Đề tài Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường EU

- Nhanh chóng xây dựng bộ quy trình VietGAP: muốn tham gia WTO thành công, có thể đi vào thị trường thế giới thì VN phải chứng tỏ khả năng cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về ATVSTP theo tiêu chuẩn GAP (Good Agricultural Practice - nông nghiệp an toàn). Các nước trong WTO đều đặt ra những yêu cầu riêng về ATVSTP như EU có EuroGAP, Australia có Fresh care . không chỉ đảm bảo sức khoẻ người tiêu dùng còn là rào cản kỹ thuật mà các nước sử dụng để hạn chế mặt hàng nhập khẩu nào đó. Vì vậy, bên cạnh việc “trông giỏ” để “bỏ thóc” nhằm định vị lại cây trồng chủ lực và đáp ứng cho được những yêu cầu kỹ thuật đặt ra của mỗi quốc gia nhập khẩu nông sản, Việt Nam cầm tham khảo bộ AseanGAP (quy trình GAP chính thức của các nước thành việc Asean, vừa công bố tháng 11/2006) và các yêu cầu của bộ EuroGAP để nhanh chóng xây dựng bộ quy trình VietGAP. Từ đó có chương trình tập huấn tập trung cho bà con và xem đây là hình thức “trợ cấp” của Nhà nước giúp nông dân tham gia vào cuộc chơi WTO một cách hợp lệ, lúc đó mới nói đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản. Điều quan trọng không kém, bộ VietGAP cũng phải được sử dụng như là một “rào cản” bảo vệ nông sản trong nước, buộc hàng nông sản các nước nhập khẩu vào Việt Nam cũng phải đáp ứng những quy định này.

doc61 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sử dụng không được xác định rõ ràng như là đồ cổ hoặc cần phải sử chữa hoặc tái chế. Mặc dù Chỉ thị về an toàn sản phẩm đã tồn tại, tuy nhiên chưa quy định đối với nhiều loại sản phẩm. Chỉ thị yêu cầu các sản phẩm cho người tiêu dùng không được có bất cứ rủi ro không thể chấp nhận nào và cũng yêu cầu những người sử dụng tiềm năng những sản phẩm này được cảnh báo đầy đủ các rủi ro có thể xẩy ra. Chỉ thị về an toàn sản phẩm được đặt ra nhằm vào các sản phẩm cho người sử dụng cuối cùng (thực phẩm và phi thực phẩm), nếu như không có các quy định đặc biệt nào cho những sản phẩm này. Ngoài ra nếu có các quy định đặc biệt khác của EC thì Chỉ thị này không được áp dụng. 2.2.2 Nhãn CE (European Conformity) Mục đích của nhãn CE là đặt ra yêu cầu chung đối với các nhà sản xuất nhằm chỉ đưa ra những sản phẩm an toàn tại thị trường E.U. Nhãn CE được coi là 1 giấy thông hành của nhà sản xuất lưu thông nhiều sản phẩm công nghiệp như máy móc thiết bị, các thiết bị điện có hiệu điện thế thấp, đồi chơi, các thiết bị an toàn cá nhân, các thiết bị y tế Trên thị trường E.U. Tuy nhiên nhãn CE không áp dụng cho tất cả các hàng hoá công nghiệp. Nhãn CE không chỉ là ràng buộc duy nhất đối với sản phẩm. Nhãn CE không áp dụng cho các sản phẩm trang trí nội thất, quần áo và các sản phẩm da. Nhãn CE chỉ ra rằng sản phẩm tuân thủ các yêu cầu về luật định và có thể được áp dụng về an toàn, sức khỏe, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng. Cần phải chú ý rằng, nhãn EC không bảo đảm về chất lượng sản phẩm. Đối với các sản phẩm thực phẩm HACCP (the Hazard Analysis Critical Control Point system) được áp dụng cho ngành công nghiệp thực phẩm. Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm (93/43/EC) có hiệu lực từ tháng 1/1996 xác định rằng “các công ty thực phẩm sẽ xác định từng khía cạnh của các hoạt động ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm và bảo đảm rằng các biện pháp an toàn có thể có sẽ được thiết kế, áp dụng, thực hiện và kiễm tra lại trên cơ sở của hệ thống HACCP. Các nguyên tắc cơ bản của HACCP Xác định tất cả các nguy cơ có thể xẩy ra cho sản phẩm trong chu kỳ sống của sản phẩm; Xác định các Điểm Kiểm Soát Tới Hạn (Critical Control Points), các giai đoạn có thể kiểm soát được trong chu kỳ sống của sản phẩm; Xác định những biên độ tiêu chuẩn cao nhất có thể cho phép cho mỗi điểm kiểm soát tới hạn; Thiết kế và thực hiện một hệ thống kiểm soát kiểm nghiệm hoặc quan sát cho mỗi Điểm Kiểm Soát Tới Hạn, bao gồm 1 lịch trình theo thời gian; Thiết kế và thực hiện các kế hoạch hành động chính xác cho mỗi Điểm Kiểm Soát Tới Hạn; Đưa ra một tiến trình xác nhận, bao gồm các kiểm nghiệm và tiến trình khác nhằm kiểm tra tính hiệu quả của hệ thống HACCP; Chứng từ hoá tất cả các tiến trình và kết quả kiểm nghiệm. 2.2.3 Môi trường Trách nhiệm xã hội Tại nhiều quốc gia Châu Âu, nhiều thỏa thuận mang tính tình nguyện và mang tính pháp lý được thông qua giữa các chính phủ và các nhà sảnn xuất. Các thỏa thuận không chỉ áp dụng cho sản phẩm mà còn áp dụng cho bao bì của sản phẩm. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam phải tuân thủ những quy định về môi trường để được xuất khẩu và E.U, do đó các nhà nhập khẩu sẽ chuyển những yêu cầu này cho nhà xuất khẩu. Theo đó, các nhà xuất khẩu buộc phải xem xét ảnh hưởng môi trường của sản phẩm của mình, của quá trình sản xuất và đóng gói. Người tiêu dùng yêu cầu các sản phẩm mang tính môi trường. Do vậy các nhà xuất khẩu Việt Nam phải hiểu rằng việc tuân thủ các quy định về sản phẩm là rất cần thiết, tuy nhiên đầu tiên là đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng E.U là điều quan trọng trong thành công tại thị trường E.U Chính sách môi trường của EU Chính sách môi trường của E.U dựa trên cơ sở các hiệp định toàn cầu, đặc biệt trong Lịch trình 21 của Hiệp định Rio de Janeiro . Trong Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển, được tổ chức năm 1992 tại Brazin đã hình thành nền tảng đầu tiên cho sự phát triển bền vững trên toàn thế giới, áp dụng răng trưởng kinh tế cân bằng có quan tâm đến môi trường. E.U và các quốc gia thành viên đã cam kết thực hiện hành động theo nội dung Hiệp định Rio. Nội dung chính trong "Chương trình hành động thứ 5 về môi trường" liên quan nhiều hơn những nguyên nhân nguồn gốc hơn là những vấn đề xảy ra. Danh sách các sản phẩm bị ảnh hưởng bởi chính sách môi trường của E.U và ảnh hưởng bởi sự quan tâm của khách hàng rất dài như các sản phẩm thực phẩm tươi, thực phẩm chế biến, hoá chất y tế, sản phẩm da, các sản phẩm gỗ, dệt, may, điện tử các sản phẩm khoáng. Các vấn đề nhạy cảm là mức độ thặng dư thuốc trừ sâu, phụ gia thực phẩm, sự hiện diện của kim loại nặng, sự hiện diện của các chất gây ô nhiễm, sử dụng hoá chất, gỗ rừng nhiệt đới, ô nhiễm nguồn nước vá không khí và việc sử dụng cạn kiệt các tài nguyên không thể tái tạo. Ngoài ra còn những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp ngay đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam là: Các biện pháp được thực hiện nhằm giảm thiểu chất thải bao bì và tái sử dụng, tái chế các vật liệu bao bì; Tăng cường thực hiện quản lý môi trường và các hệ thống đánh giá và sử dụng các dấu hiện xác nhận tiêu chuẩn; Tăng cường tầm quan trọng của các dấu hiệu xác nhận tiêu chuẩn cho nhiều loại sản phẩm theo thái độ của người tiêu dùng Châu Âu. Chính sách môi trường của E.U (Thể hiện ở 2 cấp độ là: Cấp độ sản phẩm và cấp độ công ty) Quản lý chất thải bao bì đóng gói Chỉ thị 94/62/EEC về đóng gói và chất thải bao bì đóng gói: có quy định các mức độ tối đa của các kim loại nặng trong bao bì và mô tả các yêu cầu đối với sản xuất và thành phần của bao bì: Bao bì được sản xuất bằng phương pháp để cho thể tích và cân nặng được giới hạn ở mức thấp nhất nhằm duy trì mức độ an toàn, vệ sinh cần thiết và sự chấp thuận của người tiêu dùng cho sản phẩm đóng gói.  Bao bì được thiết kế, sản xuất và thương mại hoá sao cho có thể được tái sử dụng hoặc thu hồi, bao gồm tái chế, và để giảm thiểu ảnh hưởng về môi trường khi chất thải bao bì hoặc những phần dư từ chất thải bao bì được loại trừ. Bao bì phải được sản xuất để giảm thiếu sự hiện diện của các chất độc hại và các chất nguy hiểm khác có quan tâm đến sự hiện diện của các chất tro, bức xạ khi bao bì hoặc các phần dư được thiêu hủy hoặc chôn. Việc thực hiện Chỉ thị đã được nhiều quốc gia thành viên đưa vào luật tuy nhiên các quy định ở mỗi quốc gia khác nhau. Thông dụng nhất là hệ thống “Green Dot” do Chính phủ Đức áp dụng. Biểu tượng Green Dot thể hiện cho người mua biết rằng bao bì có thể được tái sử dụng hoặc tái chế và cũng cho biết việc loại bỏ và tái chế bao bì vận chuyển sẽ do các bên liên quan chịu chi phí. Các tiêu chuẩn quản lý môi trường Các tiêu chuẩn quản lý môi trường cho phép các nhà sản xuất và nhà xuất khẩu cơ hội nhằm giới thiệu cho các đối tác bên ngoài rằng việc sản xuất được thực hiện theo phương pháp trung thành với môi trường. Các tiêu chuẩn quản lý môi trường là các tiêu chuẩn mang tính tự nguyện. Hiện nay tiêu chuẩn môi trường cho các quốc gia đang phát triển được áp dụng nhiều nhất là ISO 14001. Các đặc điểm của tiêu chuẩn quản lý môi trườngISO14001 Chứng nhận ISO dựa trên cơ sở tự nguyện, mặc dù nó có 1 sức ép đáng kể từ những người mua hàng Tây Âu; Nó là một quyết định của đội ngũ quản lý nhằm tránh sự ô nhiễm và chất thải và trở nên hiệu quả hơn và cạnh tranh hơn khi tôn trọng môi trường; Các bộ tiêu chuẩn được thể hiện chi tiết dưới dạng thực hiện các công việc gì chứ không phải là như thế nào; Một chính sách môi trường cần được trình bày 1 cách có hệ thống; Huấn luyện nhân viên đóng vai trò gì trong các vấn đề môi trường; Kế hoạch, trách nhiệm và các tiến trình phải được ghi chép bằng văn bản; Các cơ chế kiểm soát, điều chỉnh và hoạt động ngăn cản cần được định ra; Yêu cầu kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài; Yêu cầu thực hiện kiểm tra quản lý định kỳ; Giấy chứng nhận do phía thứ 3 cấp. Nhãn hiệu sinh thái (Ecolabelling) Nhãn hiện sinh thái của quốc gia và E.U dựa trên cơ sở đánh giá trên toàn chu kỳ sống của sản phẩm và áp dụng cho nhiều loại sản phẩm. Trong khi những nhãn hiệu cho từng sản phẩm có thể có những giới hạn và chỉ được áp dụng cho 1 sản phẩm, 1 nhóm sản phẩm hoặc 1 tiến trình sản xuất riêng biệt. Nhãn hiệu sinh thái quốc gia: Hệ thống nhãn hiệu sinh thái quốc gia nhằm cung cấp cho các khách hàng một lựa chọn khi mua các sản phẩm được thiết kế, sản xuất, đóng gói và có thể được loại bỏ cuối chu trình đời sống của sản phẩm mang tính chất môi trường. Việc sử dụng những nhãn hiệu như vậy khuyếnh khích những ngành sản xuất và chế biến sử dụng nhiều hơn các nguồn tài nguyên có thể duy trì. Nhãn hiệu sinh thái quốc gia áp dụng cho nhiều loại sản phẩm và dự trên Việc đánh giá chu trình sống. Đánh giá ảnh hưởng môi trường thông qua toàn bộ chu trình sống của sản phẩm. Những nhãn hiệu sinh thái quốc gia được thấy ở các quốc gia Tây bắc E.U như Nhãn Mileukeur tại Hà lan. Nhãn Blue Angel tại Đức. Nhãn Swan tại các quốc gia Scandinavia. Nhãn Swan tại các quốc gia Scandinavia Nhãn sinh thái E.U (E.U ecolabel): Áp dụng cho 14 nhóm sản phẩm. Nhà sản xuất hoặc người nhập khẩu áp dụng một dấu xác nhận môi trường của E.U trên cơ sở tự nguyện.Để có được dấu xác nhận môi trường của E.U, các doanh nghiệp phải trả 1 khoản phí và phụ thuộc vào doanh nghiệp nhập khẩu hoặc doanh thu của công ty sản xuất. Khoản phí này không giống nhau giữa các quốc gia. Các nhãn sản phẩm riêng biệt Nhãn hiệu cho các sản phẩm thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ: KRAV tại Thụy Sĩ, EKO tại Hà Lan Nhãn hiệu cho duy trì rừng – cho các sản phẩm gỗ: FSC và ISO 14000. Nhãn hiệu cho duy trì hải sản: MSC (Marine Stewardship Cuncil). Nhãn hiệu cho các sản phẩm may mặc : Oko-Tex đặc biệt tại Đức. 2.2.4 Quản lý chất lượng Sê-ri ISO 9000 Tổ Chức Quốc Tế Tiêu Chuẩn Hoá (International Organization for Standardisation – ISO) phát triển và một cách tổng quát chấp nhận sê ri ISO 9000 nhằm cung cấp 1 cơ cấu cho quản lý và bảo đảm chất lượng. Các nhà sản xuất xem chứng nhận ISO 9001, ISO 9002 như là một tài sản quan trọng và như 1 điểm bắt đầu để cạnh tranh trong thị trường E.U. Chứng nhận ISO sẽ tạo 1 niềm tin mạnh mẽ của đối tác. Giấy chứng nhận ISO chỉ có giá trị trong 3 năm, do vậy để tiếp tục duy trì ISO, các đợt kiểm toán nội bộ (1-2 lần/năm) và kiểm toán từ bên ngoài (2 lần trong năm) cần được thực hiện. Điều này có nghĩa là công ty cần phải có 1 người quản lý chịu trách nhiệm cho các chánh sách về quản lý chất lượng. Các nội dung cơ bản của ISO Các tiêu chuẩn ISO 9000: 9001 và 9002 là quan trọng nhất ISO 9000: Hướng dẫn cho việc lựa chọn và sử dụng hệ thống chất lượng; ISO 9001: Mô hình bảo đảm chất lượng trong thiết kế, phát triển, sản xuất, lắp đặc và dịch vụ; ISO 9002: Mô hình bảo đảm chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụk; ISO 9003: Mô hình bảo đảm chất lượng trong kiểm tra và kiểm định cuối cùng; ISO 9004: Những hướng dẫn cho thiết kế và thực thi các hệ thống chất lượng. ISO 9000: là gì? Các tiêu chuẩn ISO 9000 không phải là các tiêu chuẩn của sản phẩm mà là các tiêu chuẩn hệ thống; Các tiêu chuẩn ISO 9000 không đề cập đến sự tuân thủ những đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm; Các tiêu chuẩn ISO 9000 không đề cập về các biện pháp quản lý chất lượng trong 1 công ty; Các tiêu chuẩn ISO 9000 nhấn mạnh nhiều vào ngăn chặn sự không tuân thủ hơn là kiểm tra đối với các đặc điểm kỹ thuật. Các đặc điểm của ISO 9000 Hệ thống và ghi chép bằng văn bản chính sách chất lượng; Trách nhiệm, quản hạn và mối tương quan của nhân sự được định nghĩa và được ghi chép bằng văn bản; Rà soát định kỳ thường xuyên; Hệ thống các kế hoạch chất lượng; Tất cả các tiến trình được ghi chép bằng văn bản; Sự tham gia cao của toàn bộ nhân viên; Các hướng dẫn công việc tại nơi làm việc; Các chương trình huấn luyện nhân sự; Các hoạt động chỉnh lý và ngăn cản; Kiểm soát tiến trình từ mua nguyên vật liệu cho đến đóng gói, bốc dỡ, giao hàng, dịch vụ và sử lý khiếu nại; Chứng nhận từ phía thứ 3; Kiểm toán nội bộ và từ bên ngoài. Lợi ích từ giấy chứng nhận ISO 9000 Tạo ra sự nhận diện từ khách hàng; Phát triển hình ảnh của công ty; Tạo sự tin tưởng; Tăng sự tín nhiệm; Tăng sự chấp nhận từ phía khách hàng; Giảm các tranh chấp; Hệ thống hoá các nỗ lực nhằm tăng chất lượng; Tạo sự thông suốt và hiểu biết; Cung cấp một nguồn quan trọng cho tham khảo và giám sát; Có thể nhận dạng được các điểm yếu; Có thể nhận dạng đ ược những khả năng để tăng hiệu quả; Có thể nhận dạng được những khả năng để tăng sự thỏa mãn của khách hàng. Sê-ri ISO 9000 phiên bản 2000 Hiện nay Sê ri ISO 9000 phiên bản 2000 giảm còn 3 hệ thống tiêu chuẩn quản lý chất lượng : ISO 9000: 2000 ISO 9001: 2000 ISO 9004: 2000 Phiên bản ISO 9001 mới thay thế cho các phiên bản cũ của ISO 9001, ISO 9002, ISO 9003 Các nội dung tiêu chuẩn thay đổi bao gồm: Phù hợp với các tiêu chuẩn quản lý môi trường; Dễ dàng áp dụng cho các tổ chức nhỏ, vừa và lớn trong khu vực tư nhân và công cộng; Có thể áp dụng đều nhau trong các lãnh vực sản xuất, dịch vụ và phần mềm. Chương 3: Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường EU 3.1 Kim ngạch xuất khẩu nông sản Việt Nam sang EU Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường EU những năm gần đây thường xuyên chiếm 18-19% kim ngạch xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp nước ta. Những nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU ổn định và liên tục tăng từ năm 2000 đến nay: sản phẩm gỗ 77%/ năm, chè 35,8%/năm, cao su sơ chế 44,7%/năm, rau quả 35,5%/năm. Riêng cà phê đ• có dấu hiệu phục hồi sau 10năm đi xuống. Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản đang khai thác tốt và có thị phẩm tương đối lớn ở khu vực này: Tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu, Pháp chiếm 48.5%, Đức chiếm 57%, Italy chiếm 49.6%, Tây Ban Nha chiếm 53.9%, Anh chiếm 64.2%... Có những mặt hàng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nước ta, sản phẩm chè năm 2003 mới chỉ chiếm khoảng 1.8% thị phần nhập khẩu của EU, gỗ chiếm khoảng 1%, rau quả không đáng kể. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào EU đạt trên 577 triệu USD, chiếm khoange 18% kim ngạch xuất khẩu nông sản. Trong đó, cà phê đứng đầu với 391 nghìn tấn đạt 262 triệu USD. Hiện nay thị trường EU mới chiếm gần 20 % tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn có kế hoạch nâng tỷ lệ này lên 30% với các mặt hàng chủ lực như cao su, cà phê, chè, rau quả, hạt có dầu... 3.2. Cơ cấu thị trường và hàng nông sản Việt Nam vào EU EU hiện có 27 nước thành viên, với gần 500 triệu người có thu nhập cao, một nền kinh tế lớn nhất thế giới. Dự báo năm 2007, tổng kim nghạch ngoại thương của EU gần 1.400 tỉ USD, chiếm gần 20% thương mại toàn cầu. Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì tổng kim nghạch mậu dịch là 3.092 tỉ USD, chiếm 41,4% thị phần thế giới. EU chiếm 42,7% nhập khẩu dịch vụ thế giới, trong đó 7,2% là nông sản. Đây là thị trường xuất khẩu to lớn của Việt Nam nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng. ĐBSCL hiện chiếm hơn 90% lượng gạo xuất khẩu và 70% sản lượng trái cây của cả nước,có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường EU mở rộng.Cà phê là mặt hàng nông sản đang được khai thác tốt và có thị phần tương đói lớnở khu vực này:tại Bỉ chiếm 10,1% thị trường nhập khẩu, Pháp chiếm 48,5%, Đức chiếm 57%, Italy chiếm 49,6% Tây Ban Nha chiếm 53,9% Anh chiếm 64,2%... Có nhưỡng mặt hàng vẫn chư tương xứng với tiềm năng của nước ta,sản phẩm chè năm 2003 mới chỉ chiếm 1,8% thị phần nhập khẩu của EU, Gỗ chiếm khoảng 1% Rau quả không đáng kể. 3.2.1. Mặt hàng rau quả Xuất khẩu rau, hoa, quả Việt nam trong những năm qua có chiều hướng gia tăng nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Nhiều hộ sản xuất và doanh nghiệp vẫn chưa yên tâm đầu tư phát triển do thị trường rau, hoa quả tươi luôn tiền ẩn nhiều rủi ro. Hiện nay cả nước có 680.000 ha trồng cây ăn quả, trên 760.000 ha trồng rauvà hoa các loại phục vụ tiêu dùng nội địa và một phần cho xuất khẩu. Kim nghạch xuất khẩu hoa, rau quả ở việt nam có chiều hướng tăng: năm 2000 đạt 213 triệu USD, năm 2005 đạt 230 triệuUSD, năm 2006 đạt 280 triệu USD. Một số mô hình phát triển sản xuất và xuất khẩu rau, hoa, quảđạt hiệu quả kinh tế cao, có giá trị sản xuất từ 400 - 500 triệu đồng/ha/năm,có doanh nghiệp xuất khẩu hàng chục triệu USD/năm. Tuy nhiên vẫn còn nhiếu hạn chế trong nghành rau hoa quả tươi ở việt nam đến nay vẫn chưa được khắc phục.Nông dân xuất khẩu chủ yếu theo kinh nghiệm truyền thống, theo mùa vụ.Vì vậy , cao điểm mùa vụ thì hàng hoá tập trung cao, không tiêu thụ nhanh thì thua lỗ; ngược lại trái vụ thì không tạo ra được sản phẩm lớn, ổn định cho xuất khẩu.Mặt khác, do quy mô nhỏ lẻ(mỗi hộ từ 200 -300m2 rau,1000m2 cho hoa và quả) nên sản lượng hàng hoá không nhiều và gây trở ngại cho việc áp dụng các kĩ thuận tiên tiến hiện đại trong sản xuất và kinh doanh. Đến nay vấn đề bảo quản sau thu hoạch vẫn là vấn đề nóng bỏng, cản trở khả nang xuất khẩu rau hoa quả ở Việt namđến các thị trường xa.Như xoài, vú sữa, chuối... tuy thơm ngon nhưng mỏng vỏ không cất giữ được lâu. không bảo quản được để chủ động đọ chín đáp ứng cho thị trườngPháp, Hà Lan, Ai Cập .Các đợn vị kinh doanh rau, hoa, quả thiếu hệ thống kho bảo ôn, phương tiện vận chuyển bảo ôn chuyên dùng, trong khi cước vận chuyển cao nên viẹc vận chuyển bảo quản xa gặp khó khăn.Phổ biến hiện nay là các thương lái thu mua của dân, thuê phương tiện vận chuyển lên biên giới bán tại cửa khẩu theo đường tiểu ngạch .Do không có kho bảo ôn, nên thương lái bán vội là bị ép giá. Rau, hoa, quả Việt Nam không xuát khẩu được một phần do chưa đảm bảo được vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài vài Công ty đầu tư nước ngoài, các công ty Việt Nam chưa tổ chức có bài bản việc tập kết hàng, phân loại, đóng gói bao bì, bảo quản kho lạnh. Những hạn chế trên phần lớn xuất phát từ khâu tổ chức sản xuất và kinh doanh. Hiện tại, có 3 phương thức tổ chức sản xuất, kinh doanh chủ yếu là Công ty nhà nước chuyển sang cổ phần, có khách hàng nước ngoài nhưng còn hạn hẹp. Các Công ty ở địa phương thu gom hàng từ các hộ nông dân và giao lại cho các Công ty lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội hoặc khách nước ngoài thu mua xuất khẩu. Một số nơi xuất hiện một số mô hình liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với nông dân hoặc hợp tác x• với nông dân. Sản phẩm được doanh nghiệp thu mua theo hợp đồng đ• ký, đưa vào phân loại, chế biến, đóng gói và xuất khẩu. Nhưng những mô hình này tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt và một số tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long ngân hàng. XuÊt khÈu rau qu¶ s¶n thÞ tr­êng EU th¸ng 11 n¨m 2006 ThÞ tr­êng Th¸ng 11/06 So th¸ng 10/06 So th¸ng 10/06 So th¸ng 11/05 So th¸ng 11/05 (Ngh×n USD) % % (Ngh×n USD) % Hµ Lan 842 42.58 1.41 8.281 14.35 Italia 653 13.89 64.11 4.082 18.04 §øc 358 12.50 55.78 2.503 -26.81 Anh 199 5.34 -29.53 2.301 34.02 Thuþ §iÓn 59 * 160.38 592 16.88 BØ 43 -72.84 -76.38 1.493 27.33 Hµ Lan 37 18.08 * 258 * SÐc 0 * -100.00 208 -22.63 T©y Ban Nha 0 -100.00 * 273 -69.51 Ph¸p 329 6.20 -39.46 3.567 36.61 3.2.2. Mặt hàng cà phê Buôn bán hai chiều Việt Nam - EU tăng nhanh trong những năm gần đây, tư 3.6 tỉ USD năm 1999 lên 9.9 tỉ USD năm 2006, trong đó Việt Nam Xuất khẩu 6.9 tỷ USD chiếm 17.4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ... Dự báo xuất khẩu vào EU năm 2007 đạt 8.3 tỷ USD, tăng 2% so với năm trước. Quy mô tiêu dùng của EU đang ở mức 8.000 tỉ Euro, trong đó giao dịch thương mại chiếm đến 90% giữa các nước EU (70% giao dịch trong nước, 20% giao dịch giữa các nước trong khu vực), 10% nhập khẩu (kim ngạch nhập khẩu từ các nước Châu á Thái Bình Dương và Caribea mới chỉ chiếm 3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu 4 tỉ Euro). Thị trường EU đang tràn ngập hàng hoá, nhu cầu b•o hoà, cung vượt cầu. Xuất khẩu vào thị trường EU, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt. 3.2.3. Mặt hàng chè Trong cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam hiện nay, chè xanh chiếm 20%, chè đen 79% và 1% là các loại chè khác. Ngành chè đặt mục tiêu đến năm 2010, tỷ lệ xuất khẩu chè xanh sẽ tăng lên 60%, giảm dần tỷ lệ chè đen. Việt Nam hiện thuộc nhóm 10 nước đứng đầu thế giới cả về diện tích và sản lượng chè. Với EU, nhu cầu chè của khối này chủ yếu đều được đáp ứng bằng nhập khẩu với gần 300.000tấn/năm. EU đòi hỏi hết sức cao về chất lượng và VSATTP. Chính vì thế, chè Việt Nam mới xuất khẩu sang EU có 5.000 - 7.000tấn/ năm, trong lúc nhu cầu về chè của EU rất lớn. Chè Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này chiếm khoảng hơn 2% tổng kim ngạch. Giá chè của Việt nam tại đây chỉ bằng 40% so với mặt bằng giá 2.500USD/tấn nhập khẩu từ các nước khác. Mặt khác trong 15 nước thành viên EU, chỉ có Hylạp và Luxemboug là khách hàng thường xuyên, 13 nước còn lại có nhập khẩu chè của Việt nam nhưng không ổn định. Để tăng kim ngạch xuất khẩu chè sang thị trường EU, cần lưu ý: - Tăng thị phần chè Việt Nam trên các nước EU bằng cách tìm hiểu thị hiếu, khẩu vị của người dùng chè ở các nước EU, nghiên cứu và áp dụng khoa học và quy trình công nghệ chè tiên tiến từ khâu trồng trọt, thu hái, ủ sao, đóng gói, mẫu m•, bao bì, bảo quản, vận chuyển ... phù hợp với thị hiếu, khẩu vị của người tiêu dùng. - Tăng cường xúc tiến thương mại, quảng bá và từng bước khẳng định thương hiệu chè Việt nam trên thị trường EU. - Tích cực triển khai chương trình xúc tiến thương mại, sử dụng có hiệu quả kinh phí hỗ trợ từ ngân sách của chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm và hỗ trợ xuất khẩu từ Quỹ hỗ trợ xuất khẩu để mở rộng thị trường đ• có và tìm kiếm thị trường mới, nhất là thị trường có tỷ trọng xuất khẩu lớn. 3.2.4. Mặt hàng hồ tiêu Hiện nay, lượng hồ tiêu của Việt Nam đang chiếm tới 50% lượng hồ tiêu xuất khẩu của cả thế giới. Tỷ lệ này có khả năng sẽ còn tăng nhanh trong những năm tới. Không những thế, Việt Nam đang được đánh giá là nhà cung ứng hồ tiêu lý tưởng nhất trên thế giới với giá cả và chất lượng cạnh tranh. Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam đ• xuất khẩu được hơn 100.000 tấn, xấp xỉ với lượng xuất khẩu hồ tiêu cả năm 2005. Hiện tại, giá xuất khẩu hồ tiêu của các doanh nghiệp Việt Nam đ• đạt từ mức 1.959USD/tấn - 2.000USD/tấn so với thời điểm tháng 7/2006. Trong nước, các doanh nghiệp thu mua cho nông dân với giá 31.500đồng/kg tiêu đen, cao gấp đôi so với giá bình quân năm 2005. Với giá th mua trong nước và xuất khẩu như trên, hồ tiêu Việt Nam đang có một năm đạt hiệu quả rất cao cả về sản xuất lẫn kinh doanh. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam trong năm 2007 sẽ tăng mạnh và đạt tới 200triệu USD. EU là thị trường lớn, có tính ổn định lâu dài. Song song đó, các doanh nghiệp trong nước đã bán hàng trực tiếp cho nhà nhập khẩu, hạn chế được xuất khẩu qua trung gian. Điều này làm cho giá xuất tăng, sản lượng xuất khẩu tăng và tránh được tình trạng bị ép giá. Hiện tại, hồ tiêu Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU đạt hơn 40% nhu cầu tiêu thụ. 3.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩunông sản Việt Nam sang thị trường EU Trong những năm gần đầy, xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU) đ• đạt được những thành tựu đáng kể, song vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức đặt ra đòi hỏi Nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển phù hợp để giữ và mở rộng thị phần. Nếu xét riêng kim ngạch thì xuấtd khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào EU trong 2 năm trở lại đây có sự tăng trưởng khá. Số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản vào thị trường này đạt trên 577 triệu USD, chiếm gần 18% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước, trong đó, một số mặt hàng xuất khẩu chính như cà phê, hạt điều, hồ tiêu và nhất là các sản phẩm gỗ có kim ngạch tăng hơn hẳn so với những năm trước. Bên cạnh đó, khối lượng xuất khẩu các mặt hàng nông - lâm sản vào EU cũng ngày càng tăng với sự đa dạng về chủng loại, mẫu m• và chất lượng ngày càng cao. Điều này cho thấy, tiềm năng xuất khẩu hàng nông - lâm sản vào EU là rất lớn và đang được các doanh nghiệp bước đầu khai thác một cách tương đối có hiệu quả. Có 4 điểm cần chú ý cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu sang thị trường EU gồm: Tính năng sản phẩm phải phù hợp với người tiêu dùng. Thực phẩm phải đóng gói nhỏ, gọn, tiện lợi, đảm bảo chất lượng, mẫu m• đa dạng và luôn luôn thay đổi. Giá cả sản phẩm không phụ thuộc vào giá thành sản xuất mà phụ thuộc vào thời điểm bán ra và khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Linh hoạt và cứng rắn, đảm bảo quyền lợi của mình trong quá trình đàm phán. Tìm đối tác (nhà phân phối hoặc đại lý), đặt quan hệ làm ăn lâu dài với các đối tác dựa trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi và sự tin cậy về chất lượng hàng hoá. Tìm hiểu kỹ các tiêu chuẩn xuất khẩu hàng hóa, thị trường và đối tượng tiêu dùng, đáp ứng được 2 yếu tố sản phẩm đó, công ty tốt (hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý về doanh nghiệp). Để xuất khẩu thành công vào thị trường EU, các doanh nghiệp phải quan tâm đến một số luật thương mại quốc tế có liên quan như các hiệp định WTO, các hiệp định khu vực và song phương trong đó có các hiệp định ký với các nước ASEAN, các luật về thâm nhập thị trường do EU ban hành, và của từng nước thành viên, các quy định về thị trường và sản phẩm do đối tác yêu cầu. Ngoài ra, các quy định pháp lý và phi luật về thâm nhập thị trường EU gồm các quy định về thuế quan, các luật của EU về thâm nhập thị trường, các đòi hỏi phi luật của đối tác thương mại về thâm nhập thị trường. Các quy định về thuế như thuế nhập khẩu: 4% trở xuống với hàng công nghiệp, trên dưới 10% đốivới hàng nông sản (áp dụng với giá nhập khẩu tối thiểu ...) và các thuế khác như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt đánh trên các sản phẩm như rượu, bia, thuốc lá ... ở mỗi nước. Các quy định về rào cản hạn ngạch và thuế hạn ngạch, EU có 87 loại thuế theo hạn ngạch. Quy định về giấy phép nhập khẩu và các chất cấm nhập khẩu. Nét đặc trưng trong chính sách thương mại của EU là bảo hộ nông dân, bảo vệ môi trường và sức khoẻ người tiêu dùng. EU trợ cấp sản xuất nông nghiệp trong khối, đồng thời đánh thuếcao và áp dụng hạn ngạch đối với một số nông sản nhập khẩu như gạo, đường, muối, sắn lát. Các yêu cầu về xuất xứ, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm .... luôn được thực hiện nghiêm ngặt. EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá dưới hình thức đẩy mạnh tự do hoá thương mại, giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá XNK và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch GPS. Những điều kiện thuận lợi này sẽ mở ra nhiều triển vọng xuất khẩu vào thị trường EU cho các doanh nghiệp Việt Nam. 3.3.1 Những lợi thế - Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy da hay cơ khí, điện tử lắp ráp... thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất thấp, do đó nhu cầu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều. Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc sâu bệnh và các loại hoá chất, xăng dầu ...) chỉ chiếm từ 15 đến 20% giá trị xuất khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đ• tạo ra từ 80 đến 85% thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với nhân hạt điều xuất khẩu là khoảng 27% và 73%. Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất, kinh doanh những mặt hàng tiêu tốn ngoại tệ. - Thứ hai: Ngành nông nghiệp là ngành sử dụng nhiều lao động vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các nước khác trong khu vực, phổ biến với mức1-1,2 USD/ngày công lao động như trong sản xuất lúa, cà phê. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự phát triển kinh tế - x• hội của đất nước và thế giới. - Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho việ phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp cải, tỏi, khoai tây ... Trong khi cũng vào thời gian này ở cả vùng Viễn Đông của Liêng Bang Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể trồng trọt được gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất và tính cần cù lao động của người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả đó. - Thứ tư: Một số ít nông sản được các nước phát triển ở châu âu; Bắc Mỹ ưa chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc màu, đồi núi trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh, nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng mở rộng sản xuất. - Thứ năm: Các nước Đông âu, SNG và Trung Quốc vốn là thị trường truyền thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt hàng nông sản của Việt Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân và doanh nghiệp Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường tiêu thụ mà bấy lâu nay nước ta đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả. - Thứ sáu: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập với giá cao hơn giá thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do vậy mở cửa hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu mặt hàng này rẻ hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của nước ta giảm xuống một lượng đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh. - Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu. 2.3.3 Bên cạnh đó còn có những bất lợi 1. Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định. Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông sản Việt Nam thấp hơn các nước khác. 2. Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả, cây lương thực, cây rau Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-40%. 3. So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Ví dụ: Do công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là 40000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc. 4. Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất - chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một cách vững chắc để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. 5. Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản mà phần lớn chúng đều tiềm ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như diện tích có hạn, năng suất có hạn, khả năng khai thác có hạn và khả năng cạnh tranh ngày càng giảm dần. 6.Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa thông thoáng và bảo thủ để làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm xuất nhập khẩu. Do vậy, lợi thế tiềm năng không thể phát huy hết được. 7.Trong quá trình tự do hoá thương mại, một số doanh nghiệp kinh doanh hàng nông, lâm, thuỷ sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị phá sản theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp nhận một cách tự nhiên, bình thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị trường. Một số mặt hàng nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm dần hoặc mất thị trường tiêu thụ ngay trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải tiếp nhận nó như một việc bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với tất cả các nước khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và chính trị. Những bất lợi phân tích trên đây phần lớn do nguyên nhân chủ quan gây ra nên có thể khắc phục được trong tương lai gần nếu chúng ta có quyết tâm và có các giải pháp kịp thời, đúng đắn. Nếu khắc phục tốt thì những bất lợi này có thể trở thành các lợi thế tiềm ẩn của hàng hoá nông sản xuất khẩu của nước ta nói riêng và cho tất cả các loại nông sản phẩm khác nói chung trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu. Chương 4: Giải pháp thúc đẩy, xuất khẩu hàng nông sảnViệt Nam vào thị trường EU Một trong những mục tiêu của chiếm lược của ngành nông nghiệp Việt Nam là đạt kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản từ 6 đến 7 tỷ USD vào năm 2010, trong đó, thị trường EU chiếm tỷ trọng khoảng 30%. Hiện nay thị trường EU mới chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có kế hoạch nâng tỷ lệ này lên 30% với các mặt hàng chủ lực như cao su, cà phê, chè, rau quả, hạt có dầu ... Tuy nhiên muôn đạt hiệu quả cao, ngoài việc tăng kim ngạch xuất khẩu, trong thời gian tới, việc làm cấp bách là phải làm cho hàng nông sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh tại thị trường EU. Muốn làm được việc đó, cần phải có những biện pháp phối hợp đồng bộ giữa người sản xuất, chế biến, xuất khẩu cùng các Bộ ngành chức năng có liên quan. Một số giải pháp cơ bản được đề xuất: 4.1 Về phía Nhà nước 4.1.1 Định hướng chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu Lâu nay, sản xuất nông nghiệp Việt Nam chủ yếu phát triển theo bề rộng trên cơ sở khai thác các khả năng sẵn có mặt số lượng đựơc coi trọng hơn mặt chất lượng. Đó chính là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nông sản Việt Nam chưa đáp ứng tốt nhu cầu của các thị trường khác nhau, hiệu quả xuất khẩu thấp và người sản xuất gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hoá. Việc hình thành một chiến lược phát triển có luận cứ khoa học đựoc coi là điều kiện tiền đề để áp dụng các thành tựu tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiêu quả xuất khẩu nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chiến lược phát triển nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường phải xuất phát từ nhu cầu cụ thể của thị trường, bảo đảm khả năng đáp ứng tốt nhu cầu thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí. Điều này hoàn toàn trái với tư duy kiểu cũ trong xây dựng chiến lược: dựa vào cơ sở khả năng để hoạch định phương hướng sản xuất. Trong quá trình hoạch định chiến lược phát triển nông nghiệp, phải coi trọng công tác dự báo nhu cầu trung hạn và dài hạn theo từng loại nông sản và theo từng khu vực thị trường để vừa có cơ sở định hướng phát triển sản xuất, vừa có chính sách thích ứng đảm bảo khả năng xâm nhập thị trường và củng cố vị thế của hàng hoá trên từng thị trường cụ thể. Chiến lược phát triển nông nghiệp phải hướng tới hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung nhằm tạo điều kiện đầu tư ứng dụng các thành tự mới của khoa học và công nghệ , nâng cao chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá. Chiến lược này phải được sử dụng như một trong những công cụ trọng yếu để Nhà nước định hướng phát triển sinh học và xây dựng các cơ chế chính sách thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư theo định hướng đó. Bên cạnh đó cần hoàn thiện hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa cho xuất khẩu. Rà soát lại hệ thống, điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa rõ rang, trước hết là Luật thương mại, Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài. 4.1.2. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ Nâng cao trình độ khoa học và công nghệ là tạo điều kiện cơ bản làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường. Sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp trong những năm qua có phần đóng góp quan trọng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học. Để khoa học và công nghệ góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong những năm trước mắt cần chú trọng tập trung nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ cao vào việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, khai thác các lợi thế của từng vùng sinh thái vừa đảm bảo phát triển bền vững, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của nông sản, tăng giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích . Với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi, cần chú ý đổi mới công nghệ đồng bộ ở các khâu trước, trong và sau sản xuất theo hướng hiện đại. Đẩy mạnh việc phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp bằng việc sử dụng các giống cây trồng và vật nuôi mới có năng suất, chất lượng cao đảm bảo những tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm nghiêm ngặt nhất theo yêu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Cùng với đó, cần hết sức coi trọng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất, năng cao hiệu quả sản xuất, đáp ứng tốt yêu cầu của người tiêu dùng. Ngoài việc hiện đại hoá kỹ thuật phơi sấy cần chú trọng nghiên cứu các phương pháp bảo quản, đảm bảo đưa đến người tiêu dùng những nông sản tươi sống hấp dẫn cảm quan bằng sắc màu, hương vị và bảo đảm tuyệt đối vệ sinh an toàn thực phẩm. 4.1.3. Phát triển công nghiệp chế biến nông sản Phát triển công nghiệp chế biến là cách nâng cao giá trị gia tăng của nông sản và thu hẹp tình trạng xuất khẩu sản phẩm thô, đồng thời tạo nên thị trường nội địa to lớn và ổn định cho sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, tỷ trọng nông sản chế biến trong tổng sản lượng còn rất thấp. Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề trong đó chủ yếu là: - Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu. Từ đó tập trung đầu tư thâm canh, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu. - Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gần với vùng nguyên liệu. Có những chính sách ưu đ•i kích thích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu. Thực hiện song song hai hướng: Đầu tư đổi mới hiện đại hoá thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp chế biến nông sản hiện có; đầu tư xây dựng các doanh nghiệp chế biến mới với trình độ công nghệ hiện đại. - Thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất nguyên liệu và chủ thể chế biến nguyên liệu nông sản. Vấn đề quan trọng là đề cao trách nhiệm và sự hợp tác của các bên trong việc thực hiện điều đ• cam kết. 4.1.4. Các giải pháp thị trường và hỗ trợ xuất khẩu - Trợ giúp nâng cao năng lực thị trường cho các chủ thể sản xuất nông sản. Chỉ khi nào bản thân người sản xuất hàng hoá có đầy đủ thông tin hiểu biết về thị trường và các quan hệ thị trường thì họ mới biết cách điều chỉnh sản xuất của mình theo yêu cầu của thị trường. Đây chính là mặt yếu của những người sản xuất hàng hoá ở nông thôn hiện nay. Do vậy, họ dễ bị điều tiết một cách tự phát bởi các quan hệ thị trường, dễ bị thua thiệt trong hành xử trên thị trường. Công tác khuyến nông, khuyến thương cần đặc biệt quan tâm đến việc cung cấp những kiến thức cơ bản về thị trường và nâng cao năng lực thị trường của các chủ thể sản xuất hàng hoá ở nông thôn. - Trợ giúp các chủ thể sản xuất nông sản xây dựng thương hiệu hàng hoá, trước hết với những cây, con đặc sản ở từng vùng . Đây vừa là cách thức thâm nhập và củng cố vị thế của hàng hoá trên thị trường quốc tế, vừa là cách thức hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của người sản xuất trong cạnh tranh quốc tế. - Tạo điều kiện công nghiệp các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia trực tiếp vào việc tìm kiếm thị trường, khách hàng và tổ chức sự phối hợp hành động giữa các chủ thể ấy trong việc xử lý các tình huống khác nhau trên cùng một thị trường và cùng một loại hàng hoá. - Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại nông sản thông qua việc tham gia hội chợ triển l•m trong và ngoài nước, quảng bá hàng hoá và doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, tiến tới thành lập các trung tâm giao dịch nông sản ở các vùng sản xuất hàng hoá tập trung ... - Nhanh chóng xây dựng bộ quy trình VietGAP: muốn tham gia WTO thành công, có thể đi vào thị trường thế giới thì VN phải chứng tỏ khả năng cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về ATVSTP theo tiêu chuẩn GAP (Good Agricultural Practice - nông nghiệp an toàn). Các nước trong WTO đều đặt ra những yêu cầu riêng về ATVSTP như EU có EuroGAP, Australia có Fresh care ... không chỉ đảm bảo sức khoẻ người tiêu dùng còn là rào cản kỹ thuật mà các nước sử dụng để hạn chế mặt hàng nhập khẩu nào đó. Vì vậy, bên cạnh việc “trông giỏ” để “bỏ thóc” nhằm định vị lại cây trồng chủ lực và đáp ứng cho được những yêu cầu kỹ thuật đặt ra của mỗi quốc gia nhập khẩu nông sản, Việt Nam cầm tham khảo bộ AseanGAP (quy trình GAP chính thức của các nước thành việc Asean, vừa công bố tháng 11/2006) và các yêu cầu của bộ EuroGAP để nhanh chóng xây dựng bộ quy trình VietGAP. Từ đó có chương trình tập huấn tập trung cho bà con và xem đây là hình thức “trợ cấp” của Nhà nước giúp nông dân tham gia vào cuộc chơi WTO một cách hợp lệ, lúc đó mới nói đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu nông sản. Điều quan trọng không kém, bộ VietGAP cũng phải được sử dụng như là một “rào cản” bảo vệ nông sản trong nước, buộc hàng nông sản các nước nhập khẩu vào Việt Nam cũng phải đáp ứng những quy định này. 4.1.5. Liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản So với một số nước Đông Nam á, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và cơ cấu sản xuất nông nghiệp khá tương đồng, song các nước này lại có lợi thế hơn chúng ta ở trình độ khoa học công nghệ và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện đó, để đảm bảo hiệu quả của sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, cần coi trọng việc mở rộng quan hệ liên kết quốc tế trong cả sản xuất và xuất khẩu. Quan hệ liên kết này có thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau : - Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có kha năng cạnh tranh cao; - Phối hợp xây dựng hệ thống kiểm dịch động thực vật xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế; - Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và nông thôn. - Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực trong hiện thực hoạt động xuất khẩu nông sản; - Hình thành các hiệp hội theo nganh hàng để phối hợp hành động trên thị trường quốc tế. 4.1.6. Định vị lại cây trồng chủ lực Việc tổ chức lại sản xuất là yêu cầu bức bách, không thể phát triển tự phát, hết cây non này đến cây non khác với điệp khúc “trồng, chặt”. Đến lúc phải tính toán lại lợi thế so sánh, lợi nhuận thực sự mang lại cho nông dân để định vị lại cây trồng chủ lực và có các bước đi phù hợp, không thể chạy theo số lượng m•i. Trong sân chơi WTO, rau quả là mặt hàng giao dịch lớn nhất, với gần 103 tỷ USD, nhưng xuất khẩu rau quả VN những năm qua rất ì ạch, bị phụ thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc, chưa thể hiện đúng tiềm năng; trong khi lúa gạo, cà phê, cao su giao dịch nhỏ hơn rất nhiều, không quá 10 tỷ USD/ năm cho mỗi loại. Những mặt hàng nông sản khác như trà, điều nhân, hồ tiêu lại nhỏ hơn, khoảng 3 tỷ USD/ năm. Nhìn lại cơ cấu, cây lúa vẫn còn” độc canh” với khoảng 7 triệu ha gieo trồng hàng năm(chiếm 74% diện tích đất nông nghiệp), trên 1 triệu ha cao su, trà, cà phê và 1,4 triệu ha trồng cây ăn trái, rau quả và hoa (chiếm 15% diện tích). Dù là cây cung cấp lương thực cho mọi người, nhưng giá trị lợi nhuận mang lại trên đơn vị diên tích lại kém nhất, nên nông dân trồng lúa có thu nhâp thấp nhất. Trong khi đó, mức đầu tư của nhà nước về con người, công tác nghiên cứu, bảo dưỡng đất đai và kĩ năng lao động cho các loại cây khác kém xa cây lúa. Về mặt kinh tế và hiệu quả sử dụng đất, việc định vị cây trồng và quy hoạch sản xuất nông nghiệp như vậy chưa hợp lí. 4.2. Về phía doanh nghiệp và nhà sản xuất 4.2.1. Đầu tư xây dựng thương hiệu Muốn hàng nông sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh tại thị trường EU, các doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư cho việc xây dựng thương hiệu nông sản, coi trọng đăng ký thương hiệu, thiết kế nh•n mác và mẫu m•, bao bì cho sản phẩm, liên kết với người sản xuất nguyên liệu đăng ký xuất xứ hàng hoá, đảm bảo các chứng chỉ cần thiết khi xuất khẩu vào thị trường EU. Thương hiệu không chỉ là của doanh nghiệp mà còn là của cả nhà nông. Cần liên kết với nông dân, trong đó nông dân có trách nhiệm đảm bảo chất lượng và được chung chia lợi nhuận từ doanh nghiệp. Đối với rau quả, đây là giải pháp có tính quyết định đến việc tiêu thụ và xuất khẩu trái cây tươi. Đối với cà phê nhân, việc liên kết giữa cơ sở chế biến với nông dân sẽ tăng thêm thu nhập cho cả hai, nhờ tăng sản lượng và chất lượng cà phê, đồng thời còn đảm bảo sự phát triển hợp với tự nhiên và bền vững hơn của cây cà phê. Sự liên kết các doanh nghiệp để điều tiết giá mua, giá bán hợp lý, chia sẻ thông tin thị trường sẽ đảm bảo hiệu quả ổn định cho cả nông dân và doanh nghiệp. Trong đó các nhà máy, các công ty lớn có thể sử dụng thương hiệu của mình để tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị nhỏ trên cơ sở kiểm soát công nghệ, chất lượng sản phẩm, đào tạo và hướng dẫn họ sản xuất để tạo ra nguồn hàng hoá đồng nhất, ổn định. 4.2.2. Tìm hiểu luật pháp và các tiêu chuẩn quốc tế Để xuất khẩu thành công vào thị trường EU, các doanh nghiệp phải quan tâm đến một số luật thương mại quốc tế có liên quan như các hiệp định WTO, các hiệp định khu vực và song phương trong đó có các hiệp định ký với các nước ASEAN, các luật về thâm nhập thị trường do EU ban hành, và của từng nước thành viên; các quy định về thị trường và sản phẩm do đối tác yêu cầu. Ngoài ra, các quy định pháp lý và phi luật về thâm nhập thị trường EU gồm các quy định về thuế quan, các luật của EU về thâm nhập thị trường, các đòi hỏi phi luật của đối tác thương mại về thâm nhập thị trường. Các quy định về thuế như thuế nhập khẩu: 4% trở xuống với hang công nghiệp, trên dưới 10% đối với hàng nông sản (áp dụng với giá nhập khẩu tối thiểu)... và các thuế khác như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt đánh trên các sản phẩm như rượu, bia, thuốc lá.... ở mỗi nước. Các quy định về rào cản hạn ngạch và thuế theo hạn ngạch (trong đó hạn ngạch cho hàng dệt may đ• b•i bỏ từ tháng 1/2005 và hạn ngạch cho nông sản cũng sẽ phải b•i bỏ), EU có 87 loại thuế theo hạn ngạch. Quy định về giấy phép nhập khẩu và các chất cấm nhập khẩu. Các quy định pháp lý về thâm nhập thị trường của EU như: Quy định về sức khoẻ, an toàn đối với các sản phẩm công nghiệp phi thực phẩm, đối với thực phẩm, nông nghiệp hữu cơ... Quy định về môi trường đối với những giải pháp bắt buộc nhằm giảm thiểu chất thải bao bì và tái chế bao bì, EU có chỉ thị về hạn chế các chất nguy hiểm. KẾT LUẬN Xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần được khai thác, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu qua của nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện. Nền nông nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hoà nhập vào xu thế chung của nông nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy nhêin tiến trình này về mức độ và hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của phía Việt Nam, mà còn phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hoá nông sản thế giới. Trong định hướng phát triển nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến đâu, không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi thế cạnh tranh của nông sản hàng hoá Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi trong chiến lược phát triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu của Việt Nam, trước hết có thể tập trung vào các mặt hàng nông sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất. MỤC LỤC DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình chính sách kinh tế đối ngoại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4749.doc
Tài liệu liên quan