thị trường trọng điểm của Việt Nam. Và thị trường này được đánh giá là đầy tiềm năng cho phát triển đồ gỗ nội thất của Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp chế biến đồ gỗ nội thất của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn khi kinh doanh trên thị trường này do sức cạnh tranh còn yếu, chưa chủ động được nguyên liệu đầu vào, công tác xúc tiến thương mại chưa hiệu quả, tay nghề công nhân lao động còn kém, công nghệ chế biến gỗ còn lạc hậu
Do vậy, để có thể khai thác một cách hiệu quả thị trường trọng điểm đầy tiềm năng này, ta cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm đồ gỗ, đặc biệt là đồ gỗ nội thất.
Để làm được điều đó, chúng ta cần thực hiện đồng thời việc khắc phục những hạn chế nội tại của ngành công nghiệp chế biến gỗ và tăng cường hơn nữa việc nghiên cứu đặc điểm của thị trường đồ gỗ nội thất Nhật Bản. Đề tài đã đưa ra những giải pháp hữu ích phù hợp với đặc điểm của thị trường Nhật Bản.
Tuy vậy, luận văn vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định trong quá trình nghiên cứu như bố cục, hạn chế về mặt thời gian, số liệuRất mong nhận được sự đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và tất cả những ai quan tâm đến đề tài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7343.doc