Đề tài Thực trạng về vai trò của của Nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta

Kể từ khi Nhà nước xuất hiện trong xã hội loài người cho đến khoảng thế kỷ 19, ở tất cả mọi nơi nó thực hiện những chức năng tương tự như nhau. Đó là quốc phòng, xây dựng đường sá và đê điều, bảo vệ nguồn nước, đúc tiền, đề ra và thi hành pháp luật. Cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành ở một số nước vào cuối thế kỷ 19 đã làm thay đổi lối sống cổ truyền, buộc nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh trong kinh tế nhằm đảm bảo tính hiệu quả của sự cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân. Nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh như người trọng tài duy trì các luật chơi của thị trường. Những quốc gia thực hiện CNH,HĐH muộn hơn tiến thêm một bước trong việc làm cho Nhà nước đóng vai trò nặng nề hơn trong nền kinh tế. Nhà nước ở những quốc gia đó không chỉ quan tâm đến luật chơi, mà can thiệp vào chính nội dung của hoạt động kinh tế. Nó vạch ra kế hoạch phát triển dài hạn hoặc ngắn hạn, đưa ra những ưu tiên đối với các ngành công nghiệp và hoạt động thương mại, thi hành các chính sách khuyến khích hoặc kiềm chế các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau, thậm chí trực tiếp tiến hành kinh doanh trong một số lĩnh vực. Gọi một cách ngắn gọn thì đó là chức năng phát triển.

doc34 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về vai trò của của Nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n, đặc biệt là các ngành then chốt để trước hết, làm tăng tỷ trọng của sản xuất công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân Trên cơ sở của quá trình nói trên, diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội, trước hết là từ cơ cấu kinh tế “ nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ “ sang cơ cấu kinh tế “ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ “. CNH,HĐH ở nước ta vừa là quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa là quá trình kinh tế xã hội, văn hoá, khoa học ... Nó tác động một cách tổng hợp, đa diện, đa cấp độ đến mọi người, mọi gia đình và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. CNH,HĐH ở nước ta cũng chính là quá trình ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về các mặt kinh tế xã hội, khoa học và công nghệ, văn hoá... Với nước ta hiện nay CNH,HĐH không phảI là mục tiêu tự thân, mà là phương thức để đưa nền kinh tế tiểu nông lên nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Phương thức này được thực hiện một cách linh hoạt bằng bước đi tuần tự từ thấp đến cao ( thủ công - cơ giới - tự động hoá ) kết hợp với việc tranh thủ những điều kiện thời cơ thuận lợi “ đi tắt đón đầu”, “ rút ngắn thời gian” để nhanh chóng tạo ra những ngành kinh tế mũi nhọn. CNH,HĐH ở nước ta hiện nay về thực chất là quá trình sử dụng những công cụ phương tiện hiện đại cùng những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và những kinh nghiệm lịch sử để đổi mới toàn diện, triệt để mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội đưa đất nước ta lên trình độ “ dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn minh. Có thể nói , những đặc điểm quan trọng đó là những nét đặc trưng của con đường CNH,HĐH “ rút ngắn thời gian”, “vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt” mà chúng ta đang tiến hành. Con đường và bước đi công nghiệp hoá ở nước ta phải được tính toán một cách đấy đủ và chính xác không chỉ bối cảnh trong nước và quốc tế mà còn phải tính toán cả những tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước và con người Việt Nam. Từ kinh nghiệm công nghiệp hoá của các nước cũng như từ tình hình thực tế của Việt Nam những năm qua cho ta thấy quá trình CNH,HĐH là một quá trình rất to lớn ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta mà những công việc trong CNH,HĐH không một cá nhân hay tổ chức nào có thể đứng ra thực hiện vì vậy mà việc thực hiện quá trình CNH,HĐH không thể tách rời với sự quản lý điều tiết của nhà nước hay nói cách khác vai trò của nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH là một tất yếu khách quan. Nội dung vai trò của nhà nước đối với CNH,HĐH. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế của nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết , trong đó có vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH,HĐH, đặc biệt là đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là những chủ thể trực tiếp thực hiện quá trình đó. Trong khi khẳng định vai trò hết sức quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế, chúng ta cũng cần thấy những đặc thù quy định mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đó là: Thị trường nước ta còn đang ở trong giai đoạn phôi thai, hình thành chưa đầy đủ còn thô sơ. Môi trường kinh tế biến động lớn, mức lạm phát còn cao. Thông tin thị trường còn chắp vá, thiếu tin cậy, không đầy đủ. Hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh và đồng bộ. Kinh tế quốc doanh chiếm giữ phần lớn (2/3) tài sản xã hội nhưng hiệu quả kinh doanh thấp. Phân công lao động trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung, bao cấp bị xoá bỏ, nhưng phân công lao động xã hội trên cơ sở mới lạI chưa hình thành. Những đặc đIểm trên cho ta thấy rằng trong điều kiện hiện nay ở nước ta vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng. Nhà nước không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của Nhà nước đối với các quá trình kinh tế phải mạnh hơn và rộng hơn so với trong nền kinh tế thị trường vận động bình thường. Sự can thiệp đó là nhằm khắc phục những thiếu sót của thị trường. Trong nền kinh tế thị trường mức độ cạnh tranh càng nhỏ, thông tin hữu dụng đến với người mua và người ván càng hạn chế và mức độ không chắc chắn của các điều kiện kinh doanh nói chung càng cao, thì kết quả của hoạt động thị trường sẽ càng thấp. Trong nền kinh tế hỗn hợp Nhà nước có vai trò khắc phục những khuyết tật của thị trường, làm cho sự phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân có hiệu quả cao hơn. Điều đó có nghĩa rằng thị trường càng nhiều khuyết tật thì vai trò của Nhà nước càng lớn, sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường càng mạnh. Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế, chúng ta không chỉ khẳng định sự can thiệp và tác động của Nhà nước đối với quá trình kinh tế, mà còn phải xác định rõ Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình như thế nào, bằng cách thức nào mà nhận biết rõ ranh giới quyền lực của mình, không xâm phạm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.Điều đó có liên quan tới việc xác định rõ những chức năng, cũng như nội dung quản lý mà Nhà nước phải đảm nhiệm thực hiện. Trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, Nhà nước thực hiện vai trò quản lý của mình thông qua ba chức năng cơ bản sau: Quản lý vĩ mô nền kinh tế. Quản lý ngân sách nhà nước. Hoạt động kinh tế. 2.1 Quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong các chức năng trên thì chức năng đầu là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đối với phát triển kinh tế. Nếu không làm được như vậy thì Nhà nước sẽ không có lý do để tồn tại trong nền kinh tế thị trường và khi ấy Nhà nước trở thành thuần tuý là bộ máy cai trị , đứng ngoài guồng máy kinh tế. Đối với doanh nghiệp thì nội dung quan trọng nhất của chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước là tạo môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh trực tiếp là thị trường mà hằng ngày , hàng giờ các doanh nghiệp có quan hệ trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình: từ quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, như thế nào cho tới việc bán các sản phẩm sản xuất ra, thậm chí cả những sản phẩm trong tương lai xa Đặc biệt trong việc tạo môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp hay nói khác là tạo môi trường cho CNH,HĐH thì việc khai thác môI trường kinh tế quốc tế là hết sức quan trọng. Sự thành công của sự nghiệp CNH,HĐH ở nước ta hiện nay phụ thuộc quyết định vào việc kết hợp hiệu quả nội lực dân tộc với các nhân tố quốc tế - thời đại. Bởi vậy, tạo lập và khai thác tốt môi trường kinh tế quốc tế đóng vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình CNH,HĐH phát triển. Môi trường kinh tế quốc tế tác động đến CNH,HĐH nước ta trên nhiều lĩnh vực như: tạo vốn qua đầu tư quốc tế, đổi mới và chuyển giao công nghệ, giảI quyết việc làm, thay đổi cơ cấu kinh tế, hội nhập nền kinh tế Việt Nam với khu vực và quốc tế v.v.. Vấn đề tạo lập , sử dụng môi trường kinh tế quốc tế cho CNH,HĐH ở nước ta được thể hiện trên hai lĩnh vực chủ yếu là nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ. Tạo lập môi trường thu hút và sử dụng nguồn vốn nước ngoài. Đối với tất cả các nước khi tiến hành CNH,HĐH, huy động vốn luôn là một trong những vấn đề cốt yếu. Dựa vào tính chất đặc đIểm của từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn, huy động, sử dụng nguồn vốn trở thành một việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, vì nó ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ và kết quả CNH,HĐH. Nhằm tạo lập môi trường trong nước thuận lợi cho thu hút vốn nước ngoài, trước hết cần chú trọng các biện pháp vĩ mô bảo đảm sự ổn định về chính trị, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại khai thông và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và khu vực. Nhà nước phải chú trọng xây dựng và hoàn thiện các pháp chế kinh tế một cách đồng bộ , nhất quán, bảo đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế, tạo lập môi trường tài chính, tiền tệ lành mạnh; khống chế lạm phát, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng ưu tiên đối với các cơ sở phục vụ phát triển kinh tế đối ngoại, củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do đặc thù riêng của vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) cho nên đối với từng loại vốn cụ thể Nhà nước cần có những biện pháp riêng. Đối với nguồn vốn FDI, chúng ta xác định đây là một trong những nguồn lực bên ngoài rất quan trọn trong công cuộc phát triển đất nước. Luật Đầu tư nước ngoài( ĐTNN) tại Việt Nam được ban hành vào tháng 12/1987 chỉ hơn một năm sau khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới. Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nươc ngoài, từ năm 1990 đến nay nươc ta đã tiến hành 3 lần sửa đổi , bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài. Nhà nước ta phải làm thế nào để thu hút được nhiều nhất nguồn vốn đầu tư của nước ngoài để thúc đẩy quá trình CNH,HĐH diển ra nhanh hơn.Tuy nhiên, để nguồn vốn ĐTNN phát huy tác dụng và hiệu quả cao đối với sự nghiệp CNH,HĐH cần thiết phải sớm khắc phục một số vấn đề mới đang đặt ra hiện nay. Trước hết, cần có giải pháp để nguồn vốn nước ngoài đầu tư trong công nghiệp không chỉ chủ yếu tập trung vào những ngành, những vùng có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng , về thị trường và có khả năng thu hồi vốn nhanh( lắp ráp ôtô, xe máy, đIện tử, v.v... ) mà còn phải tăng các dự án đầu tư vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, vào công nghiệp cơ khí... Mặt khác, cần xoá bỏ tình trạng thua lỗ kéo dài của nhiều dự án công nghiệp; đồng thời khắc phục sự cạnh tranh không cân sức giữa lĩnh vực công nghiệp có đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp trong nước. Còn đối với nguồn vốn ODA do được xác định là nguồn vốn bên ngoài quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho CNH,HĐH cho nên nước ta rất quan tâm để thu hút nguồn viện trợ phát triển chính thức này.Nhà nước ta phảI nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính thế giới như: Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF ), Ngân hàng thế giới ( WB ), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB )... Đồng thời phải sử dụng nguồn vốn cho có hiệu quả như: Cải tạo nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội , triển khai một số chương trình tại các vùng nông thôn miền núi, lập các dự án cho phát triển giao thông, điện , thuỷ lợi, y tế , giáo dục và đào tạo... Tạo lập môi trường để thu hút và sử dụng công nghệ cao cho CNH,HĐH. Là một nước đang phát triển, cho nên việc tạo lập môI trường để khai thác tốt công nghệ quốc tế phục vụ cho quá trình CNH,HĐH ở nước ta giữ một vai trò hết sức quan trọng, nó góp phần vào sự thành bại của quá trình đó. Thực trạng về trình độ công nghệ của nước ta khi bước vào CNH,HĐH cho thấy: hệ thống công nghệ trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đều lạc hậu , chắp vá, không đồng bộ, năng suất và hiệu quả thấp. Sản phẩm làm ra chất lượng còn hạn chế ; giá thành cao; sức cạnh tranh kém trên thị trường quốc tế và khu vực. Trước thực trạng còn nhiều bất cập nêu trên, bên cạnh việc cố gắng tìm kiếm, khai thác nhập các công nghệ tiên tiến, Nhà nước còn chủ trương quản lý và sử dụng tốt hơn nữa công nghệ hiện có, phát huy tiềm năng, nội lực sẵn có của đất nước. Quan điểm của Đảng và Nhà nước hiện nay về xây dựng môi trường để thu hút và khai thác công nghệ thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, phát huy cao độ yếu tố xã hội của công nghệ để tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội cao cho dù chưa có được thiết bị tiên tiến nhất. Chúng ta tiếp thu công nghệ và làm chủ nó, bảo đảm vận hành tốt tiến tới cải tiến từng bộ phận để thích nghi với từng đIều kiện cụ thể của ta , nâng cao hơn nữa sự sáng tạo quy trình công nghệ mới. Thứ hai, đầu tư theo chiều sâu để khai thác tối đa năng lực hiện có, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Thứ ba, ở những ngành công nghệ có tầm chiến lược và các ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, cơ khí điện tử, tự động hoá... Nhà nước cần tập trung đầu tư lớn, nhập trực tiếp hoặc hợp tác liên doanh nhằm mau chóng có những công nghệ hiện đại, nhanh chóng có những sản phẩm hàm lượng công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế. Đây chính là chủ trương của Nhà nước nhằm tạo nên những ngành kinh tế mũi nhọn, có tác dụng thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế nói chung và sự nghiệp CNH,HĐH nói riêng của nước ta. Và để tiếp tục xây dựng và sử dụng tốt môi trường công nghệ cho CNH,HĐH đất nước hiện nay và những năm sắp tới, chúng ta phải chú trọng những vấn đề: Cần hoàn chỉnh hơn nữa hệ thống pháp luật, các văn bản pháp lý, cũng như phải thực hiện nghiêm túc các quy phạm đã nêu trong luật pháp để tránh các trường hợp “ lọt lưới “ công nghệ lạc hậu, công nghệ ô nhiễm... mà không quy được trách nhiệm thuộc về ai. Cần lập ra những cơ quan chuyên trách với các chuyên gia giỏi ở từng ngành để tập hợp, phân tích, tổng hợp các thông tin về công nghệ trên thế giới từ các kênh cập nhật theo thời gian để có cơ sở tin cậy cho việc đánh giá, lựa chọn các thiết bị, công nghệ nhập ngoại. Đây là công việc vừa có lợi trước mắt, vừa có lợi lâu dài cho sự nghiệp CNH,HĐH. Cần đầu tư nhiều hơn nữa cho việc đào tạo nguồn cán bộ khoa học công nghệ. Ngoài ra, Nhà nước còn cần có chính sách tăng cường khả năng tham gia của khu vực kinh tế tư nhân thông qua việc hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân nhận thức đúng đắn việc phát hiện, tìm kiếm, lựa chọn và sử dụng công nghệ tiên tiến, thích hợp; tích cực sử dụngcác kết quả nghiên cứu của các viện nghiên cứu, các trường đại học... nhằm hoàn thiện công nghệ sản xuất, sử dụng những trang thiết bị hiện đại, những giống cây, con mới, chú trọng tăng năng suất lao động đạt hiệu quả và lợi nhuận cao trong sản xuất kinh doanh. 2.2 Quản lý ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là nguồn thu chi cho hoạt động điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế. Vì vậy, Nhà nước phải quản lý ngân sách một cách có hiệu quả. Đó là một yêu cầu cấp bách đối với quản lý kinh tế ở nước ta. Một chính phủ với ngân sách Nhà nước ốm yếu, thường xuyên thâm hụt, bội chi nhiều thì chắc chắn không thể đIều hành tốt nền kinh tế được. Thực trạng cân đối thu chi ngân sách của nước ta nhiều năm qua luôn luôn ở trong trình trạng căng thẳng bộ chi lớn. Sự căng thẳng trong nguồn thu ngân sách đã dẫn đến những lúng túng, bị động trong chi tiêu ngân sách, dẫn đến cơ cấu chi tiêu không hợp lý. Năm 192, chi cho xây dựng cơ bản vượt quá 70%, trong khi đó chi cho các vấn đề xã hội lại chỉ đạt 70%, còn lại phải chuyển sang năm 1993. Vì vậy, cần phải chú ý vai trò quan trọng của Nhà nước và phải thường xuyên hoàn thiện chức năng quản lý ngân sách của Nhà nước. 2.3 Hoạt động kinh tế của Nhà nước. Nhà nước trực tiếp làm kinh tế với tư cách là người chủ sở hữu (tới 75%) tài sản của đất nước. Mặc dù hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp Nhà nước quá thấp, song không thể xoá bỏ nó, mà phải chú ý củng cố và tăng cường cho nó đủ mạnh để có thể đảm nhiệm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nói chung vai trò của Nhà nước là rất to lớn trong kinh tế thị trường. Kinh nghiệm của thế giới cho thấy rằng , đối với các nước đang phát triển , vai trò quản lý của Nhà nước đối với công nghiệp thể hiện ở những đIểm sau đây: Trong mọi trường hợp, Nhà nước chỉ nên định hướng chung, mà không nên trực tiếp tham gia vào các quyết định của các doanh nghiệp. Nhà nước tập trung thông tin và chia sẻ một cách có chọn lọc những thông tin ấy cho các doanh nghiệp. Nhà nước cung cấp vốn liên doanh cho các doanh nghiệp mới, thường là ở mức lãi suất rất thuận lợi đối với họ. Nhà nước hỗ trợ cho các ngành công nghiệp đột phá. Sự hỗ trợ cần phải được cân nhắc và xử lý cụ thể từng trường hợp. Nhà nước phải kiên quyết xoá bỏ mọi sự ưu đãi nếu như doanh nghiệp không đáp ứng được những tiêu chuẩn thực hiện. Bản thân các tiêu chuẩn phảI không phức tạp và rõ ràng. Có sự phân công sản xuất giữa doanh nghiệp công cộng, doanh nghiệp tư nhân và có thể cả các công ty xuyên quốc gia. Chú ý công tác đào tạo và y tế. Có sự liên kết hỗ trợ về vốn giữa khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Các chương trình đầu tư của Nhà nước phảI được thiết kế nhằm tăng hiệu quả của cả hai khu vực Nhà nước và tư nhân, Tránh moi sự không rõ ràng. Kinh nghiệm một số nước. 3.1. Các nước ASEAN. Vào thập kỷ 80 chiến lược phát triển công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được đẩy mạnh tại các nước ASEAN. Điều nổi bật trong chiến lược này là kết hợp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp truyền thống, sản phẩm sử dụng nhiều lao động với sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao. Trong khoảng 15 năm gần đây với chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu các nước ASEAN đã thay đổi một cách mạnh mẽ cơ cáu công nghiệp hóa. Các mặt hàng về công nghiệp chế biến, máy móc thiết bị vận tảI, hàng đã chế biếnkhác ở các nước đều tăng lên mạnh mẽ. ĐIều đó góp phần làm thay đổi cân đối xuất khẩu từ nhập siêu sang xuất siêu góp phần làm tăng GNP của đất nước. Bảng cân đối xuất nhập khẩu Đơn vị tính: triệu đôla Nước 1976 1990 Xuất khẩu(FOB) Nhập khẩu(CIF) + - Xuất khẩu(FOB) Nhập khẩu(CIF) + - Inđônêxia Malaixia Xingapo Thailan 1055 1087 1554 710 1258 1390 2461 1293 -203 +297 -907 -583 25675 26645 52600 22940 21837 26506 60605 33229 3838 139 8005 10289 Sở sĩ đạt được kết quả này là nhờ 2 biện pháp quan trọng sau đây mà hầu hết các nước ASEAN đã áp dụng. Một là, biện pháp bảo hộ: ở hầu hết các nước ASEAN trừ Xingapo đều áp dụng biện pháp bảo hộ cả thị trường xuất khẩu lẫn thị trường nội địa. Hai là, các nước ASEAN có chính sách tích cực thâm nhập thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh những năm 50 đến cuối thập kỷ 90 xu hướng vận động của vốn đầu tư có sự thay đổi . Do nhiều lý do khác nhau mà vốn đầu tư chuyển dịch sang các nước công nghiệp phát triển. ở các nước đang phát triển thì đã nghèo lạI thiếu vốn đầu tư. Song trong bối cảnh đó, các nước ASEAN lại tạo điều kiện để khởi dòng cho vốn đầu tư nước ngoài chảy vào lãnh địa của mình. Trong số đó phải kể đến tốc độ tăng vốn đầu tư của Nhật và Mỹ vào các nước ASEAN. Để thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, Chính phủ các nước ASEAN đã có nhiều chính sách khuyến khích như sau: Mở cửa không hạn chế đầu tư nước ngoài. Tạo bầu không khí thuận lợi cho đầu tư. Khuyến khích vật chất để thu hút vốn đầu tư. Sử dụng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư , tận dụng nhiều nguồn đầu tư như đầu tư ODA,NGO, và FDI. Sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình CNH,HĐH ở các nước ASEAN là vừa phải theo chuẩn mực quốc tế. Các nước ASEAN đã sử dụng các biện pháp: Về tổ chức: Thành lập các Uỷ ban đầu tư (BOI) để kết hơp khuyến khích và quản lý đầu tư vào các ngành kinh tế. Nhiệm vụ chủ yêú của BOI là : phân phát phần lớn các khuyến khích tài chính của chính phủ cho các chủ đầu tư mới Phối hợp hoạt động đầu tư của các bộ, ngành trong chính phủ. Giúp các công ty mới được thành lập được đăng ký và thừa nhận chính thức. Về chính sách kinh tế: Các nước ASEAN đã xây dựng và áp dụng một loạt chính sách quan trọng. Nhà nước có định hướng chiến lược cho sự phát triển công nghiệp. Nhà nước có chính sách can thiệp vào ngoại thương như bảo hộ ngành chế tạo nội địa; khuyến khích xuất khẩu và điều tiết ngoại thương thông qua các quy định về thủ tục xuất khẩu Nhà nước can thiệp vào thị trường lao động thông qua quy định mức lương tối thiểu, can thiệp vào thị trường vốn thông qua hoạt động của các ngân hàng Nhà nước và kiểm soát các ngân hàng tư nhân. Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư kể cả đầu tư ra nước ngoài và huy động vốn đầu tư từ trong nước. Nhà nước có chính sách cân bằng lại khu vực tư nhân và khu vực công cộng, đặc biệt chú trọng đẩy mạnh tư nhân hoá xí nghiệp Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng. 3.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản. ở Nhật Bản , bên cạnh những kinh nghiệm đáng chú ý khác về chính sách của Nhà nước như chú trọng đầu tư vào nguồn lực con người, vào công nghệ mới v.v..., thì sự can thiệp của Nhà nước được đại diện bởi Bộ thương mại quốc tế và công nghiệp( viết tắt là MITI), với việc đề ra và thực hiện chính sách công nghiệp một khái niệm đặc biệt của Nhật Bản với tên gọi (seisaku) thông qua hệ thống kế hoạch hoá hướng dẫn đã được nhiều nhà phân tích coi là một yếu tố quan trọng quyết định “ sự thần kỳ kinh tế” . Ngay từ những năm 1930, các công ty Nhật Bản đã được hướng dẫn về phương hướng đầu tư và sản xuất, được trợ cấp , bảo hộ thương mại và giảm thuế nếu chúng tuân theo những hướng dẫn đó. Có thể nếu đo lường sự can thiệp của Nhà nước bằng các chỉ tiêu định lượng nào đó - bằng số lượng chi phí của chính phủ hay số lượng thuế, bằng số mặt hàng bị kiểm soát giá cả, bằng tỷ trọng của các doanh nghiệp Nhà nước trong công nghiệp, hay bằng số lượng các quy chế cấm đoán hoặc giới hạn hoạt động của khu vực tư nhân - người ta sẽ còn phải tiếp tục tranh luận về quy mô của sự can thiệp là lớn hay nhỏ, nhưng điều thấy rõ ràng là sự can thiệp của Nhà nước đã có tác dụng hướng các tập đoàn tài chính công nghiệp(zaibatsu) vào một quỹ đạo phát triển có hiệu quả. Kinh nghiệm về sự can thiệp thành công của Nhà nước ở các nền kinh tế công nghiệp mới Nic châu á như Nam Triều Tiên , Đài Loan, Singapo và một số nước ASEAN như Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan cũng có nhiều đIểm tương tự như ở Nhật Bản. Song song với việc thực hiện những chính sách đIều chỉnh nhằm tạo lập và ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, sản xuất những hàng hoá thuần tuý công cộng, Nhà nước còn thực hiện một loạt biện pháp thúc đẩy phát triển như tạo ra kết cấu hạ tầng thích hợp cho phát triển kinh tếvà trực tiếp kinh doanh. Một điều đáng chú ý là ở Nhật Bản vai trò của Nhà nước không phải là bất di bất dịch trong các giai đoạn phát triển. Sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước giảm đi khi công nghiệp hoá được hoàn thành. Như đã nêu trên, Nhà nước rút bỏ các hạn chế về thể chế khi thị trường hình thành và hoạt động tốt, nhường chỗ cho khu vực tư nhân ở một số lĩnh vực công nghiệp để chuyên vốn sang khai phá những lĩnh vực mới. Chương II Thực trạng về vai trò của Nhà nước đối với CNH,HĐH và một số giảI pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta. Thực trạng về vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta. 1.1. Nhà nước thực hiện việc tạo nguồn nhân lực cho tiến trình đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Chúng ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới rất quan trọng - đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành môt nước công nghiệp. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, Hội nghị lần thứ 2 BCHTƯ Đảng khoá VIII đã khẳng định: “ Cùng với giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công CNXH, vì thế cần phát huy nguồn nhân lực cong người, yếu tố phát triển nhanh và bền vững. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay co một số vấn đề sau: Thứ nhất, sự già hoá của đội ngũ trí thức. Thứ hai, việc đầu tư cho KH và CN cũng như GD-ĐT chưa đủ để phát triển nguồn nhân lực. Thứ ba, cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta hiện nay chưa hợp lý. Thư tư, hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang xảy ra ngay trong đội ngũ trí thức. Từ thực trạng nêu trên Nhà nước ta đã đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Cần nhận thức rõ ràng rằng, chiến lược trong cạnh tranh quốc tế gay gắt là vấn đề nhân tài. Sự cạnh tranh tổng hợp của một đất nước trong thời đại hiện nay không tách rời việc bồi dưỡng nhân tài, cúng không tách rời việc nâng cao năng lực nội sinh, tố chất trí tuệ của hàng triệu người lao động ở tuyến đầu sản xuất. Vì thế công tác cán bộ phảI đặt lên hàng đầu. Người cán bộ phải biết rõ vị trí, nhiệm vụ của mình, trên cơ sở đó phát huy được năng lực cá nhân, hội tụ được trí tuệ tập thể. Nhà nước đã đưa ra các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ KH và CN, nhất là cán bộ đầu đàn. Nâng cao chất lượng GD-ĐT ở tất cả các bậc học, từng bước tiến tới đạt trình độ khu vực và quốc tế. Chúng ta ước tính hoàn thành phổ cập THCS vào năm 2010 với 95% số học sinh tốt nghiệp THCS vào THPT và hoàn thành phổ cập THPT vào năm 2015 với 70% số học sinh tốt nghiệp THPT vào đại học và cao đẳng. Thực hiện công bằng , văn minh trong sử dụng nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản để phát hiện và đào tạo nhân tài. Đảng đã có nhiều nghị quyết về vấn đề này,các bộ ngành phải thực hiện các nghị quyết của Đảng một cách nghiêm túc Đưa việc cấp bằng, chứng chỉ trong nước đi vào nề nếp. Đây là biện pháp tôn vinh nguồn nhân lực đã được đào tạo thực sự và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Tiến hành thanh tra, kiểm tra chặt chẽ quá trình đào tạo ở các cấp, bảo đảm chất lượng theo đúng quy trình, quy chế đào tạo. Nhà nước tăng cường đầu tư tài chính, đồng thời tăng cường quản lý, kiểm tra tổ chức sử dụng một cách hợp lý. Hội nghị Trung ương lần thứ 2 ( khoá VIII) đã định hướng đầu tư cho KH và CN tăng dần đến năm 2000 là 2% và đối với GD-ĐT là 15% trong tổng chi NSNN là rất đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Đào tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực từ giai cấp công nhân - lực lượng quan trọng của cách mạng Việt Nam Ngoài ra Nhà nước còn tiến hành cải cách giáo dục đại học để đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ cho quá trình CNH,HĐH. Mặc dù vậy nhưng công tác GD-ĐT vẫn còn gặp những nhiều những bất cập, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý dẫn đến tình trạng nước ta thiếu lao động có trình độ cao. 1.2. Nhà nước tích cực tìm cách giải quyết việc làm cho người lao động. Trong thời gian qua Nhà nước đã thực thi nhiều chính sách nhằm tăng số lượng người có việc làm trong độ tuổi lao động. Vấn đề này thời gian qua là một vấn đề bức xúc đối với sự phát triển chung của đất nước và ảnh hưởng đến tốc độ của quá trình CNH,HĐH. Thứ nhất, Nhà nước phát triển mạnh mẽ kinh tế xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Đó là các biện pháp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập khắc phục hiện tượng nông nhàn do tính thời vụ của nông nghiệp. Cùng với biện pháp phát triển kinh tế là biện pháp để phát triển xã hội như y tế văn hoá, giáo dục..., nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống, ổn định xã hội, giảm gia tăng dân số và nguồn lao động... Thứ hai, Nhà nước huy động mạnh các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ kinh tế ở thành thị. Với ưu thế của mình, các doanh nghiệp Nhà nước phát triển theo chiều rộng và chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy lợi thế cạch tranh sử dụng nhiều lao động, có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước về xuất khẩu của các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông, dịch vụ, du lịch... Kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác được sự giúp đỡ và quản lý của Nhà nước. Thứ ba, Nhà nước đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Thứ tư, Nhà nước thực hiện việc nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật cho nguồn nhân lực để giải quyết việc làm. Nhà nước thực hiện việc giáo dục nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực, phấn đấu phổ cập phổ thông cơ sở và phổ thông trung học đối với những đối tượng và những vùng có đIều kiện nhằm tạo thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức trong đào tạo chuyên môn kỹ thuật cho người lao động. Để có cơ cấu lao động hợp lý, một trong những biện pháp quan trọng là thực hiện chính sách phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở để tạo ra cơ cấu đào tạo hợp lý. Theo kinh nghiệm của những nước phát triển: cứ 1 người có trình độ đại học, cao đẳng cần có 4-5 người có trình độ trung học chuyên nghiệp và 10 công nhân kỹ thuật. 1.3. Nhà nước đưa ra chính sách tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình CNH,HĐH. Do cơ cấu thu ngân sách nhà nuớc theo thống kê năm 1998 là: thu từ thuế 96% cộng với thu ngoài thuế 4% còn mức bội chi NSNN chỉ ở mức 3,6% tính trên GDP - đây là những thông số tỷ lệ có thể chấp nhận được theo quan điểm của các nhà tài chính công cổ điển, từ nguyên tắc thăng bằng ngân sách tức là số thu hàng năm nếu cân bằng với số chi, đó là cơ hội tốt đẹp nhất của nền tài chính quốc gia. Tại nước ta hiện nay, hoạt động tài chính - ngân sách là phù hợp với tư duy tài chính công cổ điển trên nguyên tắc hướng tới sự cân bằng thu chi,” nhằm thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng NSNN ngày càng lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của Nhà nước, tăng tích luỹ để thực hiện CNH,HĐH đất nước... “. Con về mặt kỹ thuật, thì NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định... Thế nhưng, kết quả thực thu NSNN trong 4 năm qua đã đem lại cho các nhà nghiên cứu những lo âu, nhất là trên quan điểm hoạch định chính sách tài chính quốc gia, theo định hướng CNH,HĐH đất nước. Nếu tính từ năm 1995, thu NSNN đã đạt đến đỉnh cao 23,7% GDP và bội chi 4,4%; năm 1996 thu 22,4%GDP và bội chi 3,1%; năm 1997 thu chỉ đạt 21,4%GDP và bội chi 4,2%; năm 1998 thu chỉ tới mức 19%GDP và bội chi 3,6%. Năm 1999 Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 4 đã thông qua dự toán NSNN mức thu dự kiến bằng 102% so với ước thực hiện năm 1998, thu thuế và phí bằng 18,3%GDP và dự kiến bội chi ngân sách là 3,5%GDP Từ thực tiễn thu NSNN trong những năm qua với các số liệu cụ thể được nêu trên, Nhà nước đã thực hiện: Tiếp tục cải cách hành chính, chuyên sâu hơn nữa về mặt tổ chức và khoa học trong lãnh vực hành chính và tài chính công từ trung ương đến địa phương để có thể nắm bắt được tính thống nhất của nền tài chính quốc gia song song với tính toàn diện của thể chế ngân sách nhà nước. Hội nghị trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra ý kiến vô cùng đúng đắn và kịp thời đó là lấy việc phát huy nội lực làm tiền đề cho sự phát triển. Về chính sách tài chính, để thực hiện tốt kế hoạch thu đã đề ra trong báo cáo ngân sách, Nhà nước hoàn chỉnh những luật thuế mới, chủ yếu là thuế GTGT, theo hướng giữ những nguyên tắc cơ bản của luật, sửa đổi những quy định cụ thể cho phù hợp với điều kiện thực tế, thay cho việc xử lý từng trường hợp như hiện nay. Nhà nước nâng cao chất lượng hoạch định chính sách và công tác chuẩn bị cho việc tiến hành tiếp tục cải cách thuế, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách trên cơ sở khuyến khích sản xuất kinh doanh có hiệu quả. 1.4. Chính sách cải cách tiền lương. Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế xã hội, tác động trực tiếp đến đời sống của những người làm công ăn lương, đến đới sống của người dân trong xã hội. Đồng thời , chính sách tiền lương ảnh hưởng sâu sắc đến sản xuất, mối quan hệ tích luỹ và tiêu dùng, quan hệ giữa các tầng lớp lao động, giữa các ngành nghề, các khu vực, đến động lực phát triển và tăng trưởng kinh tế, đến năng suất và hiệu quả công tác, đến vấn đề ổn định chế độ chính trị xã hội. Vì vậy, đối với bất kỳ nước nào, Nhà nước phải thường xuyên quan tâm cải cách và hoàn thiện chính sách tiền lương. Với thực trạng của chính sách tiền lương và bối cảnh hiện nay ở nước ta Nhà nước đã quyết định cải cách chính sách tiền lương nhằm kích thích sự tích cực cũng như sự năng động của đội ngũ cán bộ công nhân viên đồng thời cũng phù hợp với nguồn ngân sách nhà nước. Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương triệt để và căn bản, tạo ra một luồng sinh khí mới đối với các tầng lớp hưởng lương từ NSNN. Chính sách lương mới thực sự là động lực để xây dựng một nền hành chính quốc gia trong sạch với một bộ máy công quyền mạnh mẽ, công minh. Nhà nước thay đổi về chất trên toàn bộ các phương diện của chính sách tiền lương từ mức lương tới đối tượng trả lương, cơ chế quản lý lương. Nhà nước đã tăng mức lương tối thiểu từ 210000đ lên 290000đ, khiến lương thực sự trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương đồng bộ với hàng loạt các biện pháp khác, đặc biệt là cải cách hành chính và cải tiến cơ chế quản lý kinh tế nhằm tránh lãng phí NSNN. Tiến hành cải cách tiền lương tập trung vào bộ máy công quyền của Nhà nước theo hướng nâng cao mức lương đảm bảo thoả mãn các nhu cầu của mức sống trên trung bình trong xã hội. Mức lương trung bình của hệ thống công quyền cao hơn mức trung bình của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Làm như vậy để thu hút những lao động thực sự có năng lực và đạo đức. Đồng thời khi tăng lương, Nhà nước vẫn chú ý tới sự ổn định của thị trường xã hội, ổn định giá cả để hạn chế những mâu thuẫn. 1.5. Nhà nước tích cực thu hút vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho sự nghiệp CNH,HĐH. Nhằm tạo lập môi trường trong nước thuận lợi cho thu hút vốn nước ngoài, Nhà nước chú trọng các biện pháp vĩ mô bảo đảm sự ổn định về chính trị, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại khai thông và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước, các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và khu vực. Thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại “ Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, đến nay chúng ta đã thiết lập quan hệ ngaọi giao với 168 quốc gia, mở rộng hợp tác kinh tế và trao đổi thương mại với 121 nước, bình thường hoá quan hệ và vay vốn của IMF, WB, ADD... Đồng thời, trong những năm qua nước ta đã áp dụng hàng loạt biện pháp nhằm tạo lập môi trường kinh tế trong nước thuận lợi cho việc thu hút đầu tư và viện trợ từ bên ngoài. Trong đó, chú trọng xây dựng và hoàn thiện các pháp chế kinh tế một cách đồng bộ, nhất quán, bảo đảm trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế, tạo lập môi trường tai chính, tiền tệ lành mạnh; khống chế lạm phát, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng ưu tiên đối với các cơ sở phục vụ phát triển kinh tế đối ngoại, củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài đã thu hút được những nguồn cốn quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam trong quá trình chuyển đổi cơ cấu. Các số liệu thống kê cho thấy chỉ trong 10 năm kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoàI (1987 - 1997), Việt Nam đã thu hút được 2076 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 30,3 tỷ USD. Đến năm 1999, Việt Nam có trên 2290 dự án, tổng số vốn đăng ký là 35,5 tỷ USD, trong đó vốn đã thực hiện là 15,1 tỷ USD. Từ năm 1991 - 1995, vốn đầu tư nước ngoài chiếm 25,7% và từ năm 1995-1999 chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Vốn đầu tư phát triển trở thành nguồn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư phát triển và đóng vai trò thúc đẩy sự nghiệp CNH,HĐH của Việt Nam. Nó đã góp phần gia tăng máy móc, thiết bị mới, công nghệ tiên tiến vào sản xuất; tạo ra hàng triệu việc làm, sản xuất được nhiều mặt hàng tiêu dùng và xuất khẩu có giá trị cao như: dầu khí, điện tử, vật liệu xây dựng... góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước trên 1 tỷ USD mỗi năm. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP tăng từ 2% năm 1992 lên 7,7% năm 1996 và 9% năm 1998. Đồng thời, để đơn giản hoá thủ tục đất đai cho các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng làm nhà máy xí nghiệp, Nhà nước cấp giấy phép sử dụng đất, đặc biệt là tiến hành nhanh các hoạt động đền bù, giải toả mặt bằng cho các dự án ĐTNN. Nhà nước cũng thực hiện đơn giản hoá thủ tục thiết kế, xây dựng và thẩm định dự án, huỷ bỏ khâu xin giấy phép xây dựng, chỉ cần Bộ xây dựng thẩm định thiết kế đối với dự án nhóm B; thời gian thẩm định không quá 20 ngày. Thực hiện cơ chế một cửa trong việc cấp giấy phép đầu tư, nhằm giải quyết nhanh đáp ứng sự mong đợi của các nhà đầu tư nước ngoài. Những điều chỉnh và bổ sung nên trên đã tạo môi trường thuận lợi hơn cho việc thu hút nguồn vốn ĐTNN, tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, đổi mới công nghệ, tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. 2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH ở nước ta thời gian tới. Nhà nước phải nhìn nhận rõ các mặt ưu và nhược điểm trong quá trình quản lý của mình từ đó phân tích làm rõ nguyên nhân để đưa ra các chiến lược, chính sách hợp lý để nâng cao vai trò quản lý của mình trong quá trình CNH,HĐH. Chỉ có như vậy Nhà nước mới phát huy được sức mạnh tối đa của mình đối với quá trình CNH,HĐH. Nhà nước đã đưa ra một số giải pháp như sau: Nhà nước cần thực hiện việc chuyển đổi nền kinh tế nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh, năng động và thực hiện tốt mục tiêu phát triển con người. Trước hết, Nhà nước cần chuyển hướng đầu tư, tập trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề bảo đảm xã hội( như về giáo dục, y tế, công bằng xã hội, phòng chống các tệ nạn...). Việc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công, và thiết lập cơ chế cần thiết để phổ cập và thu nhận thông tin chính sách và thông tin kinh tế là bước tiến quan trọng thể hiện rõ tính minh bạch của chính sách và là sự hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Những nỗ lực mở rộng thị trường xuất khẩu, hỗ trợ đào tạo, R&D, hình thành các khu công nghệ cao... của Nhà nước cũng đóng vai trò thiết thực đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh và sự phát triển lâu bền của doanh nghiệp. Trong giai đoạn chuyển đổi, cải cách cơ cấu và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ không tránh khỏi những chi phí xã hội phát sinh, nhất là về ngắn hạn. Chính vì vậy, việc thiết lập mạng lưới an sinh xã hội là hết sức cần thiết. Những yếu tố chính của mạng lưới này bao gồm hệ thống bảo hiểm, quỹ hỗ trợ và sự giúp đỡ , cung cấp nhu cầu thiết yếu cho những người nghèo... Nhà nước chú trọng xây dựng và phát triển công nghiệp vừa và nhỏ. Trong phát triển đòi hỏi phải quan tâm tới các ngành công nghiệp vừa và nhỏ vì: + Nó góp phần vào việc phát triển đồng đều giữa các vùng, nhất là các vùng hẻo lánh. + Nó sử dụng công nghệ dùng nhiều lao động. + Nó là chất xúc tác cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, tăng cường các cơ sở công nghiệp. + Nó là nơi đào tạo tài năng trẻ. +Nó khuyến khích hoạt động mang lại nhiều giá trị gia tăng từ hàng hoá và các nguồn lực tại địa phương. Để khuyến khích công nghiệp nhỏ phát triển Nhà nước tiến hành: +Xoá bỏ quan niệm chưa đúng đắn về vai trò của công nghiệp nhỏ. + Tăng cường vai trò của chính phủ để hỗ trợ việc cung cấp thông tin thị trường cho doanh nghiệp nhỏ. + Hỗ trợ việc đào tạo công nghiệp nhỏ. + Tổ chức Marketing quốc tế. + áp dụng các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ. Đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề và cán bộ quản lý nhà nước. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rằng con người luôn luôn ở vị trí trung tâm trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Đảng ta cũng xác định giáo dục đào tạo là quốc sách để tạo nguồn lực trí tuệ cho sự nghiệp CNH,HĐH nền kinh tế. Tri thức con người là một nguồn lực không bao giờ cạn và luôn được táI sinh với chất lượng ngày càng cao hơn bất cứ một nguồn lực nào khác. Không thể phủ nhận được rằng người lao động Việt Nam rất tháo vát, nhạy bén, thích ứng một cách mau lẹ đối với mọi hoàn cảnh biến động của nền kinh tế thị trường và có khả năng nắm bắt những kỹ thuật mới để sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Nhưng hiện nay, với yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước thì chất lượng của lao động, trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động Việt Nam còn thấp, hạn chế này bắt nguồn từ trình độ học vấn người Việt Nam được giáo dục và đào tạo chưa tốt. Vì vậy, cần phải có những giải pháp mấu chốt để tạo ra một sự chuyển biến về chất lực lượng lao động ở nước ta. Cụ thể là cần phải phát triển giáo dục và đào tạo một cách chủ động, đa dạng để đảm bảo các loại hình nhân lực cần thiết. Thực hiện giáo dục vững chắc cho mọi người, tạo nên mặt bằng dân trí ngày càng cao cho mở rộng đào tạo nhân lực. ở thành phố lớn nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 10% hiện nay lên khoảng 22% trong tổng số lao động xã hội. Nhà nước tiếp tục đưa ra các chính sách nhằm tạo thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trên 40% tổng số vốn đầu tư của nước ngoài vào công nghiệp( nếu tính cả lĩnh vực dầu khí là trên 60%). Như vậy, đầu tư nước ngoài đang góp phần đáng kể vào quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế nước ta theo hướng tích cực. Tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng về thu hút nguồn vốn ĐTNN, nhưng trong quá trình thực hiện Luật ĐTNN vẫn tiếp tục bộc lộ những hạn chế, khó khăn như: Thủ tục thực hiện dự án còn phức tạp, chồng chéo, qua nhiều cấp quản lý, nên trên thực tế đã làm giảm hiệu quả quản lý của Nhà nước, làm giảm tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Để khắc phục những hạn chế đó, ngày 18-2-1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP quy định chi tiết các thủ tục khi hoạt động đầu tư nhằm tạo dựng môI trường đầu tư thông thoáng hơn. Cụ thể, áp dụng mức thuế lợi tức ưu đãI 20%, 15%, 10% trong thời gian đầu tư 10 năm, 12 năm, 15 năm đối với các doanh nghiệp đầu tư có vốn ĐTNN mà sản phẩm chủ yếu sản xuất ra để xuất khẩu( 50% trở lên), các xí nghiệp sử dụng nhiều lao động(500 lao động trở lên), hoặc sử dụng công nghệ tiên tiến, các dự án môi trường, chế biến nông - lâm - hải sản, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng ở những vùng có điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội còn khó khăn ở vùng sâu vùng xa. Các dự án trong diện được hưởng thuế lợi tức ưu đãI có thể được xét miễn thuế từ 2-8 năm theo từng loại dự án. Đối với các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng như BOT ( xây dựng - kinh doanh - chuyển giao), BTO ( xây dựng - chuyển giao - kinh doanh), BT ( xây dựng - chuyển giao) thì mức thuế ưu đãI về xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp, khu chế xuất được áp dụng theo thời gian của dự án. Đồng thời để nguồn vốn ĐTNN phát huy tác dụng và hiệu quả cao đối với sự nghiệp CNH,HĐH, cần thiết phải sớm khắc phục một số vấn đề mới đang đặt ra hiện nay. Trước hết, cần có giải pháp để nguồn vốn nước ngoài đầu tư trong công nghiệp không chỉ chủ yếu tập trung vào những ngành , những vùng có đIều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, về thị trường và có khả năng thu hồi vốn nhanh ( lắp ráp ôto, xe máy, đIện tử,v.v... Mặt khác, cần xoá bỏ tình trạng thua lỗ kéo dài của nhiều dự án công nghiệp, đồng thời khắc phục sự cạnh tranh không cân sức giữa lĩnh vực công nghiệp có đầu tư trực tiếp nước ngoài với công nghiệp trong nước. Nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH cần thiết phải tiếp thu học hỏi khoa học công nghệ của những nước phát triển và áp dụng một cách có chọn lọc những công nghệ đó đồng thời cũng cần khuyến khích đầu tư sáng tạo để tạo ra những công nghệ của riêng mình phát huy tinh thần học hỏi của đội ngũ tri thức Việt Nam. Để khắc phục tình trạng công nghệ lạc hậu, Nhà nước đã từng bước ban hành các điều luật, các pháp lệnh về ĐTNN và chuyển giao công nghệ nhằm tạo lập môi trường thuận lợi, tiến tới xây dựng nền công nghiệp phát triển phục vụ CNH,HĐH. Việc tạo dựng và khai thác môi trường công nghệ quốc tế phục vụ CNH,HĐH ở nước ta thời gian qua chủ yếu là thông qua hợp tác đầu tư và nhập khẩu công nghệ. Chúng ta tiếp thu công nghệ và làm chủ nó, bảo đảm vận hành tốt tiến tới cải tiến từng bộ phận để thích nghi với từng đIều kiện cụ thể của ta, nâng cao hơn nữa sự sáng tạo quy trình công nghệ mới. Đây cũng chính là quá trình tăng thêm nội lực của chuyển giao công nghệ, là hướng phát triển cơ bản trong việc xây dựng môi trường công nghệ phục vụ CNH,HĐH, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn. Để quản lý và kiểm soát tốt quá trình chuyển giao công nghệ, Nhà nước đã có những bước chuẩn bị khá chu đáo, ban hành và điều chỉnh các điều luật, pháp lệnh, Luật Đầu tư nước ngoài cho phù hợp với tình hình mới. Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam, pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, pháp lệnh về chất lượng hàng hoá v.v...đã giúp Chính phủ kiểm soát và quản lý chặt chẽ hơn quá trình chuyển giao công nghệ, bước đầu khai thác được môi trường công nghệ quốc tế tiên tiến đáp ứng từng bước yêu cầu CNH,HĐH. Nhà nước cần tiếp tục phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện mới. Chúng ta đang sống và phát triển trong “ thị trường thế giới”. Trong thị trường đó sức lao động là hàng hóa. Do đó các dịch vụ phát triển chất lượng sức lao động cũng là hàng hoá. Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đến Việt Nam lập các trường, các cơ sở liên kết đào tạo, vận động du học..., các nhà đầu tư trong nước đầu tư vốn mở trường đào tạo. Họ đang hoạt động trong thị trường giáo dục đào tạo của Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước Việt Nam cần khẳng định rằng giáo dục đào tạo là một thị trường và là một thị trường đặc biệt, ở đó vai trò điều tiết của Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Để tạo điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong xã hội. Nhà nước cần chú ý một số vấn đề: + Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua việc: Đầu tư đúng mức cho giáo dục và đào tạo; Cải tiến nội dung và phương pháp đào tạo sao cho các sản phẩm của quy trình đào tạo phù hợp với yêu cầu của xã hội; Mở rộng quy mô đào tạo; Tăng cường sự quản lý lãnh đạo của Đảng và Nhà nước sao cho vừa đảm bảo tính thống nhất trong giáo dục và đào tạo vừa đảm bảo tính chủ động sáng tạo của các cơ sở đào tạo. +Tăng cường công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe người dân nhằm nâng cao thể chất cho người lao động. + Tiếp tục đẩy mạnh công tác dân số - kế hoạch hoá gia đình tạo điều kiện nâng cao sức khoẻ thể chất và phát triển nhân cách của người dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. + Kiên quyết phòng chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội nhằm tạo môi trường sống lành mạnh mà ở đó con người sẽ phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nâng cao tính chủ động sáng tạo. + Đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong sản xuất kinh donah, qua đó đòi hỏi con người phải không ngừng nâng cao trình độ của mình để có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật mới công nghệ mới, phương pháp mới, góp phần tạo ra một đội ngũ những người lao động có đủ năng lực làm việc. Kết luận Kể từ khi Nhà nước xuất hiện trong xã hội loài người cho đến khoảng thế kỷ 19, ở tất cả mọi nơi nó thực hiện những chức năng tương tự như nhau. Đó là quốc phòng, xây dựng đường sá và đê điều, bảo vệ nguồn nước, đúc tiền, đề ra và thi hành pháp luật. Cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành ở một số nước vào cuối thế kỷ 19 đã làm thay đổi lối sống cổ truyền, buộc nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh trong kinh tế nhằm đảm bảo tính hiệu quả của sự cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi của các cá nhân. Nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh như người trọng tài duy trì các luật chơi của thị trường. Những quốc gia thực hiện CNH,HĐH muộn hơn tiến thêm một bước trong việc làm cho Nhà nước đóng vai trò nặng nề hơn trong nền kinh tế. Nhà nước ở những quốc gia đó không chỉ quan tâm đến luật chơi, mà can thiệp vào chính nội dung của hoạt động kinh tế. Nó vạch ra kế hoạch phát triển dài hạn hoặc ngắn hạn, đưa ra những ưu tiên đối với các ngành công nghiệp và hoạt động thương mại, thi hành các chính sách khuyến khích hoặc kiềm chế các lĩnh vực hoạt động kinh tế khác nhau, thậm chí trực tiếp tiến hành kinh doanh trong một số lĩnh vực. Gọi một cách ngắn gọn thì đó là chức năng phát triển. Qua tất cả những gì ở trên ta thấy rằng bất cứ một quốc gia nào khi thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa nền kinh tế nước nhà đi lên đều phải có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Nhà nước điều tiết nền kinh tế cũng như tạo ra những điều kiện thuận lợi để đưa quá trình CNH,HĐH đi đến thành công. Và đất nước ta cũng không ngoại lệ, một đất nước còn đang nằm trong tình trạng nghèo đói so với các quốc gia trên thế giới thì việc thực hiện quá trình CNH,HĐH lại càng phải được tiến hành nhanh chóng để nước ta có thể sớm được “ Sánh vai với các cường quốc năm Châu”, với mục tiêu như vậy Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên tạo lập thúc đẩy những tiền đề cơ bản nhằm nâng cao tiến độ cho quá trình CNH,HĐH. Điều này cho thấy việc tiến hành CNH,HĐH không thể nào tách rời sự quản lý điều tiết của Nhà nước hay nói cách khác vai trò của Nhà nước trong quá trình CNH,HĐH là một điều tất yếu. Qua đây cũng thấy được rằng tôi và các bạn là những các bộ trong tương lai, sẽ đóng góp một phần vào sự phát triển của nước nhà. Vậy chúng ta sẽ phải làm gì để xứng đáng là con người Việt Nam. Riêng đối với bản thân tôi khi thực hiện quá trình nghiên cứu về vai trò tất yếu của Nhà nước đối với quá trình CNH,HĐH tôi đã phần nào nhận ra được vai trò cũng như hành động của mình trong tương lai sau này. Khi thực sự trở thành một người đóng góp sức lực cho sự nghiệp CNH,HĐH của đất nước, tôi thấy rằng mình cần phải hết sức phấn đấu để góp phần đưa nền kinh tế đất nước tiến lên. Mọi hoạt động của tôi cũng như của các bạn cần phải tiến hành theo đúng pháp luật mà Nhà nước đặt ra bởi tất cả những gì mà Nhà nước thực hiện đều đúng đắn nhằm đẩy mạnh quá trình CNH,HĐH đưa nền kinh tế sang một trang mới. Hoạt động của ta nên tránh sai lầm không đúng theo pháp luật bởi nếu vậy ta có thể gây ra cho Nhà nước những thiệt hại to lớn. Nói chung qua việc nghiên cứu đề tài này em đã thấy được con đường phấn đấu cho quá trình hoạt động kinh doanh của mình sau này. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Nhà xuất bản giáo dục. Nguyễn Sỹ Cương: Hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Tổ chức Nhà nước, số 7/1999. PGS.TS. Lê Du Phong: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Kỷ yếu hội thảo khoa học 40 năm thành lập đại học KTQD, Hà Nội, 11/1996. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 2001. TH.S. Phạm Hồng Chương: Một số ý kiến về cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam. Ngô Ngọc Bửu & Nguyễn Văn Thanh: Chính sách tài chính quốc gia nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Phát triển kinh tế, số 110 - 12/1999. Nguyễn Hoàng Giáp: Khai thác môi trường kinh tế quốc tế cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Nghiên cứu kinh tế, số 267 - 8/2000. GS.TS. Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam – Tạp chí kinh tế và phát triển - 6/2000. Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan: Công nghiệp hoá và hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực. NXB Thống kê, Hà Nội, 1994. Ts. Nguyễn Văn Sáu: Những chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghiên cứu lý luận, số 3/1996. Ts. Phan Xuân Dũng: Tạo nguồn nhân lực cho tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước – Tạp chí quản lý Nhà nước, số 4/1999.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35417.doc
Tài liệu liên quan