Đề tài Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Vinateximex sang thị trường Nhật Bản

Trong tiến trình của lịch sử xã hội loài người đến thời điểm này toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khóa học và công nghệ đã lam cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới của từng quốc gia, trở thanh vấn đề của toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng toàn cầu hoá và mang lại hiệu quả cao nhất. Nghành May của Việt Nam ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường và là một trong những nghành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. trên thị trường Thế Giới, Việt Nam cũng đã khẳng định được vị trí của mình, có quan hệ với trên 250 Công Ty thuộc 60 quốc gia trên Thế Giới. Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam là nòng cốt của Nghành Dệt May Việt Nam với 19 doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. kể từ khi thành lập đến nay, Tổng Công Ty đã thâm nhập và đứng vững ở các thị trường lớn như: EU, Nhật Bản, trung đông.Trong đó thị trường Nhật Bản là thị trường phi hạn nghạch lớn nhất của Tổng Công Ty với kim nghạch xuất khẩu hàng may mặc hàng năm rất lớn và tốc độ tăng trưởng cao. Tuy vậy, hàng may mặc của Tổng Công Ty vào thị trường này còn có những vướng mắc như: nền kinh tế Nhật Bản có dấu hiệu đi xuống, các chính sách xuất khẩu của Nhà Nước không còn phù hợp, chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã, kiểu dáng còn đơn điệu.

doc52 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 643 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Vinateximex sang thị trường Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức thanh toán, về thời hạn giao hàng với đầy đủ yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng. Đồng thời phân đoạn thị trường để tập trung vào một số hàng hoá chủ lực trên thị trường Nhật Bản”. Đánh giá chiến lược: Có thể nhận định ngay được rằng, đây là một chiến lược hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với khả năng, tiềm lực của công ty, với thực trạng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của toàn ngành và yêu cầu của việc giữ vững và tăng khả năng cạnh tranh của mình. Trong cạnh tranh giờ đây yếu tố giá cả không phải là yếu tố hàng đầu phản ánh khả năng, năng lực thực sự của các doanh nghiệp mà phải là yếu tố chất lượng, mẫu mốt sản phẩm. Chất lượng đòi hỏi ngày càng cao, mẫu mã ngày càng đa dạng phong phú vì trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, thu nhập bình quân của người dân Nhật Bản tăng lên nhu cầu về ăn mặc ngày càng được coi trọng nên để có thể đứng vững trong công cuộc cạnh tranh hiện nay cần trú trọng nhiều đến chất lượng sản phẩm. Cái đích của chất lượng là không bao giờ có, vì vậy công ty phải liên tục nâng cao dần chât lượng hàng hoá nhờ việc tìm những nguồn vải có chât lượng tốt, tìm những công ty may có chất lượng, uy tín, có máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại Để hàng hoá có mẫu mã phù hợp với nhu cầu thực tại và trong tương lai của khách hàng cần có sự nghiên cưú về xu hướng mẫu mốt của từng đối tượng khác hàng. Chất lượng tốt phải đi kèm với kiểu dáng đẹp, hợp thời trang thì mới nâng cao được sức cạnh tranh của chính hàng hoá đó. Tuy nhiên, không phải hàng hoá có chất lượng cao là có thể có sức cạnh tranh lớn vì yếu tố liên quan đến lợi ích người tiêu dùng bao gồm cả giá cả hàng hoá. Nếu quá tập trung vào chất lượng sản phẩm mà không chú ý đến giá bán của chúng thì khi tung sản phẩm ra thị trường Nhật Bản sẽ gặp khó khăn trong vấn đề tiêu thụ. Chất lượng sản phẩm phải gắn liền với giá cả, nâng cao chất lượng không đồng nghĩa với nâng cao giá bán mà phải bảo đảm sản phẩm có chất lượng cao nhưng. Có thực sự kết hợp được những yếu tố trên thì sản phẩm mới đạt được những yêu cầu mà chiến lược cạnh tranh của công ty đã đưa ra. Tạo lập được uy tín, niềm tin với khách hàng là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi có sự kết hợp nhiều yếu tố. Khi đã có được nó chúng ta cần biết giữ gìn và phát huy để khẳng định thêm lòng tin cho khách hàng. Kinh doanh xuất khẩu phải tạo được sự thuận tiện trong thanh toán, trong qua trình vận chuyển giao nhận hàng hoá, hoàn thành đúng thời hạn giao hàng, đúng số lương, chất lượng hàng hoá như trong hợp đồng. Khi công cuộc cạnh tranh ngày càng khó khăn thì vấn để này càng được coi trọng vì số lượng nhà cung cấp rất nhiều, nếu chúng ta làm mất niềm tin của khách hàng thì cơ hội làm lại là rất hiếm vì khách hàng có nhiều sự lựa chọn khác nhau. Khả năng, tiềm lực của công ty là có hạn nên sẽ không đủ sức để kinh doanh ồ ạt các mặt hàng mà phải có sự lựa chọn đánh giá để có chính sách ưu tiên một cách thích hơp. Trên cơ sở đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh nhưng công ty cần có những tập trung nhất định vào một số mặt hàng truyền thống, chủ lực với khả năng xuất khẩu cao để có doanh thu ổn định từ chúng. Ngoài ra thị trường xuất khẩu của công ty khá nhiều nhưng không thể có cách thức kinh doanh như nhau tại mọi thị trường nên công ty cần có sự công đoạn để chú trọng vào một số thị trường trọng điểm như thị trường Nhật Bản. Căn cứ theo phân loại các phương thức cạnh tranh thì đây là chiến lược trọng tâm hoá, mà về bản chất là chiến lược cạnh tranh theo đuổi một loạt các lợi thế về: chi phí thấp và khác biệt hoá một số sản phẩm. Công ty đã tân dụng được lợi thế của mình đối với các đối thủ cạnh tranh nước ngoài trên thị trường Nhật Bản về nhân lực và chính sách ưu tiên của chính phủ đối với ngành may mặc. Đối với đối thủ trong nước cùng có những lợi thế trên, công ty đặt ra mục tiêu chiếm ưu thế về chất lượng sản phẩm và thực hiện đúng hợp đồng với bạn hàng để tạo uy tín và giữ mối làm ăn lâu dài. ĐVT:nghìn đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Lượng (chiếc) 3.037.486 2.998.848 2.775.381 Giá gia công 3.517.041 3.349.757,77 2.812.494,29 Trị giá FOB 3.517.041 3.356.793,37 2.824.152,79 2.2-Thực trạng gia công xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Trị giá hợp đồng gia công hàng may mặc của công ty sang thị trường Nhật Bản. Đvt: USD Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 A-Tổng doanh thu xuất khẩu 3.517.041 3.356.793 3.824.152 B-Tổng giá trị các hợp đồng gia công 3.517.041 3.349.757 2.812.494 Tỷ lệ A/B (%) 100,0 99,8 99,6 Hiện nay, khoảng 99% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của công ty xuất khẩu sang Nhật Bản được thực hiện dưới hình thức gia công xuất khẩu. Trong những năm qua, gia công xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đã phát huy được nhiều ưu điểm như hỗ trợ các doanh nghiệp may các thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đồng thời gia công, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp thu được những kinh nghiệm, kỹ năng quản lý, tổ chức, điều hành sản xuất của một quốc gia tiên tiến về khoa học công nghệ như Nhật Bản và quan trọng nhất là đảm bảo cho các doanh nghiệp may khả năng tiêu thụ hàng, các doanh nghiệp may thực chất là sử dụng mạng lưới tiêu thụ, các kỹ năng kinh nghiệm tiêu thụ của công ty Nhật rồi từ đó nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng Nhật, có điều kiện tập dượt cho việc độc lập thâm nhập thị trường mới, nhất là thị trường Nhật Bản-một thị trường cạnh trnh khốc liệt và rất khó tính. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng trên thế giới nhiều nước đang phát trển đã nhờ vận dụng gia công xuất khẩu mà có được một nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn như: Hàn Quốc, TháiLan, Singapo, Từ bảng số liệu trên ta nhận thấy rằng tổng giá trị các hợp đồng gia công có xu hướng giảm qua các năm từ 2000 đến 2002. Năm 2000 công ty mới chỉ thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu đó là do trong năm này công ty mới tách ra khỏi tổng công ty để kinh doanh độc lập cho nên còn nhiều hạn chế về vốn, nhân lực, về kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường Nhật Bản. Đến năm 2001, ngoài việc thực hiện các hợp đồng gia công công ty đã bước đầu kinh doanh các mặt hàng khác dẫn đến việc giảm tỷ trọng của các mặt hàng gia công trong tổng doanh thu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. cụ thể là giá trị các hợp đồng gia công đạt 3.349.757 chiếm 99,8% thực tế đó cho thấy trong hoạt động xuất khẩu công ty vẫn phải tập trung vào việc thực hiện các hợp đồng gia công. Trong năm 2002, công ty đã trú trọng vào việc giảm trị giá các hợp đồng gia công nhưng vẫn cố gắng tìm mọi biện pháp để tăng tổng doanh thu xuất khẩu bằng việc chủ động tham gia xuất khẩu các mặt hàng khác ngoài hàng gia công-đó là các mặt hàng có lợi nhuận cao. Trong tình hình hiện nay, những mặt hạn chế của gia công hàng may mặc xuất khẩu sang Nhật Bản đã bộc lộ, và có lúc đã cản trở sự phát trển, tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng. Điểm đầu tiên dễ nhận thấy là giá gia công thường thấp( chiếm một phần rất thấp trong giá thành sản phẩm) nay lại càng xuống thấp hơn. Nguyên nhân là do có quá nhiều đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực này(châu á), lại cộng thêm sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Đông Nam á nên gia công của công ty chịu thêm sức ép giá gia công thấp từ phía các quốc gia đang bị khủng hoảng kinh tế như Thái Lan, Indonesia Thứ đến là dần dần, nếu hàng may mặc của công ty vẫn đi theo hướng gia công thì sẽ tạo một tiền lệ xấu là không chủ động trong kinh doanh, do phụ htuộc vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi ta vẫn chưa tự túc được nguyên phụ liệu. Tiếp theo là một thực trạng trong gia công hàng may mặc xuất khẩu sang Nhật Bản. Đó là rủi ro cao, một khó khăn tưởng chừng như không thể có trong lĩnh vực gia công. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khởi phát từ Đông Nam á rồi lan rộng ra khu vực Châu á khiến Nhật Bản, Hàn Quốc cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Các doanh nghiệp Nhật Bản bước vào giai đoạn khó khăn về tài chính. Bởi vậy phía Nhật Bản (giao gia công) đề nghị một phương thức thanh toán khá “gay go” cho gia công của công ty đó là giao hàng song mới trả tiền. Phương thức này, trên lý thuyết tưởng chừng như không có vấn đề gì phải bàn cãi và dễ được hai bên chấp nhận. Nhưng trong thực tế nó đã bộc lộ những nhược điểm mà không có lợi cho phía công ty. Và cuối cùng, đứng trên phương diện kinh doanh xuất khẩu thì công ty nếu tiếp tục đi theo con đường làm gia công và lấy nó làm một hình thức chủ yếu thì không thể tạo dựng được các nhãn mác của ta trên thị trường Nhật Bản. 2.3-Thực trạng xuất khẩu trực tiếp hàng may sang thị trường Nhật Bản. 2.3.1-Doanh thu xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc của công ty sang thị trường Nhật Bản. CHỉ TIÊU NĂM 2000 2001 2002 Tổng doanh thu xuất khẩu 3.517.041 3.356.793 3.824.152 Doanh thu xuất khẩu trực tiếp (trị giá FOB) 3.086.543 3.149.560 3.625.477 Doanh thu xuất khẩu uỷ thác 430.498 207.233 198.675 Hình thức xuất khẩu trực tiếp với giá FOB có nhiều ưu điểm nổi bật hơn hình thức xuất khẩu uỷ thác, trong thời gian qua doanh thu xuất khẩu trực tiếp( trị gia FOB) của công ty luôn có giá trị lớn hơn rất nhiều so với doanh thu xuất khẩu uỷ thác. Đó là một dấu hiệu tốt tạo tiền đề cho quá trình chuyển từ xuất khẩu uỷ thác sang xuất khẩu trực tiếp. Do sản phẩm xuất khẩu hàng may mặc của công ty chưa có nhãn hiệu nào được thị trường thế giới biết đến nhưng lại mang nhãn hiệu Pierre Cardin, Polo, khoảng 70% các sản phẩm may xuất khẩu phải thông qua nước thứ ba nên bị ép giá gây thiệt hại rất nhiều cho công ty. Chính vì vậy, nhà nước đã có chính sách chuyển dần sang phương thức xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Kết quả là giá trị xuất khẩu trực tiếp(trị giá FOB) của công ty tăng nhanh. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu trực tiếp ( hình thức FOB) của công ty sang thị trường Nhật Bản, hàng dệt may chiếm tỷ lệ khá cao (từ 87,8%-94,8%) tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản. Bán FOB chủ yếu tập trung ở các mặt hàng dệt kim (áo T-shirt) hoặc nhập một phần/toàn bộ nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Xuất khẩu theo hình thức FOB đang được công ty sử dụng, đặc biệt với các sản phẩm dùng vải và nguyên phụ liệu trong nước. 2.3.2-Trị giá hàng may mặc xuất khẩu trực tiếp của công ty sang thị trường Nhật Bản. ĐVT: 1000 USD Sản phẩm Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Jacket 1.050 1.950 2.567 Khăn tơ tằm Nhật 5.804 30.080 1.404 Khăn bông Nhật 3.038.035 3.0458.623 3.686.209 Thảm Nhật 25.729 98.992 57.926 Qua bảng số liệu trên cho ta thấy từ năm 2000-2002 trị giá của mặt hàng áơ Jacket luôn tăng cao, nhưng khăn tơ tằm và thẳm Nhật Bản lại tăng giảm không đều, năm 2002 trị giá mặt hàng này lại rất nhỏ so với năm 2001.Trong khi đó giá trị của hàng khăn bông Nhật lại có xu hướng tăng, năm 2001 tăng chậm so với năm 2000, nhưng đến năm 2002 kim ngạch của mặt hàng này lại tăng ở mức cao so với năm 2001. Phải khẳng định rằng, xét về mặt chất lượng hàng hoá, Nhật Bản nằm trong số những quốc gia có đòi hỏi cao nhất thế giới. Những khiếm khuyết mà ở các quốc gia khác không thành vấn đề nhưng ở Nhật Bản đều bị coi là hàng hoá hỏng. Người tiêu dùng Nhật Bản đề ra các tiêu chuẩn độ bền và chất lượng cao cho những hàng hoá công nghiệp và tạo ra yêu cầu mà các sản phẩm khác nhau nhưng cùng chủng loại phải tuân thủ. Mặc dù nền kinh tế Nhật Bản hiện nay đã có những dấu hiệu phục hồi, người tiêu dùng Nhật Bản đã chấp nhận những sản phẩm có chất lượng thấp hơn đổi lấy giá cả rẻ hơn nhưng quan điểm về chất lượng của họ để lại một dấu ấn trong cách đánh giá sản phẩm trước khi mua chúng. Các doanh nhân Nhật Bản trong chuyến thăm quan các nhà máy may của tổng công ty dệt may Việt Nam do cơ quan xúc tiến mậu dịch Nhật Bản tổ chức có nhận xét: Về chất lượng hàng may của tổng công ty, khách hàng Nhật Bản có phản ánh như sau: -sản phẩm có quá nhiều công đoạn phải cắt nối và cắt thiếu chính xác. -có lỗi ở đường khâu. -Lớp lót bị sổ. -Đôi khi khuy áo đứt ngay sau khi mặc. -Hàng khuy chưa thẳng. -Các đường viền chưa tốt. -Sai số lớn về kích cỡ. Những khiếm khuyết về sản phẩm nêu trên có thể quy về hai nguyên nhân cơ bản sau: +Trình độ tay nghề, kỷ luật lao động của công ty còn thấp (1) +Thiết bị máy móc lạc hậu (2). Ví dụ như cắt thiếu chính xác, sai số về kích cỡ là do nguyên nhân (1) còn các lỗi ở đường khâu, hàng khuy chưa thẳng là do thiết bị. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho công ty nhằm khắc phục những tồn tại của tổng công ty như là:đào tạo, nâng cao đội ngũ cán bộ công nhân viên, nghiêm túc thực hiện kỷ luật lao động. Ngoài ra công ty nên trú trọng vào việc lựa chọn những nguồn hàng cung cấp có chất lượng cao để giữ uy tín đối với chươngIII các giải pháp thúc đẩy hàng dệt may của vinateximex sang thị trường Nhật Bản. 1-Giải pháp về mở rộng thị trường. 1.1-Thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại vào thị trường Nhật Bản. -Thiết lập hệ thống xúc tiến thương mại đối với thị trường Nhật Bản để làm được việc này công ty cần tự mình đưa ra các cơ chế nhằm khai thác các nguồn lực thương mại khác nhau hiện đã có mặt tại thị trường này. Hệ thống thương mại cần phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần coi trọng thiết lập nhiều đầu mối tại một thị trường, đồng thời thiết lập nhiều đầu mối trong nước, đặc biệt là sử dụng các công ty luật nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn pháp luật cho hoạt động xuất khẩu. Công ty cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng với mẫu mốt phù hợp. Đặc biệt là xây dựng cho bản thân công ty có phong cách và nhãn hiệu lâu dài và các bộ sưu tập theo từng mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn dệt may lớn trên thế giới. -Cần coi trọng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu truyền thống của công ty không những ở thị trường nội địa mà ngay tại các thị trường xuất khẩu. Để làm được việc này công ty cần có biện pháp sử dụng và khai thác tốt các phương tiện thông tin hiện đại hiện nay, đặc biệt là phương pháp kinh doanh trên mạng. -Với tiềm lực của mình tổng công ty dệt may Việt Nam đã và đang triển khai xây dựng mạng xúc tiến thương mại toàn cầu. Đó sẽ là những địa chỉ đáng tin cậy cho công ty nhằm thâm nhập củng cố và mở rộng thị trường của mình. Qua kinh nghiệm xúc tiến thương mại của các công ty nước ngoài và cùng với những vướng mắc còn tồn tại trong vấn đề xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua, những cơ hội và thách thức của bối cảnh kinh tế khu vực, dựa trên các phương hướng phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-Nhật Bản, trong thời gian tới đây công ty muốn đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại của mình sang thị trường Nhật Bản thì nên áp dụng một số biện pháp sau: *Điều trước tiên là công ty phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh dài hạn cùng với các quan điểm dài hạn. Điều này chỉ có thể đạt được bằng cách nghiên cứu kỹ các yếu tố như dung lượng thị trường, tập quán buôn bán với thị trường Nhật Bản, các đối thủ cạnh tranh, hệ thống phân phối, mức giá và xu hướng biến động giá cả trong quá khứ và tương lai, những thay đổi của người tiêu dùngDo đặc điểm của công việc, chính sách kinh doanh, quá trình ra quyết định ở Nhật thường tốn nhiều thởi gian hơn so với các nước khác nên các chính sách kinh doanh chớp nhoáng, tìm kiếm lợi nhuận một cách nhanh chóng tại thị trường Nhật Bản là không thích hợp. Thực tế cho thấy các công ty nước ngoài mà thành công trong các hoạt động xúc tiến thương mại sang thị trường Nhật Bản đều cần có một khoảng thời gian nhất định mới có thể có chỗ đứng trên thị trường này. thị trường Nhật Bản đòi hỏi một chiến lược với tầm nhìn sâu rộng. Điều cốt yếu là không được bỏ cuộc giữa chừng, muốn thành công phải có sự quyết đoán và sự kiên trì. Chiến lược kinh doanh dài hạn trên thị trường Nhật Bản phải được cân nhắc và tính toán hết sức thận trọng với các bước đi thận trọng từ việc nghiên cứu thị trường, nghiên cứu tập quán buôn bán, lựa chọn đối tác kinh doanh, tới việc hoạch định các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối và khuyếch trương sản phẩm *Về nghiên cứu thị trường Nhật Bản, so với những năm trước đây, thông tin về thị trường Nhật Bản cho các doanh nghiệp Việt Nam đã có tiến bộ dưới nhiều hình thức và phương tiện khác nhau. Tuy nhiên, công ty cũng cần thường xuyên tìm đọc, nghiên cứu và xử lý đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ tối đa của các cơ quan xúc tiến thương mại của cả hai nước. Nhật Bản là một trong những thị trường có hệ thống phân phối hàng hoá phức tạp, có nhiều khâu, nhiều lớp. Quan hệ buôn bán qua các khâu: nhập khẩu,bán buôn, bán lẽđã được hình thành mang tính truyền thống, qua nhiều thế hê, do vậy tiếp nhận vào quan hệ buôn bán này thường rất khó khăn, yêu cầu doanh nghiệp phải kiên trì, chịu đựng thử thách. Người tiêu dùng Nhật Bản rất nhạy cảm về chất lượng, luôn coi chất lượng tốt và ổn định là yếu tố quan trọng nhất. Nhiều mặt hàng trong đó có mặt hàng dệt may được quản lý rất chặt chẽ, do đó doanh nghiệp phải tìm hiểu kỹ các quy chế nhập khẩu hàng dệt may của thị trường này. *Một điều nữa là cần hiểu rõ được tập quán buôn bán của thị trường Nhật Bản. Người Nhật Bản có tập quán buôn bán mang tính truyền thống cao. Thường thường, những quan hệ giao dịch gặp gỡ ban đầu ít mang lại một kết quả buôn bán cụ thể hoặc có giao dịch cụ thể cũng chỉ dừng lại ở mức mua thử, nhưng khi đã có được niềm tin, quan hệ buôn bán làm ăn thường được duy trì bền vững. *Phân tích môi trường cạnh tranh là một việc làm rất cần thiết khi nghiên cứu thị trường Nhật Bản. Sự tăng lên về hàng hoá có giá thấp, chất lượng cao của người tiêu dùng Nhật đang làm cho sự cạnh tranh giữa những công ty xuất khẩu nước ngoài ngày càng trở lên gay găt. Thêm vào đó , hệ thống phân phối trên thị trường Nhật Bản ngày càng trở lên đa dạng hơn, khuyến khích các công ty nước ngoài thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Vì lý do đó mà việc phân tích nhân tố cạnh tranh là không thể bỏ qua được. Về mặt sản phẩm, đối với công ty phải coi trọng chất lượng và độ an toàn của sản phẩm vì người tiêu dùng Nhật Bản có sự đòi hỏi rất cao về nhiêu tiêu chuẩn. Nhiều công ty nước ngoài phàn nàn rằng những tiêu chuẩn người Nhật đề ra là quá cao và việc đáp ứng những yêu cầu đó là không thể được vì quá tốn kem. Tuy nhiên, những công ty nước ngoài thành công ở Nhật đều cho rằng người Nhật không bao giờ bỏ qua khía cạnh chất lượng của sản phẩm. Sau đây là một số các bí quyết để thâm nhập thị trường Nhật Bản đã được rút ra từ nhiều công ty nước ngoài và cả công ty Việt Nam sau nhiều năm có quan hệ kinh doanh xuất nhập khẩu với thị trường Nhật Bản. Những bí quyết nghĩ là rất cần thiết cho công ty nói riêng và cho tất cả những ai muốn xuất khẩu sản phẩm của mình sang thị trường Nhật Bản: -Nếu bạn muốn bán sản phẩm của mình trên thị trường Nhật Bản, chỉ nói là “túi da”, “áo đan” là chưa đủ. Trên thực tế, có rất nhiều loại túi da, bạn cần phải nói là “cho nam giới”, “loại sang”, “loại quan chức”, “loại thông thường”. Nếu bạn chỉ nói “túi da”, người ta không thể hiểu cụ thể đó là gì. Do vậy, bạn luôn phải nêu rõ các chi tiết về hàng hoá chứ không chỉ nêu tên hàng. -Việc nêu khung giá cũng rất cần thiết. Phía Nhật khi đó có thể quyết định việc nên bán các sản phẩm đó tới các cửa hàng chất lượng cao trên thị trường bình dân tuỳ theo khung giá. -Một điều quan trọng nữa là bạn phải nêu rõ bạn muốn bán sản phẩm của mình tới đâu: của hàng chất lượng cao, cửa hàng bách hoá, siêu thị, người bán buôn, người bán lẻ hay các hãng kinh doanh. -Nếu bạn đã có các cơ sở bán hàng ở Nhật Bản thì nên báo tên khách hàng trước để tránh tiếp xúc với cùng khách hàng. Một số hãng nước ngoài nói khoác rằng, “chúng tôi đang làm ăn với hãng này hay hãng nọ ở Nhật Bản trên cơ sở sản xuất hàng tận gốc (OEM) và khoe ra một số mẫu hàng. Bạn cần tránh làm như vậy các hãng Nhật không tin và không muốn mở tài khoản với các hãng nước ngoài khi thiết lập buôn bán OEM vì điều này có thể dẫn đến khả năng họ giới thiêu hàng mẫu của họ với các hãng khác của Nhật. Trừ khi bạn dấu hàng mẫu như là “những mặt hàng bí mật”, bạn không thể được tin cậy ở Nhật Bản. Công ty phải nói rõ những đặc điểm về sản phẩm của mình, chúng giá rẻ hay đắt, chất lượng cao hay thông thường, có những đặc điểm gì khác với những sản phẩm khác. Nếu sản phẩm của công ty không có lợi thế gì hơn so với sản phẩm khác cùng chủng loại thì công ty cần cạnh tranh bằng giá cả tức là cần phải bán rẻ hơn công ty cần giải thích cụ thể những điểm khác biệt. Chẳng hạn công ty có sử dụng những vật liệu mới mà ở nơi khác chưa có hay không, thiết kế có độc đáo hay không, giá trị gia tăng có được nhờ những điểm khác biệt này hay không cần chỉ rõ đặc điểm nhận dạng sản phẩm của công ty. các hãng luôn tìm kiếm những sản phẩm có những đặc điểm khác biệt. -Khi giải thích về sản phẩm của mình không nên sử dụng các thuật ngữ hay chữ viết tắt chỉ được sử dụng trong phạm vi công ty vì bên thứ ba sẽ không hiểu chúng. Nhất thiết phải giải thích sản phẩm của mình bằng từ ngữ mà mọi người đều hiểu tránh dùng thuật ngữ chuyên môn hay chữ viết tắt. Cần phải giữ lời hứa, sử dụng nhạy cảm kinh doanh của mình đối với các vấn đề như thời gian hứa sẽ giao hàng mẫu, thời gian giao hàng, giao hàng đúng y như hàng mẫu -Các hãng của Nhật Bản đã có các cơ sở cung cấp những hàng dệt may, tạp phẩm, hàng trang trí, đồ chơi nước ngoài. Do vậy, cần nhận thức là rất khó tìm được những hãng Nhật nào muốn mua những mặt hàng này. Tốt hơn là bán những gì mà thị trường Nhật thực sự có nhu cầu. Do vậy, công ty cần phải lường trước được nhu cầu của thị trường Nhật Bản. -Những hàng hoá có thể sản xuất với số lượng lớn bằng những máy móc và chi phí vật liệu tương đương có thể được sản xuất với giá thành rẻ ở Nhật Bản. Chẳng hạn áo cắt may đơn giản có thể được sản xuất rất rẻ ở Nhật Bản. Tuy nhiên với áo thêu phức tạp thì các nước Châu á lại có ưu thế hơn, công ty cần chú ý đến điểm này. -Cần nhận thấy rằng thậm chí còn có những sự khác biệt về thị hiếu, sở thích giữa Osaka và Tokyo. Người Tokyo dường như thích những sản phẩm lớn với màu sắc sặc sỡ trong khi người Osaka lại thích những sản phẩm nhỏ, trơn, hay nhã màu. Chẳng hạn, với sản phẩm hoa giả, loại lớn có màu sắc sặc sỡ bán chạy hơn ở Tokyo, trong khi đó loại hoa nhỏ có màu “kiểu cách” không phải đặc biệt sặc sỡ lại bán chạy ở Osaka, đối với túi xách tay cũng tương tự như vậy. -ở Tokyo thời gian quyết định đặt hàng dài hơn so với ở Osaka. điều này là vì ở Osaka có nhiều công ty cỡ nhỏ và trung bình nên các giám đốc hay những người có thẩm quyền quyết định thường trực tiếp tham gia đàm phán. trong khi đó ở Tokyo, những người tham gia đàm phán thường là những người không có thẩm quyền quyết định, do vậy quá trình quyết định đặt hàng tốn nhiều thời gian hơn vì họ phải tham khảo ý kiến cấp trên trước khi đưa ra quyết định. đây là một vấn đề mà công ty cần phải đặc biệt lưu ý. -Một số công ty nước ngoài có tỷ trọng xuất khẩu sang Nhật Bản cao từ 70-85% và vẫn đang tìm cách nâng cao tỷ trọng này, nhưng xét từ góc độ phân tán rủi ro, điều này là không nên. Nếu thị trường Nhật Bản suy giảm, xuất khẩu của họ lập tức sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Thị phần 30% ở một thị trường nhất định được coi là nguy hiểm. Công ty cần tánh rủi ro cao và tìm thêm thị trường khác. -Nếu chẳng may nảy sinh khiếu nại, hư hỏng liên quan đến lô hàng, công ty không nên có thái độ chốn tránh. Công ty nên nhận sai sót và bồi thường thiệt hại cho đối tác Nhật Bản. Làm như vậy công ty sẽ giành được sự tin cậy cần có để làm ăn lâu dài. -ở Nhật Bản, quan hệ con người kể cả trong hoạt động kinh doanh được đánh giá rất cao. Có nhiều trường hợp các doanh nghiệp đang làm ăn phát đạt nhưng khi thay đổi người phụ trách thì doanh nghiệp không còn làm ăn suôn sẻ nữa. thậm chí một doanh nghiệp làm ăn lâu dài cũng có thể bị giải thể khi người phụ trách bị cấp trên buộc phải thay đổi kế hoạch. để tránh tình trạng này công ty cần tiếp xúc với người phụ trách kế cận hay cấp trên để giải thích cặn kẽ các chi tiết, lịch sử, và các đặc tính đặc thù cuả sản phẩm, đề xuất thương lượng và đảm bảo sự làm ăn lâu dài. Không nên bỏ mặc hoạt động kinh doanh và phải luôn phát huy thảo luận tích cực 2-Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm may mặc. 2.1-Đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngày nay, khi nhu cầu về tiêu dùng hàng may mặc càng cao thì một trong những nhân tố đầu tiên của hàng hoá được chú ý đến là chất lượng. Đây là nhân tố quan trọng để duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này công ty xuất nhập khẩu dệt may Việt Nam luôn phấn đấu nâng cao chất lượng hàng hoá thông qua tìm kiếm một số nguồn vải có chất lượng cao hơn ở trong nước cũng như nhập ngoại. Chất lượng hàng hoá không chỉ thể hiện ở chất lượng vải mà còn ở những đường may, đường cắt; do đó công ty đã chọn những công ty may có tiếng để đặt hàng và cẩn thận khi kiểm tra chất lượng hàng hoá lúc nhận về. Nhờ những việc làm này mà hàng hoá của công ty được khách hàng Nhật Bản rất tín nhiệm với số lượng hàng xuất khẩu ngày càng tăng. -Trong điều kiện cạnh tranh còn nhiều gay gắt nhất là sau năm 2005 khi hạn ngạch và các hàng rào phi thuế quan khác được bãi bỏ, thì thị phần của mỗi nước phụ thuộc chủ yếu vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đối với hàng may mặc, các biện pháp cạnh tranh “phi giá cả” trước hết là về chất lượng sản phẩm trong rất nhiều điều kiện trở thành yếu tố quyết định trong cạnh tranh. Bởi lẽ sản phẩm may mặc là sản phẩm người ta bỏ tiền ra mua không chỉ là để thoả mãn nhu cầu bảo vệ mà cái quan trọng hơn, giá trị hơn là nhu cầu làm đẹp, nhu cầu khẳng định giá trị phẩm chất, địa vị xã hội. Do vậy, để tạo uy tín và chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới thì chất lượng sản phẩm luôn là nội dung quan trọng, cơ bản trong chiến lược sản phẩm của bất cứ doanh nghiệp may xuất khẩu nào. chỉ có đảm bảo tạo ra sản phẩm có chất lượng cao thì mới tạo ra được uy tín vững chắc, uy tín thực sự là sức mạnh cạnh tranh lâu bền cho sản phẩm của doanh nghiệp. 2.2-Đảm bảo tốc độ cung ứng. Giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng đối với hàng may mặc do yếu tố thời vụ và phù hợp với thời trang (đặc biệt là đối với thị trường Nhật Bản) là một trong số những yếu tố quyết đinh về tính cạnh tranh của sản phẩm may mặc vì vậy trong thời gian tới công ty cần: -Một mặt tổ chức tốt hệ thống vận chuyển, bốc dỡ hàng hoá. -Mặt khác kiến nghị với nhà nước trong việc đơn giản hoá khâu làm thủ tục xuất khẩu như: + Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu đồng thời tính phần “xuất khẩu tại chỗ” này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu quy định tại giấy phép đầu tư, giảm khó khăn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện quy định này, đặc biệt là những năm đầu tiên sản xuất chưa ổn định. +Cần ưu tiên cấp hạn ngạch đủ cho các đơn hàng xuất mua nguyên liệu, bán thành phẩm với nguyên liệu sản xuất tại Việt Nam. +Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Tình trạng một loại nguyên liệu nhưng có các thông số kỹ thuật khác nhau với định mức tiêu hao cũng như chức năng khác nhau vẫn được áp dụng cùng một mức thuế đem lại nhiều thiệt hại cho doanh nghiệp. +Cải tiến thủ tục xin được miễn giảm thuế theo giấy ưu đãi đầu tư: nhanh nhạy trong quy trình làm “đơn hưởng ưu đãi đầu tư”, đánh giá các dự án đầu tư một cách hiệu quả và trong thời gian ngắn để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm nâng cao sức cạnh tranh. +Cần xem xét về quy định kiểm dịch thực vật hàng may mặc xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, công việc này cần được cải tiến một cách hiệu qủa hơn tránh tình trạng mang tính hình thức và mất thời gian của doanh nghiệp. +Cho phép các doanh nghiệp nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay khi hàng về tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ vốn kinh doanh đem lại hiệu qủa kinh tế cao. Một trong những yếu tố cơ bản làm hàng may mặc xuất khẩu của công ty được đánh giá cao trên thị trường Nhật Bản là uy tín về giao hàng đúng hạn. Thị trường Nhật Bản có đòi hỏi khắt khe về điều kiện chuyển tải, giao hàng, ưu thế về địa lý cũng như ưu đãi về thủ tục nhập cảnh, giữ được ưu thế về giao hàng là nhiệm vụ khó khăn nhưng rất cần thiết. 2.3-Chính sách giá cả hợp lý. Giá cả là một trong những công cụ quan trọng để cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản. Vì vậy, để cho mức giá đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của công ty có thể phát triển, công ty đã nghiên cứu kỹ lưỡng về giá mua (hoặc giá gia công) hàng hoá, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lưu kho, chi phí bán hàng và đã cố giắng giảm đến mức thấp nhất các chi phí đó. Trên cơ sở đó hạ giá thành hàng hoá và đưa ra một mức giá thích hợp. -Công ty ngay từ khi thành lập đã xác định chiến lược cạnh tranh của mình cơ bản là dựa trên giá cả hợp lý, phù hợp với khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Và mục tiêu giá cả hợp lý trên cơ sở hạ giá thành sản phẩm luôn là đích phấn đấu của công ty, coi đây là một công cụ cạnh tranh chủ yếu. -Giá thành là căn cứ để quyết định giới hạn thấp nhất của giá bán sản phẩm – yếu tố quan trọng của công ty trong việc đứng vững và khẳng định chất lượng, uy tín của mình trên thị trường Nhật Bản. Hàng may mặc của công ty xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đa phần là phục vụ những người tiêu dùng có thu nhập thấp, chi tiêu cho quần áo còn hạn chế và Nhật Bản là một trong những cường quốc về hàng may mặc. Hiện nay, Việt Nam đang giữ vị trí thứ 5 về xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Nhật Bản, trong đó Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh mạnh nhất của Việt Nam. Trung Quốc có lợi thế hơn Việt Nam về công nghệ, trình độ tay nghề công nhân cũng như cách quản lý khoa học, dẫn đến giá thành sản phẩm thấp. Do vậy hạ giá thành sản phẩm để có chính sách giá cả hợp lý là một nhu cầu tất yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh, công ty nên sử dụng những biện pháp sau: -Khai thác nguồn nguyên liệu từ nhiều nhà cung cấp khác nhau để tăng thêm kim ngạch bán FOB, đưa ra giá cạnh tranh. -Đẩy mạnh kinh doanh nội địa để có thể cung cấp nguyên liệu cho đơn vị sản xuất hàng dệt may. Sau đó, mua hàng của những đơn vị này với giá thấp hơn so với những đơn vị mà công ty không cung cấp nguyên liệu. Như vậy công ty có thể đưa ra mức giá phù hợp hơn đối với các nhà nhập khẩu hàng dệt may Nhật Bản. -Sử dụng các kênh phân phối trực tiếp để giảm thiểu chi phí nhằm hạ giá thành hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. -Ngoài những biện pháp trên, công ty cũng cần quan tâm đến việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức và công tác vận chuyển hàng hoá. Công ty phải luôn chấn chỉnh trong công tác quản lý nhằm tạo ra bộ máy tổ chức gọn nhẹ, hợp lý để giảm thiểu những chi phí không cần thiết. -Bên cạnh đó, công ty phải luôn nhanh chóng kịp thời trong công tác vận chuyển, tránh rủi ro trong quá trình vận chuyển, bốc dỡ, đảm bảo giao hàng đúng thời hạn, đủ về số lượng, hàng hoá phải đúng quy cách phẩm chất 2.4-Mẫu mã hàng hoá. Kiểu dáng mẫu mã hàng hoá bao giờ cũng rất được coi trọng và nó cũng là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên của khách hàng khi quyết định mua hàng. Trong hoạt động xuất khẩu việc làm này còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa vì chúng ta và những người nhập khẩu Nhật Bản có những phong tục tập quán khác nhau và do đó có cảm nhận về cái đẹp trong ăn mặc cũng khác nhau. Vì lẽ đó mà công ty phải rất chú trọng trong việc tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản thông qua các loại sách báo , tạp chí về thời trang và lối sống, thông qua những người nhập khẩu Nhật Bản Từ đây công ty sẽ đưa ra các mẫu mốt để chào hàng và thăm dò ý kiến của họ. Ngoài ra, một số khách hàng sẽ đưa sẵn cho công ty các mẫu mốt theo đơn đặt hàng để từ đó công ty sẽ đặt hàng theo đúng mẫu mốt mà khách hàng yêu cầu và tập trung mọi nỗ lực để hàng hoá đạt được yêu cầu cao nhất của khách hàng cả về chất lượng và mẫu mã. 3-áp dụng các biện pháp thanh toán phù hợp với từng đối tượng khách hàng -Nhật Bản là thị trường chính tiêu thụ khăn bông xuất khẩu của công ty, nhưng hiện nay công ty đang phải đối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt tại thị trường này. Khách hàng cũ liên tục ép giá, trước tình hình đó công ty đã đưa ra biện pháp đối sách trong từng thời kỳ với từng khách hàng để tạo ra phong cách kinh doanh hấp dẫn khách hàng trong và ngoài nước. Công ty đã mạnh dạn áp dụng nhiều biện pháp thanh toán tạo điều kiện cho khách hàng trong lúc họ cũng gặp khó khăn để giữ khách hàng như thanh toán trả trước, thanh toán trả chậm, thanh toán từng phần trị giá lô hàng với những nội dung ràng buộc có tính chất pháp lý nên đã lôi kéo được khách hàng kinh doanh với công ty song vẫn đảm bảo thu được tiền hàng. 4-Giảm dần tỷ trọng hàng may gia công xuất khẩu và từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. -Hiện nay công ty đang chịu sự cạnh tranh rất lớn ở cả thị trường nội địa và thị trường Nhật Bản, ngay cả với làm hàng gia công. Gia công xuất khẩu là một hình thức được công ty sử dụng thường xuyên trong 3 năm kể từ khi bắt đầu tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đến nay. Hình thức này đem lại nhiều điểm thuận lợi như: ít rủi ro thị trường, học hỏi được trình độ quản lý khoa học cũng như công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên hình thức này đem lại lợi nhuận thấp, về lâu dài không có điều kiện để đào tạo cán bộ ở các phòng ban của các doanh nghiệp thành các cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu thực thụ, bị động trong sản xuất, các đơn đặt hàng không ổn định. Bên cạnh đó các doanh nghiệp may gia công Trung Quốc, Thái Lan có giá gia công rẻ, trình độ tay nghề công nhân cao đã thu hút những đơn đặt hàng của khách hàng nước ngoài làm cho lượng các đơn đặt hàng từ thị trường Nhật Bản vào Việt Nam giảm đi. Mặt khác cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực 7-1997 đã khiến cho giá gia công giảm xuống. Do đó hình thức xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc sang thị trường Nhật Bản (xuất khẩu theo giá FOB) sẽ là hướng kinh doanh chủ yếu của công ty. Điều kiện tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp đó là công ty phải có năng lực marketing tốt, nguồn hàng từ phía nhà cung cấp phải dồi dào và có chất lượng phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng Nhật Bản, năng lực tài chính của công ty phải đủ lớn, nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng được những đòi hỏi trong điều kiện hiện nay. Ngoài ra, công ty phải có chiến lược về giá cả hợp lý, có sức hấp dẫn cao đối với các nhà nhập khẩu Nhật Bản. Trong thời gian tới để nâng cao tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp hàng may mặc công ty cần: 4.1- Đảm bảo cung cấp nguyên liệu, vật liệu chất lượng cao. -Các doanh nghiệp dệt may hiện nay còn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập ngoại. Trong thời gian tới công ty cần phải có sự liên hệ mật thiết với các doanh nghiệp dệt, sử dụng chủ yếu nguyên liệu trong nước để cung cấp cho các doanh nghiệp này, có như vậy mới nâng cao khả năng tự chủ trong kinh doanh, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm. Để giải quyết được vấn đề này công ty cần sử dụng đồng loạt các biện pháp như: +Tìm nguồn nguyên liệu dồi dào có chất lượng cao để cung cấp cho các doanh nghiệp dệt may. +Tìm những nguồn nguyên liệu mà trong nước có thể sản xuất được để cung cấp cho nhà sản xuất thu lợi nhuận. Đồng thời lại mua sản phẩm dệt may từ phía họ với giá rẻ nhằm mục đích nâng cao sức cạnh tranh về giá cả hàng dệt may khi công ty xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản. +Nâng cao vai trò hệ thống của công ty trong hoạt động xuất khẩu, sử dụng vải sản xuất trong nước để tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm may xuất khẩu, đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận xuất xứ (CO). 4.2-Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường thế giới. Viện mẫu thời trang Việt Nam(FADIN) ra đời với mục tiêu tạo sự liên kết chặt chẽ giữa dệt và may, giải quyết khâu quan trọng nhất và cơ bản nhất để có thể sản xuất và xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh qua khâu thiết kế và tạo mẫu thời trang. Mẫu mã, kiểu dáng sẽ được nghiên cứu, tìm hiểu thông qua viện mẫu FADIN. Đây là điều kiện quan trọng để sản phẩm may của Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường quốc tế. -Để xuất khẩu trực tiếp ngày một tăng thì hàng may mặc xuất khẩu của công ty phải được kinh doanh bằng nhãn mác của mình trên thị trường thế giới. Thị trường Nhật Bản là thị trường hội tụ của nhiều mẫu mốt thời trang hàng đầu trên thế giới. ở thị trường này mẫu mốt của sản phẩm may mặc nhập khẩu là yếu tố sống còn bên cạnh chất lượng. Ngoài việc xuất khẩu những mặt hàng có chất lượng ngày một nâng cao, công ty phải từng bước mở rộng về số lượng đồng thời làm phong phú các mặt hàng xuất khẩu. -Trong thời gian tới để có được mẫu mã, kiểu dáng riêng công ty cần có những biện pháp sau: +Mua bộ mốt: một hình thức công ty bỏ ra mua các mẫu mốt đamg thịnh hành trên thị trường đưa vào sản xuất xuất khẩu. +Hình thức tự thiết kế mẫu mã: trước mắt đây là một điều khó khăn do công ty chưa có đủ trình độ chuyên môn về hàng may mặc cũng như kiến thức thị trường. Song về lâu dài công ty phải đầu tư cho việc nghiên cứu thiết kế mẫu mốt, hình thành được khái niệm sản phẩm của doanh nghiệp trong ý niệm người tiêu dùng. +Liên doanh, liên kết thiết kế mẫu mã tốt: biện pháp này có ưu đIúm là chi phí đầu tư không nhiều, tranh thủ được trình độ của các đối tác, hiệu qủa kinh tế đem lại cao nhưng lại phụ thuộc vào bạn hàng. -Nâng cao hơn nữa vai trò của viện mẫu thời trang trong việc thiết kế mẫu mốt, kiểu dáng phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của thị trường Nhật Bản. -Coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của công ty. Để làm được điều này công ty cần có biện pháp sử dụng và khai thác tốt các phương tiện thông tin hiện đại hiện nay, đặc biệt là phương pháp kinh doanh trên mạng. -Khắc phục khó khăn về thiếu vốn và nhân lực trong khâu thiết kế mẫu mã, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa các công ty. -Tập trung đầu tư công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã vải cũng như sản phẩm may mặc. -Khai thác lợi thế của việc tham gia chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ cao của các nước ASEAN, hợp tác trong phát triển sản phẩm mới và khai thác lợi thế về thuế ưu đãi bằng mức thuế suất CEPT của sản phẩm tại thời điểm 2006 theo quy định của AICO. Trước mắt công ty cần có kế hoạch hợp tác với các viện mốt, đồng thời thuê chuyên gia nước ngoài thiết kế mốt để đẩy nhanh quá trình hội nhập vào thị trường thế giới. 5-Thu hút vốn đầu tư và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn. 5.1-Tạo nguồn vốn trong nước. Vay vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Nguồn vốn này là một nguồn vốn quan trọng trợ giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh công ty. Hiện nay thủ tục vay vốn ngân hàng đã được cải tiến thuận tiện cho công ty có đủ vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng trong hoàn cảnh thị trường xuất khẩu nói chung và Nhật Bản nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, nên tạm thời đưa hàng may mặc vào danh mục các mặt hàng được hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng theo quy định số 178/1998/TTg ngày 19/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ lãi suất vay vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp vay vốn đầu tư thiết bị sản xuất hàng xuất khẩu sang các thị trường phi hạn ngạch, trước hết là các mặt hàng Việt Nam chưa tận dụng được như cat 75, cat 48, cat 49, cat 50. 5.2-Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, có quan điểm cho rằng năng lực của các doanh nghiệp may đã dư thừa trong khi thị trường tiêu thụ đang gặp khó khăn, bên cạnh đó các doanh nghiệp may không cần vốn lớn, có thể thu hút từ vốn cổ phần trong nước. Vì vậy nên hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này, giảm sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp may có vốn đầu tư nước ngoài- có ưu thế hơn về vốn, công nghệ cũng như khả năng tiếp cận thị trường – với các doanh nghiệp nội địa. Tuy vậy, nếu như chúng ta muốn có các doanh nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là rất cần thiết. Các sản phẩm may mặc của các doanh nghiệp này, với các ưu thế về công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ bước đầu dẫn đường cho sản phẩm may mặc với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên nên tập trung đầu tư vào những mặt hàng mới phức tạp, mà các doanh nghiệp hiện chưa sản xuất được, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm khách hàng ở thị trường phi hạn ngạch. Tìm kiếm sự trợ giúp từ các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện nay các doanh nghiệp may đang gặp khó khăn trong tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000. Kinh nghiệm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức môi trường của các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, Niudilan, Canada mà các nước xuất khẩu sản phẩm may mặc trong khu vực đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm tốt cho chúng ta trong việc giải quyết vấn đề này. 6-Chiến lược nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng may mặc cho Công Ty. 6.1-Về hoạt động xuất khẩu. Chiến lược tăng tốc của toàn ngành dệt may Việt Nam đặt ra từ nay cho đến năm 2010 là: đưa sản lượng sản phẩm may mặc toàn ngành lên 780 triệu sản phẩm năm 2005 và 1.200 triệu sản phẩm năm 2010. Đồng thời không ngừng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lên 5.000 triệu USD vào năm 2005 và8.000 triệu USD năm 2010. Trong đó hàng may mặc là một trong những mặt hàng chính đem lại kim ngạch cao cho ngành. Với chiến lược mạnh mẽ này của tổng công ty,công ty cũng phải có những kế hoạch phát trển riêng của mình để thực sự trở thành một thành phần đắc lực về xuất khẩu của tổng công ty trong thời kỳ 2000-2001 Quán triệt đường lối của Đảng, góp phần ổn định nền kinh tế, công ty xuất nhập khẩu dệt may sẽ cố gắng khai thác triệt để tiềm năng, chuẩn bị hành trang để từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh, tăng kim ngạch xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo công ăn việc lam, tăng thêm thu nhập cho người lao độngtrên tinh thần đó, công ty xuất nhập khẩu dệt may phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch năm 2003 như sau: doanh thu dự kiến thực hiện năm 2003 so với năm 2002 tăng 11,35% tương ứng với số tăng tuyệt đối là 65,3 tỷ đồng và nếu so sánh với mức doanh thu của là 337.000.000.000 VND thì doanh thu thực hiện năm 2002 tăng hơn 11.36% so với năm 2001. Về kim ngạch xuất khẩu thì kế hoạch dự kiến tăng không đáng kể so với kết quả thực hiện hai năm trước. Những con số trên chứng tỏ kế hoạch của công ty là rất táo bạo, báo hiệu một thời kỳ tăng tốc phát triển cho toàn công ty cũng như góp thêm sức mạnh cho tổng công ty những mục tiêu trong chiến lược “tăng tốc” của mình. Trước những mục tiêu đó, công ty yêu cầu các phòng phải lập kế hoạch kinh doanh cụ thể cho từng quý và cả năm 2003 đồng thời cụ thể hoá từng mặt hàng kinh doanh, chú ý tập trung vào từng mặt hàng trọng điểm nhằm thực hiện tốt mục tiêu chung của công ty. Ngoài ra ban lãnh đạo công ty sẽ phải đưa ra các giải pháp xuất khẩu cho từng phòng, từng mặt hàng và hướng tới tất cả các phòng kinh doanh đều làm xuất khẩu. Từng phòng sẽ lên phương án kinh doanh, nguồn vốn cần thiết trong hoạt động đó và các nhu cầu cần hỗ trợ từ phía công ty. Để tăng khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của công ty, công ty đã đưa ra phương hướng khai thác nguồn nguyên liệu, nguồn hàng từ nhiều phía để chuyển dịch sang hình thức xuất khẩu trực tiếp, đưa ra giá cạnh tranh trên thị trường. 6.2-Về phát triển thị trường. Trong thời đại ngày nay khi ngành dệt may rất phát triển và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt thì nhiệm vụ hàng đầu của mỗi công ty là luôn phải giữ vững những khách hàng truyền thống, đồng thời phải tích cực trong công tác thu hút thêm những khách hàng mới. Mở rộng, phát triển thị trường là hình thức làm tăng thêm khách hàng cho công ty, tạo thêm tên tuổi, nhãn mác về hàng hoá cũng như chính công ty trên những thị trường mới, khách hàng mới. Thông qua đó danh tiếng của công ty sẽ được biết đến một cách rộng rãi hơn mức độ quen thuộc sẽ tăng lên và từ đó có thể làm thay đổi nhãn mác hàng hoá tiêu dùng của họ. Đối với công ty Vinateximex thị trường chính về hàng may mặc hiện nay là EU, Canada, Đài Loan, Đông Nam á, Nhật Bản, trong số những thị trường này thì thị trường Nhật Bản là thị trường có mức tiêu thụ ổn định và có xu hướng tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này luôn chiếm tỷ trọng chính trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Điều này chứng tỏ đây là một thị trường lớn và ngày càng lớn mạnh hơn nữa nếu ta biết cách thu hút sự quan tâm của họ trong hoạt động nhập khẩu.Vì những lẽ đó công ty cần duy trì và phát triển hơn nữa thị trường này bằng cách: -Mở các siêu thị, các đại lý, các cửa hàng bán lẻ để dần dần thoả mãn thị hiếu và tiêu dùng ở thị trường Nhật Bản. -Nhanh chóng chuyển nền gia công may sang buôn bán thương mại, đặt những đại diên, các cửa hàng chào bán sản phẩm dệt may của công ty tại thị trường Nhật Bản. -Đẩy mạnh hoạt động mẫu mốt gia tăng khối lượng và trị giá hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. -Sớm hoà nhập vào thị trường quốc tế và khu vực bằng các hoạt động tiếp thị, hội thảo, giao lưu với thời trang thế giới. 7- Hoàn thiện công tác quản lý xuất nhập khẩu. -Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong công ty. Cần có biện pháp phát huy hiệu quả của chế độ “một thủ trưởng” theo tiêu chuẩn quản lý ISO-9000. Về việc nàycần có sự thống nhất thực hiện từ các cấp, các ngành, từ trong đảng đến chính quyền và trong tổ chức quần chúng khác. Giám đốc là người chịu trách nhiệm mọi mặt trong công ty, do vậy giám đốc cần được trao quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng luật định. Công ty cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mạng thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu qủa của việc điều hành và quản lý công ty (đây là phương pháp điều hành tiên tiến hiện nay). Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp kinh doanh để bổ xung cho nguồn nhân lực của công ty, hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới sau khi đã qua khoá đào tạo ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật. Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết các khó khăn cho công ty, hoặc điều hành các dự án mới. Xây dựng cơ chế ứng xử mới, cả về tinh thần và vật chất (thực chất là nền văn hoá doanh nghiệp) nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho sự phát triển của công ty. 8- Thúc đẩy quan hệ thương mại song phương. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã được phép của chính phủ để tham gia vào các phái đoàn cấp Chính phủ Việt Nam đi thăm và làm việc tại Nhật Bản. Các cuộc viếng thăm này đã mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp này, đây là một hình thức cần phát huy trong thời gian tới. Các hội chợ triển lãm chuyên ngành, cũng như tổng hợp cần được tổ chức thường xuyên giúp các khác hàng Nhật Bản và các doanh nghiệp may Việt Nam có dịp gặp gỡ nhau. Nhà nước và các doanh nghiệp may nên xây dựng hàng lang chung và kêu gọi sự tham gia góp vốn của doanh nghiệp có khả năng tài chính, các cá nhân và tổ chức nước ngoài. Hình thức BOT hiện nay mới được áp dụng đối với các dự án lớn như xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng không nên loại trừ khả năng sử dụng hình thức này đối với các dự án xây dựng nghành may hiện đại đòi hỏi công nghệ cao tạo cho các sản phẩm may có chất lượng cao và sức cạnh tranh. Kết luận Trong tiến trình của lịch sử xã hội loài người đến thời điểm này toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khóa học và công nghệ đã lam cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới của từng quốc gia, trở thanh vấn đề của toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng toàn cầu hoá và mang lại hiệu quả cao nhất. Nghành May của Việt Nam ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường và là một trong những nghành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. trên thị trường Thế Giới, Việt Nam cũng đã khẳng định được vị trí của mình, có quan hệ với trên 250 Công Ty thuộc 60 quốc gia trên Thế Giới. Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam là nòng cốt của Nghành Dệt May Việt Nam với 19 doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. kể từ khi thành lập đến nay, Tổng Công Ty đã thâm nhập và đứng vững ở các thị trường lớn như: EU, Nhật Bản, trung đông..Trong đó thị trường Nhật Bản là thị trường phi hạn nghạch lớn nhất của Tổng Công Ty với kim nghạch xuất khẩu hàng may mặc hàng năm rất lớn và tốc độ tăng trưởng cao. Tuy vậy, hàng may mặc của Tổng Công Ty vào thị trường này còn có những vướng mắc như: nền kinh tế Nhật Bản có dấu hiệu đi xuống, các chính sách xuất khẩu của Nhà Nước không còn phù hợp, chất lượng sản phẩm thấp, mẫu mã, kiểu dáng còn đơn điệu.. Theo xu hướng phát triển chung của nghành may toàn cầu, đầu tư vào nghành may đã và đang tiếp tục chuyển dịch sang các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với những lợi thế về lao động và giá nhân công vẫn còn ở mức thấp nhất trên thế giới. Trong thời gian tới Việt Nam có nhiều cơ hội để thành một trong nhữngtrung tâm xuất khẩu hàng may mặc của Thế Giới. Công Ty Xuất Nhập Khẩu Dệt May (VINATEXIMEX) với tiền thân từ Ban Xuất Nhập Khẩu thuộc Tổng Công Ty Xuất Nhập Khẩu Dệt May trong vòng thời gian ngắn, chỉ có 3 năm tiến hành hoạt động kinh doanh Công Ty đã đạt được hiệu quả tương đối cao trong kinh doanh, đó là một thành tích đáng trân trọng. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu đặt ra trong thời gian tới, Công Ty Xuất Nhập Khẩu Dệt May (VINATEXIMEX) còn phải đối mặt với nhiều thách thức, từ những vấn đề tồn tại trong sản xuất và những khó khăn của thị trường xuất khẩu nhất là thị trường phi hạn ngạch. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo- TS.Trần Hoè, cô giáo- ThS.Hoàng Hương Giang đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện bài báo cáo này. Qua đây em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ công nhân viên phòng kế hoạch thị trường thuộc Công Ty Xuất Nhập Khẩu Dệt May (VINATEXIMEX) đã hết lòng giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại Công Ty. Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT550.doc
Tài liệu liên quan