Uỷ ban Châu Âu đưa ra định nghĩa như sau: "Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền số liệu điện tử dưới dạng chữ, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử gồm nhiều hành vi trong đó có hoạt động mua bán hàng hoá qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu địên tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng (hậu mãi). Thương
mại điện tử được thực hiện đối với cả thương mại hàng hoá (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ ( ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính), các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục) và các hoạt động mới (như siêu thị ảo).
93 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1052 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương mại điện tử ở nhật bản và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh từ việc áp dụng thương mại điện tử, đó là những nỗ lực của chính phủ Nhật Bản để sửa chữa những bất cập của luật hiện hành.
Trong dự thảo luật cơ bản về việc thành lập xã hội thông tin tiên tiến (luật cơ bản IT - Information Technology) được ban hành 29/10/2000 và bắt đầu có hiệu lực từ 06/01/2001. Trong đó có quy định rằng “ Việc thiết lập xã hội thông tin tiên tiến phải nhằm mục đích xúc tiến thương mại điện tử “. Dự thảo luật cũng đưa ra những chính sách và những biện pháp cần thiết để xúc tiến thương mại điện tử như xem lại các quy định cũ, tạo lập những quy định mới nhằm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ người tiêu dùng.
Về luật hợp đồng: trước đây hợp đồng được điều chỉnh bởi luật dân sự và không cần có hình thức nào. Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, một vài luật đặc định như luật bán hàng trả góp có quy định người bán hàng phải có nghĩa vụ cung cấp một văn bản quy định rõ về một số điều khoản quan trọng như tổng giá trị của hợp đồng, số tiền trả từng lần, phương pháp thanh toán và thời hạn thanh toán. Ngày 27/10/2000, một dự thảo luật sửa đổi luật hợp đồng đã được quốc hội thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ 01/4/2001, trong đó có quy định rõ tuỳ theo thoả thuận của các bên tham gia mà người bán, người mua có thể sử dụng một số phương tiện điện tử thay cho giấy tờ.
Trong bối cảnh Internet phát triển mạnh mẽ, việc bí mật thông tin riêng tư của các cá nhân sẽ dễ dàng bị tiết lộ. Dự thảo luật đưa ra một số các quy định như: Việc thu thập và xử lý thông tin bí mật về các cá nhân phải phù hợp với mục đích sử dụng thông tin. Quá trình thu thập các thông tin bí mật phải được tiến hành theo cách thức thích hợp, cấm việc tiết lộ thông tin cá nhân và phải đính chính các thông tin nếu các thông tin này bị sai lệch.
Về luật chữ ký điện tử và luật đăng ký thương mại : Khi một người thực hiện các giao dịch với một bên khác, thì việc xác nhận sự chứng thực của bên kia là một việc làm cần thiết. Điều này là rất khó trong thương mại điện tử bởi có thể tạo ra chứng thực giả bằng cách thay đổi các dữ liệu thông tin thông qua Internet. Tuy nhiên ở Nhật Bản trước đó không có một luật nào quy định chữ ký điện tử và việc kinh doanh chứng thực điện tử có hiệu lực pháp lý. Luật chữ ký điện tử được ban hành đã quy định rõ chữ ký điện tử sẽ có hiệu lực pháp lý giống như chữ ký và con dấu thông thường trong giao dịch thương mại truyền thống. Chính phủ Nhật Bản đang phải nỗ lực tiến hành nghiên cứu, phổ biến, giáo dục cho công chúng về chữ ký điện tử và kinh doanh chứng thực. Bên cạnh đó, theo luật đăng ký thương mại , một công ty buộc phải đăng ký con dấu công ty và một số thông tin quan trọng khác về công ty như: tên, địa chỉ trụ sở chính.... Thậm chí nếu các thông tin mà công ty cung cấp là thông tin giả tạo thì các bên tham gia kinh doanh với công ty này sẽ được bảo vệ tuỳ theo mức độ thiệt hại mà các thông tin này gây ra cho đối tác.
iii. Quy mô tăng trưởng thị trường thương mại điện tử B to C từ 1999 đến 2004 ở Nhật Bản:
Bằng các phương pháp điều tra, thăm dò tới các công ty kinh doanh trang web thương mại điện tử , các nhà cung cấp dịch vụ phục vụ cho thương mại điện tử kết hợp với những thông tin thu thập được từ các lần điều tra trước người ta đã phân tích và đưa ra những con số thống kê về quy mô thị trường thương mại điện tử ở Nhật Bản năm 1999 và dự báo cho những năm tiếp theo. Các con số này là kết quả của việc thu thập, phân tích các thông tin kết quả kinh doanh, mục tiêu kinh doanh và thị phần thương mại điện tử trong những năm gần đây của các công ty thương mại điện tử.
Năm 1999 có thể nói là năm thương mại điện tử chính thức cất cánh ở Nhật Bản. Quy mô thị trường thương mại điện tử B to C năm 1999 đạt 248 tỷ yên chưa bao gồm bất động sản (nếu tính cả bất động sản là 336tỷ yên), năm 2000 đạt 773 tỷ yên, năm2001 là 1.534 tỷ yên. Nếu xét từng nhóm mặt hàng thì tỷ trọng lớn nhất là bất động sản và ô tô, chiếm khoảng 1/2 quy mô toàn thị trường, tiếp theo đó là mặt hàng máy tính cá nhân và du lịch.
Biểu: Quy mô tăng trưởng thị trường thương mại điện tử ở Nhật Bản
(1999-2004)
Dự đoán đến năm 2004 quy mô thị trường thương mại điện tử B to C tăng trưởng mạnh. So với năm 1999, năm 2004 sẽ có xu hướng giảm ở mặt hàng ô tô, bất động sản, PC và có xu hướng tăng ở những mặt hàng khác như: quà tặng, dịch vụ, du lịch Điều này chứng tỏ thương mại điện tử sẽ có xu hướng phát triển cả về chiều sâu ở Nhật. Biểu đồ sau sẽ cho thấy rõ điều đó.
Biểu 2: Quy mô thị trường thương mại điện tử theo mặt hàng năm 1999
Biểu 3: Quy mô thị trường thương mại điện tử theo mặt hàng dự đoán
đến năm 2004
Trong các nhóm mặt hàng thì nhóm có quy mô tăng trưởng lớn nhất là bất động sản và ô tô. Đây là hai mặt hàng có đóng góp rất nhiều trong việc tăng quy mô thương mại điện tử tổng thể. Tiếp theo đó là các mặt hàng như máy tính cá nhân, du lịch...
Về tỷ lệ thương mại điện tử hóa (mức độ xâm nhập của thương mại điện tử vào mặt hàng đó) thì mặt hàng PC có tỷ lệ thương mại điện tử hóa cao nhất (3,6%) năm 1999, tiếp đến là sách đĩa CD 0.3%, ô tô 0.9%,du lịch 0.15%, tài chính 0.2%.
Biểu4: Tỷ lệ thương mại điện tử hoá theo nhóm mặt hàng (1999)
Trong các mặt hàng, người ta cũng đưa ra mức độ thực hiện thương mại điện tử hoàn toàn qua Internet như sau
Biểu 5 : Tỷ lệ thương mại điện tử thực hiện qua Internet.
Quy mô và thị trường thương mại điện tử thực hiện hoàn toàn qua Internet năm 1999 đạt 140 tỷ yên chiếm 42% tổng thể quy mô thị trường thương mại điện tử.
Đối với mặt hàng ô tô và bất động sản chỉ dừng lại ở việc trao đổi tìm kiếm thông tin nên không coi là thương mại điện tử thực hiện hoàn toàn trên mạng (tỷ lệ thương mại điện tử thực hiện qua Internet là 0%). Như ở trên đã nói, đây là hai mặt hàng có giá trị lớn nên đòi hỏi phải thận trọng khi ra quyết định mua và kèm theo đó là những thủ tục phức tạp nên việc mua bán trực tiếp là rất quan trọng. Tuy nhiên, việc tìm kiếm, thu thập các thông tin ban đầu là rất cần thiết và Internet đã tỏ rõ vai trò và tính hữu ích của mình. Tài chính và dịch vụ là hai mặt hàng có tỷ lệ thương mại điện tử thực hiện qua Internet khá cao khoảng 94%. Việc giao dịch trên Internet được diễn ra từ khâu cung cấp, tìm kiếm thông tin cho đến khâu thanh toán.
Như vậy, có thể thấy rằng tùy từng đặc tính của sản phẩm, dịch vụ mà cách áp dụng và mức áp dụng Internet cũng khác nhau. Vì thế việc liên kết giữa các nhà kinh doanh thương mại điện tử với các cửa hàng thực sự một cách chặt chẽ là vô cùng quan trọng. Bởi sự liên kết này sẽ có tác động trực tiếp đến hiệu quả của việc khai thác tính hữu dụng của Internet nói chung và thương mại điện tử nói riêng, hơn thế nữa nó sẽ phát huy được hết khả năng của các cửa hàng thực sự góp phần làm cho thương mại điện tử ngày càng phát triển hơn nữa.
Qua những số liệu trên có thể thấy rằng thương mại điện tử ở Nhật Bản đã có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên do một số nghuyên nhân như tập quán thương mại, thói quen tiêu dùng, mà thương mại điện tử Nhật Bản không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Chính phủ Nhật Bản đã và đang nỗ lực không ngừng để khắc phục những hạn chế này đồng thời phát huy những thành quả đã đạt được cũng như những khả năng tiềm tàng của đất nước, con người Nhật Bản biến thương mại điện tử trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế Nhật Bản.
Chương iii
Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam
i. thực trạng thương mại điện tử ở Việt Nam
1. Sự cần thiết khách quan vận dụng thương mại điện tử vào nước ta
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin mà cụ thể là sự ra đời của Internet và thương mại điện tử đã đem lại sự biến đổi sâu sắc về kinh tế, sự thay đổi căn bản về xã hội, đặc biệt nó được coi là nhân tố chủ đạo tạo ra cuộc cách mạng trong thương mại. Thương mại điện tử đang có xu hướng tăng nhanh về quy mô cũng như phát triển cả về chiều sâu trên bình diện toàn cầu. Đa số các nước phát triển đã sử dụng thương mại điện tử trong hoạt động thương mại song phương và đa phương. Điều đó buộc các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam phải nhanh chóng ứng dụng thương mại điện tử nếu không muốn bị cô lập trong thế giới sôi động này.
Chúng ta phải khẳng định, Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn nhiều mặt yếu kém và hiện đang xếp vào một trong các nước nghèo trên thế giới. Đây là một thực tế mà Chính phủ cũng như mọi doanh nghiệp, mọi người dân quan tâm đến sự phồn thịnh của đất nước đang phải đối mặt với câu hỏi: Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa nước ta với các nước phát triển? Đã có nhiều chính sách, biện pháp cùng được triển khai để trả lời câu hỏi này mà thương mại điện tử là một trong số đó. Ngoài việc được đánh giá là cuộc cách mạng trong thương mại, thương mại điện tử được coi là một công cụ hữu ích cho các nước đang phát triển vận dụng nhằm thu hẹp tiến tới đuổi kịp các nước phát triển.
Bên cạnh đó, thương mại điện tử còn là một giải pháp kích cầu hữu hiệu để nâng cao sức mua đang giảm sút ở nước ta do tác động của cuộc suy thoái nền kinh tế thế giới. Việc áp dụng và phát triển thương mại điện tử sẽ có tác động kéo theo sự phát triển của một loạt các ngành khác như sản xuất, dịch vụ, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế,... và hệ quả là tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, tăng sức mua của người dân, tạo đà cho toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Sự cần thiết khách quan vận dụng thương mại điện tử vào Việt Nam không chỉ xuất phát từ những lợi ích tiềm tàng thương mại điện tử mang lại mà còn là một đòi hỏi khách quan của quá trình mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam là thành viên của APEC, ASEAN và đang xúc tiến việc gia nhập WTO. Hiện nay, APEC đang xây dựng " Chương trình hành động chung" cho các nước thành viên nhằm thực hiện thương mại điện tử. Bộ trưởng kinh tế các nước trong khối ASEAN cũng đã chính thức đề nghị các chính phủ chỉ đạo cho bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng triển khai thương mại điện tử. Tháng 11 năm 2000, thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã thay mặt chính phủ ta ký " Hiệp định khung Asean". Một khi Việt Nam muốn tham gia vào diễn đàn chung của tổ chức khu vực và thế giới với tư cách một thành viên đầy đủ thì tất yếu phải tham gia vào thương mại điện tử.
2. Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về thương mại điện tử
Trong 4 năm trở lại đây, cùng với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, việc phổ cập Internet ở Việt Nam, thương mại điện tử đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ và nhều cấp Bộ ngành. Muốn tồn tại và phát triển hơn nữa, thương mại điện tử phải dựa trên một nền tảng cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ thông tin đủ mạnh, một môi trường pháp lý đầy đủ đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi đặt ra. Do đó, quan điểm chủ trương tích cực của Đảng và Nhà nước về phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống chính sách, khung pháp lý, cơ sở hạ tầng cho thương mại điện tử đồng nghĩa với việc tạo tiền đề cho thương mại điện tử phát triển.
Ngày 05/3/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định thành lập Ban điều phối quốc gia mạng Internet ở Việt Nam. Dới sự chỉ đạo của Ban điều phối quốc gia, dịch vụ Internet ở Việt Nam đã chính thức được khai trương ngày 19/11/1997. Đây thực sự là bước ngoặt đối với nền công nghệ thông tin nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Hoà nhập vào mạng thông tin toàn cầu Internet cũng đồng nghĩa với việc tạo sự sống cho thương mại điện tử trên bộ khung công nghệ thông tin.
Nhận thức của toàn xã hội về vai trò và ý nghĩa quan trọng của công nghệ thông tin đã được nâng lên một bước. Nguồn nhân lực về công nghệ thông tin tăng lên đáng kể. Viễn thông đang phát triển theo hướng hiện đại hoá. Nghị quyết số 07/2000/NQ-CP ngày 05/6/2000 của Chính phủ về xây dựng và phát triển công nghệ phần mềm giai đoạn 2000-2005 đang và sẽ tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, kinh doanh , sản xuất và cung ứng dịch vụ phần mềm.
Ngày 17/10/2000, Bộ chính trị đã ra chỉ thị số 58- CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Đây là một tiền đề tạo nhiều thuận lợi cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở cho thương mại điện tử.
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao - Thương mại APEC lần thứ 12 tổ chức tại Brunei từ 12- 13/11/2000 thừa nhận: " Một mặt, cuộc cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông trong nền kinh tế mới sẽ mang lại nhiều cơ hội về tăng trưởng kinh tế cho cả các nền kinh tế APEC phát triển và đang phát triển; mặt khác, khoảng cách về kỹ thuật số cũng có thể nới rộng sự khác biệt về kinh tế xã hội trong khu vực APEC". Về thương mại điện tử,
hội nghị cho rằng: "đây là yếu tố quan trọng để tạo nên cơ hội mới" và nhấn mạnh "cần tăng cường các hoạt động nâng cao năng lực, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ hệ thống mạng, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho thương mại". Hội nghị đã thông qua một số các sáng kiến về nền kinh tế mới và thương mại điện tử, trong đó sáng kiến của Việt Nam về xây dựng "Hướng dẫn của APEC về ban hành khuôn khổ pháp lý về thương mại điện tử". Sáng kiến này nhằm thúc đẩy sự trợ giúp của APEC trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh thương mại điện tử ở Việt Nam. Việt Nam đã xây dựng và đệ trình sáng kiến này từ hội nghị SAM III/2000 và đã được các thành viên ủng hộ trong hội nghị Bộ trưởng lần này.
Ngày 24/11/2000 tại Singapore, Thủ tướng Phan Văn Khải đã thay mặt Chính phủ Việt Nam cùng các đơn vị đứng đầu các nước thành viên ASEAN ký "Hiệp định khung e-ASEAN" nhằm phát triển không gian điện tử và thương mại điện tử.
Tại "Hội thảo Kế hoạch tổng thể phát triển công nghệ thông tin Việt Nam 2001-2005" trong khuôn khổ "Tuần lễ tin học lần thứ X" được tổ chức từ ngày 06 đến ngày 10/9/2001 một lần nữa nhấn mạnh chủ trương của Chính phủ trong việc đẩy mạnh triển khai thương mại điện tử.
Đảng và Nhà nước đã có cách nhìn nhận rất đúng đắn về tầm quan trọng của việc vận dụng và phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Từ đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách cụ thể tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích thương mại điện tử bước đầu phát triển ở nước ta. Trong tương lai, thương mại điện tử sẽ được từng bước áp dụng vào mọi hoạt động của nền kinh tế.
3. Những kết quả bước đầu trong quá trình triển khai thương mại điện tử và những vấn đề còn tồn tại:
3. 1. Những kết quả đã đạt đuợc:
Trong năm 1999, nước ta đã tổ chức hai cuộc Hội thảo quốc tế về chủ đề thương mại điện tử (tháng 3 và tháng 6) nhằm tập hợp những thông tin đa chiều và xác lập một khung vấn đề nhằm hiện thực hóa thương mại điện tử ở nước ta.
Nhằm định hướng tiếp cận, vận dụng thương mại điện tử một cách có hệ thống, đúng hướng trên góc độ tiếp cận quản trị chiến lược quốc gia, Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại chủ trì, phối hợp với một số Bộ ngành có liên quan nghiên cứu và soạn thảo một số khung chỉ dẫn mang tính định hướng quốc gia, cụ thể:
Đề án thành lập Hội đồng quốc gia về TMĐT- Bộ Thương mại tháng 4/1999
Phương án từng bước tham gia và áp dụng TMĐT - Bộ Thương mại và Tổng cục Bưu điện tháng 4/1999
Tháng 6/1999, Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại chủ trì “Dự án quốc gia Kỹ thuật thương mại điện tử. Dự án này bao gồm 14 tiểu dự án, bao quát các mặt hạ tầng cũng như các đòi hỏi của thương mại điện tử, đồng thời với các hoạt động đi kèm như nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng và thử nghiệm. Dự án này được triển khai với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, tổ chức có liên quan, đã hoàn thành vào tháng 6/2001. Dự án cung cấp một hệ thống các luận cứ khoa học và thực tiễn khá toàn diện nhằm xử lý đồng bộ nhiều vấn đề về triển khai ứng dụng TMĐT vào Việt Nam.
Ngày 23/08/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 55/2001/NĐ - CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet. So với Nghị định 21/CP trước đây, một trong những nội dung rất mới của Nghị định 55/CP là xem Internet như một môi trường cho sự phát triển Kinh tế – Xã hội. Lần đầu tiên, qua Nghị định 55/CP chúng ta cho phép mở tất cả các cổng dịch vụ trên tổng số hơn 60.000 dịch vụ. Trong 3 năm qua, do yêu cầu thực tiễn chúng ta đã nêu lên giới hạn ấy nhưng chưa được thông qua chính thức. Kỳ này Nghị định mới cho phép mở tất cả các cổng dịch vụ chỉ hạn chế một số cổng xét thấy có nguy hại. Nghị định 55/CP được coi là một sự kiện quan trọng góp phần tháo gỡ rào cản cho sự phát triển Internet nói chung cũng như thương mại điện tử nói riêng.
Từ tháng 6 đến tháng 9/2001, Phòng Thương mại và Công nghiệp (VCCI) phối hợp cùng Công ty Viễn Tin (VTC) đã tổ chức được ba khóa học về “thương mại điện tử cho các nhà doanh nghiệp” miễn phí. Sau 3 khóa học, tổng cộng có hơn 100 doanh nghiệp trong nước được trang thiết bị kiến thức cơ bản về xúc tiến thương mại điện tử. Ngoài ra, VCCI còn kết hợp với nhiều tổ chức, doanh nghiệp khác liên tục tổ chức các tuần lễ tin học, diễn đàn công nghệ thông tin, Vietnam Computerworld Exponhằm nâng cao kiến thức của các tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp về TMĐT.
Tại “Hội thảo TMĐT Việt Nam và tiến trình hội nhập ASEAN” được tổ chức ngày 7/9/2001 tại Hà Nội trong tuần lễ tin học lần X, Thứ trưởng Bộ Thương mại Lê Danh Vĩnh cho biết chính phủ đã yêu cầu Bộ Thương mại tiếp tục tổng hợp bổ sung các ý kiến cho “Đề án phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2001 - 2005, trong đó chủ trương thành lập một cơ quan điều hành quốc gia thương mại điện tử. Bộ Thương mại đang phối hợp với Bộ tư pháp tổ chức những nghiên cứu bước đầu về luật của các nước ASEAN liên quan đến thương mại điện tử. Dự kiến vào tháng 11/2001 sẽ tổ chức các khóa học về luật thương mại điện tử cho một số nhà làm luật để chuẩn bị xây dựng dự thảo.
Nghị định về thương mại điện tử.
Ngày 12/10/2001, Ngân hàng Công thương Việt Nam (INCOMBANK) và Công ty Điện toán và truyền số liệu (VDC) đã ký kết thỏa thuận hợp tác xây dựng hệ thống thanh toán điện tử qua Internet hướng tới phát triển dịch thương mại điện tử. VDC sẽ cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử cho các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ viễn thông không phải chuyển khoản qua hệ thống ngân hàng và trả bằng tiền mặt hay séc, các doanh nghiệp trả tiền thông qua hệ thống thanh toán trên mạng chỉ cần vào website thanh toán của VDC và thực hiện chuyển khoản các khoản chi về dịch vụ viễn thông cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông.
Nắm bắt nhanh nhạy tình hình, một số doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội thời gian qua đã sử dụng phương tiện Internet để quảng cáo hàng trên Website, bước đầu nhận được một số hợp đồng làm ăn từ đối tác nước ngoài. Mạnh dạn hơn, một số doanh nghiệp triển khai bán hàng qua mạng, đi đầu là công ty Thiên Phát (TP Hồ Chí Minh) kết hợp với cửa hàng ảo Vietnam CyberMall trên mạng. Sự ra đời của CyberMall đã được hoan nghênh và đáp ứng cao từ phía các phương tiện thông tin đại chúng cũng như bản thân người tiêu dùng. Cùng với CyberMall, công ty FPT cũng đang chuẩn bị mở một siêu thị trên Internet với 15.000 mặt hàng (dụng cụ gia đình, thời trang, văn phòng phẩm) làm việc theo cơ chế đặt hàng qua mạng, chi phí cho đặt hàng theo cước điện thoại nội hạt 65 đồng/phút, thanh toán bằng tiền khi giao hàng tận nhà. Mới đây Trung tâm thương mại điện tử TVC (385 Hồ Văn Huê quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh) khai trương siêu thị ảo tại địa chỉ www.tvc.com.vn với mục tiêu cung cấp hàng hóa đến tận nhà theo đơn đặt hàng trên mạng. Ra đời sau nên siêu thị ảo của công ty Thương mại điện tử TVC hoạt động có hiệu quả hơn, thu hút được sự quan tâm của khách hàng do đúc rút được một số kinh nghiệm từ các doanh nghiệp đi trước. Ban lãnh đạo công ty cũng có kế hoạch mở rộng mạng lưới kho phân phối hàng cho siêu thị.
TVC là điển hình cho sự thành công khi kinh doanh trên mạng của các doanh nghiệp Việt Nam. Năm qua, Sony Vietnam cũng chính thức giới thiệu dịch vụ bán hàng trên mạng. Chỉ cần truy cập vào Website “SonyStyle.com.vn”, người mua có thể chọn lựa khoảng 15 sản phẩm khác nhau của Sony bao gồm 14 model tivi và 5 model giàn máy Hifi & VCD. Sau khi điền vào đơn đặt hàng, người mua sẽ nhận được thư trả lời nhận đặt hàng của Sony bằng e-mail, việc thanh toán có thể bằng thẻ tín dụng hoặc chuyển tiền qua ngân hàng. Sau vài ngày, công ty Sony sẽ chuyển hàng đến tận tay người nhận và việc vận chuyển này hoàn toàn miễn phí. Một số công ty máy tính như CMC, Thuận Quốc cũng đã thông qua việc thiết lập trang Web cho phép khách hàng mua hàng qua mạng. Không chỉ hàng hóa thông thường được đưa lên Internet, năm qua công ty Nhã Đạt (TP Hồ Chí Minh) đã xây dựng hình thức mua bán nhà qua mạng và gần đây, công ty đã chọn mặt bằng tại chuỗi siêu thị Co-opmart, mở mạng truy cập mua bán nhà miễn phí cho khách hàng đi siêu thị. Nhìn chung, việc áp dụng TMĐT vào kinh doanh đã bắt đầu trở lên sôi động, nhất là ở miền Nam.
3.2. Những vấn đề còn tồn tại:
Những hành động bước đầu về vận dụng thương mại điện tử trên là đặc biệt khích lệ, song qua một thời gian ngắn triển khai đã bộc lộ nhiều yếu tố gây "ách tắc", "xung đột" và như đánh giá của nhiều chuyên gia về tin học và kinh tế, những tổ chức trên mới chỉ dừng lại ở mức độ thí điểm cho thương mại điện tử ở Việt Nam, chưa hình thành đầy đủ về các mặt phát triển công nghệ thông tin, nguồn nhân lực cũng như hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội - pháp lý.
Theo con số thống kê của Tổng cục Bưu điện, đến tháng1/2000 ở Việt Nam có hơn 163,000 thuê bao Internet. Nếu tính cả số người dùng Internet thông qua các mạng dùng riêng ở các trường đại học, công ty...và bằng dịch
vụ Vnn 1269 thì ước tính có khoảng 500.000 người dân Việt Nam đã được làm quen và sử dụng Internet. Về cơ cấu khách hàng được thống kê, khách hàng người Việt Nam chiếm khoảng 70%, trong đó có hơn nửa là doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, con số bình quân 163,000 thuê bao Internet trên gần 80 triệu dân còn thua xa nhiều nước trong khu vực. Điều này chứng tỏ Internet Việt Nam còn phát triển chậm và kém phổ biến. Ví dụ Hong Kong với 6 triệu dân thì có tới 83.000 thuê bao, Singapore với 3 triệu dân có tới 67.000 thuê bao.
Cho tới nay có hơn 3.000 doanh nghiệp (trong số 50.000 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong cả nước) mở trang Web để giới thiệu hoạt động kinh doanh và mặt hàng của mình nhưng đa phần cũng chỉ giới thiệu về công ty như địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ e-mail, các mặt hàng kinh doanh chính..... chứ không phải là nơi tăng sức cạnh tranh, đẩy mạnh hoạt động. Một số doanh nghiệp đã tiến hành thí điểm kinh doanh thương mại điện tử nhưng còn nhiều bất cập. Ví dụ, siêu thị ảo Viet Nam CyberMall ra đời năm 1999 với hơn 500 mặt hàng. Lượng truy cập vào CyberMall khoảng 8.000 và có 30.000 đơn đặt hàng qua siêu thị nhưng số đơn đặt hàng mua bán thực sự thấp hơn nhiều. Việc bán hàng qua mạng lới chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng số các giao dịch mua bán. Phương thức thanh toán chủ yếu là trả tiền mặt, hệ thống thanh toán điện tử - công cụ không thể tách rời thương mại điện tử vẫn chưa được hình thành. Sau 4 năm tiến hành khai thác Internet hiện chỉ có hơn 1.000 doanh nghiệp có tên miền riêng (tên công ty.com.vn).
Trên bình diện xã hội, lề lối làm việc nói chung và cách mua bán hàng hoá nói riêng vẫn còn theo tập quán cũ: giao dịch trên giấy tờ, mua bán hàng hoá cần phải sờ tận tay,... nghĩa là khác biệt một cách cơ bản so với khái niệm thương mại điện tử, và đây là một thói quen không dễ thay đổi.
Trong bối cảnh chung như vậy, hệ thống pháp lý về thương mại điện tử của Việt Nam còn hết sức sơ khai, chưa có nền tảng cơ bản cho những hoạt
động rất mới này, các yếu tố của thương mại điện tử chưa được phản ánh trong hệ thống nội luật và hệ thống thuế. Chúng ta chưa xây dựng được văn bản luật liên quan tới giao dịch thanh toán điện tử, chữ ký điện tử, bảo vệ an toàn thông tin trên mạng, bản quyền, sở hữu trí tuệ,... Trong Bộ luật hình sự của chúng ta cũng chưa quy định các tội phạm trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, những khó khăn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như tốc độ truy cập Internet thấp, chi phí truy cập còn cao so với thu nhập cá nhân,... là những trở ngại không nhỏ cho việc phát triển thương mại điện tử. Hiện tại, cước phí Internet đã giảm nhưng vẫn cao gấp nhiều lần so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Khả năng ngoại ngữ (Tiếng Anh - ngôn ngữ chính trên Internet) còn hạn chế đã tác động đến khả năng tiếp cận giao tiếp với Internet của người tiêu dùng. Các dịch vụ trên mạng còn nghèo nàn, thông tin chậm cập nhật, chất lượng thông tin không cao làm giảm cảm hứng của người tiêu dùng.
Có thể nói những năm qua, thương mại điện tử Việt Nam mới đang ở giai đoạn " khởi động ".
II. Một số bài học kinh nghiệm của Việt Nam và phương hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo
Qua xem xét một số vấn đề về thương mại điện tử ở Nhật Bản, liên hệ với thực tế của thương mại điện tử ở Việt Nam ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cũng như các biện pháp nhằm phát triển thương mại điện tử trong thời gian tới.
Về phát triển nguồn nhân lực:
1.1. Nhận thức về thương mại điện tử:
Hiện nay mức độ nhận thức của người dân Việt Nam đối với hoạt động thương mại điện tử vẫn còn thấp. Xét trên bình diện toàn quốc, vẫn chưa hình thành được nhận thức về thương mại điện tử như một hình thái hoạt động trong xã hội. Hầu hết mọi người vẫn chỉ coi thương mại điện tử là việc buôn bán qua mạng và chưa coi thương mại điện tử là một lĩnh vực kinh doanh của mình. Theo đánh giá chung thì hoạt động phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức về thương mại điện tử cho người dân là hoạt động có tính chất quyết định, nhất là trong giai đoạn đầu đưa thương mại điện tử vào đời sống kinh tế. Hiện nay không chỉ riêng ở Việt Nam mà cả các quốc gia được coi là tiên tiến trên thế giới, hoạt động nhằm nâng cao nhận thức về thương mại điện tử cho người dân vẫn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Đối với Việt Nam không phải bây giờ hoạt động này mới được triển khai. Tuy nhiên trớc đây do nhận thức chưa đầy đủ nên các hoạt động phổ cập kiến thức về thương mại điện tử thông qua các phương tiện thông tin đại chúng chỉ nghiêng nhiều về quảng cáo hoặc có chăng chỉ đề cập đến thương mại điện tử ở một phương diện nào đó. Để có thể tạo ra được một cái nhìn chính xác và đầy đủ về thương mại điện tử cho mỗi người dân, chúng ta cần phải thực hiện một số các biện pháp cụ thể sau:
-Cùng với quá trình phát triển văn hóa, giáo dục, Chính phủ cần quan tâm triển khai các chương trình nâng cao nhận thức về thương mại điện tử cho người dân, xây dựng và tổ chức các chương trình đào tạo cấp tốc đội ngũ chuyên gia tin học và thương mại điện tử.
- Đưa các kiến thức về thương mại điện tử vào chơng trình giáo dục tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, đặc biệt quan tâm ở các trường thuộc khối kinh tế , công nghệ thông tin.
- Phổ biến rộng rãi các kiến thức về thương mại điện tử trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình. Có các biện pháp khuyến
khích, hỗ trợ cho các công tác biên soạn và phát hành các tài liệu có liên quan
đến thương mại điện tử.
- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh sử dụng thương mại điện tử trong giao dịch kinh tế để từ đó họ thấy được bản chất và lợi ích của việc sử dụng thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Nội dung của tất cả các hoạt động phổ biến kiến thức về thương mại điện tử phải đặt ra yêu cầu là đề cập một cách rõ ràng và hoàn chỉnh về thương mại điện tử. Những nội dung thông tin cung cấp phải chứa đựng đầy đủ về các mặt như: quy định về luật pháp, những yêu cầu về mặt thiết bị, công nghệ, yêu cầu về kỹ năng sử dụng, cách thanh toántránh tình trạng cung cấp thông tin một cách không đầy đủ gây nên việc lúng túng khi áp dụng trong thực tế.
1.2. Đào tạo kỹ năng:
Tuy kỹ năng không phải là một vấn đề phức tạp trong thương mại điện tử song nó lại là khâu quyết định đến sự thành công hay thất bại của việc đưa thương mại điện tử vào đời sống kinh tế của mỗi quốc gia. Với Việt Nam có thể coi đây là một vấn đề lớn trong quá trình ứng dụng thương mại điện tử vì một số lý do sau:
Thứ nhất, phần lớn đội ngũ cán bộ trong các cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp chưa có kỹ năng sử dụng máy tính một cách thành thạo, đây là một cản trở rất lớn, bởi vì chỉ khi nào chính bản thân những nhà lãnh đạo, những cán bộ chủ chốt nhận thức được những nghiệp vụ của thương mại điện tử thì lúc đó thương mại điện tử mới thực sự đi nhanh vào đời sống kinh tế, xã hội của mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp. Thực tế là ở Việt Nam những người sử dụng thành thạo máy tính nói riêng và các thiết bị thông tin nói chung thường không phải là những người hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà chỉ đơn thuần là những người hoạt động trong lĩnh vực kỹ thuật, do vậy tuy
là chúng ta có một đội ngũ những người làm tin học khá nhưng những người thực sự có thể trực tiếp hoạt động trong thương mại điện tử thì còn rất thiếu. Vì vậy vấn đề hiện nay là cần phải đào tạo được một đội ngũ những người hoạt động trong lĩnh vực thương mại có kỹ năng sử dụng máy tính thành thạo, có khả năng tiếp cận và áp dụng được thương mại điện tử vào trong hoạt động kinh doanh của cơ sở mình.
Thứ hai, trong khi thương mại điện tử đã và đang rất phổ biến ở các quốc gia trên thế giới thì ở Việt Nam thói quen mua bán, giao dịch theo phương thức truyền thống trên giấy tờ vẫn là chủ yếu, giao dịch điện tử chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong giao dịch thương mại. Vì vậy, đây thực sự là một lực cản rất lớn đối với sự chấp nhận thương mại điện tử ở Việt Nam.
Đối với công tác đào tạo cần phải xác định rõ mục tiêu đào tạo là gì? đối tượng đào tạo và lực lượng đào tạo sẽ là ai và theo hình thức nào? từ đó xác định được kết quả đào tạo với từng đối tượng cụ thể. Thường xuyên mở các lớp, các khóa đào tạo về thương mại điện tử trong cả khu vực Nhà nước và cả khu vực tư nhân kết hợp với việc đào tạo kỹ năng cho các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực thông tin để có thể đáp ứng được những đòi hỏi của công nghệ thông tin hiện đại. Hàng năm có thể thuê các chuyên gia nước ngoài giảng dạy hoặc gửi cán bộ đi học ở nước ngoài để phục vụ cho việc triển khai ứng dụng thương mại điện tử.
2. Về cơ sở hạ tầng:
2.1. Hạ tầng pháp lý:
Một trong những vấn đề cần thực hiện trớc khi đưa thương mại điện tử vào hoạt động đó là phải tạo ra được một sự công nhận về mặt pháp lý cho nó. Đây là một vấn đề có tính bắt buộc đối với tất cả các quốc gia khi tham gia vào thương mại điện tử bởi đây là tất cả những cơ sở về mặt pháp lý đảm bảo cho các hoạt động của thương mại điện tử được thực hiện một cách thông suốt và thống nhất. Thương mại điện tử có được chấp nhận và ứng dụng ở nước ta một cách an toàn và hiệu quả hay không thì một cơ sở pháp lý đủ mạnh để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, thương mại phát sinh trong lĩnh vực này là một điều kiện tiên quyết.
Trước hết, chúng ta cần khẩn trương và tâp trung rà soát lại toàn bộ hệ thống nội luật, các văn bản quy phạm pháp luật về thương mại và liên quan tới thương mại, các điều ước quốc tế, các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế – thương mại khu vực và thế giới, làm cơ sở đánh giá rằng hệ thống quy phạm pháp luật của ta hiện đã đáp ứng được những đòi hỏi gì của thương mại điện tử, những mặt nào cần phải bổ sung sửa đổi cho phù hợp, những mặt nào cần nghiên cứu, xây dựng tiến tới thể chế hoá thành luật, các văn bản dưới luật và một hệ thống chính sách, cơ chế đi kèm nhằm thực tiễn hoá các văn bản trên trong một lộ trình kế hoạch khung về xây dựng hạ tầng pháp lý cho viêc chấp nhận và ứng dụng thương mại điện tử ở nước ta .
Thứ hai, chính phủ nên tập trung tạo ra môi truờng để thúc đẩy thương mại điện tử phát triển, việc trực tiếp tham gia vào các hoạt động cụ thể của thương mại điện tử trong thời gian trớc mắt chỉ để cho khối các doanh nghiệp tiến hành ( ứng dụng chủ yếu vào hình thức B to B ). Quá trình xây dựng nội dung và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách, cơ chế cần hướng vào việc nâng cao tính tin cậy của việc sử dụng các phương tiện và các phương pháp điện tử để thực hiện các hoạt động thương mại. Cần thường xuyên cập nhật và hệ thống các chính sách mã hoá, các quy định về bảo vệ hệ thống sở hữu trí tuệ, hình thành các bằng chứng điện tử ( trong đó chữ ký điện tử là yếu tố then chốt ) ...để bảo đảm được vấn đề an toàn và bảo mật, bảo vệ bí mật cá nhân, quyền lợi của các chủ thể tham gia vào thương mại điện tử .
Thứ ba tiến hành công khai hoá trong quá trình xây dựng và ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ tư minh bạch hoá các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống chính sách, cơ chế dự thảo được xây dựng đối với các tổ chức kinh tế – thương mại khu vực và quốc tế thể hiện hệ thống pháp lý của ta vừa có tính độc lập, vừa là một bộ phận cấu thành thống nhất trong hệ thống pháp lý quốc tế, gắn liền với tính chất phi biên giới, không phân biệt đối tượng tham gia của thương mại điện tử.
2.2. Hạ tầng công nghệ:
Hạ tầng công nghệ là một điều kiện cần cho hoạt động của thương mại điện tử, do đó phải xây dựng được một nền tảng công nghệ đủ mạnh mới có thể đáp ứng được yêu cầu của thương mại điện tử. Công nghệ phục vụ cho thương mại điện tử chủ yếu bao gồm công nghệ và viễn thông, công nghệ phần cứng và công nghệ phần mềm. Nhìn chung trong cả ba lĩnh vực này trên thế giới đều đã phát triển ở mức độ rất cao, quyền lực chủ yếu nằm trong tay của một số tập đoàn lớn. Do vậy vấn đề phát triển công nghệ ở Việt Nam rất cần được quan tâm để có được cách đi đúng đắn tránh tình trạng phụ thuộc về mặt công nghệ với các nước phát triển.
Về viễn thông, tận dụng lợi thế của một nước đi sau, Việt Nam hiện đã và đang xây dựng một hạ tầng công nghệ tương đối hiện đại, có thể đáp ứng được những yêu cầu của hoạt động thương mại điện tử, song vẫn chưa đủ để có thể đáp ứng được việc áp dụng thương mại điện tử trên quy mô lớn. Về công nghệ phần cứng và phần mềm máy tính, Việt Nam vẫn còn yếu kém. Tuy gần đây đã có những bước phát triển mới song xét một cách toàn diện thì cả công nghệ phần cứng và công nghệ phần mềm của chúng ta vẫn chưa thể đáp ứng được những đòi hỏi của thương mại điện tử.
Đứng trước tình hình đó, những vấn đề cần phải giải quyết về mặt công nghệ để phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử đối với Việt Nam lúc này là :
Xây dựng tiêu chuẩn hạ tầng thông tin quốc gia nhằm tạo thuận lợi cho việc kết nối và vận hành qua lại với hạ tầng công nghệ thông tin ASEAN và các nước khác, xây dựng chính sách giá cả hợp lý trong viễn thông và truy cập Internet nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho toàn dân tiếp cận Internet và thương mại điện tử .
Nghiên cứu xây dựng ban hành tiêu chuẩn hạ tầng công nghệ thông tin quốc gia nhằm tạo thuận lợi cho việc kết nối và vận hành qua lại với mạng thông tin trong khu vực và các nước khác trên thế giới .
đẩy mạnh hoạt động lắp ráp máy tính nói riêng và các thiết bị điện tử tin học khác nói chung tại Việt Nam để giảm giá thành các loại máy tính cá nhân thông thường, xây dựng các khu công nghiệp sản xuất phần cứng trên cơ sở chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Đầu tư mua sắm và lắp đặt các thiếtt bị điện tử hiện đại chuyên dùng cho thương mại điện tử, cần đặc biệt lưu ý đến tính hiện đại của công nghệ, tránh tình trạng mua phải những máy móc thiết bị có công nghệ quá lạc hậu.
Có các chính sách và các biện pháp đặc biệt để xây dựng và củng cố các trung tâm phát triển phần mềm, khuyến khích phát triển đầy đủ các phần mềm hệ thống, bảo mật, trao đổi thông tin, thanh toán điện tử.
Hạ tầng đảm bảo an ninh, an toàn thông tin cho thương mại điện tử:
Cùng với những ưu thế không thể phủ nhận, thương mại điện tử đã và đang đặt ra những vấn đề khó khăn cần được giải quyết. Một vấn đề được đặt lên hàng đầu đối với tất cả các quốc gia trong quá trình tham gia vào thương mại điện tử nói riêng và mạng thông tin toàn cầu nói chung là vấn đề đảm bảo an ninh và an toàn thông tin. Giải quyết được một cách triệt để vấn đề này là một việc làm hết sức khó khăn ngay cả đối với các quốc gia đi đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Thực tế ngay cả ở các quốc gia phát triển nhất như Nhật Bản, Hoa Kỳ vẫn xảy ra tình trạng thông tin bị phá hoại hoặc bị đánh cắp. Vì vậy cần có sự đảm bảo của tổng thể nhiều yếu tố. Đó là sự đảm bảo về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, vấn đề cơ chế quản lý và quan điểm chỉ đạo của Nhà nước. Chính vì những lý do như trên, việc thiết lập một kế hoạch xây dựng và thực thi các vấn đề đảm bảo an ninh, an toàn thông tin là việc làm không thể thiếu và bao gồm các nội dung sau :
Xây dựng hạ tầng mật mã khoá công khai đáp ứng yêu các cầu của thương mại điện tử. Nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách mật mã quốc gia cho thương mại điện tử , tiêu chuẩn mật mã quốc gia sử dụng cho thương mại điện tử .
Kiểm tra, giám sát thường xuyên các hoạt động của thương mại điện tử để từ đó phát hiện và xử lý những sai sót trong việc thực hiện các giao dịch thương mại điện tử. Đặc biệt là trong lĩnh vực đảm bảo an ninh an toàn thông tin thì việc kiểm tra giám sát thường xuyên là một việc làm không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì thương mại điện tử là một lĩnh vực có phạm vi hoạt động rất rộng, lại sử dụng nhiều công nghệ hiện đại, nhiều đối tượng tham gia có trình độ cao, giá trị của các giao dịch có khi rất lớn ... nên có thể nói đây chính là khu vực hấp dẫn cho các loại tội phạm hoành hành . Vì vậy công tác kiểm tra các hoạt động của thương mại điện tử phải luôn được coi trọng, điều chỉnh kịp thời những hoạt động sai trái có thể làm thiệt hại đến lợi ích kinh tế cũng như phương hại đến an ninh quốc gia .
2.4. Hạ tầng về tiêu chuẩn hóa thương mại điện tử:
Các giao dịch trong thương mại điện tử- tức là các giao dịch số hóa-có
những đặc thù riêng đòi hỏi phải có sự nhất quán cao trong thông tin và dữ liệu. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức mạnh của thương mại điện tử nhưng cũng đặt ra một yêu cầu không thể thiếu là phải có được một hệ thống chuẩn
hóa trong thương mại điện tử một cách đầy đủ, toàn diện. Trong giao dịch thương mại điện tử yếu tố về khoảng cách bị loại bỏ, tuy vậy chính điều này lại đặt ra yêu cầu đối với hệ thống chuẩn hóa thương mại điện tử phải được thực thi triệt để. Bởi vì một khi buôn bán diễn ra trên bình diện quốc tế thì mọi tiêu chuẩn của hàng hóa trong nước cũng phải đáp ứng được các đòi hỏi của quốc tế.
Đối với Việt Nam hiện nay, hệ thống tiêu chuẩn trong công nghiệp và thương mại có thể nói là còn rất yếu kém, chưa đáp ứng được với yêu cầu đặt ra của thương mại điện tử. Đa số các tiêu chuẩn của hàng hóa về chất lượng, mẫu mã, vẫn chưa có những quy định một cách đầy đủ và chủ yếu là dành cho hàng hóa, các tiêu chuẩn Nhà nước trong các lĩnh vực khác như thương mại, dịch vụ còn rất ít, đặc biệt là các tiêu chuẩn về mã số, mã vạch phục vụ cho thương mại điện tử.
Riêng về công tác tiêu chuẩn hóa phục vụ cho thương mại điện tử còn đang rất mới mẻ, ta chưa có những tiêu chuẩn cụ thể để phục vụ cho hoạt động của thương mại điện tử. Đa số các hàng hóa vẫn trao đổi theo mẫu và theo quan sát trực tiếp. Chưa có sự thống nhất mã thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới (điều này liên quan trực tiếp đến việc giao dịch phi biên giới- một đặc điểm cơ bản của thương mại điện tử).
2.5. Hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử:
Thương mại điện tử chỉ có thể thực sự hoạt động có hiệu quả khi có được một hệ thống thanh toán tài chính ở mức độ đủ cao, có thể đáp ứng được những đòi hỏi của việc thanh toán trong thương mại điện tử. ở nước ta hoạt động thanh toán điện tử nói chung còn chưa phát triển, thói quen thanh toán bằng tiền mặt vẫn là phổ biến, do vậy việc tạo dựng một thói quen thanh toán bằng các phương tiện điện tử vẫn còn là một vấn đề khó khăn trước mắt.
Bên cạnh đó, những phương tiện và thiết bị phục vụ cho hoạt động thanh toán điện tử ở nước ta còn rất hạn chế, vì vậy song song với việc tạo dựng được một thói quen thanh toán mới chúng ta cần phải đẩy mạnh công tác đầu tư, mua sắm và xây dựng cơ sở hạ tầng cho các hoạt động thanh toán điện tử.
Thanh toán điện tử liên quan đến hình thức và phương tiện thanh toán. Hiện nay trên thế giới các hình thức và phương tiện thanh toán rất đa dạng , nhưng chủ yếu hoạt động Thanh toán điện tử vẫn thông qua các loại thẻ điện tử. Do vậy, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là tìm hiểu nghiên cứu cách đi của các quốc gia phát triển trên thế giới để từ đó có lựa chọn cách đi phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, chúng ta cần có chính sách đầu tư mua sắm những thiết bị phục vụ cho công tác Thanh toán điện tử tránh tình trạng đầu tư không hiệu quả
Việt Nam cần phải xây dựng các tiêu chuẩn cho hệ thống Thanh toán điện tử trong thương mại điện tử, có kế hoạch triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng Thanh toán điện tử chung của hệ thống ngân hàng.
Song song với công tác xây dựng hạ tầng cho Thanh toán điện tử cần phổ biến cho người dân thấy rõ được lợi ích trong việc sử dụng các loại thẻ điện tử trong thanh toán để từ đó đa hoạt động Thanh toán điện tử đi vào đời sống kinh tế. Đưa vào sử dụng thử nghiệm các hình thức Thanh toán điện tử để từ đó thấy được mức độ chấp nhận các hình thức này trong điều kiện của Việt Nam
3. Về an ninh quốc gia:
Trong thương mại điện tử, an ninh quốc gia là một vấn đề lớn. Tuy mức độ được đặt ra đối với mỗi quốc gia là khác nhau song ở hầu hết các quốc gia ứng dụng thương mại điện tử thì an ninh quốc gia luôn được đặt lên hàng đầu. ở Việt Nam, chúng ta chủ trương đưa thương mại điện tử vào cuộc sống một cách chắc chắn và an toàn, không vì mục tiêu phải đuổi kịp các nước đi trước mà lơi lỏng vấn đề này. Vì vậy an ninh quốc gia là một trong các vấn đề cần được đặt ra ngay từ những ngày đầu ứng dụng thương mại điện tử vào Việt Nam.
Nhà nước cần đưa ra một số quan điểm rõ ràng và thống nhất về vấn đề an ninh quốc gia trong thương mại điện tử để từ đó hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động trong lĩnh vực này. Cần xác định rõ ràng an ninh quốc gia trong thương mại điện tử có liên quan đến tổng thể các vấn đề: Đảm bảo an ninh chính trị và an toàn xã hội, đảm bảo không để những tác động xấu về mặt xã hội do ảnh hưởng của các mạng thông tin khu vực và toàn cầu, đảm bảo an ninh kinh tế, đảm bảo không bị lệ thuộc về công nghệ....
4. Về ứng dụng thực tế thương mại điện tử vào Việt Nam:
ứng dụng thương mại điện tử vào thực tế là khâu quan trọng cuối cùng trong tiến trình chấp nhận và ứng dụng thương mại điện tử vào mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, với nhận thức rằng chúng ta vẫn còn đang trong giai đoạn chuẩn bị cho sự chấp nhận thương mại điện tử vào đời sống kinh tế, xã hội. Chính vì vậy càng cần có sự thử nghiệm và kiểm tra mức độ tin cậy cũng nhưhiệu quả của toàn bộ quá trình ứng dụng trong thực tế để từ đó có thể nhân rộng ra phạm vi quốc gia. Việt Nam là một quốc gia đi sau trong lĩnh vực này nên có điều kiện học tập được nhiều kinh nghiệm của các quốc gia đi trước.Tuy nhiên do đặc điểm của mình chúng ta cần phải hết sức thận trọng trong việc áp dụng những phương thức triển khai cho phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.
Có thể nói, đối với Việt Nam, tuy đã xuất hiện một số loại hình mang dáng dấp của thương mại điện tử, song về cơ bản thì đây vẫn là một loại hình hoàn toàn mới. Việc nghiên cứu các kinh nghiệm trong thương mại điện tử của các quốc gia phát triển từ đó rút ra các bài học cho việc ứng dụng triển khai thương mại điện tử vào thực tiễn Việt Nam là hoàn toàn cần thiết. Chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng trong tương lai không xa thương mại điện tử sẽ mở ra cho nền kinh tế Việt Nam một trang mới, góp phần đưa nền kinh tế nước ta vững bước phát triển, hội nhập được vào nền kinh tế khu vực và nền kinh tế toàn cầu.
Kết luận
Thương mại điện tử đang phát triển nhanh trên phạm vi toàn cầu, hiện nay được áp dụng chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển, nhưng các nước đang phát triển cũng đã bắt đầu tham gia. Cách nhìn nhận, đánh giá, cách chuẩn bị, triển khai thương mại điện tử của mỗi nước là khác nhau tuỳ theo đặc điểm và mục tiêu của từng nước. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy rằng: để tham gia có hiệu quả vào thương mại điện tử và tránh được những rủi ro, mỗi nước đều phải có chiến lược chung về thương mại điện tử, có chương trình tổng thể, phương án hành động từng bước, và phải có tổ chức chuyên trách tư vấn và thực hiện.
Việt Nam là một nước đi sau nên có thể học hỏi được kinh nghiệm của một số nước đi trước, kinh nghiệm của các nước phát triển để có thể ứng dụng một các tốt nhất vào điều kiện của nước mình. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được vấn đề này và đã có những bước đi ban đầu cho việc ứng dụng và triển khai thương mại điện tử vào các lĩnh vực trong nền kinh tế. Trong tương lai, rất có thể Việt Nam sẽ có thể bắt kịp nền kinh tế các nước khác, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đang rất sôi động nhờ vào thương mại điện tử.
Do thời gian nghiên cứu không nhiều, nguồn tài liệu còn hạn chế nên khoá luận của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô cùng bạn đọc. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn Đức Dỵ đã giúp em hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Peter Finar, Harsha Kumar, Tarun Sharma, Enterprise E-Commerce, Meghan-Kiffer Prees (MK) Tampa, Florida, USA. 1999.
2. Báo cáo tóm tắt Dự án quốc gia kỹ thuật thương mại điện tử (Ban điều hành dự án kỹ thuật thương mại điện tử - Bộ Thương mại).
3. Kế hoạch khung 5 năm chấp nhận và ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam (Tài liệu của Bộ thương mại).
4. Lấy từ Internet:
- VASC.
- E- Commerce.
- E-Business.
-
-
-
-
-
-
5. Bản tin điện tử của TTTT tư liệu KHCN Quốc gia.
6. Tin học và đời sống (Hội tin học Việt Nam)
7. PC World (Hội tin học thành phố Hồ Chí Minh).
Mục lục
Chương I
Tổng quan về thương mại điện tử
I. khái niệm về thương mại điện tử
1. Sự phát triển của công nghệ thông tin và tác động của nó đến thương mại điện tử
2. Khái niệm thương mại điện tử
1.1.Thương mại điện tử theo nghĩa rộng
2.1.Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp
3. Các hạ tầng cơ sở và các đòi hỏi của thương mại điện tử
3.1. Nhận thức
3.2 Hạ tầng công nghệ
3.3. Thanh toán điện tử
3.4. An toàn, bảo mật
3.5. Bảo vệ sở hữu trí tuệ
3.6. Bảo vệ người tiêu dùng
3.7. Tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại
3.8. Hạ tầng cơ sở pháp lý
3.9. An ninh quốc gia và đảm bảo an ninh trong TMĐT
3.10. Vai trò Chính phủ và quản lý Nhà nước về TMĐT
ii. phân loại thương mại điện tử
1. Theo chủ thể tham gia
1.1 TMĐT trong khu vực kinh doanh
1.2. TMĐT giữa khu vực doanh nghiệp, kinh doanh và người tiêu dùng
1.3. Chính phủ/ cơ quan quản lý Nhà nước - Doanh nghiệp / người dân
2. Theo các giai đoạn tiến hành một giao dịch
iii. các phương tiện thanh toán của thương mại điện tử
1. Điện thoại
2. Máy điện báo và máy Fax
3. Truyền hình
4. Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử
5. Internet và Web
iv. các hình thức hoạt động phổ biến của thương mại điện tử hiện nay và xu hướng vận động phát triển của thương mại điện tử trong tương lai
1. Các lĩnh vực hoạt động phổ biến của thương mại điện tử hiện nay
1.1. Thư tín điện tử (E-mail)
1.2. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI - Electronic Data Interchưange)
1.3. Cửa hàng ảo hay bán hàng trên mạng (Virtual shop)
1.4. Thanh toán điện tử (Electronic Payment)
2. Xu thế vận động và phát triển thương mại điện tử
v. những thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển của thương mại điện tử
1.Những thuận lợi
2. Những khó khăn
Trang 1
1
4
4
6
9
9
9
10
10
10
11
11
11
12
12
12
12
13
13
13
14
15
15
15
16
16
16
17
17
17
18
18
18
19
20
21
23
chương ii
Thương mại điện tử ở Nhật Bản
I. Tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới
ii. sự xuất hiện thương mại điện tử ở Nhật bản.
1. Sự xuất hiện thương mại điện tử ở Nhật Bản
2. Sự phát triển của Internet và tác động của nó đến Thương mại điện tử ở Nhật Bản
iii. Thực trạng thương mại điện tử ở Nhật Bản
1. Thực trạng thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng (thương mại điện tử B to C)
1.1. Các nhóm mặt hàng trên thị trường thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng ở Nhật Bản
1.2. Một số phương tiện tham gia vào thương mại điện tử ở Nhật và ảnh hưởng của nó tới thương mại điện tử
1.2.1. Internet
1.2.2. Máy tính cá nhân
1.2.3. Điện thoại di động
1.2.4. Vô tuyến truyền hình cáp
1.2.5. Thiết bị chơi điện tử
1.3. Quy trình giao dịch thương mại điện tử ở Nhật Bản
1.4. Đặc trưng của thương mại điện tử B to C ở Nhật Bản
1.4.1. Động lực thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử B to C ở Nhật Bản
1.4.2. Thế mạnh trong thương mại điện tử ở Nhật Bản
2. Thương mại điện tử B to B ở Nhật Bản
3. Các dịch vụ thanh toán điện tử ở Nhật Bản
3.1. Hệ thống Mondex
3.2. Thẻ tín dụng (Debit card) và thẻ giá trị tích trữ (Stored-Value-Card :SVC)
4. Phương diện pháp lý của thương mại điện tử ở Nhật Bản
iii. Quy mô tăng trưởng thị trường thương mại điện tử B to C từ 1999 đến 2004 ở Nhật Bản
25
26
26
27
28
28
28
30
30
31
31
32
32
33
37
37
39
43
45
45
46
48
50
Chương iii
Bài học kinh nghiệm đối với Việt nam
i. thực trạng thương mại điện tử ở Việt Nam
1. Sự cần thiết khách quan vận dụng thương mại điện tử vào nước ta
2. Chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về thương mại điện tử
3. Những kết quả bước đầu trong quá trình triển khai thương mại điện tử và những vấn đề còn tồn tại
3. 1. Những kết quả đã đạt đuợc
3.2. Những vấn đề còn tồn tại
II. Một số bài học kinh nghiệm của Việt Nam và phương hướng phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo
1.Về phát triển nguồn nhân lực
1.1. Nhận thức về thương mại điện tử
1.2.Đào tạo kỹ năng
2. Về cơ sở hạ tầng
2.1. Hạ tầng pháp lý
2.2.Hạ tầng công nghệ
2.3. Hạ tầng đảm bảo an ninh, an toàn thông tin cho thương mại điện tử
2.4. Hạ tầng về tiêu chuẩn hóa thương mại điện tử
2.5. Hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử
3. Về an ninh quốc gia
4. Về ứng dụng thực tế thương mại điện tử vào Việt Nam
56
56
57
59
59
60
62
62
62
64
65
65
66
68
69
70
74
74
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 90.doc