Xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương, đã xuất hiện từ rất lâu đời và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực, mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến xuất khẩu hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị đến các công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm mục tiêu là đem lại lợi ích cho các quốc gia.
Xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian lẫn thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong phạm vi lãnh thổ của các nước khác nhau, có thể được tiến hành trong một hai ngày hoặc kéo dài hàng năm.
Theo David Ricardo- nhà kinh tế học người Anh thì cơ chế xuất hiện lợi ích của ngoại thương là:
- Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của mỗi nước do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác.
93 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 940 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn 180 nước trên thế giới.
2.2 Định hướng về sản phẩm
Trong thời gian tới, cùng với xu thế quốc tế hoá kinh tế khu vực và thế giới, cạnh tranh sẽ diễn ra rất khốc liệt do vậy chỉ có thể nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, đẩy mạnh các biện pháp xúc tiến và có cơ cấu sản phẩm phù hợp thì mới đảm bảo có khả năng tiêu thụ trên thị trường thế giới. Vấn đề định hướng sản phẩm phải được coi trọng ngay từ khâu đầu tư được quy hoạch và có hệ thống vào xây dựng các công trình mới đến đầu tư có chiều sâu, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, nâng cao tay nghề cho công nhân, đảm bảo các nguồn nguyên liệu trong nước có thể sản xuất được và có hiệu quả...để sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng tốt, năng suất cao và không ngừng mở rộng danh mục các mặt hàng mới mà thị trường đang cần để từng bước tiến tới xuất khẩu thị trường. Dự kiến đến năm 2005, ngành giầy dép sẽ tận dụng được trên 90% năng lực sản xuất sản phẩm đủ khả năng xuất khẩu đạt tiêu chuẩn quốc tế, đủ sức cạnh tranh với hàng hoá cùng loại của các nước trong khu vực và thế giới bằng chất lượng, mẫu mã đẹp, kiểu dáng phong phú, chủng loại đa dạng, giá cả phải chăng và dịch vụ hoàn thiện.
2.3 Mục tiêu phát triển tới năm 2010
Thứ nhất: Toàn ngành giầy dép có mức tăng trưởng bình quân 13-15%/năm đến năm 2005 và 15%/năm đến năm 2010. Sản xuất đạt 3.900 triệu đôi vào năm 2005 và 5.700 triệu đôi năm 2010.
Thứ hai: Kim ngạch xuất khẩu đạt 1.650 triệu USD năm 2000, 3.000 triệu USD năm 2005 và 3.900 triệu USD năm 2010.
Thứ ba: Nâng cao trình độ công nghệ, đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay, năm 2010 đạt mức tương đương của Hồng Kông , Đài Loan hiện nay.
Thứ tư: Đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu phong phú, đa dạng của dân cư trong mỗi giai đoạn và các nhu cầu an ninh quốc phòng.
Thứ năm: Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng giầy dép: giai đoạn 2000-2005, thị trường EU chiếm 55%, Mỹ 15%, Nhật Bản 5%, Đài Loan 5%, Hàn Quốc 5%, Hồng Kông 5%, SNG và Đông Âu 5%, các thị trường còn lại 5%. Giai đoạn 2005-2010, dự báo thị trường Mỹ sẽ vươn lên chiếm vị trí ngang bằng với thị trường EU trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu giầy dép của Việt Nam.
Thứ sáu: Tạo công ăn việc làm cho khoảng 1 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình quân khoảng 100USD/người/tháng.
Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép Việt Nam giai đoạn 2000-2010
Trên cơ sở định hướng mục tiêu của ngành trong những năm tới, kết hợp với đánh giá những điều kiện thuận lợi và khó khăn của sản xuất cũng như sản xuất, để giải quyết được những vấn đề còn tồn tại, giầy dép Việt Nam cần phải có những biện pháp giải quyết các vấn đề nguyên phụ liệu, mở rộng và củng cố thị trường, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm...Muốn vậy cần có sự tác động từ cả phía Nhà nước và bản thân doanh nghiệp.
1. Tác động từ phía Nhà nước
Thu hút vốn đầu tư và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư:
Vốn là điểm yếu thường trực của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp giầy dép nói riêng. Để có thể thực hiện được các mục tiêu trên, trước hết, Nhà nước và ngành Da giầy cần phải có chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
Một là, đầu tư chiều sâu theo hướng đổi mới tăng thêm thiết bị hiện đại để củng cố các cơ sở sản xuất hiện có, đặc biệt quan tâm ở một số công đoạn quan trọng làm tăng giá trị và kiểu dáng sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh, bố trí sắp xếp lại quy mô nhà xưởng cho phù hợp với yêu cầu công nghệ, kể cả phương án di rời, bố trí lại các cơ sở phân tán manh mún vào các khu tập trung có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh.
Hai là, đầu tư các cơ sở mới để đạt được tốc độ tăng trưởng theo kế hoạch và khai thác các lợi thế của Việt Nam. Các cơ sở sản xuất mới phải đáp ứng được đòi hỏi của khách hàng, nhất là thị trường mới mà chúng ta đang quan tâm về quy mô nhà xưởng, máy móc thiết bị và trình độ quản lý.
Để tạo nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cần:
1.1.1 Thu hút vốn đầu tư trong nước
Theo tinh thần phát huy nội lực của Nghị quyết Trung ương khoá IV, các ngành kinh tế nói chung và ngành giầy dép nói riêng cần tích cực thu hút vốn từ nguồn đầu tư trong nước thông qua thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Đây là hình thức thu hút vốn từ nội bộ, từ chính những người quản lý và người lao động của doanh nghiệp để đầu tư cho sản xuất. Cần đẩy mạnh cổ phần hoá nhằm huy động vốn đầu tư cho phát triển một số doanh nghiệp mũi nhọn của ngành. Mặt khác cần có các biện pháp kích thích các nguồn vốn đầu tư từ trong nước như thành lập Công ty tài chính của ngành để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp thành viên, các cá nhân và các tổ chức để cho các doanh nghiệp trong ngành vay và thực hiện một số nghiệp vụ tài chính khác. Đồng thời thay vì tín dụng đầu tư của ngân hàng, các doanh nghiệp có thể thực hiện thuê mua tài sản cố định. Trong điều kiện hiện nay, vai trò của cho thuê tài chính ngày càng trở nên phổ biến hơn trên thế giới, việc cho thuê tài chính giúp các doanh nghiệp có thể tiến hành tái đầu tư nhưng không cần bỏ ra một nguồn vốn lớn. Với hoạt động này các doanh nghiệp có thể huy động được 20% nguồn vốn cho đầu tư thông qua việc thuê các thiết bị cần thiết. Trong giải pháp này, các doanh nghiệp cần được sự hỗ trợ từ lãnh đạo các cấp trong việc định hướng chiến lược đầu tư và khả năng bảo lãnh cho dự án đó. Trên thực tế, đây là mô hình rất mới đối với nền kinh tế Việt Nam, do đó Nhà nước cần có chủ trương đẩy mạnh mô hình này giúp cho các doanh nghiệp thực hiện được đầu tư phát triển.
Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước để tạo môi trường pháp lý thuận lợi, khuyến khích các nhà đầu tư trong nước thực hiện đầu tư.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Hiện nay, thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn đang tồn tại hai quan điểm trái ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng cần thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức liên doanh, bán chứng khoán nhằm tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có, đầu tư chiều sâu và đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất hiện có của doanh nghiệp Việt Nam; khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành giầy dép nhưng không trực tiếp mà gián tiếp thông qua chứng khoán vì như vậy sẽ buộc các doanh nghiệp giầy dép hoạt động có hiệu quả hơn. Quan điểm thứ hai cho rằng nhà đầu tư trực tiếp phải xây dựng cơ sở hạ tầng từ đầu còn hơn liên doanh tận dụng cơ sở vật chất sẵn có vì cái lợi thu được từ liên doanh liên kết không bù đắp được việc thanh toán công nợ cho các doanh nghiệp Việt Nam do làm ăn kém hiệu quả ở giai đoạn trước.
Tuy nhiên lựa chọn duy nhất một phương án nào cũng sẽ gặp phải những hạn chế nhất định và dù theo phương án nào thì tạo lập một môi trường đầu tư thuận lợi luôn là sức hấp dẫn hàng đầu đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Chúng ta cần đảm bảo sự ổn định các vấn đề về chính trị-xã hội. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, làm việc theo pháp luật và tuân thủ các thông lệ hiện hành và luật pháp quốc tế; tăng cường thực hiện đúng, đầy đủ những cam kết quốc tế trong hoạt động ngoại thương nói chung và buôn bán hàng giầy dép nói riêng.
Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, rút ngắn và ấn định trước thời gian xét duyệt, cấp phát các thủ tục cho các chủ đầu tư nước ngoài khi tham gia đầu tư theo chế độ một cửa, một dấu. Đồng thời tăng cường các văn bản quản lý mang tính chiến lược, giảm dần các văn bản có tính chất tình thế, tác nghiệp để giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài cũng như các nhà đầu tư trong nước nắm rõ pháp luật và các quy định hiện hành của Nhà nước một cách chủ động.
Xoá dần khoảng cách phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải chịu mức chi phí phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Đây thực sự là trở ngại lớn đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Xoá bỏ khoảng cách đối xử phân biệt, sử dụng chính sách một giá chi phí áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp sẽ góp phần tăng cường khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
1.1.3 Vấn đề quy mô đầu tư và đầu tư chiều sâu
Trong thời gian qua, ngành giầy dép Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng khá cao song hiện nay, do chưa có quy hoạch của Nhà nước nên viêc đầu tư manh mún tràn lan, gây tác động không tốt tới hiệu quả chung của ngành, trong khi nhiều doanh nghiệp chưa khai thác hết năng lực hiện có (đầu tư xong thì thiếu hoặc không có việc làm), nhiều dự án vẫn tiếp tục ra đời, cạnh tranh lẫn nhau gây thiệt hại cho phía Việt Nam và tạo lợi thế cho các đối tác nước ngoài. Do vậy thu hút đầu tư nhưng làm sao cho đầu tư có hiệu quả cần phải có biện pháp hạn chế đầu tư tràn lan, không hiệu quả, đặc biệt là ở các địa phương không thuận lợi về các yếu tố mà ngành giầy dép yêu cầu. Nhà nước cũng cần sớm đưa ra quy hoạch tổng thể phát triển ngành để giải quyết tốt vấn đề quy hoạch đầu tư hiệu quả.
Đầu tư theo chiều sâu, ngành giầy dép cần đầu tư tập trung vào một số thiết bị chuyên dùng để đáp ứng nhu cầu ngày một cao của thị trường thế giới. Bên cạnh đó cần tập trung đầu tư vào các công nghệ tiên tiến trong các khâu thiết kế sản phẩm vì đây là một công đoạn quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm giầy dép đáp ứng nhu cầu trên thị trường.
Đầu tư chiều sâu theo hướng tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ nguồn cần đi song song với đồng hoá công nghệ nhập. Đó là quá trình làm chủ công nghệ đã được chuyển giao và tạo công nghệ nội sinh trên cơ sở công nghệ đã được chuyển giao đó. Đây cũng là một trong những biện pháp phát triển khoa học công nghệ thích hợp đã được nhiều nước trong khu vực như Thái Lan, Singapore, Malaysia...áp dụng. Nội dung của làm chủ công nghệ nhập bao gồm: duy trì được vận hành và bảo trì tốt thiết bị công nghệ; tự thiết kế những phụ tùng hay hỏng; phát huy hết khả năng sản xuất mặt hàng của thiết bị công nghệ. Tạo công nghệ nội sinh bằng việc: tự thiết kế chế tạo được các thiết bị để phát triển sản xuất, cải tiến nâng cao tính năng thiết bị cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, nâng cao năng suất lao động, chất lượng mặt hàng và sáng tạo thêm những mặt hàng mới; tạo ra các bí quyết, các công nghệ sản xuất các mặt hàng mới.
Việc đồng hoá công nghệ nhập đối với ngành giầy dép nước ta có ý nghĩa rất quan trọng. Hiện nay, để duy trì được sản xuất hoặc trẻ hóa thiết bị, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, phụ tùng, hoá chất, phụ kiện giầy dép...với giá cao vì đó là những mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao trong khi lại phải sản xuất chủ yếu các mặt hàng gia công và cấp thấp vì sản phẩm là hàng có hàm lượng công nghệ thấp. Vì vậy sẽ tạo ra sự mất cân đối trong cán cân thương mại cũng như khó có thể khắc phục được vấn đề hiệu quả trong sản xuất kinh doanh hàng giầy dép hiện nay. Đồng hoá công nghệ cũng chính là biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, biện pháp giảm nhập khẩu. Đồng thời Nhà nước cũng cần kiểm soát viêc đầu tư công nghệ, tránh nhập khẩu các công nghệ quá cũ, quá lạc hậu gây ảnh hưởng đến môi trường và hiệu quả sản xuất.
1.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, ổn định môi trường pháp lý
1.2.1 Hoàn thiện hệ thống thuế
Tiếp tục cải cách hoàn thiện hệ thống thuế để phát hiện và khắc phục kịp thời những vướng mắc trong thời gian đầu mới thực hiện thuế Giá trị gia tăng, cần đơn giản hệ thống thuế suất, mỗi mặt hàng chỉ có một mức thuế để tránh việc áp mã thuế tuỳ tiện, thuế lợi tức ưu đãi nên áp dụng không chỉ cho các doanh nghiệp nước ngoài mà cả trong nước để khuyến khích tham gia phát triển ngành. Chính sách thuế xuất nhập khẩu cần uyển chuyển trong từng thời kỳ, cụ thể là hiện nay, trong khi nguồn nguyên liệu da trong nước chưa cung cấp đủ cho các nhà máy thuộc da hoạt động hết công suất thì phải miễn thuế nhập da tươi, da muối; cần có các sắc thuế nhập khẩu hợp lý cho từng loại công cụ lao động, nguyên phụ liệu sản xuất để hỗ trợ sản xuất trong nước để hạn chế các đối tác nước ngoài lợi dụng kinh doanh kiếm lời, nhưng cũng tránh vô tình gián tiếp đánh thuế vào phía gia công của doanh nghiệp Việt Nam như hiện nay.
Phương thức gia công sẽ vẫn còn tiếp tục tồn tại trong nhiều năm nữa. Vì vậy, viêc quản lý xuất khẩu máy móc thiết bị, phụ tùng dụng cụ và nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất cũng như việc giải quyết các trường hợp thanh lý hợp đồng, việc xuất khẩu sản phẩm cần có cơ chế linh hoạt phù hợp.
Giám định chất lượng da nhập khẩu
Nguyên liệu là một trong những thành phần quan trọng nhất của công nghiệp sản xuất giầy dép, đặc biệt trong trường hợp ngành công nghiệp giầy dép nước ta phải nhập nguyên liệu từ bên ngoài. Chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của sản phẩm sản xuất ra. Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giầy dép của Việt Nam vẫn chủ yếu phải nhập khẩu nguyên liệu (da thành phẩm) từ nước ngoài, việc giám định, kiểm tra chất lượng nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là nguyên liệu da thuộc là rất cần thiết. Tuy nhiên, cần xây dựng hệ thống giám định chất lượng gọn nhẹ có hiệu quả, tránh cồng kềnh, gây khó khăn cho phía các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu trong sản xuất hàng xuất khẩu.
Tăng cường kiểm soát hàng nhập ngoại
Hàng nhập vào Việt Nam qua nhiều con đường nhưng chủ yếu vẫn là giầy dép nhập lậu từ Trung Quốc hiện nay đang tràn ngập thị trường Việt Nam và có xu hướng đánh bật giầy dép Việt Nam ngay trên thị trường nội địa. Để bảo vệ sản xuất trong nước cũng như để phát triển sản xuất hướng ra xuất khẩu, một mặt các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng, nâng cao sức cạnh tranh, mặt khác cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về các biện pháp hành chính để hàng giầy dép của Việt Nam chiếm lĩnh được thị trường nội địa của mình. Nhà nước cần tăng cường các biện pháp kiểm tra giám sát hàng nhập, đặc biệt là hàng nhập lậu từ Trung Quốc. Để kiểm soát được hàng giầy dép nhập khẩu, nên thực hiện dán tem nhập khẩu, tăng cường chống buôn lậu, khắc phục tình trạng trốn lậu thuế, đặc biệt là các loại giầy dép của Trung Quốc.
Đơn giản hoá thủ tục đăng ký nhãn mác và chất lượng hàng hoá
Đặc trưng của hàng giầy dép là mang tính thời trang cao và cũng mang tính thời vụ. Tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh mặt hàng này tung các sản phẩm mới ra thị trường đúng lúc, đúng xu thế thời trang hiện hành, các cơ quan chức năng cần đơn giản hoá thủ tục đăng ký bản quyền để giảm thời gian xét duyệt nhãn mác mới, từ đó có thể đảm bảo tính thời trang của mặt hàng này.
1.3 Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu
Khó khăn chủ yếu của ngành giầy dép nước ta hiện nay và trong thời gian tới là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để nghiên cứu mở rộng đồng thời củng cố thị trường xuất khẩu một cách thành công và có hiệu quả, cần có một số biện pháp cụ thể.
Xúc tiến xuất khẩu giầy dép
Mặc dù các doanh nghiệp rất quan tâm đến và đều biết rằng marketing thị trường đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với sản phẩm giầy dép do nhóm hàng này luôn có những yêu cầu khá cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, thời trang và mùa vụ nhưng việc chủ động tìm hiểu thị trường xuất khẩu thường vượt quá khả năng tài chính và năng lực nghiên cứu của các doanh nghiệp, trong khi hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ là hình thức phổ biến trong lĩnh vực sản xuất giầy dép nước ta. Vì vậy cần có sự hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu để tìm hiểu thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến thị trường từ phía Chính phủ.
Để đáp ứng được mong muốn của nhiều doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép, Chính phủ nên xem xét cho phép Bộ Thương mại phối hợp cùng với Bộ Công nghiệp cho ra đời Trung tâm giao dịch và xúc tiến xuất khẩu hàng giầy dép với các chức năng cơ bản:
- Tìm kiếm thị trường mới, nghiên cứu thị trường và các biện pháp thâm nhập, mở rộng xuất khẩu cho hàng giầy dép Việt Nam. Hỗ trợ trong lĩnh vực giao dịch và xúc tiến xuất khẩu hàng giầy dép cho các doanh nghiệp.
- Phối hợp, thực hiện môi giới, giới thiệu sản phẩm Việt Nam với khách hàng trong và ngoài nước thông qua các hội chợ triển lãm theo đúng quy định của pháp luật và thông lệ hiện hành. Trung tâm có quyền yêu cầu các đơn vị khi tham gia giao dịch và các đơn vị có liên quan cung cấp tài liệu cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình trên cơ sở đảm bảo yêu cầu bí mật kinh doanh cho các doanh nghiệp.
- Thu thập, phân tích, xử lý, cung cấp kịp thời và đầy đủ các thông tin về thị trường, khách hàng theo yêu cầu của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý Nhà nước về xu thế mới, kiểu dáng, chất liệu, thời trang và dự báo tình hình thị trường thế giới; tổ chức các cuộc hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác.
- Trung tâm có quyền được tổ chức các đoàn đi khảo sát thực tế các thị trường theo sự phê chuẩn của cơ quan chủ quản là Bộ Thương mại. Đồng thời có quyền được phối hợp liên ngành với các cơ quan chức năng khác (như Cục, Vụ, Viện, các đại diện tham tán thương mại ở nước ngoài,...) trong công tác chuyên môn của mình.
Tuy nhiên để trung tâm hoạt động có hiệu quả thì phải đảm bảo được các điều kiện:
Nguồn cung cấp tài chính: Nguồn tài chính phục vụ cho xây dựng cơ bản và đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên sẽ do ngân sách Nhà nước cấp. Chi phí hoạt động sẽ được bù đắp một phần từ phía ngân sách và một phần chính là từ đóng góp của các doanh nghiệp. Để đảm bảo quyền lợi của các doanh nghiệp cũng như sự hoạt động có hiệu quả của trung tâm, Chính phủ sẽ quy định một khung mức giá trần và sàn đối với các loại hình hỗ trợ và dịch vụ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có đức có tài: Trung tâm cần tuyển đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ và kinh nghiệm trong lĩnh vực xúc tiến thương mại từ các cơ quan, tổ chức chuyên môn hay thông qua thi tuyển theo chế độ thi tuyển công chức Nhà nước. Thường xuyên dành một phần chi phí cho đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ nhân sự.
Cơ quan chủ quản là Bộ Thương mại có trách nhiệm kiểm tra định kỳ hiệu quả hoạt động của trung tâm, tiếp nhận sự phản ánh từ phía các doanh nghiệp tổ chức các cuộc toạ đàm nhằm tháo gỡ các khúc mắc của các bên. Trung tâm có trách nhiệm định kỳ báo cáo kết quả hoạt động chuyên môn của mình lên cơ quan chủ quản, xin ý kiến chỉ đạo khi gặp các trường hợp khó khăn.
Cùng phối hợp với trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu giầy dép, Bộ Thương mại cần tăng cường hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường của các đại diện thương vụ tại các nước nhập khẩu. Hiện nay Việt Nam đã có thương vụ tại hầu hết các nước có quan hệ thương mại song phương. Các đại diện thương vụ có thể nắm bắt nhanh nhạy các nhu cầu diễn biến thị trường để thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp.
1.3.2 Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu
Thị trường EU: Trong những năm tới EU tiếp tục là thị trường chủ yếu và lớn nhất của hàng giầy dép xuất khẩu Việt Nam, theo dự báo, mặc dù tỷ trọng kim ngạch giầy dép xuất khẩu vào thị trường này trong tương lai có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng trên 60%). Vấn đề khó khăn lớn nhất đối với ngành giầy dép Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường này là xuất hiện hiện tượng gian lận thương mại, một số lô hàng của các nước khác không được hưởng ưu đãi như Việt Nam đã lập bộ chứng nhận xuất xứ giả hàng Việt Nam để được hưởng ưu đãi. Do đó, để củng cố thị trường này, cần có sự phối hợp giữa các doanh nghiệp xuất khẩu, cơ quan quản lý Nhà nước mà cụ thể là Bộ Thương Mại, nơi cấp bộ chứng nhận xuất xứ (C/O form A), và Hải quan để cùng Hải quan EU chống gian lận thương mại.
Để đảm bảo đầu ra ổn định trên thị trường EU, các cơ quan chức năng một mặt nên định rõ thế nào là hàng thực sự có xuất xứ tại Việt Nam theo đúng chuẩn mực xuất xứ thông lệ của EU đồng thời chứng minh được thực sự số lượng và giá trị giầy dép xuất khẩu sang EU được sản xuất tại Việt Nam.
Thị trường Mỹ: Mỹ là một thị trường lớn, nhu cầu về hàng hoá lớn về cả chủng loại và chất lượng. Kinh nghiệm phát triển của các nước Châu á cho thấy các nền kinh tế lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc và ASEAN đều rất coi trọng thị trường này.
Hiện nay chúng ta chưa được hưởng những ưu đãi thương mại từ phía Mỹ như những nước khác nhưng trong tương lai không xa, khi mà Hiệp định Thương mại Việt Mỹ được Quốc hội hai nước thông qua thì sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam nói chung và giầy dép nói riêng xuất khẩu vào thị trường này sẽ được cải thiện. Trong điều kiện đó, trước mắt cần đẩy mạnh các hình thức đầu tư và liên doanh với các công ty Mỹ để sản xuất những sản phẩm chuyên xuất khẩu sang Mỹ, tranh thủ tiếp cận thị trường, sử dụng nhãn hiệu và kênh phân phối của các nhà đầu tư nước ngoài. Trong những năm tới, cần tăng cường thiết lập các kênh phân phối trực tiếp trên cơ sở tranh thủ kênh phân phối của các nhà trung gian xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp giầy dép Việt Nam có thể tiếp cận trực tiếp với thị trường Mỹ.
Thị trường Nga: Nga là một thị trường lớn và đã từng là thị trường truyền thống của giầy dép xuất khẩu Việt Nam, tuy nhiên trong những năm qua, kết quả buôn bán giầy dép giữa hai bên chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi bên. Trong tương lai, hướng xuất khẩu giầy dép sang thị trường Nga là tập trung vào đáp ứng nhu cầu của cộng đồng người Việt và người Nga có thu nhập thấp đến trung bình.
Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp tìm cách xử lý các rắc rối trong thanh toán giữa hai nước, áp dụng phương thức bán hàng trả chậm, hàng đổi hàng, thành lập các công ty liên doanh, các chi nhánh của các doanh nghiệp Việt Nam để tăng sức tiêu thụ sản phẩm.
Thị trường khác: Tình hình xuất khẩu cả nước và riêng ngành giầy dép trong những năm qua cho thấy ngoài việc duy trì và củng cố thị trường hiện có, cần chú ý tích cực mở rộng thị trường mới nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu giầy dép trong những năm tới. Cần chú ý đến những khu vực có nhu cầu tiêu dùng phù hợp với điều kiện công nghệ Việt Nam như Châu Phi, Trung Cận Đông, những thị trường gần gũi về mặt địa lý có nhu cầu tiêu thụ như Lào, Campuchia. Đây là hai thị trường gần gũi với Việt Nam, có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm giầy dép đế cao su, dép xốp là sản phẩm mà Việt Nam có thể chủ động về nguyên liệu.
Hiện nay, hàng giầy dép Việt Nam mới chỉ xuất khẩu vào một số nước Nam Mỹ với số lượng và kim ngạch rất nhỏ bé trong khi đây là một thị trường tương đối lớn và có những nét phù hợp với giầy dép Việt Nam. Trong những năm tới, một mặt củng cố những thị trường đã có như Brazil, Mexico, Chi Lê mặt khác, tích cực tìm kiếm những thị trường mới nhằm mở rộng thị trường ở khu vực này. Thâm nhập vào thị trường 15 triệu dân Chi Lê, các doanh nghiệp Việt Nam còn có khả năng mở rộng sang một số thị trường khác ở Nam Mỹ.
Ngoài ra cần phải quan tâm đến một số thị trường tiềm năng khác mà Việt Nam có thể xâm nhập được như thị trường New Zealand, thị trường úc.
1.4 Hỗ trợ sản xuất trong nước
Bên cạnh các biện pháp hỗ trợ về thị trường, vốn, cơ chế xuất nhập khẩu, Nhà nước còn cần có chính sách hỗ trợ và bảo hộ sản xuất trong nước phù hợp với quy định của thế giới. Khoảng cách chênh lệch quá xa hiện nay giữa các doanh nghiệp trong nước so với nước ngoài trên các mặt vốn, công nghệ, trình độ quản lý, marketing đang là một khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước. Nhà nước cần có các chính sách nhằm bảo hộ sản xuất trong nước để sớm đưa nền công nghiệp da giầy nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, đảm bảo tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh thị trường. Các chính sách khuyến khích sản xuất trong nước có thể là cho vay ngoại tệ với lãi suất ưu đãi để nhập máy móc thiết bị, cải tạo mở rộng nhà xưởng; hỗ trợ tài chính cho sản xuất hàng xuất khẩu; trợ giá sản xuất hàng giầy dép xuất khẩu nhằm tạo thị trường và giải quyết khó khăn lúc đầu cho doanh nghiệp; quy hoạch bố trí các nhà máy thuộc da hay các nhà máy thuộc da mới cách vùng đô thị đông dân cư và phải có công nghệ xử lý chất thải thích hợp không gây ô nhiễm. Nhà nước cũng cần tổ chức lại hoạt động phân phối, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo quyền lợi nhà sản xuất và người tiêu dùng
2. Đối với bản thân doanh nghiệp
2.1 Các giải pháp trong cung cấp nguyên phụ liệu
Cũng như nhiều ngành công nghiệp xuất khẩu khác không nhận được sự hỗ trợ của những ngành công nghiệp nguyên liệu, ngành công nghiệp giầy dép Việt Nam cũng không nhận được sự hỗ trợ của ngành da và các ngành sản xuất nguyên phụ liệu khác. Nguyên phụ liệu giầy thể thao và giầy nữ phải nhập khẩu 100%, riêng giầy vải có khá hơn, cụ thể đã chủ động cân đối được khá nhiều nguyên liệu nội như mũ giầy, đế cao su...trong sản phẩm xuất khẩu nhưng do tỷ trọng giầy vải còn rất nhỏ (11,2%) nên có thể nói công nghiệp xuất khẩu giầy dép Việt Nam hiện nay đang sống nhờ vào nguyên liệu ngoại.
Nguyên phụ liệu hàng giầy dép nếu được sản xuất trong nước, theo đánh giá sẽ rẻ hơn từ 10-30% so với nhập khẩu, đồng thời lại có thể chủ động nguồn nguyên liệu, giảm dần sự phụ thuộc vào nước ngoài để tiến tới hạn chế gia công, tăng tỷ trọng hàng xuất khẩu trực tiếp. Mặt khác, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm còn là điều kiện để tăng khả năng dược hưởng ưu đãi từ một số thị trường như EU, Nhật Bản...
Để có thế chủ động về nguyên vật liệu, ngành Da giầy cần thiết lập thị trường nguyên liệu tại chỗ phong phú đa dạng, có chất lượng cao để cung cấp ổn định và đồng bộ cho sản xuất, đạt sự tiến bộ về khối lượng, tạo thế cạnh tranh cho các sản phẩm giầy dép, tạo thuận lợi cho các nhà thiết kế mẫu mốt thời trang trong việc sáng tác mẫu hoặc triển khai mẫu tiếp nhận từ bên ngoài. Chủ động về nguyên liệu sản xuất là một trong những yếu tố tích cực thúc đẩy xuất khẩu giầy dép đạt hiệu quả cao hơn.
Thúc đẩy ngành công nghiệp giầy dép phát triển phải tiến hành quy hoạch lại sản xuất theo vùng chuyên doanh tập trung, khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên và nhân lực. Trước mắt, phối hợp với các ngành chăn nuôi và công nghiệp thực phẩm để sớm hình thành nghề chăn nuôi gia súc lấy thịt và lấy sữa ở các vùng sinh thái thích hợp, đầu tư kỹ thuật giết mổ, lột da và bảo quản da để sau năm 2005 có được nguồn nguyên liệu đạt tiêu chuẩn quốc tế, cung cấp cho ngành thuộc da trong nước cả về số lượng và chất lượng lẫn giá cả, thay thế da nhập khẩu phục vụ cho công nghiệp giầy dép xuất khẩu.
Hiện nay, mô hình kinh tế trang trại về chăn nuôi đã xuất hiện và bước đầu đã đem lại hiệu quả khả quan. Tuy nhiên, để mở rộng và phát triển mô hình kinh tế này cần tiếp tục được khuyến khích, giúp đỡ để ngày càng phát triển, tạo ra nguồn cung cấp da sống có chất lượng cho công nghiệp thuộc da, đáp ứng các yêu cầu cho ngành thuộc da sản xuất da nguyên liệu phục vụ công nghiệp giầy dép xuất khẩu.
Tại những vùng chăn nuôi tập trung cần có các cơ sở chăn nuôi lớn, cơ sở nghiên cứu khoa học- dịch vụ, kỹ thuật chăn nuôi, giống, thú y, cơ sở sản xuất thức ăn gia súc, cơ sở giết mổ, chế biến thịt, sữa, sơ chế da. Cũng phải cải tạo giống đàn gia súc, tạo ra những giống lai lớn hơn để tăng diện tích bề mặt da. Trước mắt cần tập trung phát triển đàn trâu bò, đàn lợn, dần dần phát triển thêm các loại khác như cá sấu, trăn,...để vừa cung cấp thịt vừa cung cấp các loại da sang trọng và đắt tiền làm nguyên liệu cho ngành Da giầy. Ngoài việc xây dựng các vùng chăn nuôi lớn, cần thiết phải sắp xếp lại việc giết mổ gia súc nhằm đảm bảo vệ sinh thực phẩm, đảm bảo vệ sinh môi trường, vừa đảm bảo tận thu nguồn da. Để có thể phát triển những vùng này có hiệu quả, cần có sự phối hợp giữa các doanh nghiệp sản xuất giầy dép với các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp da giầy.
Bên cạnh việc giải quyết vấn đề nguồn da sống, cần có sự đầu tư đúng đắn, hợp lý để ngành thuộc da thực sự có khả năng, năng lực đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm cung cấp cho ngành giầy dép xuất khẩu, đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh da nguyên liệu, các doanh nghiệp sản xuất cũng phải được đáp ứng các yêu cầu về phụ liệu, phụ tùng một cách đầy đủ nhất. Cần đầu tư sản xuất cho các cơ sở sản xuất cao su trong hoặc ngoài nhà máy giầy dép nhằm cung cấp nguyên liệu cho sản xuất giầy dép có cao su. Về vấn đề khuôn và phụ tùng, phụ liệu bằng kim loại và phi kim cần thiết lập các xưởng kim khí nhỏ, độc lập hoặc các xưởng tại nhà máy cơ khí chuyên ngành, nhà máy nhựa nhiệt cứng, nhà máy nhựa nhiệt dẻo để chế tạo các khuôn mẫu phụ tùng, phụ liệu đa dạng cho sản xuất giầy dép.
2.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu
Bên cạnh những hỗ trợ của Nhà nước trong việc củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp cũng cần chủ động trong công tác xúc tiến thương mại của chính mình. đối với thị trường EU, điều quan trọng nhất là doanh nghiệp phải đảm bảo được các điều kiện về chứng nhận xuất xứ mẫu A để được hưởng ưu đãi về thuế quan và tránh nghi ngờ về xuất xứ.
Để có thể tiếp cận thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chuẩn bị các điều kiện có thể xâm nhập và cạnh tranh trên thị trường này như sản xuất loại hàng giầy dép mang thương hiệu Việt Nam, đảm bảo 35% hàm lượng nội địa trên một đơn vị sản phẩm- đây là một điều kiện cần thiết để được hưởng ưu đãi GSP trong khi ngành sản xuất nguyên phụ liệu nội địa chưa có điều kiện phát triển. Đồng thời các doanh nghiệp cần nghiên cứu và tuân thủ những quy định trong Luật Thương mại Mỹ cũng như các thông lệ khi xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ.
Bên cạnh đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh, củng cố thị trường các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép Việt Nam cần kiên trì tiếp cận, đảm bảo các điều kiện hợp đồng, giữ chữ tín trong kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng sản phẩm, thời hạn giao hàng. Doanh nghiệp cần chú ý lựa chón các sản phẩm phù hợp với xu thế phát triển thị trường, ưu tiên các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguyên liệu thô nhập khẩu để chế biến.
2.3 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu
Trong những năm tới, theo nhận định của các chuyên gia và những nhà hoạch định chính sách, công nghiệp giầy dép Việt Nam vẫn phải dựa vào gia công hàng xuất khẩu là chủ yếu. Một mặt nhằm giải quyết vấn đề đầu ra tạm thời cho các doanh nghiệp nhưng mặt khác, do ngành giầy dép nói chung chưa đủ nội lực để xuất khẩu trực tiếp.
Trong điều kiện hiện nay, nâng cao được hiệu quả gia công hàng giầy dép xuất khẩu phải thực hiện một số biện pháp đồng bộ:
Các doanh nghiệp cần mở rộng thị trường gia công sang các thị trường mới, tránh tập trung gia công quá đông ở một thị trường, một mặt hàng, đặc biệt là các thị trường có tiềm năng vì điều đó sẽ tạo điều kiện cho các chủ hàng ép giá và các điều kiện gia công, gây thiệt hại chung cho doanh nghiệp. Để thực hiện được biện pháp này, ngoài những nỗ lực của các doanh nghiệp, cần có sư hỗ trợ từ phía Chính phủ trong công tác thị trường, tín dụng xuất khẩu, giảm thuế kinh doanh... nhằm giảm bớt rủi ro và tạo điều kiện bước đầu để doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi làm quen với các thị trường mới từ hình thức gia công xuất khẩu chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp.
Các doanh nghiệp cần tăng cường thoả thuận với các chủ hàng đặt gia công quyền sử dụng các nguyên liệu có trong nước phục vụ cho gia công hàng giầy dép xuất khẩu. Điều đó không những làm tăng giá trị gia công cho các doanh nghiệp mà còn giúp các đơn vị cung ứng nguyên liệu trong nước có điều kiện phát triển sản xuất, tăng thu nhập, giải quyết việc làm cho người lao động...Để biện pháp này có thể phát huy hiệu quả, chúng ta cần có chính sách phát triển hợp lý các đơn vị cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào trong nước như cho phép họ được hưởng những chế độ ưu đãi như các doanh nghiệp xuất khẩu, hỗ trợ họ đẩy mạnh sản xuất và tăng cường nâng cao chất lượng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp giầy dép xuất khẩu.
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng giầy dép gia công xuất khẩu thông qua tổ chức sản xuất hợp lý về đầu tư công nghệ, về quy mô sản xuất, nhân lực, nguyên liệu; quản trị kinh doanh có hiệu quả về vốn, về chi phí,...Có thể nói đây là một biện pháp mà doanh nghiệp nào cũng đều quan tâm, nhưng để thực hiện nó thì rất khó khăn. Vì vậy các doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh đúng đắn, cùng những kế hoạch sản xuất kinh doanh hoàn chỉnh từ đó giúp các doanh nghiệp có thể chủ động ứng phó với các biến động kinh doanh và tìm các biện pháp cụ thể để giải quyết các tham số trong hàm hiệu quả kinh doanh của mình.
Trong gia công hàng giầy dép xuất khẩu, các doanh nghiệp cần tăng cường thương lượng với các chủ hàng quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm gia công. Nếu thoả thuận này thành công, nó sẽ giúp cho thị trường tiêu thụ hàng gia công của ta hiểu, biết được các doanh nghiệp trong nước cũng như quen thuộc với nhãn mác, địa điểm sản xuất- là những bước quan trọng để các doanh nghiệp trong nước có được nhãn mác sản phẩm của chính mình, được thị trường thế giới chấp nhận, là cơ sở để tiến tới xuất khẩu trực tiếp.
Thông qua gia công hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp cần mở rộng học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu mới trong lĩnh vực sản xuất giầy dép, tạo lập những cơ sở vật chất ban đầu để phát huy nội lực nhằm chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
2.4 Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt, nhất là sau năm 2005 khi các hàng rào phi thuế quan được bãi bỏ, thị phần của mỗi nước xuất khẩu sẽ phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Mục tiêu của ngành Da giầy là từng bước thay đổi cơ cấu sản xuất sản phẩm giầy dép theo hướng giảm dần khối lượng gia công, tăng dần khối lượng tiêu thụ trực tiếp và xuất khẩu, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và xuất khẩu. Để thực hiện được mục tiêu, cần có những chính sách, giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm giầy dép Việt Nam.
Các thị trường hiện nay của Việt Nam đều là các thị trường rất khó tính, họ thường đòi hỏi cao về chất lượng. Chất lượng hàng hoá là một trong những yếu tố quan trọng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Trong những năm tới, để đảm bảo hàng hoá đủ chất lượng xuất khẩu cần thực hiện đồng bộ các biện pháp:
+ Đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại, đồng bộ. áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
+ Đào tạo công nhân có tay nghề kỹ thuật cao, đủ trình độ tiếp thu công nghệ mới để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao.
+ Đảm bảo nguồn cung cấp nguyên phụ liệu cho sản xuất ổn định, chất lượng tốt nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm và chủ động trong sản xuất. Tăng cường kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn.
+ Phấn đấu sản xuất nguyên phụ liệu nội địa đảm bảo yêu cầu chất lượng. Nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, tăng tỷ lệ nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm và được hưởng ưu đãi về thuế quan.
+ Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ và quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật do bên đặt hàng cung cấp như yêu cầu về mẫu mã, qui cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì...
Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. Cần khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ và thiếu điều kiện trang bị kiểm nghiệm đo lường để kiểm tra chất lượng sản phẩm giầy dép xuất khẩu. Đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tại nhà máy có khả năng kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu, tránh tình trạng chỉ nghiệm thu đánh giá theo cảm nhận và kinh nghiệm. Để có thể đáp ứng yêu cầu chất lượng quốc tế, từng doanh nghiệp phải chú trọng đầu tư cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá bắt đầu từ nhập nguyên liệu đến quy trình sản xuất và sản phẩm nghiệm thu. Tham gia hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, tiêu chuẩn này đề cập đến các yếu tố chính trong quản lý chất lượng như chính sách chỉ đạo về chất lượng, nghiên cứu thị trường, thiết kế triển khai sản phẩm, quá trình cung ứng, bao gói, phân phối, xem xét, đánh giá nội bộ, dịch vụ sau khi bán hàng, kiểm soát tài liệu, đào tạo.
Hiên nay các doanh nghiệp giầy dép Việt Nam phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đang gặp rất nhiều khó khăn về tài chính, cơ sở vật chất kiến thức và kinh nghiệm khi đăng ký sản phẩm theo ISO 9000. Do đó cần có sự giúp đỡ, khuyến khích để các doanh nghiệp xây dựng được hệ thống sản phẩm theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế như ưu đãi cho doanh nghiệp đã đạt được chứng nhận ISO 9000 hoặc giải thưởng chất lượng Việt Nam.
Một điểm yếu nữa của hàng giầy dép Việt Nam là chưa tự chủ về thiết kế và mẫu mốt. Về lâu dài, muốn thoát khỏi tình trạng làm thuê, tự chủ về sản xuất, tiêu thụ và xác lập thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình thì cần phải có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ thiết kế mẫu mốt sản phẩm để chuẩn bị cho năm 2005-2010.
Xây dựng trung tâm nghiên cứu mẫu mốt chuyên ngành da giầy với trang bị tiên tiến, đội ngũ thiết kế có trình độ, có khả năng thiết kế mẫu mã chào hàng cho ngành. Tập trung đầu tư công nghệ và đào tạo cán bộ ở nước ngoài. Đối với mỗi doanh nghiệp hiện nay, với điều kiện vẫn phụ thuộc vào mẫu mã của bên đặt gia công, phải chủ động tìm hiểu để nắm bắt được mẫu mã của họ, cải tiến biến thành mẫu mã của mình nhằm tạo cơ sở cho việc phát triển nâng cao năng lực thiết kế của doanh nghiệp.
Học tập kinh nghiệm của các nước có ngành công nghiệp giầy dép xuất khẩu phát triển: khuyến khích mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các chủ sở hữu nhãn mác quốc tế, mời các chuyên gia thời trang từ nước ngoài để tư vấn về mẫu mã thiết kế thời trang cho các nhà sản xuất; tăng cường các biện pháp chào hàng, xúc tiến bán hàng giúp cho nhiều khách hàng và các nhà nhập khẩu biết đến các mẫu mã và chất lượng giầy dép của mình.
2.5 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
2.5.1 Tổ chức sản xuất kinh doanh
Đặc điểm của ngành giầy dép rất phù hợp với mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ do tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng thường gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Để có thể giải quyết được vấn đề này có thể tổ chức sản xuất theo hình thức liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: một công ty mẹ với nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom hàng và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, đảm bảo thị trường tiêu thụ ổn định.
Để tổ chức quá trình sản xuất một cách có hiệu quả, doanh nghiệp cần tận dụng tối đa công suất thiết bị nhà xưởng; sử dụng hiệu quả sức lao động của công nhân, đội ngũ quản lý, chất xám của cộng tác viên bên ngoài doanh nghiệp; giảm chi nguyên vật liệu, chi phí sản xuất trên một đơn vị sản phẩm, dự trữ tồn kho hợp lý, tăng nhanh vòng vốn nhằm sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
2.5.2 Cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp
-Cải tiến bộ máy tổ chức:
Đơn giản hoá bộ máy tổ chức, xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong tổ chức với các mối quan hệ ngang, dọc trong quản lý, quản trị sản xuất kinh doanh.
Xây dựng một bộ máy tổ chức có tính kế thừa, đổi mới, hoàn thiện tổ chức, thanh lọc những bộ phận, cá nhân hoạt động không có hiệu quả hay gây trở ngại cho quá trình phát triển chung của tổ chức.
Xây dựng một cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, năng động, đủ sức chống chọi và có khả năng giải quyết những khó khăn về mặt tác nghiệp và có thể xây dựng được chiến lược kinh doanh, kế hoạch kinh doanh khả thi cho doanh nghiệp.
Thường xuyên có công tác thanh tra, kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động của tổ chức cùng nguyên tắc phê bình và tự phê bình. Bên cạnh đó cần đi đôi với công tác xây dựng một đội ngũ nhân sự mạnh, có trình độ trong doanh nghiệp, công ty.
-Tổ chức đào tạo lực lượng lao động.
Khoa học, công nghệ và con người là những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập và cạnh tranh. Để góp phần vào quá trình xây dựng một ngành công nghiệp đích thực của Việt Nam, cần coi trọng việc đào tạo con người về quản lý điều hành sản xuất kinh doanh, về khoa hoc kỹ thuật. Trước mắt cần đào tạo được một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý tinh thông để có thể làm chủ trong quản lý và điều hành sản xuất tại các doanh nghiệp; quan tâm đào tạo các nhà tạo mẫu và phát triển mẫu, am hiểu sâu sắc thị hiếu người tiêu dùng tại các nước nhập khẩu trên cơ sở biết kết hợp các chất liệu nguyên vật liệu để tạo ra các mẫu mã được ưa thích đối với từng loại sản phẩm cho từng đối tượng tiêu dùng.
Nghề giầy dép không đòi hỏi kỹ thuật quá cao nên ngành rất dễ thu hút nhiều lao động nhưng do trình độ chuyên môn hoá ngày càng cao nên cường độ làm việc khá căng thẳng mà tiền lương lại thấp và có sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp nên thường xuyên có sự biến động trong đội ngũ lao động của các doanh nghiệp. Vì vậy cần khuyến khích đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong ngành cùng đội ngũ công nhân lành nghề.
đầu tư cơ sở vật chất cho các trường đào tạo công nhân cùng với việc thay đổi nội dung và chương trình đào tạo để theo kịp với các nước công nghiệp phát triển.
Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ trong ngành; phối hợp đào tạo giữa các viện, trường trong ngành với các cơ sở đào tạo quốc gia để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật của ngành. Bồi dưỡng thường xuyên theo các chương trình ngắn hạn; tổ chức hội thảo để cung cấp, trao đổi những thông tin trong và ngoài nước; cử cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, có khả năng và kiến thức cần thiết đi thực tập, đào tạo ở các nước có nền công nghiệp giầy dép phát triển nhằm thu thập và nắm bắt bí quyết về công nghệ mà trong nước đang cần hoặc tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới.
Chuẩn hoá chức năng, yêu cầu về trình độ chuyên môn kỹ thuật của từng vị trí trong doanh nghiệp, từ đó có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động trong doanh nghiệp.
Ngoài viêc nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên cần sử dụng kết hợp một cách hợp lý giữa đòn bẩy lợi ích vật chất với lợi ích tinh thần để họ xác định công ty, xí nghiệp mà họ đang làm thực sự là ngôi nhà thứ hai của mình. Đây là một kinh nghiệm đáng quý của các công ty, xí nghiệp Nhật Bản nhằm xây dựng một cơ cấu tổ chức nhân sự mạnh, hoạt động có hiệu quả.
kết luận
Theo lộ trình của xu hướng chuyển dịch đầu tư, sản xuất hàng giầy dép thế giới đã và đang tiếp tục di chuyển sang các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với những lợi thế nhất định về lao động, giá nhân công... Sản xuất giầy dép ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang có rất nhiều thuận lợi để phát triển. Trong thời gian tới, Việt Nam có nhiều cơ hội để trở thành một trong những trung tâm sản xuất và xuất khẩu hàng giầy dép lớn của thế giới.
Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu đặt ra cho ngành giầy dép trong những năm tới, ngành còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, từ những vấn đề còn tồn tại trong sản xuất, xuất khẩu đến những khó khăn từ phía thị trường nhập khẩu cũng như sự cạnh tranh của các nước sản xuất giầy dép trong khu vực. Đề tài “ Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam và một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giầy dép” đã tập trung nghiên cứu thực trạng xuất khẩu các mặt hàng giầy dép và đã cho thấy một số kết quả như sau:
Xuất khẩu giầy dép đã có những tăng trưởng đáng kể cả về số lượng, giá trị và vị trí trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Cơ cấu giầy dép xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng các mặt hàng có giá trị cao.
Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng và đa dạng hơn.
Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại như:
Hiệu quả xuất khẩu không cao do chúng ta chủ yếu là gia công cho nước ngoài, các doanh nghiệp sản xuất chưa tự túc được nguyên liệu đầu vào, vẫn còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập.
Điều kiện về vốn không cho phép chúng ta mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu, dẫn đến kết quả là công nghệ nhập không tiên tiến, không theo kịp yêu cầu chất lượng của thị trường.
Công tác dự báo thị trường, các hoạt động marketing thực hiện chưa tốt làm cho doanh nghiệp và thị trường tách rời nhau, sức cạnh tranh của hàng hoá không cao.
Hệ thống pháp lý và chính sách quản lý của Nhà nước dù đã được hoàn thiện dần song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, nhiều quy định không hợp lý gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng giầy dép, cả Nhà nước và doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp chủ yếu:
Tăng cường thu hút vốn đầu tư vào ngành cả từ trong và ngoài nước, đảm bảo sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư.
Có các biện pháp tổ chức sản xuất nguyên phụ liệu cho sản xuất giầy dép xuất khẩu.
Nhà nước song song với việc duy trì phát triển thị trường hiện có cần chú trọng thâm nhập thị trường mới để có một cơ cấu thị trường hợp lý.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của cả doanh nghiệp và sản phẩm qua các biện pháp về tổ chức sản xuất, nhân lực, công nghệ, nguyên liệu, kiểu dáng, chất lượng...
Nhà nước phải có những sửa đổi bổ sung kịp thời để hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, đảm bảo môi trường pháp lý ổn định và thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu giầy dép.
Nếu đảm bảo thực hiện một cách đồng bộ và kịp thời các giải pháp trên thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị xuất khẩu hàng giầy dép nâng cao khả năng xuất khẩu hàng hoá của mình gắn liền với nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đặc biêt là hiệu quả xuất khẩu, đưa hàng giầy dép lên vị trí xứng đáng với tiềm năng vốn có của nó trong chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam.
Mục lục
Lời nói đầu
Chương I
Vai trò của mặt hàng giầy dép trong
các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
I. Xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 1
1. Khái niệm xuất khẩu 1
2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân 4
II. Vai trò của mặt hàng giày dép trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 7
1. Khả năng sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam . 8
2. Nhu cầu thị trường thế giới 11
3. Vai trò của sản xuất và xuất khẩu giầy dép đối với nền kinh tế 13
Chương II
Thực trạng xuất khẩu hàng giầy dép của Việt Nam
I. Khái quát tình hình thị trường giầy dép trên thế giới 15
1. Tình hình sản xuất giầy dép trên thế giới 16
1.1 Tình hình sản xuất giầy dép của Trung Quốc 17
1.2 Tình hình sản xuất giầy dép của Italia 18
1.3 Tình hình sản xuất giầy dép của ấn Độ 19
1.4 Tình hình sản xuất giầy dép của Braxin 20
1.5 Tình hình sản xuất giầy dép của Inđônêxia 20
1.6 Tình hình sản xuất giầy dép của Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc 21
2. Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép trên thế giới. 22
2.1 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Mỹ 22
2.2 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở EU 23
2.3 Tình hình tiêu thụ hàng giầy dép ở Nhật Bản 24
3. Xu hướng phát triển của thị trường giầy dép thế giới 25
II. Thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 26
1. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu 27
1.1 Kim ngạch 27
1.2 Cơ cấu xuất khẩu .29
1.3 Đánh giá tăng trưởng kim ngạch và biến đổi cơ cấu xuất khẩu 30
2. Thị trường xuất khẩu 32
2.1 Thị trường EU.. 32
2.2 Thị trường Mỹ ..34
2.3 Thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. 36
2.4 Thị trường Đông Âu, SNG và các thị trường khác. 37
3. Hiệu quả xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 38
4. Đánh giá thực trạng xuất khẩu giầy dép của Việt Nam 41
4.1 Những lợi thế 41
4.2 Những tồn tại yếu kém 47
Chương III
Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu
hàng giầy dép Việt Nam
I . Mục tiêu, định hướng phát triển xuất khẩu giầy dép 56
1. Mục tiêu, định hướng của toàn nền kinh tế 56
2. Mục tiêu, định hướng phát triển xuất khẩu giầy dép của Việt Nam
trong giai đoạn 2000-2010 57
2.1 Định hướng về thị trường. 58
2.2 Định hướng về sản phẩm 61
2.3 Mục tiêu phát triển tới năm 2000-2010. 61
II. Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép Việt Nam
giai đoạn 2000-2010 62
1. Tác động từ phía Nhà nước 62
1.1 Thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào ngành 62
1.2 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, ổn định môi trường
pháp lý. 67
1.3 Hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động mở rộng thị trường
nhập khẩu 69
1.4 Hỗ trợ sản xuất trong nước 73
2. Đối với bản thân doanh nghiệp 74
2.1 Giải pháp trong việc cung cấp nguyên, phụ liệu. 74
2.2 Mở rộng thị trường xuất khẩu 76
2.3 Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu 77
2.4 Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 79
2.5 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 68
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Tài liệu tham khảo
Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch thương mại 1991-2000. Bộ Thương mại.
Các tham luận, văn kiện, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII.
Cơ sở khoa học để xây dựng định hướng, mục tiêu phát triển thương mại 5 năm (2001-2005)- Hoàng Gia Kim- Chuyên viên cao cấp Bộ Thương mại.
Chiến lược xuất khẩu 2000-2005-2010. Bộ Thương mại.
Chiến lược phát triển công nghiệp Da giầy Việt Nam 1996-2010. (Lê Như Hà- Thư ký Hiệp hội Da giầy Việt Nam).
Chuyển dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu. Bộ Thương mại
Giáo trình Kinh tế Ngoại thương- GS- TS Bùi Xuân Lưu. ĐH Ngoại Thương.
Hải quan 1993-1999.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi)
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi).
Niên giám thống kê 1998,1999 Tổng cục Thống kê.
Tạp chí Công nghiệp các số năm 1998, 1999, 2000.
Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu các số năm 1998, 1999, 2000.
Tạp chí Nghiên cứu Châu Mỹ các số năm 1998, 1999, 2000.
Tạp chí Nghiên cứu kinh tế các số năm 1998, 1999, 2000.
Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản các số năm 1998, 1999, 2000.
Tạp chí Ngoại thương các số năm 1998, 1999, 2000.
Tạp chí Thương mại các số năm 1998, 1999, 2000.
Xu hướng và triển vọng phát triển công nghiệp Da giầy thế giới đến 2010- UNIDO.
Leather- The International Journal 1995-1999.
Shoe and Leather News 1996-1999.
phụ lục
Bảng 1: mức lương giờ của một số nước
Đơn vị: USD/giờ
Nước
Lương
Nước
Lương
Nước
Lương
Indonesia
0,23
Thái Lan
0,87
Đài Loan
5,00
Trung Quốc
0,34
Malaysia
0,95
Anh
10,16
Việt Nam
0,48
Singapore
3,16
Mỹ
10,33
ấn độ
0,54
Hongkong
3,39
Pháp
12,63
Philipine
0,67
Hàn Quốc
3,60
Nhật Bản
16,37
Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê- Bộ Thương mại
Bảng 2: đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giầy dép Việt Nam
(Đến đầu năm 1999)
Nước đầu tư
Số dự án
Vốn đầu tư (triệu USD)
Tỷ lệ (%)
Đài Loan
15
179,943
40,2
Hàn Quốc
17
123,682
27,6
Hongkong
2
83,749
18,7
B.V.island
1
34,025
7,6
Đức
2
14,743
3,3
Singapore
1
11,404
2,6
Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê-Bộ Thương mại
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7349.doc