Với thành tựu to lớn mà nhân loại đã đạt được là nền kinh tế số hoá, Thương mại điện tử xuất hiện như một tất yếu của sự phát triển xã hội. Việt Nam cũng như bao nước đang phát triển khác sẽ thực sự tìm thấy cơ hội cho việc rút ngắn khoảng cách về kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung với các nước phát triển thông qua việc đón lấy Thương mại điện tử. Song vấn đề triển khai và áp dụng Thương mại điện tử như thế nào ở nước ta hiện nay là vấn đề không dễ đối với Chính phủ cũng như nhiều nhà nghiên cứu có liên quan.
Với vốn hiểu biết của mình em đã tiếp cận Thương mại điện tử từ việc làm rõ khái niệm cũng như quá trình phát triển, các hình thức hoạt động chủ yếu và lợi ích của nó tới việc nhìn nhận những đòi hỏi từ phía Thương mại điện tử, thông qua đó em đã nắm bắt và phân tích tình hình Thương mại điện tử ở Việt Nam với những nhân tố tác động chính là: Hạ tầng cơ sở về Công nghệ; Hạ tầng cơ sở về Nhân lực; An toàn và bảo mật; Hệ thông thanh toán tài chính tự động; Bảo vệ sở hữu trí tuệ và người tiêu dùng; Hạ tầng cơ sở về kinh tế pháp lý. Thông qua đó em đưa ra những bài học kinh nghiệm, những thách thức đặt ra và những bài học thiết thực với mục đích nâng cao hiệu quả Thương mại điện tử tại nước ta và mong muốn ở Chính phủ làm tốt nhất công việc triển khai và áp dụng Thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời điểm hiện nay.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương mại điện tử và khả năng ứng dụng trong kinh doanh thương mại hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu như tất cả các dạng hoạt động kinh tế.
1. Số hoá và nền kinh tế số hoá
Cho tới đầu thế kỷ này, để liên lạc với nhau, người ta sử dụng các hệ thống ký hiệu như âm thanh, hình ảnh, và chữ viết. Trong nửa đầu thế kỷ, kỹ thuật số trên cơ sở hệ nhị phân(binary system, dùng hai chữ số 0 và 1) bắt đầu phát triển và hoàn thiện dần: hình ảnh, âm thanh đều được số hoá thành các nhóm bit điện tử, để ghi lại, lưu giữ trong môi trường từ, truyền đi, và đọc bằng điện tử, tất cả đều vơi tốc độ ánh sáng.
Kỹ thuật số hoá được áp dụng trước hết vào máy tính điện tử, tiếp đó sang các lĩnh vực khác( điện thoại di động, thẻ tín dụng v.v…). Việc áp dụng kỹ thuật số có thể coi là một cuộc cách mạng số hoá( digital revolution), mở ra kỷ nguyên số hoá.
Cách mạng số hoá diễn ra với tốc độ rất cao: chiếc máy tính điện tử đầu tiên có thể chương trình hoá( chiếc Electronic Numberical Integrator Computer: ENIAC) ra đời năm 1946, có kích thước bằng 4-5 gian buồng, trị giá nhiều triệu đôla, và chỉ thực hiện 5000 lệnh một giây: 50 năm sau, máy tính điện tử cá nhân thông dụng chỉ có kích thước để bàn, trị giá khoảng 1000 đôla, và thực hiện 400 triệu lệnh trong một giây nhờ sử dụng các chip vi mạch cho phép đóng mở nhiều triệu lần một giây: các phương tiện truyền thông hiện đại cũng song song phát triển, ngày nay, một sợi cáp quang mảnh bằng sợi tóc trong một giây có thể truyền được một lượng thông tin chứa đựng trong 90 nghìn cuốn từ điển bách khoa, hệ thống liên lạc viễn thông và hệ thống định vị toàn cầu thông qua các vệ tinh đã bao phủ toàn thế giới. Nhân loại đang sống trong thời kỳ"tin học hoá xã hội”, khác biệt về chất so với thời kỳ trước. Quá trình tin học hoá xã hội băt đầu bùng nổ, rồi chuyển sang mang tính chất toàn cầu sau khi Internet ra đời.
Trong bối cảnh ấy, hoạt động kinh tế nói chung và thương mại nói riêng cũng chuyển sang dạng"số hoá”,"điện tử hoá”, khái niệm"Thương mại điện tử” dần dần hình thành, và ứng dụng"thương mại điện tử” ngày càng mở rộng.
2. Sự ra đời của World Wide Web
Mạng truyền thông điện tử đầu tiên ra đời năm 1969 khi bốn đại học Mỹ cùng vơi Bộ Quốc phòng Mỹ triển khai một mạng máy tính tên là ARPANET cho phép các cơ sở nghiên cứu và giảng dạy trao đổi, chia sẻ thông tin từ xa theo cách phân chia thời gian sử dụng các khả năng của các máy tính thành một mạng lưới. Các nhà nghiên cứu đã bắt đầu sử dụng ARPANET để trao đổi thông tin, thảo luận trực tuyến và truy nhập các cơ sở dữ liệu từ xa, trao đổi thông tin, dữ liệu và thư từ năm 1972.
Cách truyền tin ban đầu của ARPANET(Network Control Protocol) đã được thay thế bởi một cách khác, đó là TCP/IP(Transmission Control Protocol/ Internet Protocol). Cách này tiêu chuẩn hoá các luồng dữ liệu trên tất cả các mạng máy tính sử dụng nó, và cho phép xác định địa chỉ, tên người sử dụng các dịch vụ trên đó. Lợi ích quan trọng nhất của cách này không chỉ ở chỗ nó được tiêu chuẩn hoá, mà chính là ở chỗ nó cho phép xác định địa chỉ và truyền tin chính xác, dễ dàng từ nơi gửi tới nơi nhận.
Mùa đông năm 1990, Tim Berners –Lee, một nhà nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu đã phát minh ra Web đầu tiên. Phát minh của Tim cho phép tạo ra"mạng lưới” thông tin bất tận, liên kết các thông tin và tài liệu trên toàn bộ các mạng máy tính trên nền TCP/IP. Tháng 2 năm 1992, Pei Wei, sinh viên University of California ở Berkeley, công bố Viola- Chương trình đọc tin Web cho hệ điều hành Unix với các khả năng thể hiện hình ảnh góp phần ban đầu cho việc đưa ra tiêu chuẩn đồ hoạ sau này cho các loại chương trình Web. Ngay sau đó, Robert Cailiau và Nicola Pellow, làm việc tại CERN( Trung tâm nghiên cứu hạt nhât Châu Âu), đã viết và công bố chương trình đọc Web cho các máy tính McIntosh. Tháng Hai năm 1993, một nhóm sinh viên University of Illinois do Mark Andreessen đã viết và đưa ra Mosaic- chương trình đọc Web cho các máy tính cá nhân. ít lâu sau, Mark trở thành sáng lập viên của công ty Netscape, sản xuất và cung cấp các chương trình Web tốt nhất.
3. Thương mại điện tử là gì ?
Thương mại điện tử là một lĩnh vực tương đối mới, ngay tên gọi cũng có nhiều, có thể gọi là"thương mại trực tuyến”,"thương mại điều khiển học”,"kinh doanh điện tử”," thương mại không có giấy tờ”v.v..gần đây, tên gọi"thương mại điện tử” được sử dụng nhiều rồi trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể được dùng và được hiểu với cùng một nội dung.
Theo đinh nghĩa rộng rãi nhất, và giản dị nhất, và đã được chấp nhận phổ biến, thì thương mại điện tử là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại, nói chính xác hơn, thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
Thuật ngữ"thương mại”(commerce) cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại(commercial)bao gồm, nhưng không phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp hoăc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng các công trình, tư vấn, kỹ thuật công trình, đầu tư, cấp vốn, ngân hàng, bảo hiểm, thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh, chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”.
4. Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử
4.1. Điện thoại
Toàn thế giới hiện có khoảng 2 tỷ đường dây thuê bao điện thoại, và khoảng 600 triệu người dùng điện thoại vô tuyến( hay điện thoại di động, điện thoại số). Điện thoại là một phương tiện phổ thông, dễ sử dụng, và thường mở đầu cho các cuộc giao dịch thương mại, một số loại dịch vụ có thể cung cấp trực tiếp của điện thoại( bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn, giải trí v.v..)với sự phát triển của điện thoại di động, liên lạc qua vệ tinh, ứng dụng của điện thoại đang và sẽ trở nên càng rộng rãi hơn.
4.2. Máy điện báo(Telex) và máy Fax
Máy Fax có thể thay thế dịch vụ đưa thư và gửi công văn truyền thống và nay gần như đã thay thế hẳn máy Telex chỉ truyền được lời văn. Nhưng máy Fax có một số hạn chế như: không thể truyền tải được âm thanh, hình ảnh động, hình ảnh ba chiều, ngay các hình ảnh phức tạp cũng không truyền tải được, ngoài ra giá máy và chi phí sử dụng còn cao.
4.3. Truyền hình
Toàn thế giới hiện có khoảng một tỷ máy thu hình, số người sử dụng máy thu hình rất lớn đã khiến cho truyền hình trở thành một trong những công cụ điện tử phổ thông nhất ngày nay. Truyền hình đóng vai trò quan trọng trong thương mại, nhất là trong quảng cáo hàng hoá, ngày nay càng có nhiều người mua hàng nhờ xem quảng cáo trên truyền hình. Song truyền hình chỉ là một công cụ viễn thông"một chiều”, qua truyền hình khách hàng không thể tìm kiếm được các chào hàng, không thể đàm phán với người bán về các điều khoản mua bán cụ thể. Nay máy truyền hình được kết nối với máy tính điện tử, thì công dụng của nó được mở rộng hơn.
4.4. Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử
Mục tiêu cuối cùng của mọi cuộc mua bán là người mua nhận được hàng và người bán nhận được tiền trả cho số hàng đó: thanh toán, vì thế là khâu quan trọng bậc nhất của thương mại, và thương mại điện tử không thể thiếu công cụ thanh toán điện tử thông qua các hệ thống thanh toán điện tử và chuyển tiền điện tử mà bản chất là các phương tiện tự động chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác. Thanh toán điện tử sử dụng rộng rãi các máy rút tiền tự động ATM(Automatic Teller Machine), thẻ tín dụng( credit card), các loại thẻ mua hàng(purchasing card), thẻ khôn minh(smart card), thẻ từ có gắn vi chip điện tử mà thực chất là một máy tính điện tử rất nhỏ v.v..
4.5. Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ
Theo nghĩa rộng, mạng nội bộ là toàn bộ mạng thông tin của một xí nghiệp hay cơ quan và các liên lạc mọi kiểu giưã các máy tính điện tử trong cơ quan xí nghiệp đó, cộng với các liên lạc di động. Theo nghĩa hẹp, đó là mạng kết nối nhiều máy tính ở gần nhau( mạng LAN), hoặc nối kết các máy tính trong một khu vực rộng lớn hơn(mạng diện rộng WAN). Hai hay nhiều mạng nội bộ liên kết với nhau sẽ tạo thành liên mạng nội bộ và tạo ra một cộng đồng điện tử liên xí nghiệp.
5. Internet và Web
Từ năm 1995, Internet được chính thức công nhận là mạng toàn cầu, nó là mạng của các mạng(the network of network), một máy tính có địa chỉ Internet thoạt tiên được nối vào mạng LAN, rồi tới mạng WAN, rồi vào Internet, nhờ đó, các mạng và máy tính có địa chỉ Internet có thể giao tiếp với nhau, truyền gửi cho nhau các thông điệp(electronic mail), và các dữ liệu thuộc hàng trăm ứng dụng khác nhau.
Việc nối kết các mạng như trên được thực hiện trên cơ sở các tiêu chuẩn truyền dẫn dữ liệu trong môi trường Internet(Internet Standard), chủ yếu là giao thức chuẩn truyền dẫn dữ liệu trong môi trường Internet(Internet Standards), chủ yếu là giao thức chuẩn TCP/IP(Transmission Control Protocol/ Internet Protocol) do bộ quốc phòng Mỹ(DOD: Department Of Defense) khởi thảo và phát triển(như đã nói ở trên): trong đó TCP chịu trách nhiệm đảm bảo việc truyền gửi chính xác dữ liệu từ người sử dụng tới máy chủ(server) ở nút mạng, còn IP có trách nhiệm chuyển từ các gói dữ liệu(packet of data) từ nút mạng này sang nút mạng khác theo địa chỉ Internet. Internet(Internet Router), sử dụng một bộ khí cụ điều hợp đặc biệt sẽ cho phép máy chủ IP tác hoạt như một cổng liên kết( gateway) truyền dẫn dữ liệu giữa các mạng riêng biệt.
Web giống như một thư viện khổng lồ có nhiều triệu cuốn sách, hay như một cuốn từ điển khổng lồ có nhiều triệu trang( gọi là trang web: webpage)
Chứa một gói tin có nội dung nhất định: một quảng cáo, một bài viết v.v. mà một số trang không ngừng tăng lên, và không theo một trật tự nào cả. Tính phức tạp và hỗn độn đó của Web dẫn tới việc nghiên cứu và cho ra đời các phần mềm cho công cụ tìm kiếm(search engine) chỉ dẫn người sử dụng tìm ra địa chỉ của thông tin theo chủ đề trong"biển thông tin” mênh mông của Web(các công cụ tìm kiếm thường dùng hiện nay là Yahoo!, Excite, Webcrawler, Infoseek, Lycos, và Alta Vista), và các phần mềm giao diện gọi là"tầm cứu Internet”(Internet explorer),hay giúp truy cập vào trang Web chứa thông tin đó. Các"trình duyệt Web” được dùng phổ biến nhất hiện nay là Netscape Navigator, Microsoft Internet explorer và America Online.
Ngày nay, do công nghệ Internet được áp dụng rộng rãi vào việc xây dựng các mạng nội bộ và mạng ngoại bộ, nên càng ngày người ta càng hiểu mạng nội bộ và mạng ngoại bộ là các"phân mạng” của Internet; và sau này, khi đã chấp nhận Internet như công cụ giao tiếp chung, ta sẽ hiểu Internet như bao gồm cả các phân mạng ấy. Internet ra đời và phát triển đã tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá.
Chương II
Khả năng ứng dụng của thương mại điện tử trong kinh doanh thương mại
I. Các hình thức và lợi ích của thương mại điện tử
1. Các hình thức hoạt động của Thương mại điện tử
a. Thư tín điện tử
Các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước … sử dụng thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách" trực tuyến” thông qua mạng, gọi là thư điện tử( electronic mail or e- mail). Thông tin trong thư điện tử không phải tuân theo một cấu trúc định trước nào.
b. Thanh toán điện tử
Thanh toán điện tử( electronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử(electronic message) thay cho việc giao tay tiền mặt; việc trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng v.v..đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng thanh toán điện tử. Ngày nay, với sự phát triển của thương mại điện tử, thanh toán điện tử đã mở rộng sang các lĩnh vực mới, như:
Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính(Financial Electronic Data Interchange: FEDI) chuyển phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
Tiền mặt Internet(Internet cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành, sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng cả trong phạm vi một nước cũng như giữa các quốc gia.
Túi tiền điện tử(electronic purse): nói đơn giản là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ khôn minh(smart card), kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật"mã hoá khoá công khai/bí mật” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho"tiền mặt Internet”.
Thẻ khôn minh( smart card), nhìn bề ngoài tương tự như thẻ tín dụng, nhưng ở phía mặt sau của thẻ, thay vì cho dải từ, lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hoá, tiền ấy chỉ được"chi trả” khi người sử dụng và thông điệp được xác thực là đúng.
Giao dịch ngân hàng số hoá(digital banking), và giao dịch chứng khoán số hoá(digital securities trading). Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống: thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng( qua điện thoại, tại các điểm bán lẻ, các ki-ôt, giao dịch cá nhân tại các nhà, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin…), thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán( nhà hàng, siêu thị..), thanh toán trong nội bộ một hệ thống ngân hàng, thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác.
c. Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử(electronic data interchange: EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng"có cấu trúc”(structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người.
EDI được áp dụng từ trước khi có Internet, khi ấy người ta dùng"mạng giá trị gia tăng”(Value Added Network:VAN) để kết nối các đối tác EDI với nhau: cốt lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm gọi: khi nối vào VAN, một doanh nghiệp sé có thể liên lạc với nhiều nghìn máy tính điện tử nằm ở nhiều trăm thành phố trên khắp thế giới.
d. Giao gửi số hoá các dung liệu
Dung liệu(content) là các hàng hoá mà cái người ta cần đến là nội dung của nó mà không phải là bản thân vật mang nội dung, ví dụ như tin tức, sách báo,nhạc, phim, các chương trình phát thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm.
Trước đây, dung liệu được giao dưới dạng hiện vật(physical form) bằng cách đưa vào đĩa, băng, in thành sách, báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối để người sử dụng đến mua và nhận trực tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hoá và truyền gừi theo mạng, gọi là"giao gửi số hoá”.
Các tờ báo, các tư liệu công ty, các catalô sản phẩm lần lượt được đưa lên Web, gọi chung là"xuất bản điện tử”(electronic pulishing), gọi là xuất bản võng thị.
e. Bán lẻ hàng hoá hữu hình
Cho tới năm 1994-1995, hình thức bán hàng này còn chưa phát triển. Nay, danh sách các hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng ra, từ hoa tới quần áo, ôtô, và xuất hiện hẳn một loạt hoạt động gọi là mua hàng điện tử( electronic shopping), hay"mua hàng trên mạng”, ở một số nước, Internet bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh hàng hoá hữu hình. Tận dụng tính năng đa phương tiện(multimedia) của môi trường Web và Java, người bán xây dựng trên mạng các"cửa hàng ảo”(virtual shop) để thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hóa hiển thị trên màn hình, xác nhận mua, và trả tiền bằng thanh toán điên tử.
2. Lợi ích của Thương mại điện tử
a. Nắm được thông tin phong phú
Thương mại điện tử trước hết giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế – thương mại, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và thị trường quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay đang được nhiều nước quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế.
b. Giảm chi phí sản xuất
Thương mại điện tử giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ(paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần, tiết kiệm theo hướng này đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
c. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị
Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalô điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalô in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời.
d. Giảm chi phí giao dịch
Thương mại điện tử qua Internet/Web giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện, chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% tơi 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
e. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác
Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình thương mại: Thông qua mạng, các thành tố tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau gần như không còn khoảng cách địa lý và thời gian nữa, nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục, các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát triển nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới, và có nhiều cơ hội lựa chọn.
f. Tạo điều kiện sớm tiếp cận"kinh tế số hoá”
Xét trên bình diện quốc gia, trước mắt thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế; nhìn rộng hơn, thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá mà xu thế và tầm quan trọng đã được đề cập ở trên. Lợi ích này có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận vào nền kinh tế số hoá, hay còn gọi là nền"kinh tế ảo” thì sau khoảng một thập kỷ nữa, nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn.
3. Những yêu cầu về pháp lý đối với Thương mại điện tử(EC)
Tính pháp lý của EC: Chính phủ cần Luật hoá các hoạt động cũng như những hình thức của Thương mại điện tử, có như vậy mới tạo tiền đề, căn cứ cho việc thực thi những điều khoản, thoả thuận cũng như những sự vụ khác phát sinh trong EC.
Thanh toán điện tử và bảo mật:Thanh toán bằng thẻ tín dụng mà không cần có chữ ký của người mang thẻ có được không? Các thông tin do khách hàng cung cấp qua mạng(số tài khoản thẻ tín dụng)… được bảo vệ như thế nào? Nếu Thương mại điện tử liên quan đến dịch vụ tư vấn, y tế, pháp luật thì các thông tin của khách hàng được bảo mật đến mức nào?
Chữ ký trong EC: Khác với sự xác nhận thông thường của mỗi chủ thể là thông qua chữ ký lên mặt giấy trong mỗi tình huống cụ thể, EC thì không cho phép các cá nhân có thể ký lên văn bản với chữ ký thông thường được. Với vấn đề đặt ra là phải chấp nhận và quản lý chữ ký điện tử, chữ ký số hoá như thế nào để đảm bảo được tính cá nhân, trung thực của chữ ký nói chung.
Bảo vệ dữ liệu, thông tin: Do sự khó khăn trong kiểm soát các thông tin, dữ liệu trên mạng, do vậy, cần phải có biện pháp cụ thể, hữu hiệu nhằm bảo vệ được những dữ liệu có xuất xứ từ Nhà nước. Bảo vệ mạng thông tin và sở hữu trí tuệ.
Bảo vệ bí mật riêng tư: Thương mại điện tử cũng đòi hỏi Chính phủ trong tính pháp lý là việc bảo vệ những bí mật riêng tư cho cá nhân, tổ chức một cách thích đáng.
Chống tội phạm: Chống tội phạm truy nhập một cách bất hợp pháp vào kho dữ liệu, hoặc vùng cấm truy nhập của các nhân hoặc tổ chức được pháp luật bảo vệ.
II. Thực trạng thương mại điện tử trong kinh doanh thương mại ở Việt Nam
1. Thương mại điện tử và kinh doanh điện tử
Có thể hiểu Thương mại điện tử là các quá trình mua, bán, trao đổi các loại sản phẩm, dịch vụ, giải pháp trên nền Internet, đặc biệt là trên Web.
Kinh doanh điện tử là việc chuyển những hoạt động kinh doanh quan trọng mà một doanh nghiệp đang có lên mạng, sử dụng công nghệ Thương mại điện tử. Thông thường có hai loại hình thức kinh doanh: kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và kinh doanh giữa doanh nghiệp và khách tiêu dùng. Thương mại điện tử cũng đã chuyển cả hai loại hình kinh doanh này lên mạng, và tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ và giải pháp mới mà kinh doanh và thương mại thông thường không có. Tuy vậy ở nước ta, việc tạo dựng EC còn gặp một số khó khăn về pháp lý, kỹ thuật, thị trường và tâm lý… các khó khăn này trong tiến trình hội nhập, hiện đại hoá, hy vọng sẽ được khắc phục sớm, thông qua đầu tư mạnh, đúng đắn vào việc phát triển hạ tầng cơ sở thông tin và truyền thông, ban hành cơ sở pháp lý, phát triển thị trường. Kinh doanh điện tử có thể được triển khai có hiệu quả tại Việt Nam, đã có một số doanh nghiệp triển khai với thành công bước đầu.
2. Thương mại điện tử ở Việt Nam
a. Tổng quan về EC ở Việt Nam
Trong khi EC đã trở nên khá phổ biến tại các nước phát triển thì ở Việt Nam, thương mại điện tử thực sự vẫn chỉ xuất hiện chủ yếu trên sách báo và giấy tờ. Cho tới nay, theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin, Việt Nam vẫn còn thiếu khá nhiều yếu tố để EC có thể trở thành hiện thực. Mặc dù đã có những siêu thị điện tử đầu tiên được hình thành nhưng trên thực tế, EC vẫn chỉ là tên gọi và cách thức bán hàng vẫn hoàn toàn theo phương pháp thủ công. Số liệu tổng kết của các công tác nghiên cứu và dự báo đã cho thấy: EC trên thế giới đã phát triển với tốc độ rất cao, đạt doanh số 1,3 tỷ USD trong năm 1996, 15 tỷ USD trong năm 1998 và dự kiến có thể đạt tới hàng ngàn tỷ USD trong những năm tới. Xu hướng trong tương lai, công nghệ thông tin sẽ còn phát triển với tốc độ nhanh không thể dự báo trước. Chính vì vậy, Việt Nam sẽ phải thật nhanh chóng nếu muốn được chia sẻ một phần của"chiếc bánh” hấp dẫn này.
Manh nha EC
Một Website trên siêu thị điện tử do Công ty phát triển phần mềm VASC mở ra vào tháng 12/1998 đã đánh dấu bước phát triển đầu tiên của EC ở Việt Nam. Thông qua Website này, người tiêu dùng có thể mua bất kỳ vật gì qua mạng, từ cây kim tới chiếc xe hơi. Tuy nhiên, do còn quá mới nên kết quả là doanh số mua bán qua mạng cũng không đáng là bao và việc mua bán cũng mới chỉ là hình thức và người bán vẫn phải mang hàng đến nhà thì người mua mới thanh toán tiền. Ông Vũ Tiến Lộc, Tổng thư ký phòng thương mại và công nghệ Việt Nam, trong một cuộc hội thảo về EC được tổ chức vào đầu tháng 8/2000 đã cho biết:"Tuy ở Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn khởi đầu nhưng đã có tới hơn 600 doanh nghiệp đã mở trang Web đồng thời cũng đã có hàng ngàn doanh nghiệp tham gia quảng cáo trên mạng”. Đây sẽ là những nhân tố chính tham gia vào quá trình phát triển kinh doanh điện tử ở Việt Nam và cũng là thành quả đáng khích lệ khi mà Việt nam mới chỉ chính thưc hoà mạng Internet từ tháng 11/1997.
Điều đáng mừng là hầu hết các doanh nghiệp đều đã thừa nhận những lợi ích do việc mở Website mang lại. Lãnh đạo công ty xuất nhập khẩu Sách báo thuộc Bộ văn hoá thông tin cho biết:" Nhờ Website mới ra đời, công tác xuất nhập khẩu sách báo đã có những thay đổi về chất, khắc phục được những trở ngại về khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước. Một nhà sách mới mở tại thành phố Hồ Chí Minh là nhà sách Minh Khai đã thành công nhờ việc bán các loại sách qua mạng. Chỉ sau một thời gian khai trương nhà sách này đã bán được trên 1000 cuốn sách các loại. Trên cơ sở những hoạt động sơ khai ban đầu, một số Doanh nghiệp và từ phía Chính phủ cũng đang chuẩn bị tiến hành thử nghiệm EC. Một trong những đơn vị đi đầu trong lĩnh vực này là Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam(Vietcombank). Ngân hàng này hiện đang trong quá trình xúc tiến và thử nghiệm điện tử thông qua hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Mục tiêu chủ yếu của chương trình này là tạo dựng những bước đi ban đầu cho EC ở Việt Nam và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hoà nhập thị trường Thương mại quốc tế. Theo kế hoạch đợt thử nghiệm đầu tiên sẽ được tiến hành với việc cung cấp một số mặt hàng cụ thể như: sách báo, phần mềm tin học, dịch vụ du lịch, bưu chính viễn thông. Tất nhiên, việc mua bán này vẫn phải giới hạn phạm vi trong nước.
Việc sử dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp còn ở trình độ sơ khai
Mặc dù đã có nhiều mục tiêu được đặt ra nhưng theo đánh giá của đa số chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử và cũng sẽ mất một thời gian khá lâu để hình thức kinh doanh này trở thành hiện thực. Việc sử dụng Công nghệ thông tin tại các Doanh nghiệp còn ở trình độ sơ khai. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa tiếp cận được với Internet và thậm chí còn rất nhiều nhà quản lý không biết sử dụng Internet. Một quan chức của Tổng cục bưu điện cũng thừa nhận cơ sở hạ tầng và dịch vụ tài chính của Việt Nam còn chưa phù hợp để phát triển EC. Để làm được điều này cũng cần một khoản đầu tư lên tới con số tỷ USD. Bên cạnh đó việc thuyết phục lòng tin và thói quen của người tiêu dùng Việt Nam cũng là một vấn đề khó khăn khi mà đa số người dân Việt Nam đã quen với phương thức mua bán hàng hoá truyền thống. Vì vậy, không nâng cao được nhận thức thì EC cũng khó có thể thực hiện được ở Việt Nam. Về phía các doanh nghiệp, tuy đã nhận thức được và mong muốn được tiếp cận EC nhưng họ cũng gặp khá nhiều vướng mắc trong việc tiến hành như: chi phí đầu tư công nghệ, khả năng tiếp cận trình độ phổ cập Internet…Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy rằng không phải bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh trên mạng cũng thu được thành công. Theo kinh nghiệm của các chuyên gia trong ngành, một công ty đã thành công theo phương pháp kinh doanh truyền thống thì cũng có khả năng thu được hiệu quả cao hơn khi tiến hành kinh doanh trên mạng. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp sẽ phải tính toán và cân nhắc một cách kỹ lưỡng tất cả các yếu tố khi muốn chuyển sang hoạt động kinh doanh mới này.
Việt Nam vẫn chưa có hạ tâng cơ sở pháp lý để tạo môi trường cho EC phát triển
Nếu Thương mại điện tử đi vào hoạt động thì sẽ có một loạt các vấn đề pháp lý cần phải tính đến và giải quyết như: thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch điện tử, của chữ ký điện tử, chữ ký số hoá, bảo vệ pháp lý các hợp đồng Thương mại điện tử, các thanh toán Thương mại điện tử, quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuât xứ từ Nhà nước, chống tội phạm tin học … Điều đáng mừng là ngay từ giữa năm 2000 Bộ Thương mại mà cụ thể là Cục xúc tiến thương mại đã trở thành cơ quan Nhà nước đầu tiên thực hiện một tổng dự án có tên gọi"kỹ thuật Thương mại điện tử”.
b. Thực trạng EC tại Việt Nam
Có thể nói ở nước ta, mối quan tâm đến EC cũng dần nóng lên. Là thành viên của hai tổ chức APEC và ASEAN, Việt Nam đang tích cực tham gia vào những chương trình hành động chung về EC. Nước ta đã tham gia tiểu ban điều phối về EC của ASEAN, tham gia soạn thảo và thảo luận các nguyên tắc chung cho EC của tổ chức này. Nhưng nhìn chung, môi trường EC ở Việt Nam chưa hình thành đầy đủ về các mặt phát triển công nghệ thông tin, nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội- pháp lý.
Hạ tầng cơ sở Công nghệ thông tin:
Theo thống kê của Tổng cục Bưu điện, máy tính ở nước ta mới phổ biến ở mức gần 5 máy/1000 dân, một tỷ lệ thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, hơn nữa, phần lớn số máy tính này đã lạc hậu, hiệu suất sử dụng máy thấp, nhiều máy chỉ được dùng như máy đánh chữ. Ta cũng chỉ mới xây dựng được một số mạng cục bộ và mạng diện rộng cùng một mạng khung toàn quốc VNN. Cuối năm 1997, Việt Nam chính thức khai thác Internet, tới giữa năm 1999, cả nước mới có 5 đơn vị cung cấp dịch vụ Internet với khoảng 20000 thuê bao( đến tháng 9/2000, số thuê bao là khoảng 78000). Cả nước chỉ có 2 cổng đi quốc tế với băng thông là 16 Mb/s, mỗi cổng một đường vệ tinh, một đường cáp quang. Chi phí truy cập mạng còn cao so với thu nhập cá nhân và so với các nước trong khu vực.
Hạ tầng cơ sở về nhân lực:
Đội ngũ cán bộ tin học của chúng ta mới có khoảng trên 20000 người, đông đảo cán bộ công chức và dân chúng còn chưa quen áp dụng Công nghệ tin học trong hoạt động quản lý và kinh doanh.
An toàn và bảo mật:
Chúng ta chưa xây dựng được các văn bản Luật liên quan tới giao dịch, thanh toán điện tử, bảo vệ an toàn thông tin trên mạng. Trong Bộ Luật Hình sự của chúng ta cũng chưa quy định các tội phạm trong lĩnh vực này. Điều 49-khoản 3- luật Thương mại chỉ có một quy định chung về EC:"Đối với các hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó; điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản”. Tuy quy định như vậy nhưng những vấn đề như cơ sở pháp lý của loại hợp đồng điện tử này là gì, cơ quan nào có quyền tài phán đối với các tranh chấp cho loại hợp đồng này... lại chưa được đặt ra.
Hệ thống thanh toán Tài chính tự động:
Trước tiên, tin học hoá ngành tài chính ngân hàng, xây dựng một hệ thống mạng liên ngân hàng, có khả năng thực hiện các giao dịch tài chính tự động. Mạng thanh toán liên ngân hàng được thành lập để tiến hành các hoạt động nghiệp vụ trong các chi nhánh thuộc hệ thống ngân hàng hay giữa các ngân hàng. Để đảm bảo an ninh, mạng liên ngân hàng là mạng riêng, không kết nối với Internet và không xây dựng trên chuẩn TCP/IP. Với việc thiết lập một mạng nghiệp vụ tài chính ngân hàng toàn cầu, đã cung cấp các dịch vụ ngân hàng trong đó thông tin trao đổi đã được chuẩn hoá như dịch vụ mở tín dụng thư, dịch vụ chuyển tiền....SWIFT là một mạng như vậy. Hiện nay có khoảng 6500 tổ chức tài chính kết nối vào mạng trao đổi dữ liệu điện tử SWIFT. Ngoài ra, hệ thống thanh toán điện tử cung cấp dịch vụ cho Internet user( người sử dụng Internet) từ Internet thanh toán vào mạng riêng của ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tử sẽ đóng vai trò như một" cửa ngõ”( gateway) giữa Internet và mạng ngân hàng. Nay, thanh toán bằng các hình thức Master Card, Visa Card, thanh toán séc, thanh toán thẻ thông minh đang được ứng dụng phổ biến. ở Việt Nam hiện nay có 3 ngân hàng phát hành thẻ là VCB, EXIMBANK, ACB với tổng số thẻ phát hành khoảng hơn 10000 thẻ tín dụng.
Bảo vệ sở hữu trí tuệ và người tiêu dùng:
Trong hiệp định Thương mại Việt Mỹ ký kết ngày 13/7/2000, chương 2 đề cập về Quyền sở hữu trí tuệ gồm 18 điều, trong đó các bên cam kết bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của công dân nước kia không kém sự bảo hộ mà công dân nước đó đang hưởng mà không cần yêu cầu qua những thủ tục nào như phải xuất bản hay đăng ký ở nước kia. Điều khoản về bản quyền, thương hiệu, sáng chế, bí mật thương mại, kiểu dáng công nghệ phần lớn dựa trên các công ước quốc tế với đầy đủ chi tiết về xử lý vi phạm. Đây mới chỉ là hiệp định ta ký với Mỹ, còn về vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ của ta xét một cách chung nhất thì lại vô cùng yếu kém. Điều này còn do phần lớn ở lối nghĩ của dân ta từ trước tới nay, cũng là sự sát hợp với cách thức kinh doanh chưa thực sự trọng chữ tín như ở Việt Nam. Về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, Việt Nam cũng chưa thực sự chú trọng tới một cách quy mô và có hệ thống kể cả từ phía Chính phủ lẫn doanh nghiệp.
Hạ tầng cơ sở về Kinh tế – pháp lý:
Hệ thống tiêu chuẩn về Thương mại điện tử chưa hình thành, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia không tương thích với tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống mã quốc gia chưa có. Chúng ta cũng chưa thống nhất được hệ thống mã thương mại( mã hàng hoá, mã doanh nghiệp...), chưa hình thành được hệ thống thanh toán điện tử. Trên bình diện xã hội, lề lối làm việc nói chung và cách mua bán hàng hoá nói riêng vẫn còn theo tập quán cũ: giao dịch trên giấy tờ, mua bán hàng hoá cần phải"sờ tận tay”, phương thức thanh toán chủ yếu là trả tiền mặt..., nghĩa là khác biệt một cách căn bản so với khái niệm Thương mại điện tử, và đây là thói quen không dễ thay đổi. Có thể nói rằng, thực trạng hạ tầng cơ sở công nghệ, kỹ thuật, kinh tế- xã hội của Việt Nam còn yếu và chưa đủ cho sự phát triển của Thương mại điện tử. Bên cạnh đó, người dân cũng như các cơ quan Chính phủ chưa nhận thức đúng đắn, chưa nhất quán về vai trò của EC trong sự phát triển kinh tế –xã hội. Trong bối cảnh chung như vây, hệ thống pháp lý về EC của Việt Nam còn hết sức sơ khai, chưa có nền tảng cơ bản cho những hoạt động rất mới này, các yếu tố của Thương mại điện tử chưa được phản ánh trong hệ thống nội luật và hệ thống thuế. Hiện nay ở Việt Nam chưa hình thành một khung pháp lý trong kinh doanh điên tử và Thương mại điện tử, điều này đã làm cho các doanh nghiệp nước ngoài phải đắn đo khi làm việc với các Doanh nghiệp Việt Nam. Về vấn đề này, chủ yếu chúng ta vẫn dựa vào một số nghị quyết, quyết định của Chính phủ nhằm thúc đẩy và phát triển lĩnh vực Công nghệ thông tin như: Nghị quyết 49/CP ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 80. Ngày 07/04/1995 Chính phủ ra quyết định số 211/TTg phê duyệt kế hoạch tổng thể về phát triển CNTT Việt Nam cho đến năm 2000..., và gần đây nhất là Quyết định 128/2000-QĐ- TTg về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển Công nghệ phần mềm.
Chương III
Những bài học, thách thức và giải pháp về thương mại điện tử
Tách thách thức ra khỏi cơ hội là một việc làm cũ để nhìn rõ hơn một vấn đề nào đó. Trong thực tế, nhiều khi trong cơ hội lại có thách thức, trong thách thức lại có cơ hội. Với Thương mại điện tử/ Kinh doanh điện tử(TMĐT/ KDĐT), mỗi cơ hội đều kèm theo thách thức.
I. Những bài học kinh nghiệm trong kinh doanh thương mại
Nên sử dụng Internet vào mục tiêu doanh nghiệp, gắn chặt với các mục tiêu doanh nghiệp. Các nhà điều hành doanh nghiệp cần chỉ đạo trực tiếp TMĐT/KDĐT, muốn vậy cần hiểu thấu đáo TMĐT/KDĐT, không nên tin tưởng mà"khoán trắng” cho các nhà Công nghệ thông tin. Các nhà quản lý doanh nghiệp nên học các kỹ thuật quản lý để có thể quản lý một cách hữu hiệu hoạt động và năng suất của các nhà công nghệ thông tin làm việc cho doanh nghiệp mình. Các nhà công nghệ thông tin, các thiêt kế xây dựng Web nên hiểu rằng công việc của họ trong TMĐT/KDĐT là rât quan trọng, nhưng đó là công việc ở phía sau, không có công việc này sẽ không có TMĐT/KDĐT, nhưng chỉ có nó không thì cũng chẳng bao giờ có TMĐT/KDĐT. Nếu nhà quản lý có"nguồn gốc” từ công nghệ thông tin, rât có khả năng sẽ coi nặng phần công nghệ - đây là"bệnh” rất phổ biến hiện nay tại nhiều nền kinh tế kém phát triển. Còn nếu nhà quản lý học trường quản trị kinh doanh ra( nơi không dạy tới nơi tới chốn về Thương mại điện tử và kinh doanh điện tử) thì dẫn tới chỗ chẳng coi mấy thứ công nghệ ra gì!
Khi đã có Web và các công cụ TMĐT/KDĐT rồi, cần đảm bảo việc duy trì ổn định các công cụ này cả về mặt kỹ thuật lẫn kinh doanh. Đối tác thứ ba có thể hỗ trợ, gánh đỡ sức nặng tài chính và kỹ thuật ban đầu cho doanh nghiệp.
Một số sản phẩm dịch vụ sẽ được cung cấp trên mạng dễ hơn những loại khác( ví dụ: bán sách, nhạc, dịch vụ tài chính...). Hiện nay, các hãng lớn cung cấp công cụ TMĐT/KDĐT theo các hệ thống, tất cả được gói lại theo các quy trình toàn bộ, từ khách hàng cho tới nhà cung cấp.
Khi được sử dụng hợp lý và cẩn thận, Internet sẽ giúp giảm chi phí, tăng cơ hội giao dịch kinh doanh cho doanh nghiệp, tạo ra các quy trình hợp lý và thuận tiện cho doanh nghiệp trong TMĐT/KDĐT.
Như đã nhận xét ở trên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực dịch vụ có nhu cầu và xu thế chuyển đổi sang kinh doanh điện tử nhanh hơn các loại hình doanh nghiệp khác, với tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chưa cao, tỷ lệ loại hình doanh nghiệp dịch vụ cũng chưa cao, chúng ta cần chú ý phát hiện và tạo điều kiện để các doanh nghiệp phi dịch vụ chuyển đổi nhanh hơn.
Tăng trưởng mau chóng của TMĐT/KDĐT sẽ dẫn đến tăng trưởng chung của thương mại quốc tế. Các nền kinh tế phát triển sẽ thu lợi nhiều nhất, chứ không phải là các nước kém phát triển.
Xu thế chung là B2B, chiếm hơn 80% của tổng thu nhập TMĐT/ KDĐT. Như vậy có cơ hội trực tiếp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa hướng vào các chuỗi nhà cung cấp. Điều này ảnh hưởng tới các chuỗi nhà cung cấp( supplier chain) vốn có, trong trường hợp xấu nhất phá huỷ các chuỗi này.
TMĐT/KDĐT có thể đẩy mạnh các quá trình chuyển giao công nghệ và giúp phát triển công nghệ thông tin tại các nước nghèo. Nếu vậy, các nước giàu sẽ thu được nhiều lợi nhuận từ các quá trình chuyển giao công nghệ và ứng dụng công nghệ thông tin tại các nước nghèo.
TMĐT/KDĐT làm cho các nước nghèo có điều kiện tham gia thị trường với các nước giàu. Nhưng cũng với TMĐT/KDĐT, các nước giàu cũng dễ xâm nhập thị trường các nước nghèo với giá rẻ hơn.
Các công ty lớn tác động qua lại với Thương mại điện tử, sẽ có xu thế sáp nhập, các công ty nhỏ cũng vậy và kết quả có thể là việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ với giá rẻ hơn. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với mọi nền kinh tế và mọi doanh nghiệp.
Điều kiện tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin được mở rộng, nhưng những doanh nghiệp nhanh nhạy hơn sẽ thu được nhiều thông tin hơn và khả năng thành công cao hơn. Như vậy, sẽ có những doanh nghiệp có ít thông tin hơn và khả năng thành công sẽ nhỏ hơn. Nhìn chung, công ty có công nghệ cao hơn, sử dụng tốt hơn khả năng thu thập thông tin trong thực tế lại nằm ở các nền kinh tế phát triển, đây là thách thức vô cùng nặng nề đối với các công ty ở các nước nghèo.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước nghèo có thể lập các cửa hàng ảo với giá hạ, nhưng các cửa hàng ảo này cũng phải cạnh tranh với các cửa hàng ảo do các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước phát triển. Bên nào mạnh hơn, bên đó có khả năng thành công lớn hơn. Thách thức đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các nước nghèo là rất lớn; vừa hoạt động trong môi trường kinh doanh mà kỷ luật thị trường rất yếu kém hoặc chưa hình thành bền vững, trình độ quản lý doanh nghiệp cũng còn nhiều vấn đề phải lo lắng, vì cái học được ở nơi khác thì khó áp dụng ở nơi này...
Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa càng phát triển thì cơ cấu trung gian thương mại, đại lý càng thay đổi, và có xu hướng thu hẹp lại. Khi đó tại các nước phát triển, các nhà cung cấp dịch vụ Internet có thể sáp nhập và trở thành các nhà trung gian thương mại kiểu mới đầy quyền lực.
Trong khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện tham gia TMĐT/KDĐT, một số không nhỏ doanh nghiệp không có kiến thức và kinh nghiệm ban đầu về công nghệ và Thương mại điện tử.
Các công ty sẽ có điều kiện tham khảo, lựa chọn nhân lực thích hợp với giá rẻ nhất, các nước kém phát triển là nơi có thể cung cấp nhân lực rẻ này.
Các nước kém phát triển có thể có nhân lực cho các khu vực dịch vụ như trả lời khách hàng(call center), xử lý số liệu, văn phòng phía trong, do giá nhân công rẻ. Nhưng các nước nghèo cũng vấp phải rào cản về ngôn ngữ, nhất là tiếng Anh. Việc đào tạo tiếng Anh có thể làm tăng cao chi phí chung, làm cho nhân lực các nước nghèo trở nên kém cạnh tranh. Nhân lực rẻ và đào tạo rẻ phải đi đôi với nhau thì mới mang lại sức cạnh tranh cho thị trường nhân công của các nước nghèo.
Điều kiện thâm nhập thị trường bên ngoài dễ dàng hơn trong khi áp dụng TMĐT/KDĐT có khả năng gây ra sự thay đổi hoặc bỏ mất các khâu tổ chức các nhà cung cấp truyền thống ngay trong nước.
Khi có thể"đi” khắp nơi mua bán hàng, người mua hàng tại một nước có thể mua hàng rẻ hơn từ nước khác, làm cho những người bán hàng trong nước bị mất khách hàng trong khi họ chưa có cách gì để hạ giá.
Khi các tổ chức tài chính và các công ty thanh toán điện tử phát triển, các công ty tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... nước ngoài có điều kiện hơn để sinh lời và thành công hơn là các công ty tài chính, ngân hàng của các nước kém phát triển.
II. Thách thức đặt ra
Vào mạng, lên mạng: Nhiều doanh nghiệp chưa có điều kiện truy cập Internet. Đây là hạn chế quan trọng quyết định các hạn chế khác, không giải quyết nó thì không thể giải quyết được bất kỳ hạn chế nào khác. Đây là thách thức lớn nhất đối với một nước kém phát triển, cũng là thách thức đối với các nước phát triển khi muốn chuyển giao công nghệ hoặc muốn làm ăn theo lối nào đó với nước kém phát triển. Số lượng các nhà cung cấp dịch vụ Internet(ISP) còn ít. Chất lượng cung cấp dịch vụ chưa cao, giá cả chưa hạ. Giá cao chính là trở ngại to lớn đối với phát triển TMĐT/KDĐT.
Chí phí và giá: Nhìn chung chi phí và giá tại các nước kém phát triển thường cao hơn nhiều so với giá và chi phí ở các nước phát triển. Đó là về giá và chi phí liên quan trực tiếp tới các nhà cung cấp dịch vụ Internet. Do thiếu hiểu biết, nhầm lẫn trước khi bước vào sử dụng TMĐT/KDĐT, do nhân sự chưa được đào tạo một cách vừa phải tới mức cần thiết, do chưa hiểu và thiếu kinh nghiệm về Marketing trên mạng, do thiếu thời gian cân nhắc về nội dung Website, hoặc sau đó thiếu tiền, thời gian, và con người để duy trì Website... giá và chi phí trở nên nặng nề hơn. Các thứ giá cả và chi phí Internet tại Việt Nam nói chung cao hơn các nước trong khu vực quanh ta, thậm chí cao hơn cả Singapore( trong khi thu nhập tối thiểu chính thức của công chức Việt Nam rất thấp, bằng khoảng một phần ba mươi của lương tối thiểu tại Singapore). Chi phí lắp đặt và nối mạng Internet còn cao đối với tuyệt đại đa số các doanh nghiệp nhỏ. Giá PC còn cao, trong khi các công cụ"vào mạng" khác chưa rẻ.
An toàn: Không tính đến việc an toàn bên ngoài mạng máy tính vốn đã thấp( giả mạo, gian lận thương mại...), mức độ an toàn khi áp dụng TMĐT/KDĐT ở các nước kém phát triển nói chung là thấp. Không hiếm trường hợp khi mạng Internet quốc gia không hoạt động, khách hàng gọi điện tới bộ phận hỗ trợ, thì được bộ phận hỗ trợ giải thích loanh quanh, hoặc vô lễ đối với khách hàng. Trước nạn truy nhập trái phép, phá hoại trên mạng, phá hoại bằng virus, các máy chủ không có khả năng ngăn chặn và lọc virus, ngăn chặn những kẻ thâm nhập trái phép...là tương đối phổ biến. Ngoài ra, đã xuất hiện các tội pham giả mạo, lừa đảo trên mạng mà các lực lượng bảo vệ vẫn chưa đủ sức để phản ứng tích cực chống các loại tội phạm này.
Marketing chưa đủ: Thời gian đầu tư vào Website còn ít, chưa đủ sức tính toán để thoả mãn các yêu cầu về cạnh tranh, lượng bán còn nhỏ và tăng trưởng về bán hàng chậm. Số lượng Website tại Việt Nam chưa nhiều, hình thức và nội dung chưa phong phú, chưa đúng các" cách” làm TMĐT/KDĐT. Nhìn một trang Web"của ta” viết bằng tiếng Anh, thấy khác hẳn các trang Web của bên ngoài: nên tìm ra mọi khác biệt cụ thể để có thể sửa chữa. Tư duy"có Website là sẽ có tất cả”- một quan niệm ngây thơ không chỉ có tại Việt Nam...
Thiếu máy tính: Tỷ lệ máy tính trên 100 người ở các nước kém phát triển là 0,2 trong khi ở các nước phát triển, con số này là 19,2( năm 2000).
Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông kém: Tỷ lệ sử dụng điện thoại tại Việt Nam( quý 2 năm 2001) là 3,6 máy trên 100 người, còn quá thấp so với các nước phát triển( trung bình là 52 máy trên 100 người). Cả nước có 150 nghìn người sử dụng Internet( truy cập gián tiếp qua modem, quý 2 năm 2001). Khó khăn về ngôn ngữ, nhất là tiếng Anh đối với nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều cần thiết là con người.
Tốc độ truy cập và số người sử dung Internet còn ít: Trong khi Bắc Mỹ có tỷ lệ người sử dụng khoảng trên 56% dân số( tỷ lệ này ở Bắc Âu có lẽ còn cao hơn, khoảng 79- 60%), thì ở Châu Phi, dân số gấp đôi Băc Mỹ, tỷ lệ này chỉ đạt 0,7%. Tốc độ truy nhập(độ rộng đường truyền, băng thông) tại Bắc Mỹ lớn nhất. Tại Việt Nam, Công ty Điện toán và truyền số liệu(VDC) đã cung cấp tốc độ truy cập gián tiếp cao nhất mà công nghệ hiện nay cho phép( 56kbps)....Vấn đề là băng thông chung của cả một mạng viễn thông phải đủ lớn để khi nhiều người"vào mạng” cùng một lúc, mạng không bị tắc nghẽn. Mạng phải luôn luôn được quản trị tốt.
Thiếu chiến lược Thương mại điện tử: Hầu hết các nước kém phát triển đều chưa có chiến lược phát triển Thương mại điện tử. Doanh nghiệp của một số nước kém phát triển, do nhu cầu kinh doanh và cạnh tranh, đã xây dựng cho mình chiến lược Thương mại điện tử phù hợp, đây là các nhân tố tích cực quan trọng, có tác dụng thúc đẩy và khuyến khích chính để sớm tổ chức thiết kế chính sách Thương mại điện tử ở tầm quốc gia. Mọi cam kết quốc tế về Thương mại điện tử phải dựa trên nền một chiến lược phù hợp. Chiến lược không phù hợp hoặc chưa có chiến lược là yếu tố để một quốc gia mất lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc tế.
Thói quen mua hàng qua Internet chưa hình thành: ít người tại các nước kém phát triển có thói quen mua hàng, đặt hàng qua Internet ngay cả khi họ có khả năng làm việc đó. Đây là vấn đề thói quen, có liên quan tới các nhân tố văn hoá của quá trình phát triển kinh tế. Nhu cầu phát triển kinh tế sẽ sớm làm thay đổi thói quen này theo chiều hướng hỗ trợ Thương mại điện tử. Nếu như ở Singapore, một vài nhóm người nào đó quen ăn Hamburger hơn là đặt mua hàng trên Internet, thì ở Hong Kong, các nhóm tương tự quen với Hamburger và mua hàng qua mạng như nhau( và nhanh hơn ở Singapore).
Chưa có nền pháp lý cho TMĐT/KDĐT: Việc áp dụng nền pháp lý thông thường sang TMĐT/KDĐT gặp khó khăn về nhận thức, kỹ thuật, niềm tin và đạo đức. Đây là công việc không hoàn toàn phụ thuộc vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đây là thách thức lớn đối với các cơ quan làm chính sách của Nhà nước, Quốc hội.
Trình độ kinh doanh thông thường: Thực hành, kỹ thuật cũng có thể ảnh hưởng tới TMĐT/KDĐT( thương hiệu, vận chuyển, lưu kho, thanh toán, luật pháp, công việc giấy tờ, văn hoá...). Khi trình độ này còn thấp,và lại xảy ra trong các mối liên hệ thị trường thiếu tính kỷ luật, người ta sẽ nhìn thấy hệ quả tiêu cực.
III. Giải pháp về Thương mại điện tử trong kinh doanh thương mại
Xây dựng các liên kết Internet thông qua điên thoại di động với các công nghệ mới và tốt nhất, cách này rẻ hơn nhiều so với việc xây dựng và áp dụng truyền qua dây cáp đồng hoặc cáp quang.
Lập ra một số trung tâm nghiên cứu và triển khai TMĐT/KDĐT nghiêm túc, cung cấp thông tin và giải pháp cho doanh nghiệp. Rất nên khuyến khích các tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận và các doanh nghiệp tư nhân thích hợp tham gia vào việc xây dựng và triển khai công việc của các trung tâm này.
Phần mềm TMĐT/KDĐT cho không hoặc rẻ tiền: Có một số phần mềm cho không rất tốt, chạy trong môi trường Linux hoặc Windows. Hướng áp dụng Linux chỉ trở nên chấp nhận được khi có những nhóm thật mạnh các nhà tin học thực thụ đứng ra viết các ứng dụng TMĐT/KDĐT cho Linux và mang phân phối cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa với giá thấp nhất. Hãy đừng nên mong đợi rằng các nền kinh tế phát triển sẽ cho không các doanh nghiệp ở các nước nghèo thứ gì: họ giàu hơn, lại đi trước rất xa về công nghệ và họ luôn muốn giàu hơn nữa thông qua việc làm ăn với các nước nghèo theo các cách có lợi nhất cho họ. Kêu gọi về rút ngắn khoảng cách giàu nghèo chính là lời kêu gọi đối với người nghèo( Hãy cố đuổi kịp chúng tôi) chứ không phải là lời kêu gọi đối với người giàu. Chớ nên nghĩ rằng thỉnh thoảng các nước giàu họp lại với nhau, xoá hoặc giảm nợ cho nước X, Y... nào đó mà nghĩ rằng họ nhân đạo: từ khi họ cho vay tiền tới khi họ xoá hoặc giảm nợ, họ đã thừa thời gian và trí tuệ để thu về món tiền của họ.
Tổ chức các nhóm trao đổi thông tin trên mạng trong nước về TMĐT/KDĐT, giữa trong và ngoài nước. Các nước phát triển đã tạo được văn hoá trao đổi trên mạng rất tốt, các tổ chức quốc tế đã đưa ra nhiều hình thức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa về kinh nghiệm và thực hành TMĐT/KDĐT. Nhật Bản phát triển Thương mại điện tử theo các cách tương tự như trước đây họ phát triển thương mại thông thường: trước hết phải tạo các mẫu chất lượng cho số đông. Trao đổi thông tin chính là một trong những phương pháp hỗ trợ sáng tạo và tính năng động tốt nhất. Đây chính là bài học về biến tri thức thành giá trị hữu hình của kinh tế học tri thức.
Kết luận
Với thành tựu to lớn mà nhân loại đã đạt được là nền kinh tế số hoá, Thương mại điện tử xuất hiện như một tất yếu của sự phát triển xã hội. Việt Nam cũng như bao nước đang phát triển khác sẽ thực sự tìm thấy cơ hội cho việc rút ngắn khoảng cách về kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung với các nước phát triển thông qua việc đón lấy Thương mại điện tử. Song vấn đề triển khai và áp dụng Thương mại điện tử như thế nào ở nước ta hiện nay là vấn đề không dễ đối với Chính phủ cũng như nhiều nhà nghiên cứu có liên quan.
Với vốn hiểu biết của mình em đã tiếp cận Thương mại điện tử từ việc làm rõ khái niệm cũng như quá trình phát triển, các hình thức hoạt động chủ yếu và lợi ích của nó tới việc nhìn nhận những đòi hỏi từ phía Thương mại điện tử, thông qua đó em đã nắm bắt và phân tích tình hình Thương mại điện tử ở Việt Nam với những nhân tố tác động chính là: Hạ tầng cơ sở về Công nghệ; Hạ tầng cơ sở về Nhân lực; An toàn và bảo mật; Hệ thông thanh toán tài chính tự động; Bảo vệ sở hữu trí tuệ và người tiêu dùng; Hạ tầng cơ sở về kinh tế pháp lý. Thông qua đó em đưa ra những bài học kinh nghiệm, những thách thức đặt ra và những bài học thiết thực với mục đích nâng cao hiệu quả Thương mại điện tử tại nước ta và mong muốn ở Chính phủ làm tốt nhất công việc triển khai và áp dụng Thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời điểm hiện nay.
Hoàn toàn mới mẻ và mang tính bước ngoặt lớn cho Việt Nam, Thương mại điện tử hẳn sẽ mang lại nhiều lợi ích như mong đợi nếu như chúng ta thực sự đón nhận nó một cách cẩn trọng và giải quyết tốt những đòi hỏi từ lĩnh vực này.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình: Thương mại điện tử
Bộ thương mại_ NXB Thống kê- 1999
2. Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tiến sỹ: Hà Hoàng Hiệp_ NXB Thống kê _2001
3. Internet: VASC_Mạng và Internet: E-Commerce, E-Business
4. Tạp chí Thương mại tháng 9 / 2003
5. PC Word- Việt Nam:11/2000
6. Công ty điện toán và truyền số liệu:VDC
7. Thông tin từ Hội thảo"Thương mại điện tử Việt Nam và tiến trình hội nhập E- ASEAN”
8. Tạp chí Thương nghiệp tháng 5/2003
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35516.doc