Đề tài Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam mới được thực hiện trên 15 năm nhưng đã thu được những kết quả rõ rệt trên nhiều phương diện. Những kết quả này đã khẳng định những định hướng đổi mới của Việt Nam là đúng đắn. Chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế - là những định hướng cơ bản của công cuộc đổi mới. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) đã tiếp tục khẳng định những định hướng trên. Thời đại toàn cầu hoá phát triển sâu rộng như hiện nay càng đòi hỏi Việt Nam phải chuyển mạnh hơn sang kinh tế thị trường và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đó là những định hướng không thể đảo ngược. Những gì Việt Nam đã làm trong 15 năm và sẽ làm trong 10 năm tới đây sẽ không thể chệch khỏi định hướng trên.

doc28 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự vật và hiện tượng muôn hình muôn vẻ trong thế giới không cái nào tồn tại một cách cô lập biệt lập mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật và hiện tượng tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra đối với các mặt, các yếu tố, các quá trình của mỗi sự vật hiện tượng. Thí dụ: trong giới tự nhiên, giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường có quan hệ với nhau, trong đời sống xã hội, giữa các cá nhân, giữa các tập đoàn người, trong lĩnh vực nhận thức, giữa các hình thức, giữa các giai đoạn nhận thức cũng có quan hệ với nhau. Mối liên hệ phổ biến trên đây là khách quan, là cái vốn có của các sự vật hiện tượng, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới biểu hiện trong các quá trình tự nhiên, xã hội và tư duy. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng nói đến liên hệ và sự thống nhất của các quá trình trong thế giới, nhưng theo họ, cơ sở của sự liên hệ và thống nhất đó là tư tưởng con người, ở “ý niệm tuyệt đối”, ở ý chí sủa Thượng đế… 1.2. Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến rất có ý nghĩa đối với chúng ta trong hoạt động nhận thức và và hoạt động thực tiễn. Nếu các sự vật và hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ biến và nhiều vẻ thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, chúng ta phải có quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ với sự vật và hiện tượng khác, phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả các mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng. Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là các xem xét cào bằng, lan tràn mà thấy được vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu tố trong tổng thể của chúng. Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật. 2. Độc lập tự chủ về kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được đặt trong phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến: 2.1. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ: 2.1.1. Khái niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ: Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc vào nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển ; không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính thương mại, viện trợ … để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường, trước sự khủng hoảng tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ bản duy trì sự ổn định và phát triển ; trước sự bao vây, cô lập và chống phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối loạn. 2.1.2. Sự cần thiết phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ cùng với việc thúc đẩy mạnh quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế xuất phát từ một số luận cứ sau đây: Một là, tất cả các nước tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đều xuất phát từ mục tiêu bên trong, phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ trong nước. Toàn cầu hoá, tự do hoá làm cho các nền kinh tế phụ thuộc đan xen vào nhau, đó là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong sự ràng buộc về lợi ích đó không có sự ràng buộc thuần tuý, vô điều kiện mà chính là vì phải biết chia sẻ lợi ích một cách hợp lý, nhằm mục đích cuối cùng là thu được nhiều hơn lợi ích cho đất nước mình, dan tộc mình, giữ được tính độc lập của nền kinh tế qua mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau-một sự ràng buộc đa phương về lợi ích. Như vậy đủ thấy là mỗi nước sẽ không thể thực hiện được những mục đích đã đề ra nếu không có một nền kinh tế của chính mình và đủ mạnh. Hai là, vì sự phát triển vững chắc và bảo đảm tính an toàn cho mỗi nền kinh tế. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá hiện nay ẩn chứa rất nhiều những yếu tố bất ổn, khôn lường và bất công mà mức độ cũng như khả năng phòng tránh, khắc phục nó phụ thuộc rất nhiều ở trình độ phát triển của các nền kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế có những tác động tích cực đồng thời nó cũng đặt ra những vấn đề, buộc người ta càng ngày càng phải cảnh giác hơn, càng có nhiều băn khoăn hơn với quá trình này.Toàn cầu hoá kinh tế làm lây lan nhanh chóng và trên quy mô lớn những cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ, kinh tế ; làm trầm trọng thêm những vấn đề mang tính toàn cầu mà cho đến nay thế giới vẫn chưa tìm được lối thoát …Điều đó cũng có nghĩa là các nền kinh tế trở nên dễ biến động, bất ổn định hơn trước. Ba là, trong khi tham gia vào cuộc chơi chung toàn cầu hoá kinh tế, nước nào cũng muốn thu được nhiều lợi và nắm được công cụ quan trọng là công nghệ hiện đại. Hiện nay, tiêu chí sản phẩm hàng hoá cùng với các thiết chế, luật lệ kinh tế đang trở thành luật chơi trong sân chơi toàn cầu. Muốn tham gia vào cuộc chơi có kết quả nhất định mỗi nước phải biết tự vươn lên, phải tìm được vị trí cho mình đứng ở đâu. Điều quan trọng bậc nhất trong cuộc chơi này là làm sao tạo ra được nhiều sản phẩm mà ai cũng thấy cần và được chấp nhận. Sức cạnh tranh, cung cầu trên thương trường, thế mạnh của nền kinh tế của mỗi nước được định đoạt như vậy.Một trong những yếu tố mang tính quyết định giúp cho việc giành giữ ngôi thứ và vị trí trong nền kinh tế toàn cầu là công nghệ hiện đại. Mặt khác, quan trọng hơn, là phải phá được bức rào cản do các công ty đa quốc gia nắm trong tay công nghệ hiện đại lại chỉ muốn chuyển giao công nghệ cho các nước khác trong phạm vi rất hạn chế để luôn bảo đảm vị trí độc quyền của nó. Bốn là, bản thân nguyên lý của cuộc chơi toàn cầu hoá cũng phải có sự thay đổi do sự phát triển về bề rộng và chiều sâu của quá trình toàn cầu hoá kinh tế . 2.1.3. Ba đặc trưng để thực hiện độc lập, tự chủ và hội nhập: Việc xây dựng kinh tế độc lập tự chủ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế với thế giới đã và đang đặt các doanh nghiệp Việt Nam trớc những cơ hội và thách thức. Trong giai đoạn hiện nay cũng nh trong tơng lai, Việt Nam tham gia các tổ chức kinh tế nh AFTA, APEC, WTO... Từ đó, phát triển các quan hệ thơng mại rộng rãi với mọi quốc gia, các công ty xuyên quốc gia cũng nh các trung tâm kinh tế thế giới. Việc phát triển các mối quan hệ này sẽ dẫn tới việc giảm thiểu các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Các công ty nớc ngoài đợc vào Việt Nam hoạt động bình đẳng với các công ty Việt Nam và ngợc lại các công ty Việt Nam cũng đợc hoạt động bình đẳng tại các nớc đối tác. Do đó, việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cấp thiết. Vậy trong điều kiện hội nhập quốc tế một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có những chuẩn mức và tiêu chí gì? Theo chúng tôi, muốn xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện hiện nay phải bảo đảm ba yếu tố. Thứ nhất, phải bảo đảm lợi ích phát triển quốc gia ở mức cao nhất có thể đợc. Thứ hai sức cạnh tranh của nền kinh tế phải đợc cải thiện và tăng dần. Sức cạnh tranh này phải đợc thể hiện ở các mặt: Thể chế chính trị, kinh tế, xã hội phải đủ mạnh, đủ tạo ra một môi trờng đầu tư, kinh doanh thuận lợi, chi phí thấp, rủi ro thấp, khả năng sinh lợi lớn. Cơ cấu kinh tế gồm những ngành có khả năng cạnh tranh cao, có khả năng tự điều chỉnh tự rút khỏi những ngành kém khả năng cạnh tranh. Cơ cấu doanh nghiệp cũng phải gồm những doanh nghiệp có sức mạnh công nghệ và trí lực, đủ sức mạng cạnh tranh trên thơng trờng. Nguồn nhân lực trong nớc phải đợc đào tạo tốt phát triển và sử dụng có hiệu quả. Thứ ba là có khả năng ứng phó có hiệu quả với những chấn động chính trị, kinh tế, xã hội bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế XHCN đòi hỏi phải bền vững và đảm bảo tốc độ phát triển cao. Nền tảng của xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể ùng với sự phát huy cao nhất toàn bộ tiềm năng của các thành phần kinh tế khác, chúng ta phải tập trung củng cố, phát triển, đổi mới nền kinh tế Nhà nước để nền kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể làm nền tảng, việc đó là hoàn toàn đúng đắn. Củng cố bằng được kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể thì mới liên kết được các thành phần kinh tế khác, đột phá thắng lợi các nhiệm vụ chủ yếu, xử trí kịp thời các tình huống phức tạp và tăng cường sức cạnh tranh có hiệu quả. Không quan tâm củng cố kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể là từ bỏ kinh tế XHCN, là không giữ vững được độc lập tự chủ, chủ quyền quốc gia về kinh tế. 2.2. Nguyên tắc cơ bản bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế : Nguyên tắc cơ bản và bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế là phải bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ và cải thiện môi trường. Trong các quan hệ, dù song phương hay đa phương, đều phải giữ vững nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nahu và cùng có lợi. Nguyên tắc đó được thể hiện ngay trong từng định chế, thể thức mà các bên cam kết và được thực hiện trong thực tế hành động. Một mặt không để thiệt hại đến lợi ích mà nước ta được hưởng; mặt khác, phải chấp nhận một sự chia sẻ lợi ích nhất định với các đối tác tuỳ theo mức độ đóng góp của các bên tham gia hợp tác. Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế nhằm đảm bảo lợi ích của đất nước, giữ vững độc lập tự chủ và sự cân bằng trong các mối quan hệ, tránh sự lệ thuộc một chiều vào một hoặc một số đối tác. Trong hội nhập kinh tế quốc tế phải nắm vững phương châm chủ động, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, nhằm bảo vệ được lợi ích chính đáng của ta, đồng thời tranh thủ được các thời cơ thuận lợi trong hội nhập.Trong bất cứ tình huống nào cũng phải luôn chủ động, giành thế chủ động. Chủ động ngay từ chủ trương, quyết sách, nội dung, phạm vi, mức độ, lộ trình,…không để ai lôi cuốn xô đẩy. Lại phải thường xuyên đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước nhiững âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch muốn lợi dụng quan hệ kinh tế thương mại để thực hiện diễn biến hoà bình, xâm nhập phá hoại chế độ ta. Điều cơ bản có tính quyết định để đảm bảo an ninh quốc gia là chúng ta phải có nội lực mạnh, có sự thống nhất chặt chẽ trong nội bộ, có sự đồng tâm nhất trí, ủng hộ mạnh mẽ của toàn dân. 2.3. Vận dụng phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến vào việc phát triển mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế: Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường lối chính trị, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn nhằm bảo đảm độc lập tự chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho chính ngay nền kinh tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập tự chủ về chính trị thì nội dung cơ bản của độc lập tự chủ của một quốc gia là có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ hay không.Đây là kinh nghiệm của nước ta và cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vả chăng, nước ta phát triển kinh tế để đi lên CNXH, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ XHCN ở nước ta. Nếu không xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ thì dẽ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, hoặc ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị, đi lệch quỹ đạo CNXH. Nói cách khác có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất-kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cho sự đảm bảo độc lập tự chủ bền vững về chính trị. Không thể có độc lập tự chủ bền vững về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ được đặt trong mối quan hệ biện chứng với việc đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc té mở rộng, giao lưu với các nền kinh tế là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi. Nói một cách chung nhất, nền kinh tế có thể tự thân vận động, sử dụng và phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, thế lực nào, có khả năng đối phó và đứng vững trước những thách thức và tác động tiêu cực từ bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đa phơng hóa, đa dạng hóa các mối liên kết và hợp tác kinh tế đòi hỏi phải kiên quyết và kiên nhẫn, không chạy theo lợi ích trớc mắt, không bị mua chuộc lừa phỉnh; sáng suốt tính toán, đồng thời cũng phải khẩn trơng sớm phân tích tình hình có sự quyết đoán, chính xác, không để thời gian thẩm định, xin cấp giấy phép kéo dài làm nản lòng ngời đầu tư. Kinh tế là một mặt trận, phải đào tạo bồi dỡng các chiến sĩ trên mặt trận đó thành những chiến sĩ trung thành vô hạn, trung thực và khôn ngoan, không vụ lợi, không vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân mà quên lợi ích của Tổ quốc. Vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn vẹn sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn khái quát toàn vẹn về một số vấn đề đang tồn tại. Tuy vậy ta cũng cần thấy rằng, thế của ta đang lên, nhưng thực lực của chúng ta chưa đủ mạnh. Nền kinh tế của ta có mức tăng khá, nhưng vẫn đứng trước nhiều thử thách ; lực cản từ bên ngoài vẫn cò trong khi tồn tại từ bên trong như tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền chưa được xoá bỏ…, đó chính là những cản trở đối với việc phát huy nội lực và hội nhập. Bên cạnh những thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn tồn tại những khó khăn và thách thức, bên cạnh những thời cơ, vẫn còn tồn tại những nguy cơ. Chương II: Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế 1. Những tác động của xu thế toàn cầu hoá tới quan hệ quốc tế và tình hình thế giới: Xu thế toàn cầu hoá tác động sâu sắc tới mối quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước, trong đó có nước ta. Có thể tính đến một số tác động sau: Trước nhu cầu phát triển, nắm bắt khả năng tận dụng những mặt tích cực của quá trình toàn cầu hoá , các nước trên thế giới đều có thiên hướng từ bỏ chính sách đóng cửa, chuyển sang chính sách mở cửa với bên ngoài để đẩy mạnh xuát khẩu, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển. Ngay những nước lâu nay vốn khép kín cũng từng bước điều chỉnh chính sách theo hướng này. Bên cạnh quan hệ song phương, quan hệ đa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, xuất hiện nhiều cơ cấu hợp tác trên mọi tầng nấc: tiểu vùng, khu vực, đại khu vực và toàn cầu ra. ở tiểu vùng là các tam tứ giác, các chương trình hợp tác phát triển. ở khu vực là các khu vực mậu dịch-đầu tư tự do. ở các châu lục như châu Mỹ, châu á-TBD, châu Phi xuất hiện các khu vực mậu dịch tự do hoặc diễn đàn hợp tác toàn châu lục. Trên phạm vi toàn cầu có các tổ chức như WTO, WB, IMF, OECD, G-8… Những quan hệ nói trên đã làm nên một mạng quan hệ quốc tế đan xen nhau làm gia tăng thêm tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Tuy nhiên, các chủ thể tham gia quá trình toàn cầu hoá đều có lợi ích riêng, độc lập với nhau, thậm chí đối nghịch nhau, từ đó trong quan hệ kinh tế quốc tế luôn luôn tồn tại hai chiều hướng: hợp tác và cạnh tranh Thời đại chúng ta đang sống là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới . Các lực lượng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm hàng trăm dân tộc và các nhà nước khác nhau: các nước tư bản phát triển, các nước đang phát triển, các nước đi theo định hướng XHCN. 2. Từng bước tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, nước ta khi tiến hành hội nhập luôn đứng trước cả những thách thức và cơ hội: Những cơ hội có thể thấy rõ là : Thứ nhất, hội nhập quốc tế cũng là quá trình chuyển giao những tiến bộ về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh. Thứ hai, nó sẽ mang lại những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước, từ nguồn vốn vật chất đến nguồn vốn tri thức và kinh nghiệm ; từ chiến lược dài hạn đến kế hoạch ngắn hạn, cả cách thức tiến hành các quá trình hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô của quốc gia lẫn tầm vi mô của từng doanh nghiệp, giúp các nước có thể tạo lập được vị trí của mình trong quan hệ quốc tế. Thứ ba là, mở rộng được thị trường và nhận được ưu đãi về thương mại. Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đa lại những lợi ích mà còn đặt nớc ta trớc nhiều thách thức, nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt để vợt qua thì sự thua thiệt cả về kinh tế và xã hội có thể rất lớn; ngợc lại, nếu chúng ta có chiến lợc thông minh, chính sách khôn khéo, thì sẽ hạn chế đợc thua thiệt, dành đợc lợi ích nhiều hơn cho đất nớc. Thách thức đầu tiên mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay là, do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hóa nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó, nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp trung bình và yếu kém, thường đòi hỏi Nhà nước thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt. Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét, thì Nhà nớc không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh nghiệp đó đợc. Bởi lẽ, một là, Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hóa thương mại vào các mốc 2006 và 2020 khi đã tham gia AFTA và APEC, cũng như các cam kết khác khi được kết nạp vào WTO. Hai là, việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là "con dao hai lưỡi". Một chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành "gậy ông đập lưng ông", gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội. Một tài liệu nghiên cứu gần đây cho biết: "Việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khẩu chưa có thuế là 50% (khoảng 20-22 USD/tấn). Toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD (11 triệu tấn x 20 USD) năm 1999 để bảo hộ cho ngành sản xuất xi măng, trong đó có gần 112 số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền đó tương đương với khoảng 40% ngân sách giáo dục của cả nước, gấp gần 4 lần ngân sách khoa học - kỹ thuật". Thách thức thứ hai, một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt ra là phải làm sao giữ được độc lập, tự chủ trong tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Không ít ý kiến cho rằng, nớc ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hóa nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém, trong khi các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt, do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó, thì nước ta khó tránh khỏi sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc kinh tế mà có thể đi đến chỗ không giữ vững đợc quyền độc lập, tự chủ nữa. Để hóa giải vấn đề này cần có cách nhìn nhận theo quan điểm mới: trước hết, cần nhận rõ độc lập, tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện những mục tiêu đó. Nhưng độc lập, tự chủ hoàn toàn không có nghĩa là đóng cửa với thế giới. Một thách thức nữa không kém phần quan trọng được đặt ra đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đây không chỉ là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo chung của nhiều nước khác trên thế giới. Bởi lẽ, thông qua các "siêu lộ" thông tin với mạng Iternet, xu thế toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, các cộng đồng người ở mọi chân trời gốc biển có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, phát minh, sáng chế, dữ kiện... qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ. mở mang sự hiểu biết về các nền văn hóa của nhau; mặt khác, quá trình trên cũng làm nẩy sinh mối nguy cơ ghê gớm về "sự đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại". 2.2. Những nguyên tắc nhất quán chủ động quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với Đảng và Nhà nước ta: Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm có chủ trương hội nhập, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực hiệnc hủ trương đó, chúng ta đã gia nhập ASEAN/AFTA, APEC, ASEM và ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến hành đàm phán gia nhập WTO, như vậy, chúng ta đã và đang tiến hành việc hội nhập và nay là tiếp tục chứ không phải là công việc mới mẻ. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tế vẫn còn tồn tại những băn khoăn, những quan niệm khác nhau về mục đích, lộ trình, kết quả của hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế cần phải có những nguyên tắc nhất quán chỉ đạo quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những nguyên tắc đó là: Thứ nhất, chủ động hội nhập phải bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc anh ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Việc chủ động tham gia phải dựa trên cơ sở có một tiềm năng nhất định, được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có mọt tư thế và vị trí nhất định. Chủ động cũng bao hàm cả sự tự tin, có đường đi nước bước, không vội vàng hấp tấp nhưng không chậm chạp để lỡ thời cơ. Chủ động cũng còn là sự biết người biết ta, là việc nắm vững tình hình trong nước và quan hệ kinh tế đối ngoại. Chủ động mang tính tích cực nhưng có bản lĩnh, mang tính thận trọng nhưng quyết đoán không để mất thời cơ. Như vậy, tham gia hội nhập quốc tế là để phát triển đất nước, phục vụ coh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nhập để nuôi dưỡng, làm sức mạnh bên trong, bảo vệ an ninh Tổ quốc và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Trong quá trình hội nhập về kinh tế, không thể không tính đến những quan hệ văn hoá xã hội, sao cho hội nhập mà không bị hoà tan, mở cửa nhưng không tự đánh mất mình và rơi vào vòng phụ thuộc, nô lệ. Hội nhập quốc tế được thực hiện trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bọ của nhau. Thứ hai, hội nhập quốc tế phải dựa trên cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định về xã hội, không ngừng phát huy nội lực, phát triển nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của cả nền kinh tế đất nước, của từng ngành và của mỗi doanh nghiệp. Mỗi hội nhập, quan hệ kinh tế với bên ngoài, phải đảm bảo vững chắc những tiền đề bên trọng. Đó là Đảng lãnh đạo, hệ thống chính trị vững vàng, toàn dân đồng lòng chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước, xã hội ổn định. Tăng cường sức mạnh và tiềm lực kinh tế, phát triển kinh tế toàn diện ở tầm vĩ mô, đồng thời chú trọng đến từng cơ sở, từng doanh nghiệp tham gia hợp tác kinh tế, xuất khẩu hoặc liên doanh, sao cho mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp đều phải có sự chuẩn bị tốt, bảo đảm có thể cạnh tranh thắng lợi, bảo đảm phát triển bền vững. Thứ ba, trong quá trình hội nhập phải kiên trì và giữ vững phương châm bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ lợi ích quốc gia. Theo phương châm này, một mặt, cần kiên quyết không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích mà lẽ ra phải được; mặt khác, phải chấp nhận chia sẻ lợi ích hợp lý với các đối tác. Cũng theo phương châm này, trong hợp tác cấn nắm vững nguyên tắc vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Cùng với việc tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh tốt hơn, chúng ta phải tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước nhằm hình thành những doanh nghiệp đủ mạnh kinh doanh có hiệu quả, làm nòng cốt cho hợp tác kinh tế. Đồng thời các doanh nghiệp của chúng ta cũng phải liên kết với nhau hình thành sức mạnh cộng đồng các doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của nhau và bảo vệ lợi ích quốc gia, không để cho bên ngoài lợi dụng cạnh tranh trong nước để chia rẽ hoặc cạnh tranh khu vực để "đục nước béo cò" thu lợi. Thứ ta, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, không để bất cứ quốc gia nào, tập đoàn kinh tế nước ngoài nào chiếm vị trí độc quyền ở bất cứ lĩnh vực nào trong nền kinh tế nước ta. Ngược lại, phải bằng mọi cách tạo ra sự cạnh tranh ngay giữa các đối tác nước ngoài khi kinh doanh ở nước ta để tạo lợi thế giúp các doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Đa dạng hoá, đa phương hoá là phương cách hữu hiệu để đảm bảo sự an toàn trong hội nhập, là nhân tố thích hợp để chúng ta có thể lợi dụng mâu thuẫn giữa các đối tác và tranh thủ sự ủng hộ của từng đối tác. Đây cùng là một yếu tố quan trọng để ta giành thế chủ động, sử dụng linh hoạt các đối tác khác nhau nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển cũng như bảo đảm lợi ích cho đất nước. Thứ năm, phải luôn luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế để xâm nhập, thực hiện "diễn biến hoà bình", phá hoại, lật đổ chế độ. Thực tiễn cho thấy, điều cơ bản có tính quyết định bảo đảm an ninh quốc gia là niềm tin, sự gắn bó của dân với Đảng, với Nhà nước tạo thành sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Điều cần thấy rõ là, khi đẩy mạnh quan hệ hợ tác kinh tế với Mỹ và phương Tây có thể sẽ nảy sinh những vấn đề mới, phức tạp có liên quan đến an ninh. Đặc biệt coi trọng những ngành, những vùng thuộc chiến lược an ninh quốc gia, những vị trí trọng yếu của quốc phòng. Việc phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ góp phần quan trọng làm tăng tiềm lực quốc phòng, an ninh. Mặt khác, quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế cũng như sự đan xen lợi ích giữa nước ta với các nước và các tổ chức, các công ty nước ngoài khi thực hiẹn các quá trình kinh tế tuy có phức tạp nhưng nếu biết xử lý tốt cũng tạo ra yếu tố góp phần bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia. 3. Hệ quả tích cực và tiêu vực của toàn cầu hoá. 3.1. Hệ quả tích cực. a. Toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản xuất đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao. - Toàn cầu hoá làm tăng nhanh tổng sản lượng thế giới: ngày nay tổng sản phẩm của thông tin ước tính khoảng 30.000 tỷ USD, gấp 23 lần tổng sản phẩm thế giới vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX (1.300 tỷ USD). - Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu có những thay đổi cơ bản. Nếu năm 1960, nông lâm thuỷ sản chiếm 10,4%; cây công nghiệp chiếm 28,1% và dịch vụ chiếm 50,4% thì đén năm 1990, cơ cấu GDP của thế giới tương ứng đã là 4,4%, 21,4% và 62,4%. - Sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống hữu cơ ngày càng tăng, với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng sản xuất. - Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng, kết nối các vùng địa lý trên trái đất vào một hệ thống, góp phần tác động có hiệu quả vào các quá trình kinh tế - xã hội - chính trị. b. Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại. - Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại sẽ làm giảm hoặc huỷ bỏ các hàng rào thương mại làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị trường tiêu thụ quốc tế rộng hơn, do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó sẽ thúc đẩy phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá, làm cho các nguồn lực ở mỗi nước và trên thế giới được sử dụng hợp lý và có hiệu quả cao hơn. - Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro, thách thức trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt. c. Toàn cấu hoá gia tăng các luồng chuyền giao vốn và công nghệ. Toàn cầu hoá làm gia tăng các hoạt động đầu tư quốc tế, chủ yếu là FDI, với những đặc điểm chính là luồng vốn đầu tư ngày càng tăng; chủ thể đầu tư và chủ thể thu hút đầu tư ngày càng đa dạng; lượng lưu động vốn cho vay tăng rất nhanh; tự do hoá đầu tư trở thành mục tiêu chính sách đầu tư quốc tế của tất cả các nước. Toàn cầu hoá thực hiện chuyển giao trên qui mô ngày càng lớn những thành tựu của khoa học công nghệ, tổ chức, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, sản xuất cho các nước được đầu tư phát triển. d. Toàn cầu hoà củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, các thể chế quốc tế ngày càng được tăng cường để đảm bảo điều tiết và quản lý các quan hệ quốc tế. Chính nhờ toàn cầu hoá liên kết các nước lại với nhau, làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước về nhiều mặt, nên lợi ích của mỗi quốc gia gắn với lợi ích của nhiều quốc gia. Hơn nữa các thể chế quốc tế cũng ràng buộc lợi ích và nghĩa vụ của các quốc gia. Tất cả những điều nói trên giúp hạn chế những hành vi dễ gây xung đột giữa cá nước, góp phần duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Qua quá trình giao lưu quốc tế, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc thuộc các châu lục giữa con người với con người càng được tăng cường; thông tin cập nhật khắp các vùng và góp phần tác động nhanh chóng đến mọi sự kiện trên thế giới. 3.2. Hệ quả tiêu cực. a. Toàn cầu hoá mở rộng thêm khoảng cách giàu nghèo, trong từng nước và giữa các nước. Các mối lợi thu được từ toàn cầu hoá kinh tế được phân phối không đồng đều và không công bằng. Các quốc gia phát triển có lợi thế thường thu lợi nhiều trong kinh tế, thương mại... Tất cả những thành tựu của toàn toàn cầu hoá kinh tế trong mấy thập kỷ qua không những không thu hẹp mà còn làm doãng ra khoảng cách về mức sống và trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển; làm trầm trọng sự bất công trong xã hội; đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước. Về nhiều mặt, dân chúng ở 85 đang phát triển hiện có mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm và toàn thế giới hiện nay vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo. b. Toàn cầu hoá tạo nên sự thách thức mới đối với nền độc lập, chủ quyền quốc gia; làm xói mòn quyền lực Nhà nước - dân tộc. - Toàn cầu hoá làm thay đổi khái niệm độc lập và chủ quyền quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá làm suy yếu chức năng kinh tế của Nhà nước dân tộc. - Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách tương đối, tính độc lập của các quốc gia bị giảm dần; nhiều quyền lực của Nhà nước bị xói mòn, các chính phủ không còn quyền độc lập tuyệt đối trong việc hoạch định chính sách vì nhiều vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước (các luồng di chuyển vốn, các luồng thông tin, các tập đoàn xuyên quốc gia, môi trường, sinh thái...). c. Toàn cầu hoá làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống của con người trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội, môi trường đến an toàn chính trị. Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á 1997-1998 đã ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo dài và toàn diện đến các nước này. Tính không an toàn trong đời sống kinh tế gia tăng: sự đổ vỡ nhiều ngành sản xuất và phá sản hàng loạt xí nghiệp; lạm phát và thất nghiệp gia tăng. Nền sản xuất phải cơ cấu lại, những thể chế bảo hộ xã hội bị phá bỏ. Tệ nạn xã hội gia tăng, đặc biệt là khi nền kinh tế lâm khủng hoảng, các tệ nạn ma tuý, mãi dâm, HIV lan tràn. Toàn cầu hoá làm gia tăng giao lưu quốc tế trong đời sống văn hoá tinh thần. Nhiều tinh hoa văn hoá của các dân tộc được truyền bá, sự thâm nhập lẫnh nhau của các nền văn minh thúc đẩy tiến bộ xã hội. Song do lợi thế của các nước có nền kinh tế mạnh, nên ảnh hưởng của các nước này đối với các nước đang phát triển rất mạnh. Vì vậy, nhiều giá trị riêng của các dân tộc, đặc biệt là của cá nước đang phát triển bị xói mòn; nhiều truyền thống dân tộc bị huỷ hoại, các quan hệ gia đình bị phá vỡ. 4. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay. 4.1. Những kết quả đã đạt được. Những kết quả của công cuộc đổi mới đạt được trong 10 năm qua có thể nói là chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. ở phần trên cũng đã nói đến một phần nào đó thành tự mà Việt Nam đã đạt được thông qua các giải pháp được áp dụng trong công cuộc đổi mới kinh tế, phần này muốn tập trung phân tích các kết quả của công cuộc đổi mới trên ba lĩnh vực: tốc độ tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các vấn đề xã hội. Trước hết phải kể đến mức tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ 1991 - 2000 đã tăng bình quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990, GDP theo đầu người tăng 1,8 lần. Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trường khá và toàn diện trên lĩnh vực. Giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó nông nghiệp tăng 5,4%, thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%. Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu tấn. Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 3,4 triệu tấn, đa mức lương thực bình quân đầu người từ 294,9kg năm 1990 lên trên 436kg năm 2000. Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực hàng năm, trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Sản lượng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999 - 2000 đã tăng khá cao: cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía kinh tếăng 3 lần, bông tăng 9,7 lần. Sản lượng thuỷ văn tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%: Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 10 năm qua là khoảng 12,8% - 13%/năm. Công nghiệp chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá và đã chiếm tới 60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999. Dầu khí có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng dầu thô năm 2000 đã tăng gấp 6 lần so với nưm 1990. Sản lượng điện phát ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, sản lượng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần, phân hoá học 4,2 lần, giầy dép da 14,9 lần, giày vải 4,9 lần, bột giặt 4,6 lần, đường 3,6 lần, bia 7,3 lần… Giá trị sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình hàng năm là 20%. Các ngành dịch vụ đã tăng trưởng nổi bật trong các ngành thương mại, du lịch, bưu chính viễn thông. Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường trong nước năm 1999 đã gấp 11,3 lần năm 1990. Khách du lịch quốc tế từ 1992 đến 1997 đã tăng bình quân hàng năm là 26,5%. Mật độ điện thoại năm 1999 đã tăng 13,8 so với năm 1991 và là nước có tốc độ phát triển viễn thông đứng thứ hai thế giới. Vận chuyển hàng hoá tăng bình quân trong 10 năm qua là 9,2%, vận chuyển hành khách 14,25%. Hoạt động xuất khẩu cũng có mức tăng trưởng nổi bật. Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm qua đã tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 2000 đã tương đương tổng GDP. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng rất đáng kể. Tính đến quý I nămk 1999 đã có 2624 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 35,8 tỷ USD, nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD. Trong 10 năm qua, vốn FDI đã chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Thứ hai, cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 25,4% năm 1999; công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 22,6% lên 34,9%; dịch vụ từ 35,7% lên 40,1%. Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi được dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và sức cạnh tranh quốc tế như cà phê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su… tốc độc phát triển chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt. Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được xây dựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã được hình thành như ôtô, xe gắn máy, điện tử… 4.2. Quan hệ đối ng oại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và thu được nhiều kết quả tốt. Hội nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN). Ngay sau khi trở thành thành viên chính thức của ASEAN về lĩnh vực thương mại, UBTVQH đã ban nghị quyết số 292/NQ/UBTVQH ngày 8/11/1995 về chương trình giảm thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) củ ASEAN và ngày 15/12/1995 tại Hội nghị Thượng định ASEAN lần thứ 5, Việt Nam đã ký nghị định thư cam kết thực hiện CEPT nhằm xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Việc cắt giảm thuế quan của Việt Nam được ASEAN đánh giá cao và thể hiện quyết tâm của chúng ta trong việc đẩy nhanh tiến trình hoàn thành AFTA. Trong quá trình thực hiện CEPT/AFTA, chúng ta đã lựa chọn các mặt hàng và mức giảm thuế thích hợp nên không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách và vẫn bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn sản xuất trong nước… - Hội nhập vào diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC). Tháng 11/1998, Việt Nam được công nhận là thành viên chính thức của APEC. Ngay tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC họp ở Ma-lai-xi-a, Việt Nam đã đưa ra Bản kế hoạch hành động quốc gia (IAP) cam kết thực hiện 14/15 lĩnh vực chủ yếu nhất theo quy định của APEC, với 3 nội dung chính: cập nhật những thay đổi về tình hình và cơ chế quản lý hiện tại đối với 14/15 lĩnh vực cam kết; tổng kết việc thực hiện những cam kết ngắn hạn mà Việt Nam đã làm; đưa ra các hoạt động bổ sung về các nội dung có liên quan đến mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư trong APEC. Quá trình hội nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tháng 6/1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại GATT (các điều khoản của nó trở thành một phần của Tổ chức thương mại thế giới WTO từ ngày 1/1/1995), ngày 4/1/1995 chúng ta đã nộp đơn xin gia nhập WTO. 4.3. Thực trạng kinh tế nước ta nhìn dưới góc độ hội nhập kinh tế với thế giới cũng bộc lộ một số nhược điểm đáng chú ý Một là, trong hai thời kỳ kế hoạch 5 năm của 10 năm (1991 - 2000) đã diễn ra hai xu hướng trái ngược nhau. - Thời kỳ 1991 - 1995 là lúc mà ở trong nước thì nguồn vốn vật chất còn hạn hẹp, kinh nghiệm quản lý Nhà nước và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường còn chưa nhiều; ở ngoài nước thì tình hình quốc tế nhìn chung là bất lợi. - Thời kỳ 1996 - 2000 là thời kỳ có nhiều nhân tố thuận lợi hơn; ở trong nước thì nền kinh tế đang trên đà phát triển với tốc độ khá cao, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân nhìn chung được cải thiện, hoạt động của thị trường nội địa khá sôi đọng, nền tài chính tiền tệ đã được ổn định; ở ngoài nước thì với việc gia nhập ASEAN, tham gia AFTA, ký Hiệp định khung với EU và bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào tháng 7/1995, cũng như là thành viên của APEC vào tháng 11/1998, vị thế nước ta trên trường quốc tế đã được cải thiện rõ rệt. Trong bối cảnh đó, trừ chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp, các chỉ tiêu kinh tế khác của kế hoạch 1996 - 2000 đạt thấp hơn nhiều so với mức dự kiến. Tình hình kinh tế nước ta trong vài năm gần đây chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực; nhưng cũng không nên vì thế mà coi nhẹ nguyên nhân chủ quan như chậm đổi mới cơ chế, chính sách, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chậm khắc phục tình trạng yếu kém của bộ máy Nhà nước, chậm cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh… Hai là, khoảng cách về trình độ phát triển của nước ta so với các nước trong khu vực chậm được thu hẹp như mong muốn. Những thành tựu mà nước ta đã đạt được trong thập niên này là đáng khích lệ, nhưng so với tình hình phát triển của nhiều nước cho đến năm 1997, là năm chưa chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế, thì tốc độ phát triển của nước ta vẫn chậm hơn. Ba là, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của doanh nghiệp nước ta còn yếu hơn nhiều nước trong khu vực. Năng lực cạnh tranh là một yếu tố quyết định trong việc mở rộng thị trường, hội nhập kinh tế với thế giới có hiệu quả, bảo đảm sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp và mỗi nước. Năng lực cạnh tranh của mỗi nước là năng lực tạo lập môi trường cạnh tranh kinh tế của nước đó có thể thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư và kinh doanh, trong đó Nhà nước đóng vai trò quyết định. Nó liên quan đến hàng loạt yếu tố quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư, khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền, các định chế tài chính, tiền tệ, hệ thống thông tin và các chủ thể được tiếp cạn thông tin, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, dịch vụ công, thị trường lao động, thể chế, luật pháp, chính sách, cơ cấu bộ máy Nhà nước và năng lực của công chức trong bộ máy đó. Trước thực trạng tình hình kinh tế như vậy, những cam kết quốc tế mà nước ta phải thực hiện đang thúc bác cả về thời gian và khối lượng công việc cần hoàn thành. 5. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn đúng đắn và chính xác. Quá trình toàn cầu hoá luôn đi liền, kéo theo và thúc đẩy sự hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tự giác tham gia các quan hệ kinh tế toàn cầu, tuân thủ các luật chơi chung và tham gia sự phân công lao động quốc tế. Do tính hai mặt, có cả tích cực và tiêu cực của toàn cầu hoá nên việc hội nhập kinh tế quốc tế vừa có thể là lời giải, là cứu cánh, lại vừa có khả năng là cạm bẫy lớn đối với các nước tham gia quá trình này. Như thế, tham gia bao hàm cả được và mất. Giỏi giang thì có thể được 7, mất 3; trung bình được 5 mất 5 và kém cỏi thì được 3 mất 7. Để đảm bảo sự an toàn và ổn định kinh tế, các quốc gia khi hội nhập kinh tế quốc tế đều phải đưa ra những đường hướng và chính sách của mình để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đối với nước ta, việc nghiên cứu vấn đề toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế được hết sức chú trọng. Trên cơ sở phân tích các điều kiện và quy lụât vận động khách quan của kinh tế - xã hội. Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ… Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo vệ độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc và an ninh quốc gia…". Như thế, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan nên việc tham gia quá trình đó, đối với chúng ta như một lẽ đương nhiên. Chúng ta tham gia một cách chủ động tuỳ theo điều kiện của mình và điều kiện khách quan. Và để bảo đảm được tính chủ động đó, bảo đảm cho việc chủ động hội nhập và phát triển kinh tế, phục vụ và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Chủ động hội nhập và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ có quan hệ biện chứng, hữu cơ với nhau. Đây là hai nhiệm vụ trọng yếu cùng tiến hành đồng thời, lại cũng hỗ trợ, làm tiền đề cho nhau. Một trong những nhân tố chất quan trọng bậc nhất, vừa tham gia cả hai nhiệm vụ kể trên và thúc đẩy sự hoàn tất cho từng nhiệm vụ, vừa là keo dính kết nối việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ chính là hoạt động cuả các doanh nghiệp. Nếu coi hai nhiệm vụ đó cùng phục vụ chung mặt trận phát triển kinh tế, chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, đưa đất nước lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì các doanh nghiệp, cả doanh nghiệp thuộc kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân đều là những đội quân chủ lực, trong đó các doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò xung kích. Hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình đi liền với toàn cầu hoá kinh tế mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tham dự phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của kinh tế quốc tế nói chung, vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch và cơ cấu đầu tư, sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, phát triển kinh tế trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm không chỉ những quan hệ đa phương, song phương, mà còn là quan hệ mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Nội dung của nó về phía kinh tế đối ngoại là thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học, kỹ thuật với từng nước, với từng khu vực hoặc từng tổ chức quốc tế cũng như thực hiện các định chế kinh tế cả ở cấp đa phương và toàn cầu. Bên trong mỗi nước, mỗi bảo đảm sự hội nhập có hiệu quả phải tiến hành đổi mới các luật lệ, chính sách thích ứng với tình hình và thông lệ quốc tế, đồng thời phải thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế sao cho có hiệu quả cao, độc lập, tự chủ và đủ sức cạnh tranh ở ngay trong nước và với bên ngoài. Mục tiêu hội nhập của chúng ta là để phát triển. Chủ trương hội nhập của Đảng và Nhà nước ta đã rõ nhưng hội nhập như thế nào vẫn còn nhiều chuyện để bàn. Hội nhập cần giữ được độc lập, tự chủ, gạt bỏ những áp đặt về dân chủ, nhân quyền, bảo đảm ổn định chính trị, xã hội, không làm mai một nền tảng xã hội chủ nghĩa, cảnh giác với nhưng tư tưởng thù địch ở bên ngoài và những biểu hiện cơ hội không lành mạnh ở trong nước; đồng thời cũng cần tránh xu hướng sợ hoà nhập nên làm mất thời cơ, hoặc ngược lại là sự hoà nhập vô nguyên tắc. Rất mong các vị đại biểu cho ý kiến về những vấn đề này. Nền kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng một nền kinh tế chậm phát triển, do vậy việc tham gia quá trình hợp tác quốc tế trên những lĩnh vực cụ thể gì, thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho ngành nghề nào, trước hết cần đặc biệt quan tâm hiệu quả kinh tế. Nghĩa là hội nhập phải tạo ra và đem lại cho đất nước một nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa nguồn lực bên ngoài và nguồn lực bên trong thành sức mạnh tổng hợp, bảo đảm cho nền kinh tế đất nước luôn luôn phát triển ổn định. Kinh tế xã hội là hai vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nêu hội nhập kinh tế mà làm đất nước nghèo đi, thất nghiệp gia tăng, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng lớn và công bằng xã hội không được thực hiện, thì hội nhập kinh tế cũng không hề có ý nghĩa. Hiệu quả kinh tế cùng với hiệu quả xã hội trong hội nhập kinh tế quốc tế đều góp phần khẳng định tính hiện thực về con đường đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa, con đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Ngoài ra, hội nhập còn cần bảo đảm hiệu quả về mặt môi trường. Hội nhập kinh tế của nước ta với bất cứ nước nào cũng cần tránh mọi nguy cơ đe doạ gây ô nhiễm môi trường, cầm làm cho môi trường nước ta và môi trường thế giới ngày càng tốt hơn, góp phần bảo đảm môi trường thế giới phát triển bền vững. Bản chất toàn cầu hoá bao giờ cũng là một quá trình lựa chọn các giá trị, trong nhiều trường hợp toàn cầu hoá còn đồng nghĩa với sự xâm lược của các giá trị này đối với các giá trị khác. Do vậy, việc hội nhập kinh tế cần chống lại sự áp đặt giá trị của các thế lực cường quyền cần luôn luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế để thâm nhập hoạt động làm tăng nguy cơ "diễn biến hoà bình", đồng thời chống tệ lãng phí, tham ô và bệnh quan liêu - nạn tham nhũng, những kẻ thù phá hoại từ bên trong nền kinh tế nước ta. Giữ vững độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia và bản sắc văn hoá dân tộc. Đây là những thành quả cách mạng cực kỳ quan trọng của đất nước, loị ích lâu dài của quốc gia và là nguyên tắc bất di bất dịch cần giữ vững. Độc lập tự chủ là mình quyết định các vấn đề về đường lối, chính sách, các mục tiêu và các quyết sách về đối nội và đối ngoại của đất nước, phù hợp lợi ích và nghĩa vụ quốc gia, thích ứng xu thế thời đại. Nói khác đi đó là việc thực hiện quyền quyết định tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế của mình, không chịu sự áp đặt về ý đồ và quyền lợi từ bất cứ phía nào. Kết thúc đề tài Đại hội IX của Đảng đã xác định đường lối phát triển kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, trong đó có nhấn mạnh một nội dung rất quan trọng là phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là một quá trình từ thấp đến cao. Độc lập tự chủ kinh tế ở mức độ cao là phải đạt được đầy đủ những yêu cầu, nội dung nêu trên và những điều kiện cụ thể nêu ở phần dưới. Đồng thời, phải có mức độ tối thiểu cần thiết để cơ bản bảo đảm được sự ổn định kinh tế - xã hội và ứng phó được với mọi bất trắc xảy ra, bảo đảm sự độc lập tự chủ về đường lối, chính sách phát triển của nền kinh tế. Công cuộc đổi mới ở Việt Nam mới được thực hiện trên 15 năm nhưng đã thu được những kết quả rõ rệt trên nhiều phương diện. Những kết quả này đã khẳng định những định hướng đổi mới của Việt Nam là đúng đắn. Chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế - là những định hướng cơ bản của công cuộc đổi mới. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) đã tiếp tục khẳng định những định hướng trên. Thời đại toàn cầu hoá phát triển sâu rộng như hiện nay càng đòi hỏi Việt Nam phải chuyển mạnh hơn sang kinh tế thị trường và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đó là những định hướng không thể đảo ngược. Những gì Việt Nam đã làm trong 15 năm và sẽ làm trong 10 năm tới đây sẽ không thể chệch khỏi định hướng trên. Một số ý kiến cá nhân. - Chúng ta cần tiếp thu, học hỏi những kinh nghiệm của những quốc gia có nền kinh tế vững mạnh. - Phải có những giải pháp để khai thông thị trường rộng lớn hơn để dễ dàng hội nhập nền kinh tế quốc tế. - Tìm cách khắc phục nhanh chóng những nhược điểm đang tồn tại. - Để hội nhập kinh tế quốc tế cần phải tổng hợp và hệ thống hoá các cam kết hội nhập của Việt Nam trong ASEAN và APEC. - Đối chiếu các nguyên tắc hội nhập và các cam kết của Việt Nam để đề ra chương trình điều chỉnh chính sách và lộ trình.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35404.doc
Tài liệu liên quan