Đề tài Thực trạng việc thực hành tiết kiệm

Tăng cường năng lực quản lý của các cơ quan quản lý về môi trường, tài nguyên khoáng sản ở trung ương cũng như ở địa phương. Xây dựng hệ thống lọc về môi trường, sinh thái, hiệu quả khai thác. Chấm dứt tình trạng di dân tự do làm nhà tự phát ven sông, suối, sườn núi dốc ở các tỉnh miền núi Quy hoạch khu dân cư mới thúc đẩy chiến lược trồng và bảo vệ rừng, hoạch định các khu vực khai thác tài nguyên rõ ràng. Tăng cường kiểm soát phòng chống tai biến thiên nhiên và sự ccó môi trường. Đặc biệt là những tai biến nhân tạo từ nhà máy, công trường khai thác gây ra. Thực hiện tốt luật môi trường, đặc biệt là các vấn đề: bảo vệ cảnh quan, bảo vệ không gian, giữ vệ sinh môi trường, rèn luyện thể lực con người có ý nghĩa rất lớn.

doc38 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng việc thực hành tiết kiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười. Tiết kiệm tiền hay rộng hơn là tiết kiệm vốn trong doanh nghiệp là làm vốn quay vòng nhanh, đồng thời khi nguồn vốn ít ỏi cần chống đầu tư phân tán giảm rủi ro cho đồng vốn Tiết kiệm là quốc sách cũng đồng nghĩa với việc loại trừ lãng phí, tham ô là quốc sách. Lãng phí là sử dụng nguồn lực tài chính, nhân lực và các nguồn lực khác quá định mức hoặc tốn kém, hao tổn một cách vô ích. Trong tác phẩm "Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống căn bệnh quan liêu" chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc chống nạn tham ô lãng phí và bệnh quan liêu. Ngày nay có người, có lúc đã nhầm tưởng rằng chỉ có quan chức mới có thể tham ô, nhưng theo Bác "nhân dân mà ăn cắp của công khai, lậu thuế" cũng là tham ô Có thể nói, tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu là nỗi nhức nhối của toàn xã hội. Vì vậy, chúng ta cần vạch ra những kế hoạch cụ thể để tổ chức đấu tranh chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Bác Hồ đã từng nói: "chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là cách mạng là dân chủ". Cũng như chúng ta cần có những giải pháp đồng bộ, cụ thể và nghiêm minh thì mới có thể thành công trong việc loại trừ tệ nạn này. Mặt khác, vai trò của mỗi người dân là vô cùng quan trọng, để tiết kiệm là quốc sách thì tiết kiệm phải từ mỗi người dân, tiết kiệm trong từng sinh hoạt đến trong lao động. Chỉ có ý thức tiết kiệm đi vào nhân dân thì mới mong có tích luỹ cao, từ đó có tỷ lệ tiết kiệm cao, đầu tư phát triển mới được mở rộng, mới mong có tăng trưởng kinh tế. Nhân dân phải biết tiết kiệm thì mới mong các nguồn lực xã hội được bảo tồn, duy trì, sử dụng có hiệu quả, mới mong xã hội phát triển bền vững. Tiết kiệm là quốc sách cũng có nghĩa là tiết kiệm là sự nghiệp của toàn dân. Như vậy, về lý luận ta đã nghiên cứu những khái niệm, nguyên nhân cũng như những việc cần làm ngay trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. ở những phần tiếp theo ta sẽ nghiên cứu cụ thể thực trạng việc tiết kiệm cũng như những giải pháp cơ bản cho vấn đề này. Phần II Thực trạng việc thực hành tiết kiệm I.Thực trạng chung thực hành tiết kiệm hiện nay ở nước ta Trước thực trạng về tình hình lãng phí trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế ngày 26/2/1998 Uỷ ban thường vụ quốc hội đã ban hành pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Từ chỗ chỉ là một chủ trương nay pháp lệnh này đã trở thành một văn bản có tính pháp lý cao và được các cấp các nghành quán triệt thực hiện. Sau một thời gian nó đã đem lại những kết quả nhất định như : Nguồn vốn huy động trong nền kinh tế tăng lên đáng kể, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt khoảng 640 nghìn tỷ đồng (tương đương 58 tỷ USD) tăng bình quân 17,9% trong đó vốn NSNN tăng 15,5%, vốn tín dụng đầu tư tăng 26,1%, vốn của DNNN tăng 23,3%, vốn đầu tư của dân cư và tư nhân tăng 9,9%. Ngân sách nhà nước đã được sử dụng hợp lý hơn tập trung cho các dự án công cộng, hỗ trợ đầu tư cho các vùng khó khăn , đầu tư vào cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn và các cơ sở giáo dục đào tạo. Với các doanh nghiệp nhà nước trực tiếp sản xuất kinh doanh được khuyến khích sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi, tự chịu trách nhiệm về mặt tài chính với hoạt động của đơn vị mình chính vì thế mà đã làm cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn trong việc sử dụng tiết kiệm vốn đầu tư và các nguồn lực khác. Nguồn vốn trong khu vực tư nhân và dân cư cũng được huy động bằng các chính sách về ưu đãi đầu tư khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình làm cho nguồn tiền tiết kiệm trong khu vực này được sử dụng hiệu quả hơn vừa làm tăng quy mô phát triển cho nền kinh tế. Bên cạnh những thành tựu bước đầu đó chúng ta cũng thấy tiết kiệm như một căn bệnh đã giảm nhưng chưa dứt của nền kinh tế Việt Nam. Sau khi thực hiện đồng loạt kiểm tra ở một số nơi thấy số tiền mà các địa phương tự ý giữ lại trong khi phải nộp cho NSNN là 113,5 tỷ VND , trong công tác tín dụng cho vay lãng phí hơn 300 tỷ với các dự án không có khả năng thu hồi , chi phí cho xây dựng tu bổ công sở ở các địa phương không ngừng tăng vượt chi tới hơn 50%. Hơn thế nữa tài nguyên thiên nhiên cũng bị khai thác bừa bãi do sự tiếp tay của một số cán bộ nhà nước làm cho nguồn tài nguyên này bị suy giảm nghiêm trọng. Chi tiêu của dân cư cũng ngày phát sinh nhiều khoản lãng phí cùng với sự phát triển ngày càng cao của đời sống. Trước thực trạng đó ngày 30/11/2001 Thủ tướng chính phủ ra chỉ thị số 29/CT-TTg nhằm yêu cầu tất cả mọi ban nghành các tổ chức và dân cư tiếp tục thực hành tiết kiệm. II.Tiết kiệm trong hộ gia đình Dân cư là một phần quan trọng trong nền kinh tế nên sự chi tiêu của dân cư có tác động rất lớn đến nền kinh tế. Nếu chỉ tính riêng phần tiền mà dân cư không kinh doanh nắm giữ thì đã xấp xỉ 1/4 tổng đầu tư toàn xã hội như vậy mới cho thấy tiềm năng khu vực này là rất lớn. Do tác động tiêu cực từ nền kinh tế thế giới trong năm 2001 nên Ngân hàng nhà nước liên tục hạ lãi suất huy động vốn nhưng nhu cầu gửi tiền của nhân dân lại không hề giảm thậm chí còn tăng 22% như ở Tp.HCM là 106.900 tỷ đồng điều này không chỉ một lần nữa chứng minh tiềm lực vốn trong dân cư là rất lớn mà nó còn cho thấy khi đời sống kinh tế khá hơn thì nhu cầu tích luỹ cho tương lai của dân cư ngày một tăng và giải pháp gửi tiết kiệm được mọi người lựa chọn thay vì giữ tiền ở nhà như trước đây. Không chỉ có vậy khi đời sống của dân cư tăng lên kèm theo nó là sự phát triển của hàng loạt các dịch vụ khác ra đời mà một trong các dịch vụ có khả năng huy động vốn rất hiệu quả gần đây được nhắc tới nhiều là các dịch vụ bảo hiểm. Thời gian từ năm 1995 các công ty bảo hiểm nước ngoài tiến vào thị trường Việt Nam với một tiềm lực tài chính rất mạnh và một hệ thống dịch vụ thật hoàn hảo như AIA, Prudentialhọ đã thu hút được nhiều người tham gia và huy động được nguồn vốn rất lớn, điều mà trước đó chưa một công ty bảo hiểm nào của Việt Nam làm được. Thử làm một phép tính với một hợp đồng bảo hiểm 5 năm mệnh giá thấp nhất mỗi năm phải đóng 1.200.000 VND thì với 15.000 hợp đồng mà Prudential giành được trong năm đầu vào Việt Nam thì số tiền đã lên tới 18.000.000.000 VND một con số mơ ước của các công ty bảo hiểm Việt Nam mà thực tế con số này còn lớn hơn nhiều. Thêm một ví dụ khác về tích luỹ dân cư đó là tích luỹ dân cư Hà Nội chỉ tính riêng bộ phận dân cư có tích luỹ cao chiếm 20% dân số với mức thu nhập bình quân 1triệu VND/tháng tỷ lệ tích luỹ 20% thì số tiền nhàn rỗi trong khu vực này (54 vạn người) đã là 16.200 tỷ VND nếu tính thêm cả mức thu nhập của người có thu nhập khá (khoảng 120 nghìn hộ) thì số tiền đã là khoảng 2.000 tỷ VND/năm. Vậy có thể thấy không phải là nguồn vốn trong dân cư ít mà là chúng ta chưa có biện pháp thu hút vốn hữu hiệu mà thôi. Trong điều kiện nguồn vốn NSNN là hữu hạn thì nguồn vốn dân cư lớn như vậy có thể huy động cho nền kinh tế là một điều mà chúng ta rất cần hiện nay. Tuy nhiên đúng như bản chất của tiết kiệm là tiết kiệm chỉ có khi người ta đã thoả mãn đầy đủ các nhu cầu của tiêu dùng hiện tại. Trong nghiên cứu mức tiêu dùng của người dân hiện nay cũng còn có rất nhiều vấn đề phải nói vì tính lãng phí chưa tiết kiệm trong chi tiêu của dân cư. Gần đây đài báo nói rất nhiều đến việc chưa tiết kiệm trong cưới hỏi. Trung bình một đám cưới "bình thường" là khoảng 30-40 mâm chi phí sẽ từ 12-15 triệu đồng chưa kể đến những đám cưới của con các cán bộ có địa vị hoặc gia đình có điều kiện, trung bình 100 mâm ở các khách sạn lớn là chuyện 0bình thường.Vậy tại sao chúng ta không chấm dứt tình trạng này ? Thật ra trước hết đó là vấn đề trong cách nghĩ của mỗi người vì nếu Chính phủ có đưa ra các biện pháp , các quy định về tổ chức cưới theo nếp sống mới cũng chỉ là biện pháp khuyến khích không thể phạt trong việc này, do đó muốn chống lãng phí trong tổ chức cưới hỏi thì trước hết phải có các biện pháp tuyên truyền làm thay đổi cách nghĩ trươc đây của người dân và các tầng lớp thanh niên với các đám cưới tiết kiệm theo nếp sống mới sẽ là các điển hình nhân rộng ra toàn quốc khi nó đã thành phong trào thì chắc sẽ được mọi người ủng hộ. Không chỉ có lĩnh vực này mà trong đời sống văn hóa tinh thần vẫn còn một vấn đề cần phải bàn về tính lãng phí. Đó là việc đốt vàng mã quá nhiều trong các dịp lễ tết nhất là dịp đầu năm vừa gây lãng phí vừa làm ô nhiễm cảnh quan môi trường, số tiền giấy vàng đốt riêng vào dịp này giá trị lên đến hơn 20 tỷ đồng một con số không nhỏ với một nền kinh tế còn chậm phát triển như Việt Nam Thờ cúng tổ tiên, đi lễ chùa là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta và xét cho cùng bản sắc văn hóa là không thể bị mai một chúng ta cần gìn giữ nhưng cũng không thể không có định hướng đổi mới để làm sao các lễ hội hàng năm thực sự là niềm vui của nhân dân và vẫn cần phải tiết kiệm. Lãng phí, chưa tiết kiệm còn thể hiện rất rõ ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân. Nước sạch là nguồn tài nguyên rất quý tuy cả thế giới có 3/4 là nước nhưng chỉ có 5% là nước ngọt mà trong đó chưa tới 20% là được sử dụng (phần còn lại ở các cực trái đất), thế mà các hộ gia đình sử dụng chưa thật sự tiết kiệm nhất là nhiều nơi chưa lắp đồng hồ nước thì sử dụng thoải mái không hề để ý. Nó không còn chỉ là việc dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu mà nó còn ảnh hưởng đến tiêu dùng nước của các nơi khan hiếm khác. Tương tự dùng điện sinh hoạt cũng thật sự lãng phí , mặc dù đã áp dụng chế độ tăng tiền cho số điện dùng sau nhưng dường như tình trạng lãng phí cúng không giảm, nhà nước cũng phải ban hành các quy định kêu gọi toàn dân tiết kiệm trong giờ cao điểm.Vậy tại sao chúng ta lại phải kêu gọi mọi người tiết kiệm trong khi họ càng dùng tăng thì thu tiền điện càng nhiều, vì một lý do rất đơn giản là điện là một trong những mặt hàng được chính phủ trợ giá nên càng dùng tăng thì lãng phí càng nhiều (khác hẳn các nước khác dùng nhiều thì các công ty kinh doanh điện càng thu nhiều) nên chính vì mới có khẩu hiệu mỗi nhà tắt một bóng đèn không sử dụng vào giờ cao điểm, mỗi năm tiết kiệm được cho ngân sách hơn 10 tỷ đồng. Vì vậy tiết kiệm không chỉ cho mình mà còn cho cả nền kinh tế. Tuy vậy tiết kiệm không có nghĩa là " thắt lưng buộc bụng" trong điều kiện mình vẫn cần dùng chỉ nên tiết kiệm khi tiêu dùng một thứ nào đó không thực sự cần thiết như vậy đối với mỗi người là nhỏ nhưng với gần 80 triệu dân Việt Nam thì lại có ý nghĩa rất lớn. Ngay ở Thái Lan thực tế cũng chứng minh một điều như vậy : Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 nền kinh tế Thai lan suy giảm nghiêm trọng Chính phủ kêu gọi mọi người hãy thực hiện tiết kiệm và hãy quyên góp một phần cho NSNN chỉ sau một thời gian nền kinh tế Thai lan đã phục hồi như trước khi xảy ra khủng hoảng. Có lẽ bàn về vấn đề tiết kiệm của dân cư còn rất nhiều điều đáng nói nhưng quan trọng hơn cả là hãy nhìn nhận đây là một nguồn lực rất lớn mà chúng ta chưa khai thác hết được để phát triển kinh tế ; thực tế qua bài học của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước trong khu vực thì thấy hướng sử dụng các nguồn lực dân cư của nước ta còn rất kém chủ yếu chỉ là tiết kiệm đơn thuần mà chưa kết hợp với đầu tư có hiệu quả bởi tiết kiệm chính là nguồn gốc của đầu tư mà đầu tư lại là tiết kiệm cho tương lai. Vậy tiếp theo chúng ta vẫn cần đẩy mạnh tiết kiệm trong dân cư bên cạnh đó là việc làm sao sử dụng có hiệu quả những gì tiết kiệm được cho phát triển kinh tế chứ không để nguồn lực to lớn này lại bị lãng phí tiếp. III.Tiết kiệm trong khu vực hành chính sự nghiệp Nền hành chính của mỗi quốc gia có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một nước. Nền hành chính càng vững mạnh và phát triển, độ bền vững càng cao thì nền kinh tế của một quốc gia mới càng có điều kiện phát triển. Kể từ khi đất nước giành được độc lập nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thu được những thành tựu khá to lớn trên mọi phương diện. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế xã hội nền hành chính nước ta cũng có thay đổi lớn lao trải qua nhiều biến đổi khác nhau từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay đang diễn ra một mâu thuẫn giữa đòi hỏi bức bách phải có một bộ máy hành chính nhà nước trong sạch vững mạnh, quản lý có hiệu lực cao với thực trạng còn nhiều yếu kém về năng lực quản lý và về tinh thần của đội ngũ cán bộ hiện nay kể cả ở cấp TW và địa phương. Thực trạng ấy đang gây trở ngại lớn cho việc triển khai cải cách hành chính mà chính phủ đang chỉ đạo thực hiện trong toàn bộ hệ thống hành chính nhà nước dưới sự giám sát của TW đảng. Tại đại hội đảng IX đã đề ra chủ trương:" Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị , quốc phòng trong cả nước bằng hệ thống pháp luật và chính sách hoàn chỉnh đồng bộ". Chính định hướng này đã tạo ra hướng thực hiện cụ thể là tiến hành phân cấp trong bộ máy hành chính nhà nước tức là Chính phủ không thể vừa hoạch định chính sách vừa là quản lý việc thực hiện chính sách đó như vậy tạo nên sự chồng chéo trong bộ máy nhà nước mà những công việc thực hiện phân cấp cụ thể cho các bộ nghành liên quan thực hiện tạo ra sự đồng bộ thống nhất mà lại chống lãng phí nguồn lực. Một vấn đề khác là biên chế nhà nước hiện nay quá đông theo niên giám thống kê năm 2001 lao động trong khu vực hành chính nhà nước là 3.419.700 người trong đó: Xây dựng : 369.900 Nông-lâm nghiệp : 213.600 Tài chính-tín dụng : 59.900 Giáo dục, đào tạo : 861.800 Y tế : 196.300 đơn vị : người. Cứ 10 người thuộc biên chế thì có trên 2 người là không cần thiết tức là hiệu quả của bộ máy hành chính nước ta chỉ đạt gần 80%, đây là một sự lãng phí lớn cho nhà nước. Tại Tp.HCM một thành phố luôn đi đầu trong thực hiện cải cách hành chính nhà nước ở Việt Nam đã tiến hành thí điểm khoán biên chế và kinh phí quàn lý hành chính gảim 221 biên chế tiết kiệm được hơn 16,59 tỷ đồng, và việc đưa mô hình chính phủ điện tử vào thực hiện cũng giúp tiết kiệm thời gian công sức cho người dân và hiệu quả kinh tế tiết kiệm hơn 1,2 tỷ đồng tiền chi phí phải bỏ ra cho việc quản lý thông thường . Bên cạnh vấn đề biên chế quá đông là việc trình độ của cán bộ công chức thường chưa cao.Nếu tính trung bình một người lao động làm việc đến 55 tuổi thì về hưu thì thời gian họ làm việc quãng chừng 30 năm và cứ ở nguyên vị trí đó nếu như vậy thì trong 30 năm đó nếu không được thường xuyên nâng cao trình độ thì không thể nào theo kịp trình độ phát triển của đất nước.Trong khi đó một tỷ lệ không nhỏ SV tốt nghiệp đại học có trình độ không có việc làm hoặc làm với nghành nghề không đúng trình độ vì vậy vẫn xảy ra tình trạng thừa thì vẫn thừa thiếu thì vẫn thiếu lãm cho sự lãng phí chi trả lương của NSNN ngày càng tăng. Mặt khác việc bộ máy cồng kềnh thì chi tiêu trong lĩnh vực hành chính công cũng thật sự chưa tiết kiệm. Mặcdù nhà nước đã ban hành các pháp lệnh về thực hành tiết kiệm chống lãng phí song trong chi phí co hành chính sự nghiệp vẫn còn lãng phí lớn nhất là các khoản chi cho mua sắm ôtô, trang thiết bị , xây sựng trụ sở làm việc, điện thoại chiếm tới 60-70% chi phí của các đơn vị hành chính sự nghiệp mà lâu nay vẫn biết đến dưới cái tên "tiền chùa".Trong một cuộc họp mới đây với lãnh đạo 61 tỉnh thành phố Thủ tướng chính phủ đã phải kêu lên: Các bộ, nghành TW thừa 133 xe ôtô các địa phương thừa 1173 xe ôtô vậy mà người ta vẫn đua nhau thay xe đắt tiền và thậm chí còn cắt xén ngân sách giáo dục để xây công sở sắm vật chất. Theo quyết toán năm 2000 thì chi trong quản lý hành chính vượt dự toán hơn 50% gây ra tình trạng láng phí ngân sách nhà nước. Tóm lại những bất cập trong chi tiêu hành chính là bộ máy quản lý còn cồng kềnh, gánh nặng biên chế lớn, bên cạnh đó chất lượng cán bộ công chức cũng chưa cao nên vấn đề bây giờ là thực hiện chống lãng phí triệt để trong nền kinh tế. IV.Tiết kiệm trong doanh nghịêp Nước ta chủ trương xây dựng CNXH thông qua phát triển kinh tế thị trường mà kinh tế nhà nước giữ vị trí chủ đạo. Với tỷ trọng hơn 70% của chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế và những năm gần đây nước ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 7%.Trong đó các DNNN vẫn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng số vốn và 85% tài sản cố định, khoảng hơn 80% lực lượng lao động được đào tạo có hệ thống. Hàng năm các doanh nghiệp nhà nước đóng góp cho NSNN gần 30% GDP của nhà nước trong đó số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả chiếm khoảng 40%. Thực tế đã chứng minh có được kết quả này là do một số doanh nghiệp với đội ngũ cán bộ quản lý nhiệt tình luôn đi sâu sát nhạy bén trong quản lý, khai thác thị trường, không ngừng cải tiến sản phẩm bằng cách đổi mới công nghệ hiện đại đã khẳng định vai trò chủ đạo trong nền kinh tế của mình.Tuy nhiên với tiềm lực lớn cả về tài chính và nhân lực như vậy mà kết quả đạt được chỉ như trên thì có thể nói các doanh nghiệp nhà nước làm ăn chưa thực sự hiệu quả còn lãng phí các nguồn lực. Hiện nay có khoảng 29% DNNN hoạt động trong tình trạng thua lỗ. Bên cạnh đó chất lượng của các DNNN chưa cao đến tháng 5/2001 mới chỉ có 4,1% tổng số các doanh nghiệp nhà nước được chứng nhận là đạt tiêu chuẩn quốc tế. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự đầu tư của nhà nước. Trong 4 năm (1997-2000) NSNN đã đầu tư cho doanh nghiệp gần 8200 tỷ đồng, ngoài ra miễn giảm thuế 1315 tỷ đồng, xoá nợ 3392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng, giảm khấu hao 200 tỷ và cho vay ưu đãi 9000 tỷ đồng. Có lẽ chính do được nhà nước hỗ trợ quá nhiều nên các doanh nghiệp có phần ỷ lại vào NSNN nên chưa quan tâm đến hiệu quả của đồng vốn được giao. Cơ chế xin cho đã tồn tại suốt một thời gian quá dài trong nền kinh tế kể cả khi đã chuyển sang nền kinh tế thị trường, chính sự bảo hộ quá nhiều của nhà nước càng làm cho tư tưởng ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó các công ty nhà nước làm ăn có lãi trong thời gian qua chủ yếu là các tổng công ty nhà nước hoặc các doanh nghiệp có nguồn vốn lớn họ có lãi nhờ rất nhiều vào việc được tự do sử dụng rất nhiều tài nguyên hoặc độc quyền kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó (ví dụ như Tổng công ty điện lực Việt Nam, Tổng công ty bưu chính viễn thông, Tổng công ty dầu khí Việt Nam hoặc Tổng công ty đường sắt Việt Nam). Nhìn chung toàn bộ doanh nghiệp trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước thì hiểu quả sử dụng vốn và tài sản rất thấp và đang có xu hướng giảm sút, trong nghành công nghiệp với một đồng vốn chỉ làm ra 0,024 đồng lợi nhuận và đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp trong khi đó khu vực này chiếm tới 47,4% vốn và 28,5% lao động. Thực tế vốn và tài sản không được sử dụng có hiểu quả, trong các doanh nghiệp nhà nước còn có tình trạng dư thừa lao động. Tính đến thời điểm tháng 6/1999 số lao động không đựơc bố trí việc làm là 42000 người chiếm 6,08% tổng số lao động hiện có của các doanh nghiệp nhà nước tình trạng này có xu hướng tiếp tục gia tăng .Dự tính đến năm 2003 thì sẽ có khoảng 9,76% lao động dư thừa không được bố trí việc làm. Một số doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt có năng lực yếu, kém năng động, tham nhũng, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm đi hiểu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Thực tế này là do đội ngũ cán bộ này được đào tạo từ trước những năm đổi mới nên chủ yếu vẫn ảnh hưởng của tác phong làm việc thời bao cấp, trình độ ít được trau dồi nếu có chỉ là các bằng cấp đào tạo tại chức ít có giá trị thực tiễn trong thời đại hiện nay. Khi nền kinh tế thị trường phát triển mạnh ở VIệt Nam trong những năm gần đây đòi hỏi đội ngũ cán bộ có trình độ cao đáp ứng không chỉ nhu cầu trong nước mà còn là nhu cầu tăng cường hợp tác quốc tế do đó những rào cản trong trình độ của các cán bộ lãnh đạo đã làm hạn chế bớt tính cạnh tranh đổi mới của doanh nghiệp, họ chưa quen với sự cạnh tranh gay gắt và rủi ro cao của nền kinh tế thị trường tư tưởng trông chờ ỷ lại vào bao cấp nhà nước còn nặng nề. Doanh nghiệp được đầu tư mất cân đối về cơ sở vật chất ngay từ khi được thành lập, hệ thống máy móc thiết bị công nghệ sản xuất, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10->20 năm nên hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá chưa cao. Trong tình hình phát triển rất nhanh của khoa học công nghệ hiện nay thì đối với các nước trên thế giới chỉ từ 5-7 năm là khấu hao hết một đời công nghệ trong khi đó với Việt Nam thì chu kỳ đó kéo dài từ 10-20 năm thậm chí đến nay đã là thế kỷ 21 mà còn nhiều nhà máy ở nước ta vẫn sử dụng công nghệ của những năm 30 thế kỷ trước như nhà máy xi măng Hải Phòng, thép Thái Nguyên và chỉ đến khi ô nhiễm môi trường của máy móc công nghệ gây ra rất lớn hiệu quả quá kém thì các doanh nghiệp mới chịu đầu tư đổi mới. Không chỉ có vậy ngay cả các máy móc, dây chuyền công nghệ mới nhập của Việt Nam trong những năm vừa qua cũng là máy móc của những năm 70 khá lạc hậu, ô nhiễm mà hầu như các quốc gia phát triển trên thế giới đã không sử dụng; có tình trạng này là do sự chủ quan trong khâu giám định của chúng ta và lại "thích hàng rẻ" nên khi mua về máy móc hoạt động không tốt gây ra sự lãng phí rất lớn cho ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước. Ngay từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII Đảng và nhà nước đã xác định việc "đi tắt đón đầu trong công nghệ" song hiện nay chúng ta vẫn chưa thực hiện được điều đó ngay cả trong các nghành chủ chốt của nhà nước, các tổng công ty có tiềm lực tài chính lớn nhưng sản phẩm sản xuất vẫn chỉ là sản xuất chế biến sản phẩm thô như nghành dầu khí Việt Nam : chúng ta xuất sản phẩm thô nhưng lại phải nhập sản phẩm tinh chế gây ra sự lãng phí rất lớn hoặc các doanh nghiệp kinh doanh nông sản do chưa chú trọng đến thương hiệu hàng hoá nên cùng gía trị với sản phẩm các nước trong khu vực chúng ta chỉ xuất với giá 1/3-1/2 giá của nước hàng hoá có thương hiệu, hàng năm kim nghạch xuất hàng nông sản của chúng ta đạt tới 4,7 tỷ USD nên nếu xuất với giá thấp hơn thì lãng phí là rất lớn. V.Tiết kiệm trong sử dụng tài nguyên Tài nguyên thiên nhiên là một trong 3 điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế của một quốc gia. Đất nước ta nguồn tài nguyên khá đa dạng và phong phú, đây là điều kiện thuận lợi để đất nước ta phát triển kinh tế " tự lực tự cường phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực". Điều này được thể hiện bởi những yếu tố : 5.1. Tài nguyên nước Nước ta có một mạng lưới sông ngòi dày đặc trung bình cứ 30 km lại có một con sông, phân bố đồng đều theo chiều dọc của đất nước. Tổng lượng dòng chảy là 867 tỷ m3/ năm, trong đó nước hình thành trong nội địa là 326 tỷ m3/ năm. Chỉ cần khai thác từ 10% đến 15% trữ lượng nói trên có thể đảm bảo yêu cầu sản xuất, đời sống (hiện nay mới chỉ khai thác 3% chủ yếu là nước cơ bản từ các dòng sông). Trữ lượng nước trên mặt đất lớn nhưng phân bố không đều: ba con sông lớn sông Hồng, sông Cửu Long, sông Cả, chiếm 80% tổng lượng dòng chảy, riêng sông Cửu Long chiếm trên 500 tỷ m3 nước trong một năm. Nước ngầm nước ở nước ta là một bộ phận quan trọng của nguồn nước thiên nhiên, dồi dào phong phú. Nguồn nước này từ lâu đã được khai thác sử dụng, nhưng gần đây mới được điều tra nghiên cứu một cách có hệ thống. Qua điều tra cho thấy ở độ sâu từ 1m đến 200m có thể đạt 10 triệu m3/ ngày đêm mà ta mới chỉ khai thác khoảng 48.000 m3/ ngày đêm. Tuy nhiên hiện nay do sự khai thác không đúng quy trình và do nước thải từ các nhà máy công nghiệp đã làm cho nguồn nước ngầm có hiện tượng nhiễm bẩn, tỷ lệ người dân cả nước được dùng nước sạch là hơn 30%. Các nguồn nước của nước ta đủ đảm bảo cho phát triển các ngành thuỷ điện, giao thông đường thuỷ, công nghiệp, nông nghiệp và đảm bảo cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Tuy nhiên hiện nay do sự thay đổi khí hậu thời tiết thất thường, dẫn đến sự phân bố của các nguồn nước cũng thay đổi. Bên cạnh đó do tình hình phá rừng làm rẫy, chặt cây lấy gỗ mà đặc biệt là trong năm vừa qua cháy rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ đã làm cho môi trường bị ảnh hưởng, đất đai bị "bạc hoá" khả năng giữ nước và độ ẩm của đất kémĐiều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng sử dụng nguồn tài nguyên này trong tương lai của chúng ta. 5.2. Tài nguyên đất Đất là tài sản quí của mỗi quốc gia, toàn bộ quỹ đất đai của nước ta hiện nay khoảng 33 triệu ha (đứng thư 58 trên thế giới) bình quân đất tính theo đầu người rất thấp khoảng 0,6 ha trong đó 2/3 diện tích tự nhiên là đất dốc đất đồi núi, chỉ còn 1/3 là đất đồng bằng. Mặc dù dân số nước ta hiện nay khoảng 78 triệu dân trong đó gần 80% là nông dân, nhưng diện tích đất bình quân theo đầu người cho nông nghiệp ngày càng giảm. Điều này phản ảnh thực tế tốc độ đô thị hoá ở nước ta ngày càng có tốc độ nhanh, bên cạnh đó đất được sử dụng không đúng mục đích cũng làm giảm quỹ đất cho nông nghiệp hiện nay chẳng hạn ở nhiều nơiđất dùng cho việc xây dựng thuỷ lợi, giao thông, nhà cửa phung phí, tình trạng lấn chiếm đất nông nghiệp để xây nhà ở Đây là hậu quả của việc thiếu ý thức của người dân và sự lơi lỏng trong quản lý đất đai của các cơ quan có chức năng thẩm quyền. 5.3. Tài nguyên khoáng sản Nước ta có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại đa dạng về loại hình. Hiện nay chúng ta có hơn 3500 mỏ và điểm quặng của 80 loại khoáng sản, trong đó tổng trữ lượng quặng sắt nước ta gần 900 triệu tấn, quặng bôxit trữ lượng khoảng 50 triệu tấn, thiếc khoảng 140 nghàn tấn, apatit khoảng trên 2tỷ tấn. Tuy nhiên chúng ta mới chỉ dùng trên 30 loại khoáng sản và trên 270 mỏ để khai thác và thiết kế khai thác, tiềm năng còn rất lớn. Bên cạnh đó chúng ta có những loại tài nguyên nhiên liệu-năng lượng như: Than trữ lượng cả nước gần 6 tỷ tấn, trong đó tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh có khoảng 5,5tỷ tấn chiếm gần 90% trữ lượng than của cả nước, chúng ta mới chỉ khai thác 13 đế 15 triệu tấn/ năm. Theo kết luận thanh tra nhà nước ngày15/6/2000 phát hiện, nghành than đã báo cáo sai sự thật hơn 1,9 triệu tấn than tồn kho, nơ 6 triệu m3 đất đá bốc dỡ, vay nợ ngân hàng 300tỷ đồng, làm thiệt hại 270tỷ đồng và 586,57 USD. Dầu khí và khí đốt theo dự báo địa chất khoảng gần 10 tỷ tấn, trữ lượng khai thác khoảng 4 - tỷ tấn dầu qui đổi, với trữ lượng như vậy có thể khai thác tối đa 40triệu tấn dầu thô/năm. Mặc dù chúng ta đang có những dự án triển khai, nhà máy lọc dầu Dung Quất, hoàn thành ống dẫn khí từ ngoài khơi vào đất liền. Nhưng hiện nay hai loại tài nguyên này chúng ta mới chỉ xuất khẩu ở dạng thô chưa qua tinh chế, trong khi đó chúng ta lại nhập khẩu những loại nguyên vật liệu đã qua tinh chế của những loại tài nguyên này gây sự lãng phí lớn cho nguồn ngân sách, hiệu quả kinh tế chưa cao. 5.4. Tài nguyên sinh vật Việt nam chúng ta là nước khí hậu nhiệt đới ôn hoà nên tài nguyên sinh vật nước ta rất phong phú và đa dạng. Trên đất liền có khoảng 7000 loại thực vật bậc cao, khoảng 200 loại cây trồng hơn 200 loài thú quí trong đó có nhiều loại ghi vào sách đỏ thế giới cần bảo tồn (sao la, sếu đầu đỏ, hổ Châu á), hơn700 loài chim, khoảng 500 loài cá nươc ngọt. ở dưới biển có khoảng 2000 loài cá trong đó hơn 100 loài có giá trị kinh tế cao, hàng trăm loài tôm, cua, ngao, sòđây là nguồn nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp chế biến. Tuy nhiên hiện nay tốc độ phá rừng của nước ta hiện nay rất lớn, độ che phủ chỉ còn 23% trong tổng diện tích rừng là 19 triệu ha, tình trạng khai thác tài nguyên quá mức, tốc độ phá rừng ngày càng cao và diễn ra hết sức ngiêm trọng dẫn tới hậu quả nhiều loại thú quí hiếm có nguy cơ tiệt chủng. Nguyên nhân của hiện tượng này là do ý thức bảo vệ tài nguyên của người dân rất kém, sự nghiêm minh của cơ quan pháp luật chưa thật cao. Vì vậy để bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên này một cách hợp lý cần có những biện pháp mạnh mẽ và đột phá nâng cao ý thức bảo vệ của người dân. VI.Tiết kiệm trong sử dụng vốn đầu tư xây dựng Hiện nay, hiện nay hiểu quả đầu tư xây dựng cơ bản chưa cao tình hình thất thoát vốn trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lớn (mức cơ bản 10%-20% tổng giá trị công trình cá biệt có công trình lên đến 30% tổng giá trị). Tình trạng tham ô, thất thoát tiền vốn, vật tư trong xây dựng cơ bản đang trở thành vấn đề nổi cộm bức xúc. Hầu như công trình xây dựng nào mà không có thất thoát vốn mức lên tới mức từ 30% đến 40% và có nơi cá biệt lên tới 50%-60% điển hình cho tình trạng này là các dự án Mường Tè, nhiều công trình lớn ở thành phố Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh, bê tông hoá đê sông Hồng đoạn Hà Nội hay xây dựng kè chắn sóng ở Côn Đảo Nhưng đó mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, chắc chắn số vụ và số tiền nhà nước bị thất thoát tham ô trong xây dựng cơ bản sẽ hơn gấp nhiều lần những gì đã phát hiện. Một điều dẽ thấy là tuy đất nước ta còn nghèo, ngân sách nhà nước còn phải để chi cho bao nhiêu việc quan trọng như xoá đói giảm nghèo, y tế, giáo dục, song các cơ quan từ trung ương đến địa phương đều đua nhau xây dựng. Bởi vì có bày ra việc xây dựng mới có cơ hội tốt "kiếm chác". Một tình trạng khá phổ biến hiện nay là việc không phân định rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan chức năng chủ đầu tư và các chủ thể khác đang dẫn đến tình trạng " người có trách nhiệm đảm bảo chất lượng cho các công trình luôn nhớ tới quyền lợi của mình, nhưng lại quên đi phần trách nhiệm của mình. Có thể dễ thấy một điều là công tác quản lý nhà nước về chất lượng công trình xây dựng vẫn còn thiếu một "nhạc trưởng" ở cả hai cấp trung ương và địa phương, dẫn đến hiểu quả quản lý chất lượng các công trình chưa cao. Cụ thể ở cấp trung ương Bộ xây dựng được phân công quản lý chất lượng các công trình xây dựng. Nhưng thực tế chức năng này lại còn do nhiều bộ nghành khác cùng đảm nhiệm, còn ở cấp địa phương thì không có cơ quan nào được giao trách nhiệm làm đầu mối quản lý chất lượng công trình xây dựng. Vì vậy mỗi khi có sự cố xảy ra thì chẳng có một cơ quan nào nhận trách nhiệm về mình. ỉ Nguyên nhân sự lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản là do ỹ Trước hết là do tình trạng đầu tư thiếu quy hoạch gây ra: Đã có một thời kỳ gần đây địa phương nào cũng đổ tiền của ra xây dựng nhà máy bia.Nay thì lại có phong trào tỉnh nào cũng xin xây dựng trường đại học.Tình trạng đầu tư tràn lan cộng với tỉ lệ thất thoát trong xây dựng cơ bản lên tới 30%-35% đã khiến hiệu quả đầu tư ở Việt Nam rất thấp.Tính ra, để tăng 1 tỷ đồng GDP, Việt Nam phải đầu tư tới 5,1 tỷ đồng trong khi đó con số này ở Hàn Quốc chỉ có 3,3 tỷ còn Thái Lan là 3,6 tỷ, ở Malaysia là 3,9 tỷ .Chỉ tính riêng trong chuyện đầu tư xây dựng các nhà máy xi măng ở Việt Nam đầu tư trung bình lên tới 175USD/tấn,trong khi ở các nước trong khu vực chỉ hết.Vì vậy, tính sơ bộ với tổng công suất trên 15,7 triệu tấn xi măng như hiện nay ( không kể 2,3 triệu tấn của các trạm nghiền ), cả nươc ta đã tiêu hoang phí gần 676,4 triệu USD, một số tiền đủ để xây dựng thêm 3 nhà máy hiện đại có công suất 1,7 triệu tấn xi măng/năm. Đến nay, chưa cú cơ quan nào tổng kết đưa ra được con số lóng phớ trong sử dụng vốn đầu tư chớnh xỏc là bao nhiờu. Nhưng cú thể núi chắc rằng con số lóng phớ vốn đầu tư luụn luụn là con số lóng phớ chúng mặt nhất. Hiện nay trong đầu tư xây dựng cơ bản thường xảy ra tình trạng đầu tư tràn lan không tính dến thị trường tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra như nghành mía đường sản xuất xi măng, cà phê như nhà máy đường Linh Cam do thiếu nguyên liệu phải di chuyển vào Trà Vinh nay phải nợ hơn 81 tỷ đồng. Bên cạnh đó khảo sát thiết kế là một nhân tố đầu tiên quyết định chất lượng công trình. Trên thực tế công tác này bị xem nhẹ, tình trạng chủ đầu tư, ban quản lý dự án hợp đồng với cá nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân, không có giấy phép vẫn hành nghề khảo sát thiết kế. Điều này dẫn đến có nhiều công trình xảy ra sự cố trong thi công ( như sụt lún, rạn nứt phá vỡ kết cấu công trình) đã gây lãng phí cho vốn đầu tư cho công trình trong quá trình thi công cũng như sau khi công trình đưa vào hoạt động. Kết quả điều tra cho thấy có tới 60% số công trình sai sót đều bắt nguồn từ khâu khảo sát thiết kế, luật hiện hành lại mới chỉ điều tiết khâu bắt đầu triển khai dự án. Bởi vậy rất khó quy trách nhiệm khâu khảo sát thiết kế theo luật định, đây là một khoảng trống pháp lý để các nhà khảo sát thiết kế dễ dàng rũ bỏ trách nhiệm của mình đối với chất lượng công trình. ỹ Sai sót trong khâu lập, thẩm định, phê duyệt dự toán. Hầu hết dự toán công trình hiện nay do bên thi công đảm nhiệm, do vậy tính minh bạch chi phí giữa các hạng mục nhiều khi còn trùng nhau và cao hơn đơn giá qui định, đôi khi bên thi công còn "hợp tác" với bên chủ đầu tư ( với nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước) để hai bên cùng hưởng phần chênh lệch này. Cơ quan lập và thẩm định, phê duyệt dự án năng lực còn hạn chế nên trong việc kiểm tra tính khả thi của dự án còn thiếu hiểu quả và có thể dẫn tới tình trạng sau khi công trình đi vào hoạt động thì không có khả năng để thu hồi vốn. ỹ Sai sót trong khâu đấu thầu thi công. Để thắng thầu các nhà thầu thường cố tình bóc giá dự toán công trình thấp hơn so với thiết kế ( thường cố tình bỏ sót một số công việc, vật tư, thiết bị). Đến khi thi công thì thường phát sinh thêm một số hạng mục công trình, lại duyệt bổ sung, có nhiều trường hợp giá thắng thầu cộng với giá bổ sung vượt quá giá trần, nhưng vẫn được thanh toán. Rõ ràng việc tính thiếu dự toán là do các nhà thầu và họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, vì trước khi mở thầu họ đã được nghiên cứu kỹ thiết kế và tiêu lượng dự toán công trình. Mặt khác khi tổ chức đấu thầu và xét trúng thầu thì bên mời thầu cố tình không đảm bảo nguyên tắc khách quan, công khai khi mở thầu, tức là sự mở thầu hình thức nhưng bên trong là đã có một sự thoả thuận trước rồi cho một nhà thầu "có mối quan hệ tốt". Ngược lại các nhà thầu cũng có những cách riêng của mình, ngầm thông đồng với nhau để cho một nhà thầu nào đó được trúng thầu và các nhà thầu khác sẽ được hưởng "phần trăm" theo thoả thuận. Những điều này chắc chắn sẽ không có một công trình nào có chất lượng với giá hợp lý, gây thất thoát lớn cho ngân sách nhà nước. ỹSai sót trong khâu thi công. Có một thực trạng hiện nay là một số công trình xây dựng sử dụng vật tư, vật liệu không rõ nguồn gốc xuất xứ và không đảm bảo chất lượng như tình trạng sử dụng thép giả trong thi công các công trình nhà chung cư, công trình đê bao Hà nội bị đổi nhãn mác xi măng, đoạn đường quốc lộ 1A ở cầu Trà (Vĩnh Linh) bị sụt lún Nguyên nhân của nó chính là do vật liệu thi công không có chứng chỉ xác nhận qui cách chất lượng, không đầy đủ chứng từ hoá đơn do bộ tài chính phát hành. Nhất là đối với đơn vị thi công là tư nhân hay một số công ty TNHH thậm chí không có sổ sách kế toán, không tập hợp chứng từ gốc đầy đủ và hợp lệ. Một nguyên nhân nữa đó là việc khoán trắng công trình cho các đội trực tiếp sản xuất thi công rất phổ biến ( kể cả các đơn vị nhà nước ). Nên chất lượng khối lượng giá trị vật tư thi công, thiết bị máy mócxuất dùng cho công trình không thể kiểm soát được. ỹSai sót trong khâu thẩm định, phê duyệt quyết toán. Hầu hết các công trình xây dựng lớn mang tầm cỡ quốc gia đều được nhà nước đầu tư từ ngân sách nhà nước, vì vậy mà khi thi quyết toán một công trình xây dựng thì các cơ quan có thẩm quyền thẩm định không kỹ, dẫn đến quyết toán sai gây nên lãng phí cho ngân sách nhà nước. Một điều nghịch lý nữa đó là khi công trình đã thi công xong nhưng ban quản lý lại không thích kết thúc công việc sớm. Cho nên không ít công trình hoàn thành rồi, bàn giao rồi nhưng chờ quyết toán kéo dài năm này sang năm khác. Cả bộ máy cứ ngồi tính toán mãi mà không xong, thực chất là để hưởng lương dự án Những việc làm trên đã dẫn đến hiểu quả đồng vốn đầu tư cho xây dựng chưa cao, chất lượng công trình kém chất lượng. Hậu quả cuối cùng lại là gánh nặng cho ngân sách nhà nước, mà chẳng có một ai là người chịu trách nhiệm của những hậu quả đó Phần III Một số giải pháp thực hành tiết kiệm chống lãng phí I.Trong hộ gia đình Việc tổ chức lễ hội, hiếu hỷ và các hoạt động khác phải thiết thực, đơn giản và hết sức tiết kiệm. Từ ngàn xưa nét đẹp văn hoá trong lễ hội cúng đơm là một phần không thể tách rời con người Việt Nam. Đây cũng là sự thể hiện của con cháu đối với ông bà tổ tiên, tuy nhiên hiện nay ở nhiều địa phương tình trạng tổ chức linh đình các lễ hội quá mức cần thiết gây ra sự lãng phí cho người dân. Điều này cần phải được thay đổi mà không chỉ có chủ trương của nhà nước trong việc tổ chức hiếu, hỷ mà ngay ở mỗi người dân, nội tộc phải nâng cao ý thức, quán triệt tinh thần "gọn nhẹ, thành kính". Có như vậy thì chúng ta mới giảm bớt các chi phí quá mức cho nhân dân. Tổ chức, cá nhân được giao tiếp nhận, quản lý phân phối các quỹ hình thành từ nguồn đóng góp, ủng hộ của nhân dân ủng hộ của nhân dân, các tổ chức, chính phủ phải công khai nguồn thu, kết quả phân phối sử dụng các quỹ này phải theo đúng quy định ban hành kèm theo. Nhà nước phải cải cách các dịch vụ ngân hàng tài chính một cách có hệ thống và thực sự hấp dẫn cho người dân, để có thể thu hút mọi nguồn lực nhàn rỗi trong dân cư cho phát triển kinh tế đất nước, tránh tình trạng đồng vốn trong dân cư "bị chết" trong khi nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta hiện nay là rất lớn. ii.Trong khu vực hành chính sự nghiệp Trong tuyển chọn công chức cần tiến hành công khai, công bằng và có tiêu chuẩn rõ ràng để lựa chọn được những người có năng lực thực sự vào công tác được đảm trách:Hiện nay công tác lựa chọn nhân viên cán bộ chủ yếu dựa vào giấy tờ bằng cấp mà một người có ; tuy nhiên đây không còn là tiêu chuẩn mang tính chính xác cao như trước vì bằng cấp có thể làm giả do đó đòi hỏi các doanh nghiệp, các cơ quan khi lựa chọn nhân viên cần dựa vào năng lựa thực sự của họ thông qua kiểm tra để tránh lãng phí trong phải bỏ ra chi phí đào tạo lại sau này hoặc không tìm được cán bộ có năng lực thực sự gây lãng phí cho đơn vị Tinh giản bộ máy hợp lý, tạo hiệu quả trong thực thi công vụ : - Trước hết phải tiến hành rà soát xác định rõ chức năng thẩm quyền của từng cơ quan tổ chức tạo điều kiện cho việc xác định cơ cấu tổ chức và biên chế hợp lý. Xác định biên chế của từng cơ quan trên cơ sở vị trí, tầm quan trọng, khối lượng và độ phức tạp của công việc, định mức lao động của cán bộ công chức. - Đưa ra mức lương hợp lý cho cán bộ công chức để họ chú tâm công tác tạo hiệu quả và năng suất làm việc cao dẫn đến có thể giảm bớt số lao động dư thừa không cần thiết. áp dụng công nghệ mới như công nghệ thông tin, điện tử viễn thông vào quản lý nhằm giảm bớt các chi phí phát sinh không cần thiết, rút ngắn thời gian và mang lại thông tin đầy đủ cho mọi tầng lớp nhân dân. Bước sang thế kỷ XXI thế kỷ của nền kinh tế tri thức các nước trên thế giới đang thực hiện mô hình chính phủ điện tử trong quản lý hành chính nhà nước nhằm tạo ra sự nhanh gọn, thông thoáng trong cơ chế quản lý tạo điều kiện cho mọi người dân tiếp cận với chính sách và chủ trương của đất nước một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất. Nước ta cũng đang từng bước thí điểm mô hình chính phủ điện tử ở một số địa phương như Tp.HCM và đã có các kết quả ban đầu rất khả quan, mô hình này đang được nhân rộng ra trong cả nước. Bên cạnh đó ở tầm vĩ mô cần ngày càng hoàn thiện luật về xử lý tham nhũng , chống tham nhũng và bộ luật về công chức nhà nứơc để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc xử phạt các vi phạm xảy ra trong cơ quan nhà nước. iii.Trong doanh nghịêp Với các doanh nghiệp nhà nước việc cấp vốn điều lệ cho DN cần theo quy định và quy mô của từng DN một cách hiểu quả nhất. Trong khi nguồn vốn của ngân sách còn eo hẹp thì khi cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước cần phải xem xét quy mô của doanh nghiệp cần thực tế bao nhiêu thông qua các bản báo cáo tiền khả thi và khả thi để đồng vốn được sử dụng hiệu quả hơn. Trong sử dụng nguồn nhân lực cần bố trí đúng người đúng việc theo hướng tận dụng triệt để và theo đúng chế độ. Lực lượng lao động là một yếu tố rất quan trọng của các doanh nghiệp nên sử dụng thế nào cho hiệu quả để vừa tiết kiệm lại vừa có hiệu quả cao là hướng mà các doanh nghiệp cần phải để ý đến. Bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả các lao động có kinh nghiệm của doanh nghiệp cũng cần kết hợp với đổi mới nhận thêm các lao động trẻ có trình độ vào công tác như vạy sẽ tạo ra sự năng động cho các doanh nghiệp nhà nước lâu nay vẫn kém năng động hơn khu vực các doanh nghiệp tư nhân. Các cơ quan chức năng cần liên tục theo dõi, kiểm tra giám sát với các doanh nghiệp nhà nước để giám sát tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của các doanh nghiệp. Từng doanh nghiệp phải chủ động tìm các biện pháp tự huy động vốn như phát hành trái phiếu, tăng cường bổ sung vốn từ lợi tức thực hiện sau thuế để lại Hiện nay nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư khá lớn, phần lớn trong đó là chưa được huy động cho sản xuất kinh doanh nên các doanh nghiệp có thể sử dụng các lợi thế này để huy động vốn cho sự phát triển của doanh nghiệp mình và cũng là biện pháp hiệu quả trong tình trạng hạn hẹp của NSNN. Trong việc sử dụng các đồ dùng phục vụ cho công tác cần phải thực hiện chế độ tiết kiệm, có định mức cụ thể và cần gắn trách nhiệm sử dụng của từng loại phương tiện vào cụ thể từng người tránh tình trạng " cha chung không ai khóc " . Một chủ trương mà nhà nước ta đang đang đẩy mạnh thực hiện là cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.Khi chính người lao động nắm giữ cổ phần công ty mà mình làm việc họ sẽ có trách nhiệm hơn trong hoạt động sản xuất, nâng cao ý thức nghề nghiệp hiệu quả công việc cũng vì thế mà được nâng cao.Mặt khác đây cũng là một hình thức huy động vốn có hiệu quả cho doanh nghiệp nhằm tiết kiệm đồng vốn cho đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. iv.Trong sử dụng tài nguyên Như ta đã biết, chất lượng môi trường ở Việt Nam trong những năm gần đây có xu hướng suy giảm. Một trong những nguyên nhân cơ bản là ô nhiễm hoá chất từ các hoạt động công nghiệp và nông nghiệp. Để đối phó và giải quyết vấn đề này cần nhấn mạnh các yêu cầu sau: rà soát và cải thiện khuôn khổ pháp lý để đưa ra và thực thi những quy chế và tiêu chuẩn hoàn chỉnh, đồng bộ cho lĩnh vực độc học môi trường. Đưa ra quy trình sản xuất sạch hơn và phòng trừ hại tổng hợp và giáo dục đào tạo để có được nhận thức và năng lực phù hợp cho việc quản lý và sử dụng hoá chất. Đối với một số dự án đầu tư hiện nay, mặc dù trong báo cáo, chủ đầu tư có trình bày các phương án hạn chế tác động có hại đối với môi trường như xây dựng hệ thống xử lý nước thải, khí thải và chất rắn thải nguy hại nhưng do còn kém và lại không bị kiểm tra nên chủ đầu tư dễ “lờ” đi khâu này. Chính vì vậy, điều quan trọng hiện nay là các văn bản pháp quy cần chú trọng đưa công tác bảo vệ môi trường vào thực hiện ngay từ khâu quy hoạch, xây dựng chiến lược, chương trình phát triển vùng, ngành để làm cơ sở cho các đầu tư cấp dưới. Công tác bảo vệ môi trường phải được làm từ trước khi có các quyết định thực hiện một dự án và cũng cần phải công khai hoá và tăng cường sự tham gia của cộng đồng, những người chịu ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp của dự án. Các dự án cũng phải tập trung đánh giá một cách toàn diện các tác động lợi, hại, trước mắt, lâu dài, gián tiếp, trực tiếp tới môi trường tự nhiên cũng như môi trường xã hội. Như vậy, chúng ta cần xây dựng những bản hướng dẫn về bảo vệ môi trường cho từng ngành, từng quy mô và phù hợp với từng hình thức sở hữu. Cũng trong tình hình hiện nay, bên cạnh những lợi ích do ĐTNN đem lại, Việt Nam đang đối mặt với những thách thức, trong đó đặc biệt nghiêm trọng là nạn XK ô nhiễm môi trường đến từ các nước phát triển trên thế giới đang ngày càng gia tăng. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do chi phí để khắc phục ô nhiễm tại các nước phát triển là rất cao và vì vậy, doanh nghiệp của các nước này buộc phải tìm đến giải pháp chuyển lĩnh vực sản xuất của họ ra nước ngoài. Trong khi đó các nước đang phát triển lại có mức thuế thấp hơn nhiều do khát vốn và do đó, họ trở thành những nước có mức nhập khẩu ô nhiễm cao. Mục tiêu của Việt Nam là thu hút đầu tư nước ngoài càng nhiều càng tốt nhưng đồng thời cũng lại cần phải có biịe pháp để ngăn chặn các dự án có nguy cơ ô nhiễm cao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần phải có tầm nhìn xa, dự báo những khả năng xảy ra để có sự cân nhắc mặt lợi, hại và biện pháp xử lý khi lập các dự án phát triển kinh tế. Một hiện tượng đáng lo ngại là ta thiếu sự sâu sát, thiếu hiểu biết, tài liệu điều tra cơ bản còn ít Do vậy cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khảo sát, đào tạo giáo dục về môi trường. Biến vấn đề môi trường trở thành sự hiểu biết của đông đảo các các nhân trong xã hội và coi đây là cuộc cách mạng toàn dân. Ưu tiên xây dựng các dự án phát triển kinh tế kết hợp bảo vệ môi trường. Tăng cường năng lực quản lý của các cơ quan quản lý về môi trường, tài nguyên khoáng sản ở trung ương cũng như ở địa phương. Xây dựng hệ thống lọc về môi trường, sinh thái, hiệu quả khai thác. Chấm dứt tình trạng di dân tự do làm nhà tự phát ven sông, suối, sườn núi dốc ở các tỉnh miền núi Quy hoạch khu dân cư mới thúc đẩy chiến lược trồng và bảo vệ rừng, hoạch định các khu vực khai thác tài nguyên rõ ràng. Tăng cường kiểm soát phòng chống tai biến thiên nhiên và sự ccó môi trường. Đặc biệt là những tai biến nhân tạo từ nhà máy, công trường khai thác gây ra. Thực hiện tốt luật môi trường, đặc biệt là các vấn đề: bảo vệ cảnh quan, bảo vệ không gian, giữ vệ sinh môi trường, rèn luyện thể lực con ngườicó ý nghĩa rất lớn. Mở rộng quan hệ hợp tác về môi trường, học hỏi kinh nghiệm các nước. Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tham gia các dự án bảo vệ tài nguyên trong toàn khu vực và toàn cầu. Đồng thời xây dựng các dự án đầu tư có hiệu quả với các nước. Tóm lại, bảo vệ môi trường, khai thác hơp lý các nguồn tài nguyên là vấn đề phức tạp. Do vậy, cần có sự chỉ đạo, quản lý một cách hợp lý, có hệ thống, nhất quán của nhà nước. Bên cạnh đó nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân. Đây là vấn đề mà các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm vì ảnh hưởng của nó đến các mặt của đời sống kinh tế – xã hội. v.Trong sử dụng vốn XDCB Xem xét kỹ các phương án đầu tư để có thể lựa chọn phương án đầu tư tối ưu nhất tránh việc đầu tư tràn lan, dàn đều, kém hiệu quả. Với một nền kinh tế nhỏ như Việt Nam nguồn vốn không lớn, phải biết chọn các phương án đầu tư có thể đem lại hiệu quả cao cả về mặt kinh tế và xã hội, tập trung đầu tư cho một số nghành có thể đem lại hiệu quả cao. Tránh đầu tư dàn trải làm phân tán nguồn vốn đầu tư tạo ra sự không hiệu quả hoặc hiệu quả không cao với đồng vốn. Thiết kế công trình là khâu quan trọng, không chỉ quyết định quy mô, độ bền vững công trình mà quyết định cả việc vận hành khai thác sau này. Do đó các thông số kỹ thuật phải được các tổ chức chuyên môn có đủ tư cách pháp nhân lập theo quy chuẩn tiêu chuẩn xây dựng nhà nước đã ban hành. Đa số các dự án xây dựng cơ bản, là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nên ngay từ đầu trước khi thiết kế công trình phải khảo sát kỹ địa hình địa chất nơi công trình được xây dựng, vì đây là yếu tố không những quyết định độ bền vững của công trình mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả vận hành dự án đầu tư sau này. Sau khi có thiết kế dự toán được duyệt thì tổ chức đấu thầu thi công xây lắp công trình. Khi tổ chức đấu thầu theo từng công trình hay hạng mục công trình cần phải thật sự khách quan và đảm bảo tính hiểu quả cao của công trình. Cần tiến hành công tác kiểm tra thẩm định tài chính ở các khâu trước, trong và khi kết thúc công trình, đưa dự án hoàn thành vào khai thác sử dụng. Kết luận chung Qua sự phân tích vai trò và thực trạng thực hành tiết kiệm phần nào đã cho thấy vai trò quan trọng của tiết kiệm đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong bài viết cũng đã nêu rõ tiết kiệm là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người, mọi ngành trong xã hội và phải tiết kiệm trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động. Đối với nước ta Đảng và nhà nước luôn kêu gọi tiết kiệm nhưng trên thực tế việc thực hành tiết kiệm vẫn mang tính hô hào, lý thuyết nên kết quả đạt được là rất ít thậm chí nạn tham ô, tham nhũng, sử dụng lãng phí các nguồn lực còn có chiều hướng gia tăng và với một mức độ nghiêm trọng hơn. Vì vậy, nhà nước cần có những giải pháp, chính sách để tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và hơn ai hết mỗi người trong chúng ta hãy thực hành tiết kiệm thông qua những hành động cụ thể của mình góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Bài viết này đã đi vào phân tích vai trò của tiết kiệm đối với sự phát triển và đánh gía tình hình thực hành tiết kiệm ở nước ta. Tuy nhiên, do những hạn chế về lý luận và những tài liệu thực tế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy chúng em rất mong được sự góp ý chân thành của thầy và các bạn. Tài liệu tham khảo 1.Giáo trình Địa lý kinh tế Việt Nam (Trường đại học KTQD-1998) 2.Giáo trình kinh tế đầu tư ( Trường đại học KTQD-1999) 3.Văn kiện đại hội đảng IX 4.Tạp chí cộng sản : số 20/7-2002;số 1+2/1-2002;số 1+2/1- 2003;số 35/12-2002;số 17/6-2002 5.Tạp chí bảo hiểm xã hội : 9/2001,8/2002;12/2002 6.Tạp chí tài chính : 9/1999,6/200,8/2001.. 7.Báo đầu tư: 1/2003,8/2002;12/2002 8.Kinh tế và dự báo :3/2000;6/2001 9.Niên giám thống kê 2000,2001. 10.Kinh tế các nước ASEAN (nhà xuất bản thống kê-2000) Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Phần I -lý luận chung về tiết kiệm 2 I- Khái niệm và sự cần thiết phải tiết kiệm 2 1. Khái niệm 2 2. Vai trò và sự cần thiết phải tiết kiệm 2 II- Mối quan hệ tiết kiệm-tích luỹ-đầu tư 3 1. mối quan hệ tiết kiệm-đầu tư 3 1.1. Quyết định về tiết kiệm trong các hộ gia đình. 5 1.2. Tiết kiệm và đầu tư của các đơn vị kinh doanh 7 1.3. Tiết kiệm của Chính phủ 8 2. Mối quan hệ giữa tích luỹ và tiết kiệm. 8 2.1. Khái quát chung về tích luỹ 8 2.2. Mối quan hệ giữa tích luỹ và tiết kiệm. 10 III- Tiết kiệm là quốc sách 11 Phần II - Thực trạng việc thực hành tiết kiệm 14 I.Thực trạng chung thực hành tiết kiệm hiện nay ở nước ta 14 II. Tiết kiệm trong hộ gia đình 15 III Tiết kiệm trong khu vực hành chính sự nghiệp 18 IV.Tiết kiệm trong doanh nghiệp. 20 V.Tiết kiệm trong sử dụng tài nguyên 22 VI.Tiết kiệm trong sử dụng vốn đầu tư xây dựng. 25 Phần III - Một số giải pháp thực hành tiết kiệm chống lãng phí 29 I- Trong hộ gia đình. 29 II- Trong khu vực hành chính sự nghiệp 29 III.Trong doanh nghiệp 30 IV.Trong sử dụng tài nguyên 31 V.Trong sử dụng vốn xây dựng cơ bản 33 Kết luận chung 35 Tài liệu tham khảo 36

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0347.doc
Tài liệu liên quan