Đề tài Thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng thuốc lá và bia rượu nhập khẩu

Các hình thức vi phạm về thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt của các mặt hàng thuốc là và bia rượu nhập khẩu này thì vô cùng đa dạng. Các hình thức đó có thể là khai man thuế, trốn thuế, hay nhập lậu các mặt hàng trên , có thể do người nộp thuế cố tình vi phạm, hoặc do sai sót của cơ quan hải quan, hoặc do những hành vi cấu kết của người nộp thuế và các công chức hải quan Tất cả các hành vi vi phạm pháp luật về thuế đó đều bị xử phạt theo mức độ vi phạm. Đối tượng nộp thuế vi phạm Luật thuế TTĐB bị xử lý như sau: - Không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký kê khai nộp thuế, quyết toán thuế, kê khai lập sổ kế toán và giữ hoá đơn, chứng từ liên quan đến việc tính thuế, nộp thuế thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. - Nộp chậm tiền thuế hoặc tiền phạt ghi trong thông báo thuế, lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế hoặc tiền phạt theo Luật định, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp. - Khai man, trốn thuế thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế theo quy định của Luật thuế TTĐB, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị phạt tiền từ 1 đến 5 lần số tiền thuế gian lận. trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế mà còn có hành vi tiếp tục vi phạm nghiêm trọng khác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. - Không nộp thuế, nộp phạt sẽ bị xử lý như sau: + Trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế tại ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng để nộp thuế, nộp phạt. +Ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gửi của đối tượng nộp thuế để nộp thuế, nộp phạt vào ngân sách nhà nước theo quyết định xử lý về thuế của cơ quan thuế hoặc cơ quan có thẩm quyền trước khi thu nợ.

doc52 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng thuốc lá và bia rượu nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố 156/2005/NĐ-CP ngày 16/12/2005 của Chính phủ sửa đổi bổ sung các Nghị định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng; 9. Thông tư số 84/2004/TT-BTC ngày 18/8/2004 sửa đổi, bổ sung thông tư số 120/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng. 10, Thông tư số 32/2007/TT-BTC ngày 09/04/2007 của Bộ tài chính Hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10/12/2003, Nghị định số 148/2004/NĐ-CP ngày 23/7/2004 và Nghị định số 156/2005/NĐ-Cp ngày 15/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Luật sửa đổ, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng. 2.1.2 Các văn bản quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt 1. Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt số 05/1998/QH 10 ban hành ngày 20/05/1998. 2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thị đặc biệt số 08/2003/QH 11 ban hành ngày 17/6/2003. 3. Luật sửa đổi sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế giá trị gia tăng số 57/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005. 4. Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 04/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 05/1998/QH10 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 08/2003/QH11. 5. Nghị định số 156/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ sửa đổi bổ sung các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Luật thuế tiêu thụ đặc biệt. 6. Thông tư số 119/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ tài chính Hướng dẫn thi hành Nghị định số 149/2003/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết thi ahành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 05/1998/QH10 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 08/2003/QH11. 7. Thông tư số 18/2005/TT-BTC ngày 8/3/2005 của Bộ Tài chính sửa đổi bổ sung một số điểm của thông tư số 119/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 14/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 05/1998/QH10 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số o8/2003/QH11. 8. Thông tư số 115/TT-BTC ngày 16/12/2005/ của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 156/2005/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi bố sung các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng. 2.2 Chính sách thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng thuốc lá và bia, rượu nhập khẩu vào Việt Nam. 2.2.1 Đối với mặt hàng thuốc lá nhập khẩu. Nhìn chung đây là mặt hàng không được nhà nước khuyến khích nên phải chịu điều tiết về thuế rất cao. Cụ thể như sau: - Thuế giá trị gia tăng đối vơí sản xuất và lưu thông thuốc lá là 10%. : Hút thuốc lá không những mang lại tác hại đối với sức khoẻ con người mà còn gây ra những tổn thất lớn về kinh tế cho gia đình và xã hội. Ngày 30 - 12, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Công nghiệp tổ chức hội nghị đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh thuốc lá trên toàn quốc và đưa ra phương hướng nhằm giảm dần số lượng các đơn vị, cá nhân kinh doanh và tiêu thụ thuốc lá. Theo PGS. TS Bạch Thị Minh Huyền- Phó Vụ trưởng vụ Chính sách thuế, để hạn chế hút thuốc lá, Chính phủ ở nhiều nước đã phải sử dụng rất nhiều các giải pháp kinh tế và hành chính khác nhau. Trong đó, hình thức quản lý thông qua thuế có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm góp phần tăng giá cả, giảm nhu cầu dùng thuốc lá, tăng thu cho ngân sách nhà nước, để ra một khoản chi cho các dịch vụ y tế như phòng chống tác hại của thuốc lá và chữa các bệnh do khói thuốc gây ra. Tại Việt Nam, do sớm nhận được những tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ con người và nền kinh tế của từng gia đình và xã hội, ngay từ năm 2000 Chính phủ đã ban hành chính sách quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá trong giai đoạn 2000 - 2010 với mục tiêu chung: Giảm tỷ lệ nam giới hút thuốc lá từ 50% xuống còn 20%, nữ: 3,4% xuống dưới 2%, thanh thiếu niên (từ 15- 24 tuổi): 26% xuống 7%; bảo đảm quyền của những người không hút thuốc lá được sống trong bầu không khí không có khói thuốc. Để đạt được kế hoạch đề ra, một loạt biện pháp đã và đang được Chính phủ thực hiện như: ban hành quy định về chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp sản xuất kinh doanh ngành thuốc lá, dán tem thuốc lá sản xuất trong nước, tăng cường hoạt động phòng chống tác hại thuốc lá trong ngành y tế và quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất và lưu thông thuốc lá. Nhà nước điều tiết giá cả thuốc lá, chống bán phá giá, cấm quảng cáo thuốc lá và khuyến mại, tài trợ thuốc lá dưới mọi hình thức. Gần đây nhất, ngày 8 - 8 - 2003, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành quyết định số   166/2003/QĐ-TTg về việc ký công ước khung của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) về kiểm soát thuốc lá. Điều này thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ Việt Nam trong việc phòng và chống tác hại thuốc lá. Mặc dù thuốc lá không phải là ngành công nghiệp cần khuyến khích nhưng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước của một bộ phận người tiêu dùng, các công cụ chính sách về đầu tư, tín dụng được áp dụng chủ yếu chỉ để góp phần giải quyết việc làm cho người nông dân ở một số vùng trồng cây nguyên liệu thuốc lá. Hiện nay thuốc lá Việt Nam bị xếp vào một trong những hàng hoá đặc biệt, phải chịu điều tiết về thuế rất cao. Cụ thể, đối vơí nguyên liệu dùng cho sản xuất thuốc lá: Nhà nước thu thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với cơ sở, hộ gia đình, cá nhân nông dân trồng thuốc lá nguyên liệu. Kinh doanh thuốc lá phải nộp thuế GTGT 10% trên giá bán, sản phẩm thuốc lá phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt từ 25- 65%. Cơ sở sản xuất thuốc lá phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 32% trên tổng thu nhập chịu thuế hàng năm. Đến thời điểm này, việc sản xuất thuốc lá không đầu lọc chịu thuế tiêu thụ đặc biệt   25% chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp, khoảng 4- 5% tổng sản lượng thuốc lá được sản xuất ra. Ngoài ra thuốc lá được sản xuất từ nguyên liệu nhập ngoại chiếm gần 50% trong tổng số sản lượng thuốc lá có đầu lọc chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ 45- 65%. Vì vậy tính bình quân thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá Việt Nam chiếm khoảng 55% giá bán, nếu cộng thêm 10% thuế giá trị gia tăng của thuốc lá thì mức thuế hiện nay của Việt Nam cũng đã đạt tới 65% (thuế gián thu). So với mức thuế thuốc lá của các nước trong khu vực như Thái Lan 62%, Philipin 63%, Trung Quốc 57% thì mức thuế thuốc lá của Việt Nam cao hơn cả. Tuy nhiên, theo các đại biểu, để giảm tiêu thụ thuốc lá trong những năm tới đạt kế hoạch đề ra, biện pháp về thuế vẫn cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng đánh thuế cao vào sản phẩm thuốc lá có độ độc hại lớn. Cần thực hiện nguyên tắc đánh thuế vào thuốc lá không phân biệt thuốc lá được sản xuất từ nguyên liệu trong nước hay nhập khẩu từ nước ngoài và đơn giản hoá mức thuế suất để dễ thực hiện. Lộ trình điều chỉnh chính sách thuế đối với thuốc lá   có thể được áp dụng như sau: từ ngày 1/1/2004-2006, sản phẩm thuốc lá vừa phải nộp thuế giá trị gia tăng vừa phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất (hiện nay mới chỉ phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt). Thuế giá trị gia tăng đối vơí sản xuất và lưu thông thuốc lá là 10%. Thuế tiêu thụ đặc biệt giữ ở 3 mức thuế suất : thuốc lá không đầu lọc 25%, thuốc lá có đầu lọc sản xuất từ nguyên liệu trong nước 45%, nhập khẩu 65%. Áp dụng thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu thuốc lá nhập khẩu là 30%, đồng thời thực hiện hạn ngạch thuế quan đối với nguyên liệu này nhằm quản lý chặt chẽ việc sản xuất thuốc lá. Từ năm 2007- 2010 thuế thuốc lá sẽ điều chỉnh tăng dần, cụ thể vẫn giữ mức thuế GTGT đối với sản xuất và lưu thông thuốc lá là 10%. Nhưng thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ áp dụng một mức thuế thống nhất đến 2010 có thể đạt 60%, không phân biệt thuốc lá được sản xuất bằng nguyên liệu trong nước hay nhập khẩu, không phân biệt thuốc lá có đầu lọc hay không đầu lọc. Thuế nhập khẩu nguyên liệu thuốc lá nâng dần từ 30% lên 40%. Tiếp tục thực hiện hạn ngạch thuế quan đối với nguyên liệu thuốc lá nhập khẩu. Như vậy tỷ trọng của thuế   so với giá thuốc lá sẽ chiếm khoảng 2/3 như các nước trên thế giới. Do thuốc lá là mặt hàng gây nhiều độc hại cho sức khoẻ và môi trường, cho nên từ năm 2010 trở đi, đưa loại hàng này vào danh mục loại trừ hoàn toàn, không thực hiện ưu đãi giảm thuế quan khi thực hiện tự do hoá thương mại. Đối với thuốc lá nhập khẩu, có thể đánh thuế nhập khẩu với mức cao để hạn chế tiêu dùng thuốc lá trong nước. Bên cạnh các biện pháp trên, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh hơn nữa giáo dục, tuyên truyền và tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ mọi người và cộng đồng. Cấm hút thuốc lá nơi công cộng và có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi vi phạm quy định này. Đồng thời khuyến khích nghiên cứu công nghệ   sản xuất thuốc lá mới hạn chế đến mức thấp nhất gây độc hại cho người tiêu dùng để vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng   của xã hội và tăng thu ngân sách, vừa bảo vệ được sức khoẻ mọi người, giải quyết được vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động và phát triển sản xuất lâu dài. - Hiện tại, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá của Việt Nam ở mức 65% đối với loại thuốc lá điếu có đầu lọc, sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu nhập khẩu và xì gà . Theo đề nghị của tổ chức Y tế Thế giới WHO, Việt Nam cần nâng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hang thuốc lá lên mức 66% so với giá bán lẻ.Mục đích của việc tăng thuế theo kiến nghị này là nhằm góp phần hạn chế tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên ông Pháp cho biết Bộ Tài chính chưa nhận được kiến nghị chính thức của WHO. Nhưng trong trường hợp giải quyết kiến nghị này thì khả năng tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá là rất khó. Vấn đề không chỉ liên quan đến tác hại của thuốc lá mà là quyền lợi của các doanh nghiệp trong ngành này, là đời sống của khoảng 20 vạn nông dân đang có thu nhập chính từ trồng thuốc lá nguyên liệu; mặt khác cũng phải tính đến sự tác động đến nguồn thu của ngân sách nhà nước, ông Pháp nói. Hiện tại, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá của Việt Nam ở mức 65% đối với loại thuốc lá điếu có đầu lọc, sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu nhập khẩu và xì gà; thuốc lá điếu có đầu lọc sản xuất chủ yếu bằng nguyên liệu sản xuất trong nước có mức thuế 45% và loại thuốc lá điếu không đầu lọc là 25%. Trong khi đó, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá ở một số nước trong khu vực ở mức cao hơn: Thái Lan là 75%, Singapore là 66% Đối với rượu bia nhập khẩu - Bộ Tài chính dự kiến 2 phương án áp thuế suất chung với cả bia tươi và bia hơi. +Phương án 1: Năm 2006-2007 là 40%, từ năm 2008 thuế suất 50%. Trong 2 năm tới, khi áp dụng thuế suất 40%, số thu thuế từ bia tươi giảm khoảng 8 tỉ đồng/năm, nhưng số thu từ bia hơi tăng khoảng 75 tỉ đồng/năm. Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng dự báo, 5% sản lượng bia chai, bia lon sẽ chuyển sang bia tươi, làm giảm thu khoảng 72,5 tỉ đồng nhưng nếu tính chung thì ngân sách vẫn không bị giảm. Từ năm 2008, áp dụng thuế suất 50%, tính chung ngân sách tăng thu khoảng 120 tỉ đồng. +Phương án 2: Trong hai năm 2006-2007, áp dụng thuế suất 30%, từ năm 2008 là 40%. Theo đó, 2 năm tới, số thu chung giảm 215 tỉ đồng; từ năm 2008, ngân sách không bị ảnh hưởng. - Theo Uỷ ban Tài chính - ngân sách của Quốc hội, luật quy định thuế suất đối với rượu từ 20 độ trở lên là 50% là để phù hợp với cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết khi gia nhập WTO. Như vậy, việc tăng thuế suất đối với một số loại rượu cũng là cần thiết, góp phần điều tiết tiêu dùng hợp lý. Về thuế suất đối với bia, Luật hiện hành quy định thuế suất áp dụng đối với bia hơi, bia tươi từ năm 2006-2007 là 30%, từ năm 2008 là 40%. Uỷ ban Tài chính - Ngân sách tán thành với quy định của Dự thảo luật về việc không phân biệt bia hơi, bia tươi với bia lon, bia chai mà quy định mức thuế suất chung đối với bia là 45% từ 2010 đến 2012; từ 2013 trở đi là 50% nhằm thực hiện cam kết khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - Khi Hiệp định Tự do thương mại ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA) có hiệu lực, hoạt động thương mại giữa các quốc gia trong khối sẽ được mở rộng hơn hiện tại. Đến 2022, rượu vang và rượu mạnh của Australia nhập vào Việt Nam được cam kết sẽ giảm 1 lần 9 dòng thuế xuống còn 20% và 2 dòng thuế rượu mạnh là 40%, và rượu vodka sẽ cắt giảm còn 5% vào năm 2020 - Việt Nam đã trở thành thị trường mục tiêu của các nhà sản xuất rượu vang quốc tế, yếu tố này được gia tăng hơn qua việc chính phủ VN đã bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế cho mặt hàng rượu nhập khẩu. Lộ trình này gồm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ 100% xuống 80% vào tháng 1/2004; giai đoan 2 từ 80% xuống 70% vào thời điểm từ tháng 1/2005. Tới thời điểm tháng 1/2005, chúng ta sẽ thấy một thị trường rượu nhập ngoại sôi động, phong phú. 2.3 Tác động của chính sách thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với tình hình nhập khẩu thuốc lá và bia rượu ở nước ta. Nhìn chung đây là những mặt hàng mà nhà nước khá quan tâm nên chịu sự kiểm soát về thuế rất chặt chẽ từ phía Nhà nước. Do đó sự điều tiết chính sách thuế mà cụ thể ở đây là hai loại thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt có tác động to lớn đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và đến tình hình nhập khẩu thuốc lá và bia rượu nói riêng. * Đối với mặt hàng thuốc lá: - Nguyên tắc chung khi nhập khẩu thuốc lá : 1.Thuốc lá điếu, xì gà là các sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hoặc một phần nguyên liệu thuốc lá và được chế biến để hút. 2. Ban hành danh mục thuốc lá điếu, xì gà nhập khẩu theo chế độ doanh nghiệp thương mại nhà nước nhập khẩu tại Phụ lục số 01 kèm theo Thông tư này. 3. Sản phẩm thuốc lá, trong đó có thuốc lá điếu, xì gà là mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng theo Công ước khung về kiểm soát thuốc lá (FCTC) của Tổ chức Y tế thế giới mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Nhà nước thống nhất quản lý việc sản xuất, nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà; kiểm soát việc cung cấp, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm thuốc lá trên thị trường. Chỉ doanh nghiệp thương mại nhà nước được chỉ định mới được phép nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà để kinh doanh trong nước. 4. Việc nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà làm hàng mẫu phục vụ sản xuất không thuộc phạm vi điều chỉnh tại các Mục II, III của Thông tư này và phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Công nghiệp. 5. Việc nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà làm hàng mẫu tham dự hội chợ, triển lãm không thuộc phạm vi điều chỉnh tại các Mục II, III của Thông tư này, không được phép tiêu thụ tại Việt Nam và phải được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Thương mại. 6. Việc nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà để bán trong cửa hàng miễn thuế không thuộc phạm vi điều chỉnh tại các Mục II, III của Thông tư này và được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 21/1998/TT-BTM ngày 24 tháng 12 năm 1998 của Bộ Thương mại hướng dẫn thi hành Quy chế về cửa hàng kinh doanh hàng miễn thuế ban hành kèm theo Quyết định số 205/1998/QĐ-TTg ngày 19 tháng 10 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ. 7. Việc kinh doanh tạm nhập tái xuất, kinh doanh chuyển khẩu thuốc lá điếu, xì gà thực hiện theo các quy định tại Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài. Thủ tục tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu giải quyết trực tiếp tại Hải quan cửa khẩu. - Tổ chức thực hiện và xử lý vi phạm: 1. Bộ trưởng Bộ Thương mại uỷ quyền cho Lãnh đạo Vụ Xuất Nhập khẩu xác nhận Đơn đăng ký nhập khẩu theo chế độ tự động. 2. Sau 03 năm, Liên Bộ Thương mại - Bộ Công nghiệp phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan đánh giá việc thực hiện Thông tư này để xem xét việc gia hạn thời hạn nhập khẩu của Vinataba hoặc bổ sung doanh nghiệp thương mại nhà nước tham gia nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà. 3. Liên Bộ Thương mại - Bộ Công nghiệp sẽ đình chỉ hoặc không gia hạn việc nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà đối với những trường hợp vi phạm các quy định của Thông tư này hoặc các quy định pháp luật liên quan khác. Tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. 4. Hàng quý, doanh nghiệp thương mại nhà nước báo cáo về Bộ Thương mại và Bộ Công nghiệp tình hình nhập khẩu và tiêu thụ thuốc lá điếu, xì gà, trong đó nêu rõ: chủng loại, số lượng, trị giá nhập khẩu, giá bán, mạng lưới bán buôn và bán lẻ thuốc lá nhập khẩu ở thị trường trong nước và dự kiến kế hoạch nhập khẩu trong thời gian tới (theo Phụ lục số 03 kèm theo Thông tư này).Trước ngày 30 tháng 9 hàng năm, doanh nghiệp thương mại nhà nước có báo cáo (thay cho báo cáo quý III) gửi về Bộ Thương mại và Bộ Công nghiệp tình hình nhập khẩu và dự kiến nhập khẩu năm tiếp theo. - Tác dụng của việc tăng thuế rượu bia và thuốc lá 1. Tăng ngân sách khổng lồ cho nhà nước (thuốc là và bia rượu dẫn đầu trong nguồn thu thuế và bỏ xa các nguồn khác nhiều lần).  2. Không hút thuốc thì uống rượu bia cũng ít đi, vì thiếu cặp bài trùng. 3.Các tệ nạn xã hội giảm rõ rệt, ít tình trạng say xỉn đi, tăng thu nhập cho người dân. 4. Với nguồn thu này, ta có thể đầu tư các hạng mục liên quan như giao thông, bệnh viện, các công trình nhằm tăng sức khỏe con người như các hoạt động thể dục thể thao, công trình mà Việt Nam không có đủ ngân sách. 5. Tăng ý thức người dân coi việc hút thuốc và uống bia không còn là mốt để loè nữa, ví dụ thanh niên bắt đầu hút thuốc từ năm cấp 3 để "giằng, ra oai ta đây" với các bạn cùng lứa. Lúc trước, 1 cuộc nhậu chỉ khoảng 200-500.000 là bình thường, nay thuốc là và bia tăng thì 1 cuộc nhậu lên đến 500-1 triệu, gần bằng tháng lương, khi rủ đi nhậu ai cũng từ chối khéo, về nhà sớm hạnh phúc vợ con, và tần suất nhậu cũng giảm hẳn đi, và mỗi lần nhậu thì số bia cũng ít đi, nâng cao sức khoẻ, tham gia nhiều hoạt động thể thao hơn. 6. Môi trường cải thiện mạnh. 7. Việc lấn chiếm lòng lề đường của các quán bia, các hiệu thuốc lá không còn nhiều nữa, vì vốn cao, không lời nhiều, ít người mua như trước và chịu thuế bán cũng tăng, thuốc lậu kiểm tra gắt gao hơn. Còn rất nhiều, rất nhiều cái lợi khác… Nói tóm lại, áp dụng biện pháp này sẽ phát triển đất nước về nhiều mặt vô cùng to lớn. Nếu áp dụng trong vòng 1 năm sẽ thấy rất rõ. Quốc hội cứ mạnh dạn áp dụng. - Một số kết quả đạt được khi thực hiện Luật thuế tiêu thụ đặc biệt: 1. Thuế TTĐB đã góp phần hướng dẫn tiêu dùng xã hội: Kể từ khi áp dụng, thuế TTĐB đã phát huy vai trò góp phần hướng dẫn, tiêu dùng xã hội. Pháp luật về thuế TTĐB quy định đối tượng hàng hoá và dịch vụ chịu thuế chủ yếu là những chủng loại mà Nhà nước không khuyến khích tiêu dùng (thuốc lá, rượu bia) hoặc việc tiêu dùng được tập trung vào những bộ phận có thu nhập cao (như ô tô, chơi gôn) hay những dịch vụ mang tính nhạy cảm về mặt xã hội (kinh doanh vũ trường, mát xa, karaoke, casino...). Quy định này là phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tích cực trong việc hình thành một xu thế tiêu dùng xã hội lành mạnh; Khuyến khích sản xuất và tiêu dùng các mặt hàng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn. 2. Thuế TTĐB góp phần vào việc hội nhập kinh tế quốc tế: Để thực hiện các cam kết hội nhập, việc quy định lộ trình từng bước tăng thuế đối với mặt hàng thuốc lá, bia hơi (2006-2007) có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Một mặt, bảo đảm thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước với hàng nhập khẩu theo đúng các nguyên tắc của WTO. Mặt khác, đã hạn chế những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh mặt hàng thuốc lá, bia hơi khi phải thực hiện các cam kết hội nhập, giúp các doanh nghiệp có thời gian phục hồi và ổn định sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, với việc quy định thống nhất áp dụng một mức thuế suất đối với các mặt hàng thuốc lá, bia hơi, bia tươi đã góp phần vào thành công của quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. 3. Thuế TTĐB góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hóa, dịch vụ: Phải thực hiện các cam kết quốc tế, việc duy trì một số ưu đãi về thuế suất đối với một số mặt hàng như bia hơi, rượu có nồng độ dưới 40 độ cồn, thuốc lá sử dụng nguyên liệu trong nước là chủ yếu đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có thời gian đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước, góp phần đảm bảo việc làm, ổn định thu nhập cho người lao động, tạo cho các doanh nghiệp trong nước có điều kiện để tích luỹ, đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh trước khi bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. 4. Thuế TTĐB góp phần ổn định và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Thuế TTĐB là nguồn thu ổn định của ngân sách sách nhà nước. Tỷ trọng thu ngân sách từ thuế TTĐB trong tổng thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí đã không ngừng tăng trong những năm qua, từ mức 7,89% năm 2003 lên mức 9,49% năm 2007. Trong tổng thu từ thuế TTĐB thì thuế TTĐB thì số thu từ các mặt hàng ô tô, thuốc lá và rượu, bia chiếm tỷ trọng lớn nhất. Dự báo thuế TTĐB tiếp tục là nguồn thu ổn định trong những năm tới của ngân sách nhà nước. 2.4 Những vấn đề còn hạn chế trong việc áp thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng thuốc lá và rượu bia nhập khẩu vào Việt Nam Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) được sửa đổi bổ sung và có hiệu lực từ 1/1/2004. Có thể nói, cùng với các luật thuế khác, hai luật thuế này đã góp phần thúc đẩy sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng, ổn định nguồn thu ngân sách. Tuy nhiên, hai luật này vẫn còn nhiều bất cập, do vậy,cần thiết phải sửa đổi bổ sung nhằm đảm bảo không còn phân biệt đối xử về thuế giữa hàng sản xuất trong nước và hàng NK, đồng thời bảo đảm không còn ảnh hưởng lớn đến sản xuất, kinh doanh và môi trường đầu tư... * Vấn đề cần được quan tâm nhất là khi tăng hai loại thuế này thì sẽ đi đôi với việc gia tăng nhập lậu thuốc lá và bia rượu: - 60% rượu ngoại đang tiêu thụ tại thị trường Việt Nam là rượu giả và nhập lậu, ước tính mỗi năm cũng có khoảng 600 triệu bao thuốc lá nhập lậu vào thị trường… Nằm trong danh mục hàng không được khuyến khích, khi chế tài xử phạt còn nhẹ,  nguy cơ gia tăng tình trạng buôn lậu, hàng giả các mặt hàng nhạy cảm như thuốc lá và rượu đang càng ở mức báo động… Theo Hiệp hội Rượu - Bia và Nước giải khát Việt Nam (VBA), mỗi năm lượng rượu tiêu thụ tại Việt Nam ở mức 462 triệu lít. Trong đó, chủ yếu là rượu dân nấu, rượu sản xuất công nghiệp chỉ chiếm 17,7% (đã bao gồm cả rượu cốt nhập khẩu đóng chai tại Việt Nam). Rượu ngoại được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam chiếm 19 triệu lít, nhưng có tới 60% là rượu giả và nhập lậu. Những người có thâm niên trong lĩnh vực kinh doanh rượu ngoại tiết lộ: riêng tại TP.Hồ Chí Minh, mỗi tháng có khoảng 100.000 chai rượu giả được tiêu thụ, trong đó 3/4 lượng rượu được bán tại các nhà hàng, vũ trường. Ước tính mỗi năm cũng có khoảng 600 triệu bao thuốc lá nhập lậu vào thị trường. Theo Cục Quản lý thị trường (Bộ Công thương), hiện nay thuế suất nhập khẩu rượu và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng thuốc lá đều tăng đang là một trong những yếu tố làm gia tăng nạn buôn lậu đối với 2 mặt hàng này. Nguồn rượu lậu được nhập từ các cửa khẩu Lạng Sơn, Móng Cái về Hà Nội; từ Đông Hà (Quảng Trị), các cửa khẩu phía Tây Nam đưa về tiêu thụ tại TP Hồ Chí Minh. Trong quá trình vận chuyển, các chủ hàng thường sử dụng tem rượu giả sản xuất và nhập lậu từ Trung Quốc với giá từ 1.000 - 2.000 đồng/chiếc. Đối tượng tập kết hàng ở các vùng ven biên giới, sau đó xé nhỏ rồi đưa vào Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, hợp thức hoá bằng các tem rượu giả, tem quay vòng để bày bán tại cửa hàng, nhà hàng, vũ trường. Thủ đoạn sản xuất rượu giả cũng ngày càng tinh vi: pha một số rượu rẻ tiền bán trên thị trường với hương liệu, nước đường nấu lên để tạo màu, tạo mùi đặc biệt, hoặc rút ra 50% rượu thật rồi pha 50% rượu giả vào... Với cách thức sản xuất này, hàng nghìn chai rượu ngoại hiệu Hennessy, Chivas, Johnnie Walker… đã được làm giả. * Trong quá trình thực hiện, Luật thuế TTĐB đã được sửa đổi, bổ sung để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc phát sinh, phù hợp với thực tiễn của nước ta. Tuy nhiên trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam trong những năm tới, Luật thuế TTĐB hiện hành đã bộc lộ một số tồn tại chủ yếu sau đây: 1. Theo quy định hiện hành, xì gà và thuốc lá điếu thuộc đối tượng chịu thuế TTĐB, sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên WTO, dự báo trên thị trường nội địa sẽ xuất hiện một số loại sản phẩm thuốc lá khác như: thuốc lá sợi dùng để hút tẩu và các dạng sản phẩm khác dùng để hút, nhai, ngửi. Đây cũng là các sản phẩm thuốc lá, sử dụng là có hại cho sức khoẻ nên không khuyến khích tiêu dùng. Như vậy, quy định như hiện hành không bao quát được tất cả các loại sản phẩm thuốc lá khác, là những sản phẩm tiêu dùng không có lợi cho sức khoẻ. 2. Về thuế suất: Mức thuế suất đối với các mặt hàng thuộc diện chịu thuế TTĐB thời gian vừa qua là tương đối hợp lý, điều tiết có hiệu quả cho nguồn thu ngân sách, tuy nhiên trước yêu cầu phải thực hiện các cam kết gia nhập WTO thì cần phải có những sửa đổi phù hợp, cụ thể: - Đối với rượu: Luật thuế TTĐB hiện hành quy định: Rượu từ 20 độ đến dưới 40 độ thuế suất 30%; Rượu từ 40 độ trở lên thuế suất 65%. Quy định này thể hiện quan điểm không khuyến khích tiêu dùng đối với mặt hàng rượu nói chung, đặc biệt là rượu mạnh từ 40 độ trở lên là mặt hàng nếu sử dụng nhiều có hại cho sức khoẻ. Tuy nhiên trên thực tế rượu sản xuất trong nước chủ yếu là loại có nông độ cồn từ 20% đến dưới 40%, trong khi đó các loại rượu mạnh nhập khẩu thường có nồng độ cồn trên 40%, do vậy các đối tác nước ngoài cho rằng ta đã phân biệt đối xử thông quy quy định này. Theo cam kết gia nhập WTO, trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập WTO, tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20 độ cồn trở lên sẽ chịu một mức thuế tuyệt đối tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Do vậy, quy định hiện hành về mức thuế suất đối với mặt hàng rượu từ 20 độ trở lên không còn phù hợp với cam kết gia nhập WTO của Việt Nam. - Đối với bia: Luật thuế TTĐB hiện hành quy định bia chai, bia lon: thuế suất 75%; với bia hơi, bia tươi: Năm 2006-2007: thuế suất 30%; từ năm 2008: thuế suất 40%. Thuế suất thuế TTĐB đối với bia hơi là thấp hơn đối với bia chai, bia lon đã được duy trì trong nhiều năm qua, quy định này là phù hợp với hoàn cảnh kinh tế và điều kiện thu nhập của dân cư trong những năm trước đây. Từ năm 2006 đến nay, thuế suất đối với bia hơi tăng dần theo lộ trình (từ 30 % lên 40%), quy định này một mặt thể hiện việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ sở kinh doanh bia hơi, nhất là các cơ sở sản xuất bia quy mô nhỏ có thêm thời gian sắp xếp, tổ chức lại sản xuất để tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm và chuẩn bị tốt hơn khi tham gia vào "sân chơi chung", bình đẳng với các doanh nghiệp khác và các sản phẩm bia khác. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh của kinh tế nước ta trong những năm qua, cần nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm vì sức khoẻ cộng đồng, nên khuyến khích sản xuất các loại đồ uống (trong đó có bia) có chất lượng cao, hạn chế sản xuất, tiêu dùng bia có chất lượng thấp do đó giá rẻ, dễ dẫn đến lạm dụng gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Mặt khác, quy định thuế suất bia như hiện hành là có sự phân biệt theo hình thức bao bì, đóng gói, loại có bao bì (bia chai, bia lon) thì áp dụng thuế suất cao hơn loại không có bao bì (bia hơi, bia tươi) như vậy là chưa bảo đảm sự bình đẳng giữa các sản phẩm bia. Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, đối với mặt hàng bia, trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO sẽ áp dụng một mức thuế suất phần trăm chung đối với bia, không phân biệt hình thức đóng gói, bao bì. Do vậy quy định hiện hành không còn phù hợp với cam kết. 3. Căn cứ tính thuế và giá tính thuế: Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế và thực tế có nhiều biến đổi thì căn cứ quy định gía tính thuế đối với mặt hàng bia đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể như sau Theo quy định của Pháp luật thuế TTĐB hiện hành thì giá tính thuế đối với hàng hóa sản xuất trong nước là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt và chưa có thuế GTGT. Trong đó, đối với mặt hàng bia, giá tính thuế đối với mặt hàng bia chai thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được trừ giá trị vỏ vỏ hộp (lon), giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt được trừ giá trị vỏ hộp (lon) theo mức ấn định cho 1 lít bia (hiện đang được trừ là 3.800 đồng/lít). Với quy định này thì tuy thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt quy định trong Luật đối với loại bia này là 75%, song nếu tính cả giá trị vỏ lon vào giá tính thuế thì mức thuế suất thực tế chỉ là 50%. * Nhìn lại thuế giá trị gia tăng sau những năm thực hiện . Cho đến nay, nhiều quan chức Bộ Tài chính cũng chưa dám khẳng định, Luật Thuế GTGT đã đáp ứng được yêu cầu thúc đẩy phát triển kinh tế như mục tiêu đã đề ra khi xây dựng luật thuế quan trọng này. Không những thế, chính thuế GTGT đang đặt ra những thách thức lớn cho ngành thuế khi mà sang năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã chọn là năm đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thu thuế và hải quan. “Chúng ta đã xây dựng và đưa vào thực hiện một Luật Thuế GTGT không theo một chuẩn mực nào, chưa phù hợp với thực tế và thông lệ chung... nên càng triển khai càng nhiều thắc mắc, gây ra những sửa đổi, chắp vá”, một quan chức Tổng cục Thuế đã phải thừa nhận như vậy. Để chứng minh cho nhận định trên, quan chức Tổng cục Thuế đã đưa ra một ví dụ về sự “chẳng giống ai” là Luật Thuế GTGT đã “ôm đồm” tất cả đối tượng chịu thuế lại, từ những người bán hàng rau, hàng mắm ở chợ cho đến tổng công ty lớn có doanh thu cả nghìn tỷ đồng mỗi năm. “Nếu nhìn ra thế giới, ở những nước thực hiện thuế GTGT, họ đều đặt ra một ngưỡng nhất định khi quy định đối tượng chịu loại thuế này. Chẳng hạn, tại Thái Lan, những đơn vị kinh doanh có doanh thu hàng năm từ 500.000 bạt trở lên mới nằm trong đối tượng chịu thuế GTGT. Còn những đối tượng có doanh thu dưới 500.000 bạt sẽ thuộc đối tượng thu của thuế thu nhập cá nhân”, quan chức Tổng cục Thuế nói. Bất cập tiếp theo của Luật Thuế GTGT là có quá nhiều thuế suất. Theo các chuyên gia tài chính, việc có nhiều mức thuế suất đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho thuế GTGT có nhiều thắc mắc từ phía người nộp thuế. Rất may là thời gian qua, Bộ Tài chính đã nhìn thấy điều này nên đã tìm cách thu gọn các thuế suất thuế GTGT lại chỉ còn 3 mức và đang tiếp tục đưa về thành 1 mức duy nhất. “Tuy nhiên, khả năng quy về còn 1 mức thuế suất thuế GTGT sẽ khó có thể thực hiện trước năm 2007”, một quan chức Bộ Tài chính dự báo. Điều này cũng có nghĩa, thắc mắc về thuế suất thuế GTGT của doanh nghiệp sẽ còn tiếp tục được kéo dài thêm ít nhất là 3 năm nữa. Không chỉ có nhiều mức thuế suất, Luật Thuế GTGT còn “chẳng giống ai” ở chỗ có tới 2 phương pháp tính thuế (phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp) và rất nhiều loại chứng từ hoá đơn. Chẳng hạn, ngoài 2 loại hoá đơn GTGT phục vụ cho 2 hình thức tính thuế thì Bộ Tài chính thời gian qua còn thừa nhận hàng loạt chứng từ khác như bảng kê, giấy biên nhận... cũng có giá trị như hoá đơn thuế GTGT. Hậu quả là, thời gian qua lúc thì Bộ Tài chính quá dễ dãi trong khâu hoàn thuế gây mất nhiều trăm tỷ đồng của ngân sách nhà nước, khi lại quá chặt chẽ gây khó khăn cho cả những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc. Không những thế, các quan chức Tổng cục Thuế cho rằng, các văn bản pháp lý đi kèm để hỗ trợ thực hiện Luật thuế này thời gian qua ban hành không đầy đủ và thiếu rõ ràng. Cụ thể, đó là sự định nghĩa không rõ ràng, giải thích thiếu cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm giữa đối tượng nộp thuế, cơ quan thu thuế và các cơ quan khác có liên quan. Chẳng hạn, xung quanh việc phạt chậm nộp thuế, trường hợp đơn vị kinh doanh không nộp phạt thì sao và ai là người phối hợp cùng cơ quan thuế đi cưỡng chế? Một điều rất đơn giản khi đơn vị chậm nộp thuế và phạt chậm nộp thì các ngân hàng thương mại phải là người có trách nhiệm khấu trừ từ tài khoản của đơn vị đó về cho ngân sách nhà nước. Nhưng vì chưa có một chế tài đủ mạnh để ép buộc ngân hàng thương mại làm điều này nên trên thực tế ngân hàng còn tìm cách che dấu số dư tài khoản của đơn vị chậm nộp thuế và phạt. Cuối cùng, hàng loạt những nguyên nhân khách quan khác như các dịch vụ tài chính, ngân hàng ở Việt Nam hầu như vẫn còn đóng băng, chưa hỗ trợ và đảm bảo cho doanh nghiệp có thể thực hiện một cách hoàn hảo việc tự khai, tự nộp thuế. Ngoài ra, việc hầu hết doanh nghiệp ở Việt Nam hiện chỉ quen với việc chi tiêu trực tiếp bằng tiền mặt cũng làm cho công tác quản lý, thu thuế gặp nhiều khó khăn. “Chỉ có mỗi ngành thuế quyết tâm thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực hành thu thuế thôi thì chưa đủ và cũng khó có thể tránh được việc quản lý thiếu hiệu quả, tiêu cực nảy sinh” * Cách tính thuế mới trong dự thảo Nghị định sửa đổi thuế tiêu thụ đặc biệt mà Bộ Tài chính vừa trình Chính phủ đang gặp phải phản ứng của một số doanh nghiệp sản xuất bia. Họ cho rằng, Bộ đã thiếu thực tế khi đưa ra quy định chung về giá trị vỏ bia lon để áp thuế. Theo dự thảo, từ 1/1/2004, mức thuế tiêu thụ đặc biệt ấn định đối với mặt hàng bia lon là: giá bán/thuế suất (75%) trừ đi giá trị của vỏ là 3.800 đồng/lít. Theo Bộ Tài chính, bia lon đang bị áp thuế tiêu thụ đặc biệt ở mức: giá bán/thuế suất (65%) trừ đi 3.000 đồng/lít. Trên thực tế, giá trị vỏ lon bia hiện tính thấp hơn mức giá mà các nhà sản xuất bia đang phải chịu. Cụ thể, vỏ lon bia sản xuất trong nước hiện có giá 3.500-3.600 đồng/lít, loại nhập khẩu giá tới 4.500 đồng/lít. Để doanh nghiệp không bị thiệt thòi khi nộp thuế, Bộ Tài chính quyết định nâng giá trị vỏ bia lên 3.800 đồng/lít. Cách tính này thấp hơn so với giá lon bia nhập khẩu nhưng đó là giải pháp nhằm khuyến khích các nhà sản xuất hạn chế nhập khẩu, sử dụng vỏ lon trong nước. Giám đốc tài chính Nhà máy bia Đông Nam Á cho biết, mức giá cố định 3.800 đồng/lít đối với vỏ lon quá thấp. Hiện doanh nghiệp này đang phải nhập vỏ lon với giá khoảng 5.000 đồng/lít. "Sở dĩ chúng tôi phải chấp nhận việc nhập vỏ lon là do những nhà sản xuất trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về in, chất lượng... Nếu không việc gì phải nhập ngoại!", bà nói. Giám đốc một doanh nghiệp bia liên doanh khác cho rằng, ngoài việc đưa ra giá trị vỏ lon thấp, thì chi phí về hộp carton đựng bia lon cũng không được Bộ đề cập đến trong biểu thuế tiêu thụ đặc biệt. "Trong khi đó, mỗi một lít bia chúng tôi đang phải chịu thêm 400-800 đồng giá trị của hộp" - ông nói. Nhiều doanh nghiệp liên doanh bia cho rằng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới nếu được áp dụng sẽ làm cho mỗi lít bia tăng khoảng 5% và sẽ làm họ mỗi năm phải nộp thêm vài tỷ tiền thuế. Theo ông Nguyễn Văn Hùng, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Rượu - Bia - Nước giải khát Việt Nam, mức 3.800 đồng/lít mà Bộ Tài chính đưa ra là phù hợp với những doanh nghiệp trong nước, nhưng nó sẽ ảnh hưởng không tốt tới các hãng bia liên doanh. "Điều này có thể sẽ làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng cạnh tranh của mặt hàng này khi hội nhập", ông nói. Theo một quan chức của Bộ Tài chính, ngoài cách tính trên, một phương án khác cũng được Bộ đưa ra là mức thuế tiêu thụ đặc biệt được tính sau khi trừ giá trị thực của vỏ lon mà các cơ sở sản xuất mua vào. Cách này đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp, nhưng nhiều ý kiến cho rằng sẽ không khuyến khích công ty có vốn đầu tư nước ngoài dùng vỏ lon trong nước sản xuất. CHƯƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ THUẾ TIÊU THỤ ĐẶC BIỆT ĐỐI VỚI CÁC MẶT HÀNG THUỐC LÁ VÀ BIA RƯỢU NHẬP KHẨU 3.1 Hoàn thiện các luật thuế Luật thuế GTGT được triển khai thực hiện ở VN đã hơn 5 năm, thời gian này chưa đủ để chúng ta có thể đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện Luật thuế này. Trong điều kiện tình hình kinh tế – xã hội hiện nay của nước ta, cùng với xu hướng cải cách thuế ở các nước trên thế giới, nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế của Luật thuế GTGT hiện hành, chúng ta có thể áp dụng một số biện pháp chủ yếu sau đây:  3.1.1 Đổi mới cơ chế chính sách thuế GTGT:  Về cơ bản, hệ thống cơ chế chính sách thuế GTGT hiện hành là tương đối đầy đủ, ngày càng phù hợp với tình hình thực tế của VN và phần nào phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu yêu cầu và xu hướng hoàn thiện, kiến nghị cần thiết phải đổi mới chính sách thuế GTGT ở nước ta như sau:  * Điều chỉnh đối tượng chịu thuế và không chịu thuế GTGT:   Ở nước ta, Luật thuế GTGT hiện hành vẫn còn qui định đối tượng không chịu thuế còn quá rộng. Do đó, trong thời gian tới, việc điều chỉnh đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế là thật sự cần thiết và kiến nghị điều chỉnh theo hướng sau:  - Một là, đưa hàng hóa là nông, lâm, thủy, hải sản chưa qua chế biến vào đối tượng không chịu thuế GTGT, không phân biệt trực tiếp sản xuất hay kinh doanh thương mại.    - Hai là, vẫn tiếp tục áp dụng không thu thuế GTGT đối với các loại hình dịch vụ liên quan tới tài chính như: tín dụng, quỹ đầu tư, hoạt động kinh doanh chứng khoán… nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường tài chính và đảm bảo phù hợp với thông lệ của các nước trên thế giới. Đối với tất cả các loại hình dịch vụ bảo hiểm bao gồm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh và các loại hình bảo hiểm khác đều thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.  - Ba là, đối với các loại thiết bị, máy móc chuyên dùng thuộc dây chuyền công nghệ, vật tư xây dựng thuộc diện trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu, qua thời gian thực hiện thuế cho thấy việc không đánh thuế GTGT chỉ giải quyết giúp đỡ được nhà đầu tư ở chỗ không phải ứng vốn để trả trước tiền thuế. Về vấn đề này, hoàn toàn chúng ta có thể khắc phục được bằng các giải pháp kỹ thuật mà cơ chế vận hành của thuế GTGT có thể giải quyết được như cho khấu trừ và giải quyết hoàn thuế nhanh cho các nhà đầu tư…. Bởi vậy, cần thiết phải đưa các hàng hóa này vào diện chịu thuế GTGT.  - Bốn là, việc các hàng hóa, dịch vụ khác hiện nay vẫn chưa có tên trong danh sách chịu thuế GTGT như: dịch vụ y tế công cộng; hoạt động văn hóa, xuất bản báo chí, phát thanh, truyền hình; các dịch vụ công ích; dịch vụ quốc phòng an ninh… là chưa thật sự công bằng đối với tất cả các hàng hóa.   - Năm là, cần thiết phải sớm ban hành ngưỡng chịu thuế GTGT, bởi lẽ trình độ quản lý của ngành thuế còn nhiều hạn chế và khả năng chấp hành của một bộ phận lớn người dân có hạn. Các hộ kinh doanh có doanh số hàng năm “nằm” dưới ngưỡng chịu thuế sẽ điều chỉnh sang đối tượng không chịu thuế GTGT và nên áp dụng một loại thuế tương tự như thuế doanh thu trước đây nhưng phải đơn giản hóa tối đa số lượng thuế suất và khi thu nên áp dụng chế độ “khoán” doanh thu.  * Về đối tượng nộp thuế GTGT:  Nhằm thu hẹp đối tượng nộp thuế GTGT, đảm bảo quản lý thuế có hiệu quả, tập trung quản lý thu đối với các doanh nghiệp vừa và lớn, các hộ kinh doanh nếu có mức doanh thu dưới ngưỡng tính thuế thì không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT, áp dụng nộp thuế theo mức ấn định trên doanh thu. Trong thời gian tới, khi sửa đổi Luật thuế GTGT lần sau, kiến nghị bổ sung qui định: hàng hóa do các hộ kinh doanh có doanh số hàng năm dưới ngưỡng chịu thuế (ngành thương nghiệp, dịch vụ là 500 triệu đồng; các ngành còn lại là 300 triệu đồng) được miễn thuế GTGT, không phải tính thuế trên giá bán và không kê khai nộp thuế GTGT. Các đối tượng này sẽ được chuyển sang áp dụng nộp thuế theo mức ấn định theo tỉ lệ % trên doanh thu, với mức thu khoảng 2% trên doanh số. Mức thu này cũng tương đương với mức thuế suất tính trên doanh thu hiện nay của một số nước ở khu vực Châu Á đang áp dụng.  * Về thuế suất:  Hiện nay, chế độ đa thuế suất đang làm méo mó phần nào tác dụng của thuế GTGT, dẫn đến làm hạn chế tác dụng điều tiết vĩ mô của cả hệ thống chính sách thuế đối với nền kinh tế. Thời gian sắp tới, nền kinh tế nước ta đang tiếp tục phục hồi và phát triển, nhằm đảm bảo tính đơn giản, công bằng về thuế, phù hợp với thông lệ của các nước trong khu vực trong điều kiện phải cắt giảm và bãi bỏ một số nguồn thu từ thuế, cho nên cần thiết phải sửa đổi qui định về thuế suất hợp lý hơn, kiến nghị hướng hoàn thiện như sau:  - Tiến dần đến việc áp dụng thống nhất một mức thuế suất khoảng 10% cho tất cả hàng hóa, dịch vụ trừ hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được áp dụng thuế suất 0%.  - Lộ trình áp dụng thuế suất cần thiết phải được thực hiện công khai cho mọi người nộp thuế được biết để có đủ thời gian chuẩn bị nhằm thay đổi chiến lược phát triển kinh doanh phù hợp chính sách thuế suất mới.   Về phương pháp tính thuế:  Nhằm đảm bảo công bằng về thuế, khắc phục những tiêu cực, lợi dụng trong việc ấn định thuế theo phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT. Đồng thời khuyến khích nâng cao trình độ hạch toán kế toán của người nộp thuế, trước hết là việc lập hóa đơn, mở sổ sách kế toán và kê khai nộp thuế GTGT, đề nghị sửa đổi qui định về phương pháp tính thuế như sau:  - Áp dụng thống nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ. Các cơ sở kinh doanh thuộc diện nộp thuế GTGT bắt buộc phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ.  - Chỉ áp dụng khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào có hóa đơn GTGT và thuế GTGT nộp ở khâu nhập khẩu dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT.  Về hoàn thuế:  Nhằm quản lý chặt chẽ việc hoàn thuế, cần thiết phải thu hẹp đối tượng hoàn thuế, chỉ nên áp dụng cơ chế này cho các đối tượng: Các cơ sở kinh doanh hàng xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%; cơ sở có đầu tư tài sản cố định phục vụ sản xuất kinh doanh phát sinh số thuế GTGT đầu vào của tài sản lớn. Đồng thời, qui định rõ hơn và chặt chẽ hơn điều kiện hoàn thuế, thời gian xem xét hoàn thuế phù hợp hơn.  Về kê khai nộp thuế:  Mở rộng việc kê khai thuế tập trung trên nguyên tắc thực hiện kê khai đúng, đủ, nộp kịp thời. Số thuế phải nộp, doanh nghiệp có thể nộp tập trung hoặc cho tính phân bổ theo doanh thu để chuyển nộp về các địa phương nơi có chi nhánh kinh doanh bán hàng tránh biến động nguồn thu ngân sách địa phương.  3.1.2 Đổi mới công tác quản lý thu thuế GTGT:  Bên cạnh việc đổi mới một cách căn bản về nội dung tư tưởng của cơ chế chính sách thuế GTGT, cần thiết chúng ta phải có những biện pháp tổ chức thực hiện. Trong đó cải cách về qui trình nghiệp vụ và thủ tục hành thu là nội dung cốt yếu nhất, đồng thời nó còn là một yêu cầu bức xúc trong tình hình hiện nay, nhằm hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách nhà nước và từ đó nâng cao trình độ quản lý thuế của VN ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực. Đổi mới công tác quản lý thuế cần tập trung các vấn đề chủ yếu sau: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế, thường xuyên và đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra về thuế, đẩy mạnh triển khai ứng dụng công nghệ thông tin vào hầu hết các khâu quản lý thuế, tăng cường công tác quản lý hóa đơn nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm qui định về quản lý, sử dụng hóa đơn và ngày càng nâng cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế...  3.1.3 Cải cách đồng bộ hệ thống thể chế quản lý kinh tế xã hội:    Nhằm thực hiện Luật thuế GTGT một cách có hiệu quả, bên cạnh việc đổi mới cơ chế chính sách, đổi mới công tác quản lý hành thu thì cần thiết phải tiến hành đồng bộ cải cách các lĩnh vực hành chính – kinh tế có liên quan sau:  - Cần sớm sửa đổi Bộ luật hình sự theo hướng tăng mức hình phạt đối với tội danh trốn thuế hoặc giả mạo chứng từ để chiếm đoạt tiền ngân sách nhà nước, bổ sung một số chế tài xử lý hình sự còn thiếu đối với các tội danh mới phát sinh, nhất là tội mua bán hóa đơn, in hóa đơn giả.   - Thực hiện nghiêm chỉnh việc niêm yết giá qui định tại Điều 29 Pháp lệnh giá ngày 8.5.2002, theo đó các tổ chức, cá nhân phải niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ tại cửa hàng, nơi giao dịch mua bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ.   - Vấn đề có tính quyết định nhất là phải có cuộc cải cách lớn về cơ chế quản lý tiền tệ. Bắt buộc các quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ phải thanh toán bằng chuyển khoản, hạn chế đến mức thấp nhất hình thức thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay. Thông qua các tài khoản tại hệ thống ngân hàng, Nhà nước sẽ quản lý được hầu hết các hoạt động kinh tế phát sinh, có như vậy tệ nạn tham nhũng, trốn lậu thuế sẽ không còn cơ hội để tồn tại.    Tóm lại, thuế GTGT là một trong những loại thuế gián thu có phương pháp thu thuế khoa học và tiên tiến nhất hiện nay, đang được nhiều nước trên thế giới áp dụng. Ở VN, trong tương lai, thuế GTGT sẽ trở thành sắc thuế chủ yếu, chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống chính sách thuế (30% tổng thu ngân sách) nhằm bù đắp được nguồn thu thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế theo cam kết quốc tế và góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nước ta phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước theo định hướng phát triển đến năm 2020 và phù hợp với thông lệ quốc tế 3.2 Kiểm soát chặt chẽ việc kê khai tính thuế * Nguyên tắc khai thuế - tính thuế 1. Người nộp thuế có trách nhiệm tự tính số tiền thuế phải nộp ngân sách nhà nước do mình kê khai, trừ trường hợp cơ quan Hải quan ấn định thuế theo quy định tại Điều 39 của Luật Quản lý thuế; Điều 25, Điều 26 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chíh phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế. 2. Người nộp thuế phải khai chính xác, trung thực, đầy đủ các nội dung trong tờ khai thuế (theo mẫu do Bộ Tài chính quy định) và nộp đủ các loại chứng từ, tài liệu quy định trong hồ sơ khai thuế với cơ quan Hải quan. * Hồ sơ khai thuế 1. Hồ sơ khai thuế đối với các mặt hàng thuốc lá và bia rượu nhập khẩu là hồ sơ hải quan theo quy định của pháp luật hải quan. Ngoài hồ sơ hải quan phải có thêm một số giấy tờ, tài liệu, được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 59/2007/TT-BTC ngày 14-6-2007 của Bộ Tài chính và các văn bản hiện hành có liên quan. 2. Thời hạn, địa điểm nộp hồ sơ khai thuế; tiếp nhận, kiểm tra và xử lý hồ sơ khai thuế là thời hạn, địa điểm nộp hồ sơ hải quan, tiếp nhận, kiểm tra và xử lý hồ sơ hải quan. Bên cạnh ý thức tự giác, trung thực của những người kê khai nộp thuế thì sự kiểm soát chặt chẽ quá trình kê khai tính thuế của công chức hải quan cũng không kém phần quan trọng. Nó có tác dụng tích cực, góp phần đẩy lùi những hành vi trốn thuế, lậu thuế gây ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu cũng như sự phát triển của kinh tế nước nhà. Những vi phạm trong quá trình kê khai tính thuế từ phía người có nghĩa vụ nộp thuế hay từ phía những công chức hải quan, do vô tình hay cố ý mà gây ra những hậu quả làm kìm hãm sự phát triển kinh tế của nước ta đều bị xử lý theo đúng luật định. 3.3 Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm Các hình thức vi phạm về thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt của các mặt hàng thuốc là và bia rượu nhập khẩu này thì vô cùng đa dạng. Các hình thức đó có thể là khai man thuế, trốn thuế, hay nhập lậu các mặt hàng trên…, có thể do người nộp thuế cố tình vi phạm, hoặc do sai sót của cơ quan hải quan, hoặc do những hành vi cấu kết của người nộp thuế và các công chức hải quan…Tất cả các hành vi vi phạm pháp luật về thuế đó đều bị xử phạt theo mức độ vi phạm. Đối tượng nộp thuế vi phạm Luật thuế TTĐB bị xử lý như sau:  -    Không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký kê khai nộp thuế, quyết toán thuế, kê khai lập sổ kế toán và giữ hoá đơn, chứng từ liên quan đến việc tính thuế, nộp thuế thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. -   Nộp chậm tiền thuế hoặc tiền phạt ghi trong thông báo thuế, lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế hoặc tiền phạt theo Luật định, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp.   -  Khai man, trốn thuế thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế theo quy định của Luật thuế TTĐB, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn bị phạt tiền từ 1 đến 5 lần số tiền thuế gian lận. trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế mà còn có hành vi tiếp tục vi phạm nghiêm trọng khác thì có thể bị truy cứu trách  nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.   -  Không nộp thuế, nộp phạt sẽ bị xử lý như sau:      + Trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế tại ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng để nộp thuế, nộp phạt. +Ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gửi của đối tượng nộp thuế để nộp thuế, nộp phạt vào ngân sách nhà nước theo quyết định xử lý về thuế của cơ quan thuế hoặc cơ quan có thẩm quyền trước khi thu nợ.        + Giữ hàng hoá, tang vật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt.      + Kê biên tài sản theo quy định của pháp luật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt còn thiếu.  Việc xử lý các vi phạm về thuế TTĐB nói trên được thực hiện theo các thủ tục, trình tự quy định tại các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm về thuế.  KẾT LUẬN Xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế ngày càng ở mức độ cao là tất yếu khách quan. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách thuế đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển kinh tế và xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế. Trong đó thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt cũng không nằm ngoài yêu cầu đó. Việc nghiên cứu về thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng thuốc lá và bia rượu nhập khẩu- những mặt hàng mà được nhà nước khá quan tâm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta đang hội nhập nền kinh tế toàn cầu . Hy vọng rằng bài viết sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc tìm ra một phương hướng hoàn thiện hai loại thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các mặt hàng thuốc lá và bia rượu nói riêng và với các mặt hàng nhập khẩu nói chung, góp phần phát triển nền kinh tế nước nhà.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25110.doc
Tài liệu liên quan