Chính sách thuế góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu theo định hướng của Nhà nước. Trong cơ chế hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao là tư liệu sản xuất chủ yếu, nguyên vật liệu như xăng dầu, vật tư phục vụ hiệu quả cho sản xuất và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng Việt Nam đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.
Thuế đã thực hiện được nhiệm vụ cải tiến cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Trong kim ngạch xuất khầu, tỷ trọng đã qua chế biến là 8% (1991) lên tới 40% (2000). Tình trạng nhập siêu giảm hẳn, trong giai đoạn 1991-1995 nhập siêu chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu thì 5 năm sau (1996-2000) chỉ còn 18%.
Quy mô xuất khẩu tăng liên tục, kim ngạch và tốc độ tăng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước: 1998 tăng 1,9%, 1999 tăng 23,3%, 2000 tăng 25,5%, 2001 tăng 13,8%, 2002 tăng 11,2%, 2003 tăng 19% và tốc độ này cao hơn tăng GDP.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 bình quân đầu người là 246,408, vượt xa các năm trước. Thị trường xuất khẩu mở rộng, hàng hoá xuất khẩu tăng lên về chủng loại, số lượng cơ cấu. Nước ta có quan hệ ngoại giao trên 167 nước, quan hệ thương mại với 160 nước, ký hợp đồng thương mại với EU, bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ và trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Các kết quả đã đạt được ở trên cho thấy chính sách kinh tế của nước ta có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống chính sách thuế, một công cụ không thể thiếu được trong điều tiết kinh tế vĩ mô.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội đảng toàn quốc lần thứ X quyết định mục tiêu lớn của đất nước trong giai đoạn 2006-2010 và nhiều sự kiện khác. Để có những thành công đó, ngoài việc phát huy tối đa lợi thế vốn có của mình, Chính phủ Việt Nam đã phải thực hiện rất nhiều chính sách vĩ mô. Một phần quan trọng không thể thiếu đó là các chính sách thuế tác động đến tăng trưởng kinh tế nước ta. Đây là vấn đề hết sức cấp thiết bởi nó ảnh hưởng đến việc huy động nguồn tài chính cho đất nước và điều tiết kinh tế. Thực hiện tốt các chính sách thuế sẽ tạo điều kiện thuận lợi, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nước, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
Qua những bài giảng, các phương tiện thông tin đại chúng và thực tế, em thấy vẫn đề thuế, sự tác động qua lại giữa thuế và tăng trưởng kinh tế còn nhiều bất cập. Chính vì lý do đó em đã chọn nghiên cứu đề tài “Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, với mục đích hiểu rõ hơn về vấn đề này, tạo lập cho bản thân vốn hiểu biết nhất định khi có cơ hội tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta.
Thuế và tăng trưởng kinh tế là đề tài có phạm vi nghiên cứu rất rộng. Tuy nhiên với quy mô của tiểu luận môn học, em tập trung phân tích đề tài trên một số điểm chủ yếu gồm: những hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân và doanh nghiệp, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế; những thành tựu đạt được từ việc thực hiện các chính sách thuế; những vấn đề còn tồn tại và biện pháp, phương hướng giải quyết…
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Chương II: Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua
Chương III: Một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính sách thuế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong gian đoạn hiện nay
Để hoàn thiện tiểu luận này, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của Giảng viên TS Trần Xuân Hải. Tuy nhiên do thời gian, nhận thức cũng như tài liệu tham khảo còn hạn chế, em mong nhận được sự góp ý của các thầy cô và bạn đọc để em có điều kiện nâng cao kiến thức, hoàn thiện tốt đề tài này nhằm phục vụ cho quá trình học tập tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương I
Lý luận chung về thuế với việc thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế
1. Tăng trưởng kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng
. Tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự ra tăng về lượng kết quả đầu ra hoạt động của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là năm, quý) hay chính là sự ra tăng của GNP thực tế.
1.1.2. Các mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế có thể được đo lường thông qua tăng trưởng GDP hoặc GNP. Để xác định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia chúng ta có các chỉ tiêu sau:
- Mức tăng trưởng kinh tế tuyệt đối: ΔGDPn = GDPn- GDPo
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (g):
Tốc độ tăng trưởng hàng năm: là tốc độ tăng trưởng của năm sau so với năm liền trước.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của một giai đoạn ()
Trong đó: GDPo là tổng sản phẩm trong nước của năm 0
GDPn là tổng sản phẩm trong nước của năm n
Trong phân trong phân tích và so sánh kinh tế vi mô với các nước, tăng trưởng kinh tế được đo bằng GDP bình quân đầu người. Đâylà một chỉ số rất quan trọng và chịu ảnh hưởng của sự gia tăng dân số. Nếu cùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế như nhau, quốc gia nào có tốc độ gia tăng đân số lơn hơn thì tốc độ tăng trưởng binh quân đầu người sẽ thấp hơn.
Tốc độ gia tăng GDP bình quân đầu người = Tốc độ tăng trưởng GDP - Tốc độ gia tăng dân số.
1.2. Nguồn gốc của sự tăng trưởng kinh tế
Chúng ta đã biết các đầu ra của nền kinh tế như : GDP thực, việc làm, giá cả…là kết quả của tác động qua lại của tổng mức cung và tổng mức cầu của nền kinh tế. Tổng mức cung của nền kinh tế đề cập đến khối lượng mà các ngành kinh doanh sản xuất và bán ra trong điều kiện giá cả, khả năng sản xuất và chi phí sản xuất nhất định. Tổng mức cung liên quan chặt chẽ với sản lượng tiềm năng. Nhân tố tác động tới sản lượng tiều năng và quyết định tổng mức cung là khối lượng đầu vào của sản xuất. (Sức lao động và vốn là hai yếu tố quan trọng nhất) và hiệu quả của những đầu và đó kết hợp với nhau. (Đó là kỹ thuật của xã hội).
Tổng mức cầu đề cập đến khối lượng mà người tiêu dụng, các doanh nghiệp và chính phủ sẽ sử dụng.
Tuy nhiên, tổng mưc cầu là động lực nằm sau nhưng thay đổi ngắn hạn về sản lượng thực tế. Về mặt lâu dài, sản lượng thực tế chủ yếu do sản lượng tiều năng quyết định và tổng mức cầu chủ yếu tác động đến mức giá.
Tăng trưởng kinh tế là một quá trình lâu dài chủ yếu gắn với sư gia tăng về sản lượng tiềm năng và những nhân tố tác động đến sản lượng tiều năng như khối lượng vốn lao độngm tiến bộ công nghệ và tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, có thể nói nguồn gốc của tăng trưởng là sản xuất và các nhân tố cơ bản quyết định tăng trưởng là vốn, lao động, tiến bộ công nghệ và tài nguyên thiên nhiên.
1.3. Chất lượng tăng trưởng kinh tế và các tiêu chí của chất lượng tăng trưởng kinh tế
1.3.1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế
Chất lượng tăng trưởng kinh tế là một khái niệm kinh tế dùng để chỉ tính ổn định của trạng thái bên trong vốn có của quá trính tăng trưởng kinh tế, là tổng hợp các thuộc tính cơ bản hay đặc tính tạo thành có bản của tăng trưởng kinh tế trong một hoản cảnh và giai đoạn nhất định.
1.3.2. Các tiêu chí của chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Theo quan điểm của ngân hàng Thế giới, chương trình phát triển của Liên hợp quốc và một số nhà kinh tế học nổi tiếng được giải thưởng Nobel gần đây như G.Becker, R.Lucas, Amartyasen, J.Stiglitz thì cùng với quá trình tăng trưởng, chất lượng tăng trưởng biểu hiện tập trung ở các tiêu chuẩn chính sau:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong dài hạn và tránh được những biến động từ bên ngoài.
Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, được thể hiện ở sự đóng góp của yếu tố năng suất nhân tố tổng hợp cao và không ngừng gia tăng.
Tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Tăng trưởng đi kèm với tăng trưởng bền vững.
Tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến lượt nó thúc đẩy tăng trưởng ở tỷ lệ cao hơn.
Tăng trưởng phải đạt mục tiêu cải thiện phúc lợi xã hội và giảm được đói nghèo.
1.4. Mục tiêu tăng trưởng của kinh tế vĩ mô
Mục tiêu tăng trưởng của kinh tế vĩ mô là phải phấn đấu tốc độ tăng sản lượng của nền kinh tế đạt được ở mức cao nhất. Một nền kinh tế phát triển ổn định chưa chắc đã có được một tốc độ tăng trưởng nhanh. Một nước có tốc độ tăng trưởng chậm thì có nguy cơ tụt hậu và nếu có tăng trưởng nhanh thì có thể có khả năng đuổi kịp và vượt các nước đi trước. Vấn đề đặt ra là muốn có được tăng trưởng kinh tế thì cần phải có chính sách thúc đẩy quá trình tạo vốn, tăng năng suất lao động nhằm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế và tăng nhanh sản lượng tiềm năng.
2. Tác động của thuế đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
2.1. Thuế - Chính sách thuế
2.1.1. Khái niệm về thuế
Trong các sách báo kinh tế trên thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối khái niềm về thuế.
Theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản. C.Mác đã chỉ rõ: “Để duy trì quyền lực cộng đồng đó, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước, đó là thuế má…”
Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn. Người ta đưa ra các khái niệm về thuế xét trên nhiều góc độ.
Trên góc độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chứ, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo Luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiết cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ kinh tế học, thuế được xem xét như một biện pháp đặc biệt theo đó Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
ở nước ta hiện nay cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế, nhưng có thể hiểu một khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo một mức độ và thời hạn được Pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
2.1.2 Chức năng thuế
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài chính. Do đó thuế không chỉ mang trong mình những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính, mà còn biểu hiện những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng có bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Cho đến nay trên các sách báo kinh tế trong nước cũng như trên thế giới cũng chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra số lượng các chức năng của thuế và tên gọi chúng. Nhưng nhìn chung, chúng ta thấy thuế luôn thực hiện chức năng cơ bản: chức năng huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước và chức năng điều tiết kinh tế.
2.1.2.1 Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước
Ngay từ lúc phát sinh, thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện động viên nguồn tài chính cho Nhà nước. Đây là chức năng huy động nguồn lực tài chính của thuế.
Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này tạo tiền đề cho Nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội, tạo ra những tiền đề khách quan cho sự điều tiết của Nhà nước với nền kinh tế.
2.1.2.2 Điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp, sử dụng linh hoạt các ưu đãi và miễn giảm thuế.
Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi và quỹ đạo chung, phù hợp lợi ích xã hội. Như vậy bằng cách điều tiết và kích thích chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện.
2.1.3 Chính sách thuế - hệ thống thuế
Chính sách thuế là tổng hòa phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thuế và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định.
Chính sách thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưới hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế ban hành các loại thuế. Điều đó có nghĩa là chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và củng cố hệ thống thuế.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Hệ thống thuế bao gồm nhiều hình thức thuế khác nhau, nhưng sự hình thành từng hình thức thuế lại do cơ sở thuế quyết định.
Trong nền kinh tế thị trường thuế suy cho cùng lấy từ thu nhập. Do yêu cầu của tái sản xuất mà thu nhập được vận động trong một chu trình khép kín và luôn thay đổi hình thái biểu hiện của nó.
2.2 Tác động kinh tế của thuế
Việc đánh thuế dưới hình thức nào cũng gây ra những tác động danh nghĩa và tác động thức đối với nền kinh tế. Tùy theo từng điều kiện, mức độ tác động của thuế đối với các chủ thể trong xã hội có thể khác nhau. Hiểu rõ tác động của thuế đối với nền kinh tế nói chung và với từng chủ thể nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách thuế, đặc biệt trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường như nước ta.
2.2.1 Tác động của thuế tiêu dùng đối với sản phẩm dịch vụ
Về danh nghĩa, thuế tiêu dùng là thuế gián thu, tuy nhiên trong điều kiện cạnh tranh, vấn đề không hoàn toàn như vậy. Những tác động của thuế đối với sản phẩm tiêu dùng trên thị trường cạnh tranh có thể minh họa theo đồ thị.
Cung trước thuế
Cung sau thế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Qo
Q1
E1
E2
P1
Po
P2
Hình 2.1. Tác động của thuế đối với giá và sản lượng
Giả định khi Nhà nước chưa đánh một loại thuế nào vào sản phẩm A, cung cầu sản phẩm này cân bằng tại Eo, sản lượng sản phẩm A tiêu thụ là Q với giá Po.
Bây giờ Nhà nước đánh thuế tiêu dùng vào sản phẩm A với thuế suất t tính trên giá bán chưa thuế Po. Số thuế phải nộp là Po x t = T.
Với các yếu tố không thay đổi, phản ứng thị trường là: người bán nâng giá để đảm bảo thu nhập sau thuế như cũ. Khi giá tăng, nhu cầu về sản phẩm A co giãn theo, điểm cân bằng lúc này là E1, với sản lượng Q1 và giá P1.
Thu nhập sau thuế của mỗi đơn vị sản phẩm của người cung cấp sau khi có thuế sẽ là P1 - T = P2. Nghĩa là gánh nặng thuế chia sẻ cho người cung cấp và tiêu dùng cùng chịu. Trên hình vẽ ta thấy người tiêu dùng chỉ chịu đoạn P1Po, người sản xuất chịu PoP2. Hiện tượng này gọi là sự chuyển thuế.
Tỷ lệ phân chia gánh nặng thuế phụ thuộc vào dạng của đường cung và đường cầu.
Nếu độ dốc đường cầu càng lớn hoặc độ dốc đường cung càng nhỏ thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về phía người tiêu dùng. Trường hợp đặc biệt nếu đường cầu thẳng đứng, hoặc cung nằm nganh, người tiêu dùng sẽ chịu hoàn toàn thuế.
Cung trước thuế
Cung sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Qo
Q1
E1
Eo
P1
Po=P2
Hình 2.2.a) Người tiêu dùng chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Cung trước thuế
Cung sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Q1=Qo
E1
Eo
P1
Po=P2
Hình 2.2.b) Người tiêu dùng chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Ngược lại, nếu độ dốc của đường cung càng lớn, hoặc độ dốc đường cầu càng nhỏ thì gánh nặng thuế càng nghiêng về người sản xuất. Trường hợp đặc biệt nếu đường cung thẳng đứng hoặc đường cầu nằm ngang thì gánh nặng thuế do người sản xuất chịu hoàn toàn
Cung trước và sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Q1=Qo
Eo
Po=P1
P2
Hình 2.3.a) Người sản xuất chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Cầu
Cung trước thuế
Cung sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Q1
E1
Eo
Po=P1
P2
Hình 2.3.b) Người sản xuất chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Cầu
Qo
Có thể thấy được điều này trên thực tế khi nhu cầu về một loại sản phẩm nào đó nhạy cảm với sự thay đổi của giá cả thì người bán rất khó nâng giá vì khi đó người tiêu dùng lập tức giảm bớt nhu cầu tiêu dùng loại hàng này. Vì vậy người bán không thể nâng giá ngang bằng thuế phải nộp mà sẽ phải chịu đa phần gánh nặng thuế.
2.2.2 Tác động thuế thu nhập đánh vào tiền lương, tiền công
Trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, mức lương cũng được quyết định bởi mối quan hệ cung cầu lao động. Ta có thể thấy rõ điều này qua mô hình sau:
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
Lo
Wo
W1
Hình 2.4. Tác động của thuế với cung và cầu lao động
W2
Cầu sau thuế
Eo
L1
E1
E2
Thuế
Trước khi đánh thuế cung và cầu lao động cân bằng tại điểm Eo. Tại Eo số lượng lao động cung cấp là Lo với mức lương Wo.
Bây giờ Nhà nước đánh thuế thu nhập vào tiền lương với thuế suất t. Số thuế mà Nhà nước có được sẽ là T = Wo x t. Sau khi có thuế, thu nhập còn lại của người làm công giảm. Công nhân sẽ đòi tăng lương để bù vào phần thuế đã mất. Khi đó, chi phí đối với chủ doanh nghiệp sẽ tăng, cầu về lao động giảm xuống. Kết quả là đường cầu sẽ dịch chuyển xuống dưới một khoảng đúng bằng T.
Điểm cân bằng mới là E1. Tại E1 số lượng lao động là L1 và tiền lương là W1. Trong khi đó, chi phí đối với chủ doanh nghiệp lúc này là W2 (tức W1 + T)
Gánh nặng thuế được phân chia cho cả người lao động và giới chủ cùng chịu. Việc phân chia gánh nặng thuế này hoàn toàn phụ thuộc vào dạng của đường cung và cầu lao động.
Nếu độ dốc của đường cung càng nhỏ hoặc độ dốc của đường cầu càng lớn thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về phía chủ. Trường hợp đặc biệt nếu đường cung hoàn toàn nằm ngang hoặc đường cầu hoàn toàn thẳng đứng thì thuế lương do giới chủ gánh chịu.
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
Lo
Wo=W1
Hình 2.5a) Thuế do giới chủ gánh chịu hoàn toàn
W2
Cầu sau thuế
Eo
L1
E1
E2
Thuế
Cầu trước và sau thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
Wo=W1
Hình 2.5b) Thuế do giới chủ gánh chịu hoàn toàn
W2
L1=L1
E1=Eo
E2
Thuế
Ngược lại, nếu độ dốc của đường cung càng lớn hoặc độ dốc của đường cầu càng nhỏ thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về người lao động. Trường hợp đặc biệt, nếu đường cung hoàn toàn thẳng đứng hoặc đường cầu hoàn toàn nằm ngang thì gánh nặng thuế do người lao động chịu hoàn toàn.
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
W1
Hình 2.6a) Thuế do người lao động gánh chịu hoàn toàn
W2=W2
Cầu sau thuế
L1=Lo
E1
E2=Eo
Thuế
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
W1
Hình 2.6b) Thuế do người lao động gánh chịu hoàn toàn
Wo=W2
L1
E1
E2
Thuế
Cầu sau thuế
Eo
Lo
Qua phân tích ta thấy:
Việc đánh thuế làm tăng giá cả sản phẩm hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa sức lao động
Gánh nặng thuế được chia sẻ cho cả người tiêu dùng và người cung cấp cùng chịu.
2.2.3 Thuế tác động đến thu nhập cá nhân
Thuế tác động đến thu nhập cá nhân chính là thuế thu nhập cá nhân với thuế suất lũy tiến từng phần. Cơ chế lũy tiến là cơ chế mà trong đó tỷ suất thuế bình quân tăng cùng với mức thu nhập cá nhân Chính phủ thu của người giàu tỷ lệ cao hơn người nghèo.
Thu nhập của doanh nghiệp và của cá nhân tạo thành thu nhập của hộ gia đình và thu nhập xã hội. Thu nhập khả dụng của doanh nghiệp sẽ sử dụng vào tiêu dùng và đầu tư. Thu nhập của hộ gia đình sẽ dùng vào hai việc là tiêu dùng và tiết kiệm (để đầu tư). Thực tế tồn tại một quy luật mà Keynes gọi là “quy luật tâm lý cơ bản”: Khi thu nhập khả dụng tăng lên thì tiêu dùng và tiết kiệm tăng nhưng tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập khả dụng, còn tiết kiệm tăng nhanh hơn”
Do vậy thuế đánh vào thu nhập sẽ tác động trực tiếp đến cả khả năng tiêu dùng và đầu tư, làm ảnh hưởng đến cung cầu thị trường, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi nền kinh tế quốc gia.
2.2.4 Thuế tác động đến thương mại quốc tế và các họat động kinh tế khác
Thuế tác động tới Thương mại quốc tế thông qua hình thức thuế quan hay thuế nhập khẩu. Thuế điều tiết cao hay thấp tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất nhập khẩu hàng hóa và sản xuất tiêu dùng nội địa. Thuế quan yêu cầu người nhập khẩu hàng hóa phải nộp thuế nhập khẩu bằng một tỷ lệ % tính trên giá quốc tế cho Ngân sách Nhà nước.
Như đã trình bày ở trên, chính sách thuế tác động vào giá cả hàng hóa dịch vụ làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường giá cả hàng hóa dịch vụ đầu vào và đầu ra của họat động sản xuất kinh doanh khi gánh thêm tiền thuế gián thu làm giá cả thị trường tăng lên. Thu nhập cá nhân, doanh nghiệp cũng phải chịu điều tiết bởi các loại thuế trực thu đã làm giảm đi phần thu nhập khả dụng làm hạn chế khả năng thanh toán trong tiêu dùng và tiết kiệm đầu tư của hộ gia đình. Tuy nhiên mức thuế đánh cao hay thấp sẽ tạo sự dịch chuyển đầu tư sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi nhất cho doanh nghiệp. Đây là điểm mấu chốt của việc gắn kết tác động của thuế với cơ chế thị trường để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Chương 2
Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua
1. Sơ lược tình hình kinh tế, thuế Việt Nam thời gian qua
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam thời gian qua
1.1.1. Kinh tế nước ta từ 1991 đến 2004
Sau 20 năm đổi mới đặc biệt những năm gần đây tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đánh giá chung trong những năm 1991-1995, sản xuất phát triển, lưu thông hàng hóa thông thoáng, giá cả ổn định dần. Nền kinh tế tăng trưởng tương đối cao, cơ cấu chuyển dịch tích cực. Tính chung năm 1991-1995 tổng sản phẩm trong nước tăng 48,3%, bình quân mỗi năm tăng 8,2%. Trong đó năm 1991 tăng 6,0%; năm 1992 tăng 8,6%, 1993 tăng 8,1%, 1994 tăng 8,8% và năm 1995 tăng 9,%. Nền kinh tế nước ta giai đoạn này tăng trưởng khá tốt, năm sau cao hơn năm trước.
Giai đoạn 1996-2000 nền kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn, nhịp độ tăng trưởng kinh tế chững lại, năm 1999 đạt mức tăng trưởng 4,8% là mức thấp nhất trong 10 năm đổi mới. Nền kinh tế bắt đầu khôi phục được là tăng trưởng từ nửa sau của 1999-2000, GDP đạt tăng trưởng 6,75%, năm 2001 tăng 6,84%, năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,24% và cuối 2004 tăng 8%.
1.1.2 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2006
Trong năm 2006 vừa qua, nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao đạt và vượt kế hoạch. Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng gần 8,2% (mức kế hoạch là 8%). Trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,23% (kế hoạch 3,8%), khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,46% (kế hoạch là 10,2%). Riêng công nghiệp tăng 10,28% và khu vực dịch vụ tăng 8,26% (kế hoạch là 8%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ sau lớn hơn thời kỳ trước, trong đó quý I tăng 7,2%, quý II tăng 7,4%, quý III tăng 7,8%, quý IV tăng 8,4%.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ:
Tỷ trọng khu vực I là 20,9% GDP năm 2005 giảm còn 20,36% năm 2006
Tỷ trọng khu vực II tằng từ 41,03% (2005) đến 41,56% (2006)
Tỷ trọng khu vực III tăng từ 38,07% (2005) đến 38,08% (2006) trong hai năm tương ứng.
GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng (xấp xỉ 720 USD) tăng 80 USD so với 2005.
Tổng thu ngân sách 2006 ước đạt trên 261,1 nghìn tỷ đồng, vượt mức dự toán 9,8% (dự toán 237,9 nghìn tỷ đồng), tăng 20,3% so với năm 2005. Tổng chi ngân sách đạt trên 31 nghìn tỷ đồng, vượt mức chi dự toán là 294,4 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với 2005.
Kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao thứ hai Châu á và trên thế giới chỉ sau Trung Quốc, được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Tuy vậy tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn nhiều điều phải làm sáng tỏ về cả lý luận và thực tiễn như: tốc độ và chất lượng tăng trưởng đã tương xứng với tiềm năng Việt Nam chưa? Chất lượng tăng trưởng đạt mức nào? Làm thế nào để tăng trường vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng Việt Nam, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực. Đó là những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới.
.Tình hình thuế Việt Nam thời gian qua
Để thực hiện sự nghiệp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên mọi lĩnh vực cải cách thuế đóng vai trò quan trọng. Trong giai đoạn 1986-1990, Việt Nam vẫn áp dụng các chính sách thuế cũ đã ban hành trong thời kỳ trước đổi mới kinh tế. Đồng thời, Nhà nước đã tập trung nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách thuế mới. Tiến trình cải cách thuế được thực hiện thông qua hai bước.
Cải cách thuế bước 1 (1990-1996)
Thực hiện chủ trương của Đảng đã đề ra yêu cầu về công tác thuế trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) với nội dung “Tiếp tục đổi mới và bổ sung các luật thuế, kiện toàn hệ thống thu thuế, chống thất thu lạm phát, chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác thuế”. Nước ta đã ban hành Quyết định số 05-CT ngày 12/1/1989 thành lập tổ chức chỉ đạo soạn thaoe dự án luật mới, lần lượt thông qua và ban hành các loại thuế dưới hai hình thức:
Bằng hình thức luật, có: Thuế doanh thu (30/6/1990), thuế tiêu thụ đặc biệt (30/6/1990), thuế lợi tức (30/6/1990), thuế xuất nhập khẩu (26/12/1991), thuế sử dụng đất nông nghiệp (24/7/1993), thuế chuyển quyền sử dụng đất (1/7/1994).
Bằng hình thức pháp lệnh: Thuế tài nguyên (30/3/1990), thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (27/12/1990), thuế nhà đất (31/7/1992)
Kết quả cải cách thuế bước 1
Nhìn chung, công cuộc cải cách thuế bước 1 (1990-1996) đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Hệ thống chính sách thuế mới gồm 9 loại đã từng bước điều tiết các nguồn thu có thể động viên vào Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh hoạt động kinh tế, áp dụng chính sách thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế tạo sự bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế thúc đẩy các doanh nghiệp phải hạch toán kinh doanh đầy đủ nhằm củng cố, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Thuế góp phần thu hút chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ mà vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ở tất cả các ngành. Vai trò của thuế trong cơ chế thị trường ngày càng rõ nét hơn.
Tuy nhiên hệ thống chính sách thuế còn khá phức tạp bởi còn quá nhiều thuế suất trong một luật thuế, quy định quản lý Nhà nước về thuế còn rườm rà cần sửa đổi sao cho phù hợp hơn với tình hình kinh tế xã hội nước ta.
Cải cách thuế bước 2 (1997-2000)
Đối với thời kỳ đổi mới, công nghiệp hiện đại hoá đất nước phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống chính sách thuế hiện hành đã bộc lộ một số khuyết điểm như: hệ thống thuế còn phức tạp và trùng lặp, trong mỗi loại thuế cùng một lúc vừa phải thực hiện mục tiêu thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa phải thực hiện chính sách xã hội làm nội dung chính sách thuế thiếu bình đẳng gây khó khăn cho quản lý thuế.
Đại hội Đảng lần thứ VIII nă 2006 đề ra phương hướng cho công tác thuế: “Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng vừa đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh, vừa thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và têu dùng để tăng tích luỹ. Đơn giản hoá hệ thống thuế và biểu thuế suất, nâng tính ổn định của thuế, áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu; bổ sung thuế sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong tái tạo; tách thuế nhập khẩu, không nhập làm một với thuế doanh thu (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt, thu hẹp biểu thuế suất và giảm dần mức thuế suất nhậ khẩu”.
Quốc hội khoá IX, kỳ họp 11 ngày 10/5/1997 thông qua Luật thuế GTGT và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/1999. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt bổ sung thêm một số dịch vụ phải gánh chịu thuế như: kinh doanh vũ trường, karaoke (20%), kinh doanh casino, trò chơi (25%).
Cùng với việc ban hành các luật thuế mới, sửa đổi bổ sung các luật và pháp lệnh về thuế, phí làm hệ thống chính sách thuế Việt Nam được cải tiến về cơ bản, kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.
2. Sơ lược về tình hình sử dụng công cụ thuế của Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế
Hệ thống thuế nước ta đã trở thành công cụ Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Có thể nói thuế là công cụ nhạy cảm và hiệu quả để thực hiện sự quản lý của Nhà nước. Thông qua các chính sách thuế đã khuyến khích cá nhân, tổ chức và các cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng, tạo động lực thúc đẩy sự chuyển dịch đầu tư dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong khi vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ở các ngành khác một cách toàn diện.
2.1. Tác động của thuế đến sản xuất nông nghiệp
2.1.1. Sản xuất nông nghiệp phát triển
Trong thời gian vừa qua, sản xuất nông nghiệp nước ta đã vượt qua khó khăn, đạt được kết quả tích cực. Cụ thể năm 2005 gần gấp đôi năm 1990. Nói cách khác trong 15 năm, chúng ta đã tạo ra sản lượng lương thực lớn hơn sản lượng của cả hai châu thổ lớn nhất đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Xuất khẩu gạo tăng liên tục: năm 2005 đã đạt mức kỷ lục về lương thực (trên 5 triệu tấn) cũng như kim ngạch (trên 1,3 tỷ USD). Diện tích lúa, cà phê, dừa, đay, mía… giảm trong khi diện tích trồng ngô, chè, bông, hồ tiêu, điều, cây ăn quả… tăng. Tổng đàn trâu, gia cầm giảm trong khi tổng đàn bò, lợn gia tăng. Tỷ trọng Nông nghiêp giảm trong khi tỷ trọng Thuỷ sản tăng, tỷ trọng khai thác giảm trong khi tỷ trọng nuôi trồng tăng…
Nhìn chung, Nông nghiệp những năm vừa qua đạt được những thành tựu nhất định nhờ sự tác động tích cực của chính sách thuế mà chủ yếu là thuế sử dụng đất nông nghiệp.
2.1.2. Tác động của thuế đến sản xuất nông nghiệp
Thuế sử dụng đất nông nghiệp khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả đảm bảo công bằng về nghĩa vụ nộp thuế của tất cả các cá nhân, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được đổi mới hợp lý bao quát đầy đủ nguồn thu hơn theo hướng giảm nhẹ mức điều tiết vào Ngân sách Nhà nước từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào năm yếu tố: chất đất, vị trí địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu để phân dạng đất khoa học và công bằng. Hạng đất tính thuế được ổn định trong 10 năm để khuyến khích thâm canh tăng năng suất và thu nhập cho nông dân. Định suất thuế 1 năm tính kg thóc/ha của từng hạng đất đối với cây hàng năm và lâu năm ở mức sản lượng bình thường.
Để tăng đầu tư và mở rộng sản xuất, Nhà nước đã thực hiện chế độ miễn giảm thuế được mở rộng theo hướng khuyến khích khai hoang, phục hoá và chuyển đổi cây trồng kinh tế hơn. Từ 2003 đến 2010, Nhà nước có chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức sản xuất nông nghiệp cho tất cả hộ nông dân, miễn toàn bộ cho hộ nghèo, cho tổ chức, gia đình, cá nhân đặc biệt khó khăn, miền núi theo Quyết định QĐ135/1998/GĐ-TTG ngày 31/7/1998; giảm 50% thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tất cả các trường hợp không được miễn thuế.
Tất cả các chính sách to lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thu hút đầu tư, tích cực tham gia lao động sản xuất, khuyến khích phát triển đột phá trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp hàng hoá, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Tác động của thuế đến lãi suất công-thương nghiệp
2.2.1. Chính sách thuế trong sản xuất công- thương nghiệp
Công thương nghiệp và xây dựng trong những năm qua tăng trưởng với tốc độ cao, góp một khoản tiền lớn vào Ngân sách Nhà nước với tỷ trọng GDP của nhóm ngành Công nghiệp-xây dựng tăng từ 36,7% (2000) lên 41% (2005). Việc ban hành và áp dụng các luật thuế như thuế doanh thu (GTGT), thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp), thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành này.
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT)
Thuế GTGT là sắc thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư (phần lớn là 10% giá trị tài sản) có giá trị khá lớn sẽ được Nhà nước hoàn thuế hoặc khấu trừ vào thuế GTGT đầu ra giúp doanh nghiệp lấy lại phần vốn ứng trước nộp thuế khi mua tài sản để đầu tư mới. Với phương pháp khấu trừ thuế, hoàn thuế đã khuyến khích đầu tư tài sản cố định, mở rộng quy mô sản xuất, kích thích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất, tăng năng suất chất lượng sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế thu nhập doanh nghiệp là sắc thuế tính trên thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trong kỳ tính thuế.
Thuế TNDN hiện hành ở Việt Nam được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật thuế TNDN số 09/2003/QH11 ngày 17/6/2003, Nghị định số 152/2004/NĐ-CP ngày 8/6/2004, thông tư số 88/2004/TT-BTC ngày 1/9/2004… đã ưu đãi cho đầu tư mới và đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút nhiều lao động, đầu tư vào những vùng kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn. Mặt khác, thực hiện mở rộng thêm đối tượng hưởng ưu đãi đối với công nghiệp trọng điểm, công nghiệp đóng tàu có trọng tải trên 11500 tấn, sản xuất động cơ, sản xuất lắp ráp ti vi, sản phẩm công nghiệp phần mềm nhằm thu hút vốn đầu tư và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra hoạt động thương nghiệp phát triển theo chiều hướng tích cực như việc ký kết hợp đồng thương mại song phương với 86 nước, hợp đồng bảo hộ đầu tư với 46 nước, đã góp phần không nhỏ thúc đẩy sản xuất công thương nghiệp ngày càng mở rộng hơn.
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
Thuế TTĐB là sắc thuế đánh vào một số hàng hoá dịch vụ đặc biêt nằm trong danh mục Nhà nước quy định.
Hiện nay, thuế TTĐB đánh vào 8 mặt hàng tiêu biểu là thuốc lá điếu, xì gà, rượu, bia, ô tô dưới 24 chỗ ngồi, xăng, vàng mã và 5 nhóm dịch vụ như kinh doanh vũ trường, karaoke, mát xa, casino, xổ số, các trò chơi giải trí, chơi gôn... với mức thuế cao tạo ra khả năng điều tiết thu nhập của những sản phẩm hàng hoá dịch vụ cần hạn chế tiêu dùng, không có lợi cho xã hội, hướng dẫn sắp xếp lại sản xuất kinh doanh và bảo hộ sản xuất trong nước.
Thuế Tài nguyên trong nhành công nghiệp khai thác
Thuế tài nguyên là thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên khai thác được.
Việc nộp thuế thu nhập buộc các nhà đầu tư phải hạch toán trong hoạt động sản xuất kinh doanh để điều tiết một phàn giá trị tài nguyên khai thác, thúc đẩy sử dụng tài nguyên có hiệu quả và bảo vệ môi trường. Tiền thuế Nhà nước thu được sử dụng để thực hiện các biện pháp tái tạo tài nguyên cho doanh nghiệp khai thác để bảo vệ hàng hoá phục vụ cho kinh doanh và xuất khẩu.
Tác động của thuế đến sản xuất công thương nghiệp
Việc thực hiện các chính sách thuế trên đã tác động khá tốt đến hoạt động sản xuất trongd đó tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp năm sau cao hơn năm trước: năm 2000 tăng 10,7%, năm 2001 tăng 10,36%, năm 2002 tăng 14,5%, năm 2004 tăng 15%, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thương nghiệp cũng có những chuyển biến tích cực: nguồn hàng nhập khẩu phong phú, hàng hóa sản xuất trong nước dồi dào, khu vực thương nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu từ dịch vụ năm 2002 tăng 9,7% so với 1999; năm 2003 tỷ lệ này là 10,3%.
Trong đó khu vực ngoài quốc doanh có tốc độ tăng trưởng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, cụ thể:
Khu vực
Năm
Doanh nghiệp
Nhà nước
Ngoài quốc doanh
1990
30,4%
69,6%
1995
22,6%
76,9%
2003
16,2%
81,2%
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Tác động của thuế tới sản xuất công thương nghiệp còn thể hiện rõ nét ở mức điều tiết vào Ngân sách Nhà nước thấp hơn hoạt động Thương mại-dịch vụ làm cho tốc độ phát triển Công thương nghiệp tăng nhanh qua các năm trở thành động lực tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Tác động của thuế đến hoạt động xuất nhập khẩu
Chính sách thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu nước ta ngày càng có những biểu hiện tích cực và các chính sách thuế đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Hệ thống thuế góp phần khuyến khích xuất khẩu như: thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%. Trong thuế nhập khẩu có chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu (đa số thuế nhập khẩu 0%), hàng hoá xuất khẩu qua chế biến (thuế xuất khẩu 0%). Theo đó danh mục CEPT của Việt Nam bao gồm 10143 mặt hàng với lộ trình cắt giảm trong các năm 2003-2006 theo bảng số liệu sau:
Thuế suất
2003
2004
2005
0%
3257
3257
3257
1%
239
239
239
3%
607
607
607
5%
3372
3392
4356
Tổng 0 - 5%
7475
7495
8459
10%
89
130
1315
15%
125
2127
16
20%
2454
391
353
Tổng 10 - 20%
2668
2648
1684
Tổng số
10143
10143
10143
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Thông qua hệ thống thuế mở rộng khả năng hợp tác quốc tế Nhà nước thực hiện cam kết quốc tế, cắt giảm hơn 5000 dòng thuế nhập khẩu theo lộ trình CEPT/AFTA và gần 2000 mặt hàng theo hiệp định dệt may ký với EU, ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 40 nước, xây dựng chế độ ưu đãi mạnh mẽ với hàng hoá xuất khẩu. Các dự án đầu tư sản xuất có giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt trên 30% thì được giảm tiền sử dụng đất, thuế đất, thuế thu nhập doanh nghiệp miễn giảm thuế đối với những trường hợp xuất khẩu năm đầu tiên, xuất khẩu mặt hàng mới và xuất khẩu vào thị trường mới.
Tác động của thuế xuất nhập khẩu
Chính sách thuế góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu theo định hướng của Nhà nước. Trong cơ chế hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao là tư liệu sản xuất chủ yếu, nguyên vật liệu như xăng dầu, vật tư phục vụ hiệu quả cho sản xuất và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng Việt Nam đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.
Thuế đã thực hiện được nhiệm vụ cải tiến cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Trong kim ngạch xuất khầu, tỷ trọng đã qua chế biến là 8% (1991) lên tới 40% (2000). Tình trạng nhập siêu giảm hẳn, trong giai đoạn 1991-1995 nhập siêu chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu thì 5 năm sau (1996-2000) chỉ còn 18%.
Quy mô xuất khẩu tăng liên tục, kim ngạch và tốc độ tăng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước: 1998 tăng 1,9%, 1999 tăng 23,3%, 2000 tăng 25,5%, 2001 tăng 13,8%, 2002 tăng 11,2%, 2003 tăng 19% và tốc độ này cao hơn tăng GDP.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 bình quân đầu người là 246,408, vượt xa các năm trước. Thị trường xuất khẩu mở rộng, hàng hoá xuất khẩu tăng lên về chủng loại, số lượng cơ cấu. Nước ta có quan hệ ngoại giao trên 167 nước, quan hệ thương mại với 160 nước, ký hợp đồng thương mại với EU, bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ và trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Các kết quả đã đạt được ở trên cho thấy chính sách kinh tế của nước ta có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống chính sách thuế, một công cụ không thể thiếu được trong điều tiết kinh tế vĩ mô.
3. Đánh giá chung về thực trạng sử dụng công cụ thế thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua
3.1.Những kết quả đạt được
Những thành tựu có được trong cải cách thuế thể hiện qua hai hoạt động lớn là ban hành hệ thống chính sách thuế mới và sửa đổi bổ sung một số loại thuế quan trọng, nhằm phát huy tối đa tiềm lực của công cụ thuế với vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nước nhà.
3.1.1.Trong ban hành hệ thống chính sách thuế mới
Hệ thống chính sách thuế mới nước ta sau cải cách bước 1 đóng vai trò quan trọng, đặt nền tảng ban đầu cho sự nghiệp tổ chức điều hành và cải cách hoàn thiện hệ thống chính sách thuế của nhà nước XHCN và kinh tế thị trường ở Việt Nam. Từ những năm 90, hoạt động này đã phát huy tác dụng: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
3.1.2.Sửa đổi bổ sung chính sách thuế
Trong cải cách thuế lần 2, Nhà nước đã ban hành mới luật thuế GTGT, thuế TNDN, bổ sung các luật thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB, thuế tài nguyên, thuế chuyển quyền sử dụng đất... tạo bước đột phá mới về chất của hệ thống chính sách thuế Việt Nam. Song song với quá trình thực hiện, Nhà nước tiếp tục sửa đổi bổ sung nội dung một số loại thuế quan trọng, cụ thể:
Đối với thuế GTGT: giảm xuống còn 3 mức thuế suất là 0%, 5% và 10%, bỏ thuế suất 20%. Mở rộng diện tích áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu. Bãi bỏ khấu trừ thuế đầu vào theo tỷ lệ % trên các chứng từ không phải hoá đơn GTGT, đơn giản hoá việc hoàn thuế GTGT…thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Đối với thuế TNDN: Đề ra các mức ưu đãi thuế cao nhất là 10%, 15%, 20% để thống nhất cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mở rộng các khoản chi phí hơp lý cho phù hợp với thực tế và cho phép khấu hao nhanh tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, thúc đẩy đầu tư kinh tế.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao: Thực hiện bãi bỏ thuế suất cao 50% trong biểu kinh tế, mở rộng khoảng cách thu nhập chịu thuế trong từng bậc thuế suất và giảm dần trong khoảng cách mức chịu thuế thu nhập của trong và ngoài nước cho phù hợp với mức sống thực tế và mọi khó khăn của người dân.
Trên đây là một số thành tựu đạt được trong việc ban hành và sửa đổi chính sách thuế để thuế trở thành công cụ tốt góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
3.2.Những tồn tại của hệ thống chính sách thuế
Hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện hành sau cải cách lần 1 và lần 2 đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế chủ yếu:
Hệ thống chính sách thuế hiện hành chưa bao quát được hết đối tượng chịu thuế, nộp thuế trong nền kinh tế (thuế GTGT, TNDN, TTĐB).
Cơ cấu các loại thuế trong hệ thống chính sách thuế chưa phù hợp với nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh nhiều vướng mắc.
Chậm sửa đổi bổ sung các loại thuế không còn phù hợp trong điều kiện nền KTTT (thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất, chuyển quyền sử dụng đất).
Nội dung các chính sách thuế chưa nhất quán và còn khá phức tạp gây gian lận, tham ô hay trốn thuế.
Chưa kịp xây dựng các loại thuế mới để điều tiết các nguồn thu mới phát sinh trong nền KTTT (thuế di sản, thuế tặng phẩm, thuế môi trường, thuế nhà ở…)
Chính sách thuế điều tiết chưa bao quát nguồn thu làm phân bổ lại nguồn lực sản xuất, phân phối thu nhập làm cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, hạn chế sức cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động kinh tế xã hội.
Đa số các luật thuế còn nhiều thuế suất, chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế còn rộng rãi, quản lý lỏng lẻo, chính sách thuế còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội làm hạn chế tính trung lập của thuế.
Các mặt hạn chế này cần tập trung nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện hệ thống chính sách thuế tối ưu nhất đem lại nhiều lợi thế thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển.
Như vậy, với tình hình sử dụng công cụ thuế như trên kết hợp với các chính sách kinh tế mới của Nhà nứoc như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật doanh nghiệp, luật hợp tác xã…đã kích thích nguồn lực trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình thực hiện đầu tư sản xuất, kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho lực lượng lao động tăng thu nhập, mở rộng khả năng tiêu dùng, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao theo xu hướng tăng trưởng bền vững.
Chương III
Một số ý kiến đề xuất đổi mới hoàn thiện chính sách thuế góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
việt nam trong giai đoạn hiện nay
Để thúc đẩy nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh theo định hướng của Nhà nước thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế nước ta, hệ thống chính sách thuế đóng vai trò quan trọng và nhạy cảm trong các lĩnh vực, thu hút vốn đầu tư, phân phối và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế, khai thác thế mạnh của từng vùng, đẩy mạnh xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước cần phát huy những kết quả đã đạt được trong cải cách thuế bước 1 và bước 2, khắc phục những hạn chế để hoàn thiện chính sách thuế đảm bảo có hiệu quả đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế đất nước và phù hợp với tình hình quốc tế.
1. Xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ và hợp lý
Hệ thống thuế phải điều tiết bao quát được nguồn thu phát sinh trong nhền KTTT, phải trở thành công cụ quan trọng cho Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, xây dựng thêm một số loại thuế mới phù hợp với tình hình nước ta thông qua các biện pháp như:
1.1. Xác định mối quan hệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Nhằm khai thác tác đông đặc trưng của từng loại thuế trong đó sử dụng thuế gián thu để tác động đến nhu cầu tiêu dùng của xã hội, qua đó tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Sử dụng thuế trực thu để điều tiết thu nhập của dân cư tác động đến tích luỹ tư bản sử dụng vào đầu tư công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất, động viên một phần thu nhập xã hội vào Ngân sách Nhà nước phục vụ cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
1.2. Số thu từ thuế phải đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết hợp lý của Nhà nước và giành một phần cho tích luỹ
Thông qua việc thực hiện phân phối lại nhằm điề hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, nhằm đầu tư vào hạ tậng kinh tế-xã hội để tạo ra một nguồn lực kinh tế vừa có tính đột phá, vừa có tính tiềm năng trong xã hội và có khả năng tác động mạnh mẽ đến hoạt động của nền kinh tế quốc gia.
1.3. Hệ thống thuế phù hợp với tình hình kinh tế đảm bảo nhu cầu thiết yếu của xã hội
Xây dựng hệ thống thuế đồng bộ có cơ cấu hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thông qua công cuộc cải cách thuế giai đoạn 3 từ 2001 và đang tích cực triển khai thực hiện đến năm 2010 đã được Thủ tưởng Chính phủ thông qua và Bộ Tài Chính phê duyệt, nhằm chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước góp phần thực hiện bình đẳng và công bằng xã hội.
Chính sách thuế phải phù hợp với tiến trình hội nhập, thực hiện bảo hộ hợp lý có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển đảm bảo lợi ích quốc gia.
Cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản hoá, minh bạch công khai, tách dần chính sách xã hội khỏi chính sách thuế.
Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao đội ngũ cán bộ công chức ngành thuế. Đẩy mạnh cải cách hành chính thuế thông qua ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế; xây dựng các quy trình quản lý thuế tiến bộ chuẩn mực khắc phục những hiện tượng tiêu cực yếu kém trong quản lý, hạn chế thấp nhất các hành vi gian lận thuế, chống thất thu Ngân sách Nhà nước thực hiện công khai dân chủ trong công tác quản lý thuế.
2. Thay đổi mức thuế suất
Đây là phương pháp quan trọng trong quá trình Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế thông qua việc đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào các ngành nghề, các vùng kinh tế. Thuế sẽ tác động đến quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các chủ thể kinh tế, giữa các ngành, các vùng, các tầng lớp dân cư làm thay đổi lợi ích kinh tế của họ. Điều này tất yếu sẽ làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc gia theo định hướng của Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội giúp cho các thành phần kinh tế yên tâm đầu tư và nâng cao ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế.
3. áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế
Nhà nước áp dụng các chính sách miễn giảm thuế cho một số ngành nghề, vùng lãnh thổ mà Nhà nước cần đầu tư phát triển nhanh hơn. Thông qua chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CFPT) được các thành viên ASEAN ký kết năm 1992 hoàn thành vào năm 2002. Tuy nhiên với thành viên mới của ASEAN như Việt Nam có cam kết sẽ tối đa hoá số dòng thuế có lãi vào năm 2003 và đạt 0% vào năm 2006.
Đi đôi với việc giảm thuế nhập khẩu, Bộ Tài Chính cũng rà soát và kiến nghị Chính Phủ xoá bỏ các quy định về thuế trái với cam kết quốc tế như: chống phân biệt đối xử quốc gia, xoá bỏ dần các hàng rào thuế quan, xoá bỏ dần việc dùng giá tối thiểu để tính thuế nhập khẩu thay bằng trị giá hải quan theo Hợp đồng thương mại.
Thông qua ưu đãi thuế nhằm khuyến khích sự chuyển dịch và khai thác cao độ các nguồn lực kinh tế, thúc đẩy phát triển nhanh sức sản xuất, thu hút vốn đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, giúp Nhà nước điều tiết kinh tế một cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của cục diện nền kinh tế để có thể đạt được mục tiêu đề ra.
4. Các giải pháp bãi bỏ, sửa đổi bổ sung các luật thuế cũ và ban hành luật thuế mới
4.1. Bãi bỏ các chính sách thuế không phù hợp
Thực hiện bãi bỏ luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, pháp lệnh nhà đất vì các chính sách này không phù hợp với giai đoạn hiện nay.
4.2. Sửa đổi bổ sung đồng loạt các thuế hiện hành
Đối với thuế GTGT: Cần giảm bớt số lượng hàng hoá dịch vụ không chịu thuế. áp dụng thống nhất một mức thuế suất khoảng 10% đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản hoá trong cách tính thuế, tiến tới hoàn thiện ngưỡng doanh thu chịu thuế GTGT để thực hiện khấu trừ phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đối với thuế TTĐB: Tiếp tục bổ sung đối tượng nộp thuế, tiến tới xoá bỏ miễn giảm thuế, không phân biệt đối xử hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá nhập khẩu.
Đối với thuế xuất nhập khẩu: Tiếp tục thực hiện theo CEPT/AFTA để đến năm 2010 có 80% dòng thuế có thuế suất 0%. Thực hiện các cam kết quốc tế khác đã ký kết, thu gọn mức thuế nhập khẩu xuống khoảng 6 mức. Xoá bỏ hoàn toàn việc miễn giảm thuế nhập khẩu sao cho phù hợp với luật Hải quan.
Đối với thuế TNDN: Giảm mức thuế suất phổ thông xuống còn 25% và sau 2010 có thể áp dụng ở mức 20%. Chuyển các ưu đãi giảm, miễn thuế sang thực hiện các giải pháp tài chính khác.
Đối với thuế thu nhập cá nhân: Cần nhanh chóng thay thế pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao bằng Luật thuế thu nhập cá nhân hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, bổ sung thu nhập của các hộ kinh doanh cá thể, thu nhập của những người hành nghề độc lập, thu nhập từ cho thuê tài sản, cho vay vốn, lãi cổ phần, tiền gửi ngân hàng…; thu hẹp sự khác biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài.
4.3 Ban hành các luật thuế mới
Cần ban hành các luật thuế mới có hiệu lực trong năm 2006 như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế phân biệt đối xử, thuế nhà ở… Đến năm 2008 phải ban hành luật thuế bảo vệ môi trường và thuế tài sản đúng với chương trình cải cách thuế như đã dự định trong quyết định 201/2004/QĐ-TTG.
Kết luận
Phát triển kinh tế là vấn đề được đặc biệt quan tâm ở mỗi quốc gia. Đánh giá vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và mức sống của mỗi người dân đất nước đó đều thông qua khả năng phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đó. Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội, đang từng bước hoà mình vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nên việc ưu tiên phát triển kinh tế là tất yếu. Việc đánh thuế của Nhà nước dù dưới hình thức nào cũng gây ra những tác động lớn đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Hiểu rõ những tác động của thuế đối với nền kinh tế nói chung và với từng chủ thể nói riêng có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách thuế, đặc biệt trong giai đoạn chuyển sang nền Kinh tế thị trường như nước ta.
Qua bài viết này em hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé của mình để khái quát về tình hình sử dụng thuế nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời em cũng đưa ra một số ý kiến đề xuất đổi mới và hoàn thiện chính sách thuế nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trong thời gian tới.
Hà Nội, tháng 2 năm 2007
Sinh viên
Phạm Linh Giang
Lớp K43-01-01
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Kinh tế học vĩ mô
Giáo trình Kinh tế phát triển
Giáo trình Lý thuyết thuế
Giáo trình Nghiệp vụ thuế
“Tăng trưởng kinh tế Việt Nam-Những rào cản cần vượt qua”, Nhà xuất bản Lý luận chính trị 2005.
“Chính sách thuế hội nhập của Việt Nam”, Trang Web Bộ Tài Chính, tháng 1 năm 2005
Nội san Nghiên cứu khoa học sinh viên số 1/2006/HVTC
Tạp chí Kinh tế phát triển số 115, tháng 1 năm 2007
Tạp chí Thuế Nhà nước số 36, kỳ 4, tháng 9 năm 2006; số 78, kỳ 1, tháng 2 năm 2006.
Tạp chí Cộng sản số 771, tháng 1 năm 2007
“Cắt giảm thuế quan theo lộ trình CEPT/AFTA tác động như thế nào đến giá cả, sản xuất và thu Ngân sách Nhà nước”, tác giả Nguyễn Đăng Nam, Tạp chí Tài chính số 10 năm 2003.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0091.doc