Đề tài Thương mại điện tử và sự phát triển của nó ở Việt Nam

Ngành truyền thông Việt Nam những năm gần đây tăng trưởng tới 70% / năm. Viễn thông qua vệ tinh đã được ứng dụng, sử dụng vệ tinh của nước ngoài. Các thiết bị và công nghệ điều khiển tự động tiên tiến đã được áp dụng trong ngành địa chính (Công nghệ định vị vệ tinh toàn cầu GPS : Global Positioning System) ngành hàng không. Năm 1993 , tổng cục Bưu chính viễn thông thiết lập một mạng toàn quốc truyền dữ liệu trên X25, gọi là Vietpac, nhưng mạng này không đủ đáp ứng nên gần đây tổng cục đã phát triển một mạng khung toàn quốc tên là VNN nối internet và các mạng nội bộ của các cơ quan và tư nhân. VNN là mang quốc gia đường dào có hai cổng đi quốc tế, 1ở Hà Nội và một ở TP Hồ Chí Minh. Mạng khung Bắc –Nam có hai đường trung tuyến vận tốc 2MB/Sec ( Hướng là 8-10 MB/Sec và một đường dự phòng 192KB/Sec nốI viới mạng X.25) VNN có thể cung cấp dịch vụ nối mạng khung cho khoảng 30 mạng biệt lập và các dịch vụ nối mạng internet vớI vận tốc 64 KB/Sec Nhờ mạng nội bộ và mạng quốc gia Bộ Tài Chính có thể nhận được thông tin hàng ngày từ các điểm thu thuế trong 63 tỉnh thành. Tổng cục hải quan thu được thông tin hàng ngày về hoạt động xuất nhập khẩu từ 131 cơ sở . Hãng hàng không có trên 20 000 máy liên kết các phòng vé, sân bay và kho hàng. Tuy vậy , tính tin cậy của dịch vụ truyền thông còn thấp, và chi phí còn rất cao so với mức sống trung bình của dân chúng nên tính phổ cập còn rất thấp . 3.1.3. Ngành điện lực Là nền tảng của cả ngành tính toán và truyền thông lai đang gặp khó khăn. Những năm gần đây tiêu thụ điện của toàn quốc tăng khoảng 15% /Năm, nhưng do hạn hán nên thiếu điện. Tình trạng này sẽ khó khăn hơn trong những năm sắp tới. Hệ thống phân phối còn chắp và cung cấp không ổn định gây khó khăn cho tính toán và truyền thông . 3.2. Hạ tầng cơ sở nhân lực cho thương mại điện tử 3.2.1. Chuyên gia Công nghệ thông tin Cho tới 1990 ở nước ta chưa có khoa tin học tại các trường Đại Học cũng chưa có hệ thống đào tạo chuyên gia cho các ngành này. Từ 1980 một số trường ĐH đã mở khoa tin học, một số đã đào tạo sâu. Cùng với đào tạo trong nước, Nhà Nước tiếp tục gửi đi học ở nước ngoài. Lực lượng chuyên gia tin học của Việt Nam hiện nay có thể phân thành : Các chuyên gia có kiến thức cao, được đào tạo ở nước ngoài hoặc các nhà toán học nhiều năm qua đã chuyển hướng sang tin học. Hiện nay số này khoảng 30 000 người. Các cán bộ được đào tạo từ các khoa tin học từ các trường ĐH theo đánh giá trình độ của các sinh viên ở đây khá cao, và để tiếp thu thực tế mỗi năm ra trường 1000 người. Một lực lượng đông đảo các thanh niên học thêm các trung tâm tin học, số này khoảng vài vạn người. Đội ngũ việt kiều tin học, có khoảng 50 000 người. Đây là lực lượng giỏi, nhiều người có trình độ cao và rất cao, một số còn là chuyên gia đầu đàn của các tổ chức tin học thế giới.

doc34 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương mại điện tử và sự phát triển của nó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạt động và là tiền thân của internet, internet liên mạng bắt đầu xuất hiện khi nhiều mạng được kết nối vơí nhau. Năm1972 thư điện tử bắt đầu được sử dụng (Ray Tomlinson) Năm1973 ARPANET lần đầu tiên được kết nối ra nươc ngoài,tới trường đại học Lodon. Năm1984 giao thức chuyển gói tin TCP/IP (Transmision Control Protocol và Internet Protocoi)trở thành giao thức chuẩn của internet; hệ thống các tên miền DSN (Domain Name Sytem) ra đời để phân biệt các máy chủ, được chia thành sáu loại chính: Edu (education) cho lĩnh vực giáo dục Gov (government) thuộc chính phủ Mil (mintary) cho lỉnh vực quân sự Com (comercial) cho lỉnh vực thương mại Org (organization) cho các tổ chức Net (networt resources) cho các mạng Năm 1990 ARPANET ngừng hoạt động, internet chuyển sang giai đoạn mới Năm 1991 ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản HTML (Hyper Text Markup Language) ra đời cùng với giao thức truyền siêu văn bản HTTP (hyper text transfer protocol) internet đó thực sự trở thành công cụ đắc lực với hàng loạt các dịch vụ mới. WWW ra đời, đem lại cho người dùng khả năng tham chiếu từ một văn bản đến nhiều văn bản khác, chuyển từ cơ sở dữ liệu này sang cơ sở dữ liệu khác vói hình thức hấp dẫn và nội dung phong phú Internet và web là công cụ quan trọng nhất của thương mại điện tử, giúp cho thương mại điện tử phát triển và hoạt động hiệu quả. Mang internet được sử dụng rộng rãi từ năm 1994. Công ty Netsscape tung ra các phần mềm ứng dụng để khai thác các thông tin trên internet vào tháng 5 năm 1995 . Công ty amazon.com ra đời vào tháng 5 năm 1997 Công ty IBM tung ra chiến dịch quảng cáo cho các mô hình kinh doanh điện tử năm 1997… 1.3. Sự ra đời chính thức của internet Cách đây 33 năm, hai nhà khoa học máy tính Vinton G.Ceft và Robert E. Kahn đã ngồi cùng nhau tại một khách sạn ở PaloAlto, California, Mỹ và phác thảo ra những đoạn mã để tăng cường sức mạnh cho internet.Giao thức kiểm soát truyền/giao thức ỉnternet (TCP/IP) tạo cho máy tính những địa chỉ chuẩn để chúng có thể trao đổi các goí dữ liệu với nhau. Đó chính là nền tảng và cơ sở để chúng ta có được chữ”e” trong “e-mail”, ebiz (kinh doanh điện tử ) và mọi thứ kế tiếp sau này. Kể từ đó trở đi, hai nhà khoa học máy tính trên đã được coi là cha đẻ của mạng internet và nhận được sự tôn vinh của giới nghiên cứu. Gàn đây nhất, ngày 8/06/2005, hai ông được phong tặng giải thưởng “A.T turing”-một giải thưởng tương đương với giải nobel trong khoa học máy tính . Ở Việt Nam, internet chính thức xuất hiện vào năm 1996, khi đó đặt dưới sự quản lý duy nhất của một IPX là tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam VNN. Công ty IBM tung ra chiến dịch quảng cáo cho các mô hình kinh doanh điện tử năm 1997. Dịch vụ internet bắt đầu được cung cấp tại Việt Nam chính thức từ năm 1997 2. THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 2.1. Khái niệm thương mại điện tử Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về thương mại điện tử, nhưng tựu trung lại có hai quan điểm lớn trên thế giới. Thương mại điện tử theo nghĩa rộng được định nghĩa trong luật mẩu về thương mại điện tử của Ủy ban liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế : Thuật ngữ thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau : bất cứ giao dịch nào về thương mại nào về cung cấp, trao đổi hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xâydựng các công trình; tư vấn; kỷ thuật công trình; đầu tư cấp vốn; ngân hàng, bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng;liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa, hành khách bằng đương biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của thương mại điện tử rất rộng,bao quat hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế,việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng nghàn lĩnh vực áp dụng của thương mại điên tử. Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về thương mại điện tử như sau: Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử.Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh. Thương mại điện tử bao gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỷ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vân đơn điện tử, đấu giá thương mại,hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng,mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. Thương mại điện tử được thực hiên đối với cả hàng hóa và thương mại dịch vụ, các hoạt động truyền thống và các hoạt động mới. Tóm lại, theo nghĩa rộng thì thương mại điện tử có thể được hiểu là các giao dich tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt động gữi rút tiền bằng thẻ tín dụng. Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như : Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác phát triễn kinh tế đưa ra các khái niệm thương mại điện tử theo hướng này. Thương mại điện tử được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các trang web trên Internet với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói rằng thương mại điện tử đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người. Theo tổ chức Thương mại thế giới : Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng đựợc giao nhận một cách hưữ hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng internet. Khái niệm về thương mại điện tử do Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc đưa ra là: thương mại điện tử được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet. Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng theo nghĩa hẹp Thương mại điện tử chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như: điện thoại, fax, telex… Qua nghiên cứu các khái niệm về thương mại điện tử như trên, hiểu theo nghĩa rộng thì hoạt động thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng chục năm nay và đạt tới doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Theo nghĩa hẹp thì thương mại điện tử chỉ mới tồn tại được vài năm nay nhưng đã đạt được những kết quả rât đáng quan tâm, thương mại điện tử chỉ gồm các hoạt động thương mại được tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ Thương mại điện tử. 2.2. Lợi ích của thương mại điện tử 2.2.1. Lợi ích đối với tổ chức Mở rộng thị trường : Với chi phí đầu tư nhỏ hơn nhiều thương mại truyền thống, các công ty có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm,tiếp cận người cung cấp,khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung cấp, khách hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiều sản phẩm hơn. Giảm chi phí sản xuất : Giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí chia sẻ thông tin, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống. Cải thiện hệ thống phân phối : Giảm lượng hàng lưư kho và độ trễ trong phân phối hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các showroom trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (ví dụ như Ford motor) tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD từ giảm chi phí lưư kho. Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hoá các giao dịch thông qua Web và internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện24/7/365 mà không mất thêm nhiều chi phí biến đổi. Sản xuất hàng theo yêu cầu : Còn được biết đến dưới tên gọi ”chiến lược kéo”, lôi kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng. Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp. Mô hình kinh doanh mới : Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và giá trị mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon.com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá nông sản qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công này. Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường : Với lợi thế về thông tin và khả năng phối hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung sản phẩm ra thị trường. Giảm chi phí thông tin liên lạc. Giảm chi phí mua sắm : Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính(80%)giảm giá mua hàng(5-15%). Cũng cố quan hệ khách hang : Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng, quan hệ với trung gian và khách hàng được cũng cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá biệt hoá sản phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và cũng cố lòng trung thành. Thông tin cập nhật : Mọi thông tin trên Web như sản phẩm, dịch vụ, giá cả…đều có thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời. Chi phí đăng ký kinh doanh : Một số nước và khu vực khuyến khích bằng cách giảm hoặc không thu phí đăng ký kinh doanh qua mạng. Thực tế, việc thu nếu triển khai cũng gặp rất nhiều khó khăn do đặc thù của internet. Các lợi ích khác : Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp, cải thiện chất lượng dịch vụ khách hàng, đối tác kinh doanh mới, đơn giản hoá và chuẩn hoá các quy trình giao dịch, tăng năng xuất, giảm chi phí giấy tờ, tăng khả năng tiếp cận thông tin và giảm chi phí vận chuyển, tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kich doanh. 2.2.2. Lợi ích đối với người tiêu dùng Vượt giới hạn về không gian và thời gian : Thương mại điện tử cho phép khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với các cửa hàng trên khắp thế giới. Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ : Thương mại điện tử cho phép người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn. Gía thấp hơn : Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận tiện hơn và từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất. Giao hàng nhanh hơn với các hàng hoá số hoá được : Đối với các sản phẩm số hoá được như phim, nhạc, sách, phần mềm…việc giao hàng được thực hiện dễ dàng thông qua internet. Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn : Khách hàng có thể dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm (search engines), đồng thời các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh). Đấu giá : Mô hình đấu giá trưc tuyến ra đời cho phép mọi người tham gia có thể phối hợp, chia sẽ thông tin và kinh nghiệm hiệu quả và nhanh chóng. Đáp ứng mọi nhu cầu : Khả năng tự động hoá cho phép chấp nhận các đơn hàng khác nhau từ mọi khách hàng. Thuế : Trong giai đoạn đầu của thương mại điện tử, nhiều nước khuyến khích bằng cách miễn thuế đối với các giao dịch trên mạng. 2.2.3. Lợi ích đối với xã hội Hoạt động trực tuyến : Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc, mua sắm, giao dịch…từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiểm, tai nạn. Nâng cao mức sống : Nhiều hàng hoá, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm giá do đó khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của mọi người. Lợi ích cho các nước nghèo : Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua internet và thương mại điện tử. Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng…được đào tạo qua mạng. Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn : Các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ…được thực hiện qua mạng với chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cung cấp loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế…là các ví dụ thành công điển hình. 2.3. Các đặc trưng của thương mại điện tử Để xây dựng khung pháp luật thống nhất cho Thương mại điện tử, chúng ta cần nghiên cứu và tìm ra các đặc trưng của thương mại điện tử. So với các hoạt thương mại truyền thống, thương mại điện tử có một sộ điểm khác biệt cơ bản sau : Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện trong một thị trường không có biên giới. Thương mại điện tử trực tiếp tác động đến môi trường cạnh tranh toàn cầu. Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mang, các cơ quan chứng thực. Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là thị trường. 2.4. Các hình thức hoạt động của thương mại điện tử 2.4.1. Giao dịch thương mại điện tử, các bên tham gia giao dịch điện tử Giao dịch thương mại điện tử (electronic commerce transaction) với chử thương mại được hiểu với đầy đủ các nội dung đã ghi trong đạo luật mẫu về thương mại điện tử của Liên Hiệp Quốc, gốm 4 kiểu giao dịch: Người với người : Qua điện thoại, máy Fax và thư điện tử (electronic mail); Người với máy tính điện tử : Trực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử (electronic form) và qua võng thị toàn cầu (World Wide Web); Máy tính điện tử với máy tính điện tử : Qua trao đổi dữ liệu điện tử (electronic data interchange), thẻ thông minh (smart card), các dữ liệu mã hoá bằng vạch; Máy tính điện tử với người : Qua thư tín do máy tự động sản ra, máy Fax và thư điện tử. Các bên tham gia thương mại điện tử gồm 3 nhóm chủ yếu : 1) Doanh nghiệp 2) Chính phủ 3) Người tiêu dùng Các giao dịch này được tiến hành ở nhiều cấp độ khác nhau, bao gồm: Giữa doanh nghiệp với người tiêu dung : Mục đích cuối cùng là dẫn tới việc người tiêu dùng có thể mua hàng tại nhà mà không cần tới cửa hàng. Giữa các doanh nghiệp với nhau : Trao đổi dữ liệu, mua bán và thanh toán hàng hoá lao vụ, mục đích cuối cùng là đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và kinh doanh. Giữa các doanh nghiệp với các cơ quan chính phủ nhằm vào mục đích : (1)mua sắm chính phủ theo kiểu trực tuyến; (2) các mục đích quản lý (thuế,hải quan…); (3) thông tin. Giữa người tiêu dùng với các cơ quan chính phủ về các vấn đề: (1) thuế, (2) dịch vụ hiI quan,phòng dịch…(3) thông tin. Giữa các chính phủ : Trao đổi thông tin. Trong bốn cấp độ giao dịch nói trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau là dạng chủ yếu của giao dịch thương mại điện tử và giao dịch này chủ yếu dùng phương thức trao đổi dữ liệu điện tử, tức EDI. 2.4.2. Hình thức hoạt động của thương mại điện tử Thư điện tử(e-mail) : Các đối tác ( người tiêu dùng,doanh nghiệp, các cơ quan chính phủ) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau một cách ”trực tuyến”(on line) thông qua mạng gọi là thư tín điện tử (electronic mail). Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền qua thông điệp điện tử(electronic message) thay cho việc giao tay tiền mặt. Ngày nay, với sự phát triển của thương mại điện tử, thanh táon điện tử đã mở rộng bao gồm : Trao đổi dữ liệu tài chính, tiền mặt internet, túi tiền điện tử, thẻ thông minh, giao dịch ngân hàng số hoá. Trao đổi dữ liệu điên tử (electronic data interchange) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “có cấu trúc” từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thỏa thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người. EDI sử dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hang (gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, các hoá đơn..), EDI chủ yếu được thực hiện qua mạng ngoại bộ (Extranet). Giao gửi số hoá các dung liệu (digital delivery of content) : Dung liệu (content) là phần của hàng hoá với tính cách là nội dung của nó, nói cách khác, dung liệu chính là nội dung của hàng hoá chứ không phải là bản thân vật mang nội dung. Ví dụ, tintức, sách báo, phim, các chương trình phát thanh, truyền hình…Ngày nay dung liệu được số hoá và truyền gửi qua mạng, gọi là”giao gửi số hoá” (digital delivery). Bán lẻ hàng hoá hữư hình (retail of tangible goods) : Đối với hình thức bán lẻ hàng hoá hữư hình thì ngay ở Mỹ đến năm 1994-1995 cũng chưa phát triển, chỉ có vài cửa hàng bán đồ chơi, thiết bị tin học, sách, rượu..Hiện nay, danh mục hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng hơn rất nhiều, từ hoa tới quần áo, ô tô và xuất hiện một hoạt động gọi là mua hàng điện tử hay mua hàng trên mạng. Xu hướng trong những năm tới, thương mại điện tử chủ yếu được ứng dụng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, tiếp đến là du lịch, kinh doanh bán lẻ và quảng cáo, trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá hữư hình khác còn rất hạn chế. 2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại điện tử 2.5.1. Yếu tố kinh tế Trong môi trường hoạt động thương mại, các yếu tố kinh tế dù ở bất kỳ cấp độ nào cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu. Bởi lẽ, sự hình thành hệ thống tổ chức quản lý và các thể chế của hệ thống dó ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến chiều hướng và cường độ của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế nói chung và lĩnh vực hoạt động thương mại nói riêng. Những yếu tố kinh tế chủ yếu có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thương mại điện tử bao gồm : Tiềm năng của nền kinh tế : Đây là yếu tố tổng quát, phản ánh các nguồn lực có thể huy động được vào phát triển nền kinh tế. Yếu tố này liên quan đến các định hướng lớn về phát triển thương mại, do đó đến phát triển thương mại điện tử và các cơ hội kinh doanh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự thay đổi cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân : Yếu tố này liên quan trực tiếp đến sự tăng trưởng hoặc thu hẹp quy mô phát triễn cũng như cơ cấu phát triển của nghành thương mại,thể hiện ở tổng mức lưu chuyển và cơ cấu hàng hóa lưu chuyển trên thị trường… Lạm phát và khả năng kiềm chế lạm phát của nền kinh tế quốc dân : Yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến xu hướng đầu tư, xu hướng tiêu dùng, đến thu nhập, tích lũy và khả năng cân đối tiền-hàng trong thương mại. Tỷ giá hối đoái và khả năng chuyển đổi đồng tiền : Yếu tố này chứng tỏ sự ổn định của đồng tiiền nội địa cũng như việc lựa chọn ngoại tệ trong giao dịch thương mại sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thực thi của chiến lược phát triển thương mại và thương mại điện tử. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của nền kinh tế : Yếu tố này tạo điều kiện phục vụ cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh thương mại trong việc khai thác cơ sở hạ tầng sẵn có của nền kinh tế. Cũng chính yếu tố này sẽ tạo điều kiện vật chất cân thiết cho thương mại điện tử trở thành hiện thực. Khả năng nghiên cứu ứng dụng khoa học-kỷ thuật trong nền kinh tế : Yếu tố này phản ánh tiềm năng phát triển và đổi mới công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý, công nghệ thông tin…Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến đổi mới mẫu mã sản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm…đặc biệt ảnh hưởng đến sự phát triễn phương thức giao dịch điện tử trên thương trường. Thu nhập và phân bổ thu nhập của dân cư : Thu nhập là lượng tiền mà người tiêu dùng có thể thõa mãn nhu cầu cá nhân của họ trong một khoảng thời gian nhất định. Lượng tiền thu được của dân cư sẽ được trang trãi cho những nhu cầu khác nhau với những tỷ lệ khác nhau, mức độ ưu tiên khác nhau. Điều này ảnh hưởng đến khả năng thanh toán trong tạo ra cơ sở vật chất cần thiết cho thực hiện thương mại điện tử. 2.5.2. Yếu tố văn hoá –kinh tế xã hội Trong quá trình xây dựng và thực hiện thương mại điện tử cần phải xem xét đến yếu tố vănn hóa xã hội theo phạm vi rộng nhằm tìm ra những cơ hội, cũng như những đe dọa tiềm tàng cho sự phát triễn của thương mại điên tử. Mỗi một sự thay đổI các yếu tố văn hóa xã hội đều có thể ảnh hưởng đến môi trường cho việc thực hiện thương mại điện tử. Những yếu tố văn hóa xã hội thường thay đổi hoặc tiến triễn chậm chạp làm cho chúng đôi khi khó nhận ra, xong ảnh hưởng không kém phần sâu sắc đến môi trường kinh doanh. Sự xung đột về văn hóa xã hội, lợi ích trong quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế đã làm cho các yêu tố văn hóa xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triễn kinh tế xã hội và xúc tiến thương mại điện tử trong giai đoạn hiện nay. Thực tế, các vấn đề về phong tục tập quán, lối sống, trình độ dân trí, tôn giáo, tín ngưỡng…có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ cấu nhu cầu thị trường. Sự khác biệt về quan điểm kinh doanh, về trình độ, về dân tộc…có thể tạo ra những cản trở hoặc thuận lợi khi thực hiện sự dung hòa về lợi ích kinh tế giữa các bên, cũng như cần phải nghiên cứu thấu đáo, đầy đủ những nội dung chủ yếu của môi trường văn hóa xã hội sau đây : Dân số và sự biến động về dân số : Dân số thể hiện số người hiện có trên thị trường, điều đó sẽ ảnh hưởng đến dung lượng thị trường. Thông thường dân số càng lớn thì nhu cầu về nhóm sản phẩm càng nhiều, khối lượng tiêu thụ sản phẩm càng tăng, mối quan hệ giao dịch qua thương mại điện tử càng lớn. Cùng với số lượng dân số, cơ cấu dân số và xu hướng vận động của nó cũng ảnh hưởng đến cơ cấu tiêu dùng, thói quen tiêu dùng, phương thức tiêu dùng, phương tiện giao dịch, thông tin nói chung và thương mại điện tử nói riêng. Mặt khác, sự dịch chuyển dân cư theo khu vực địa lý cũng ảnh hưởng đến sự hình thành và mức độ tập trung dân cư trên từng vùng. Điều này ảnh hưởng tới sự xuất hiện cơ hội mới, hoặc làm mất đi cơ hội hiện tại trong hoạt động thương mại điện tử. Nghề nghiệp, tầng lớp xã hội : nghề nghiệp và vị trí xã hội của dân cư sẽ ảnh hưởng đến quan điểm và phương thức ứng xử của họ đối với thương mại điện tử. Do đó, cần phải thỏa mãn nhu cầu theo nhóm xã hội một cách tương xứng và phải được xem xét khi xây dựng, phát triển thương mại điện tử. Dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo và nền văn hóa : Cũng như vị trí nghề nghiệp và tầng lớp xã hội, bản sắc văn hóa của các dân tộc, chủng tộc, tôn giáo có sự khác nhau. Điều này dẫn tới quan điểm và cách ứng xử đối với thương mại điện tử mang tinh đa dạng và phong phú. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỄN Ảnh hưởng của thương mại điện tử tới sự phát triễn của nền kinh tế 1.1. Tác động đến hoạt đông marketting Nghiên cứu thị trường : Một mặt thương mại điện tử hoàn thiện nâng cao hiệu quả các hoạt động nghiên cứu thị trường truyền thống một mặt tạo ra các hoạt động mới giúp nghiên cứu thị trường hiệu quả hơn. Các hoạt động như phỏng vấn theo nhóm, phỏng vấn sâu được thực hiện trực tuyến thông qua internat,hoạt động điều tra bằng bảng câu hỏi được thực hiện qua công cụ webbased tiện lợi, nhanh và chính xác hơn. Hành vi khách hang : Hành vi khách hàng trong thương mại điện tử thay đổi nhiều trong thương mại truyền thống do đặc thù của môi trường kinh doanh mới. Các giai đoạn xác định nhu cầu,tìm kiếm thông tin, đánh giá lựa chọn, hành động mua và phản ứng sau khi mua hàng đều bị tác động bởi internet và web. Phân đoạn thị trường và thị trường mục tiêu : Các tiêu chí để lựa chọn thị trường mục tiêu dựa vào tuổi tác, giới tính, giáo dục, thu nhập vùng địa lý…được bổ sung thêm bởi các tiêu chí liên quan đặc biệt khác của thương mại điện tử như mức độ sử dụng internet, thư điện tử, các dịch vụ trên web… Định vị sản phẩm : Các tiêu chí để định vị sản phẩm cũng thay đổi từ giá rẻ nhất, chất lượng cao nhất,dịch vụ tốt nhất, phân phối nhanh nhất được bổ sung thêm những tiêu chí của riêng thương mại điện tử như nhiều sản phẩm nhất (Amazon.com), đáp ứng mọi nhu cầu của cá nhân và doanh nghiệp (Dell.com), giá thấp nhất và dịch vụ tốt nhất (Charles Schwab).., Các chiến lược marketting hổn hợp : Bốn chính sách sản phẩm giá, phân phối, xúc tiến và hổ trợ kinh doanh cũng bị tác động của thương mại điện tử. Việc thiết kế sản phẩm mới hiệu quả hơn, nhanh hơn nhiều ý tưởng mới hơn nhờ sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa nhà sản xuất, nhà phân phối ,nhà cung cấp và khách hàng. Việc định giá cũng chịu tác động của thương mại điện tử khi doanh nghiệp tiếp cận được thị trừơng toàn cầu, đồng thời đối thủ cạnh tranh và khách hàng cũng tiếp cận đựơc nguồn thông tin toàn cầu đòi hỏi chính sách giá toàn cầu và nội địa cần thay đổi để có sự thống nhất và phù hợp giữa các thị trường. Việc phân phối đối với hàng hoá hữu hình và vô hình đều chịu sự tác động của thuơng mại điện tử, đối với hàng hoá hữu hình quá trình này được hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả hơn. Đối với hàng hoá vô hình quá trìng này được thực hiện nhanh hơn hẳn so với thương mại truyền thống. Đặc biệt hoạt động xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh có sự tiến bộ vượt bậc nhờ tác động của thương mại điện tử như quảng cáo trên website, quảng cáo bằng e-mail, diễn đàn cho khách hàng trên mạng, dịch vụ hỗ trợ khách hàng 24/7… 1.2. Thay đổi mô hình kinh doanh Một mặt các mô hình kinh doanh truyền thống bị áp lực của thương mại điện tử phải thay đổi, mặt khác các mô hình kinh doanh thương mại điện tử hoàn toàn mới được hình thành. Thay đổi các mô hình kinh doanh truyền thông như : Ford Motor.com, IBM.com… Mô hình kinh doanh mới : Dell.com, Amazon.com… 1.3. Tác động đến hoạt động sản xuất Các hãng sản xuất lớn nhờ ứng dụng thương mại điện tử có thể giảm chi phí sản xuất đáng kể. Có thể phân tích một số mô hình để thấy rõ hiệu quả của thương mại điện tử trong sản xuất : Dell.com Ford Motor.com 1.4. Tác động đến hoạt động ngân hàng Hàng loạt các dịch vụ ngân hàng điện tử được hình thành và phát triễn mở ra cơ hội mới cho cả các ngân hàng và khách hàng. Internet banking : Thanh toán thẻ tín dụng trực tuyến Thanh toán bằng thẻ thông minh Mobile banking ATM POS 1.5. Tác động đến hoạt động vận tải, bảo hiểm Mô hình kinh doanh bảo hiểm cũng bị thay đỗi bởi tác động của thương mại điện tử. 1.6.Tác động đến hoạt động ngoại thương Đối với hoạt động ngoại thương,thương mại điện tử có những tác động hết sức mạnh mẽ do đặc thù của internet là toàn cầu rất phù hợp với các giao dịch thương mại quốc tế. Mọi hoạt động trong quy trình kinh doanh quốc tế đều chịu tác động của thương mại điện tử. Anh hưởng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ : Việc tham gia thương mại điện tử của các doanh nghiệp nhỏ có thể bắt đầu với hệ thống máy tính văn phòng, kết nối internet để trao đổi thư điện tử, khai thác thông tin trên mạng,tiến tới thiết lập website để giới thiệu công ty, sản phẩm dịch vụ. Bước tiếp theo có thể tham gia các sàn giao dịch điện tử B2B,B2C hoặc triển khai bán hàng qua website, tự động hoá các quá trình xử lý các đơn hàng, thanh toán… Đối với các doanh nghiệp lớn : Có nhiều vấn đề cần phải quan tâm như : chiến lược tham gia thương mại điện tử, hạ tầng công nghệ thông tin, giải pháp thương mại điện tử, đội ngủ nhân lực. 2. Hạn chế của thương mại điện tử Có hai loại hạn chế của thương mại điện tử, một nhóm mang tính kỷ thuật, một nhóm mang tính thương mại. Theo nghiên cứu của ComerceNet, 9 cản trở lớn nhất của thương mại điện tử là : An toàn Sự tin tưởng và rủi ro Thiếu nhân lực về thương mại điên tử Văn hóa Thiếu hạ tầng về chữ ký số hóa Nhận thức của các tổ chức về thương mại điện tử Gian lận trong thương mại điện tử Các sàn giao dịch B2B chưa thực sự thân thiện với người tiêu dùng Các rào cản thương mại quốc tế truyền thống Hạn chế về kỷ thuật Hạn chế về thương mại Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia thương mại điện tử Tốc độ đường truyền Internet vẫn chua đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng, nhất là trong thương mại điện tử Thiếu lòng tin vào thương mại điện tử và người bán hàng trong thương mại điện tử do không được gặp trực tiếp Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn trong giai đoạn phát triễn Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ Khó khăn khi kết hợp các phần mềm thương mại điện tử với các phần mềm ứng dụng và các cơ sở dữ liệu truyền thống Một số chính sách chưa thực sự hỗ trợ tạo điều kiện để thương mại điện tử phát triẽn Cần có các máy chủ thương mại điện tử đặc biệt (công suất, an toàn) đòi hỏi thêm chi phí đầu tư Các phương pháp đánh giá hiệu quả của thương mại điện tử còn chưa đầy đủ Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao Chuyển đổi thói quen tiêu dùng từ thực đến ảo cần thời gian Thực hiện các đơn đặt hàng trong thương mại điện tử B2C đòi hỏi hệ thống kho hàng tự động lớn Sự tin cậy đối với môi trường kinh doanh không giấy tờ, không tiếp xúc trực tiếp, giao dịch điện tử cần thời gian Số lượng người tham gia chưa đủ lớn để đạt lợi thế về quy mô Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của thương mại điện tử Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm khó khăn hơn sau sự sụp đỗ hàng loạt của các công ty dot.com 3. Thực trạng và giải pháp Theo báo cáo Thương mại điện tử năm 2005 của vụ Thương mại điện tử-Bộ Thương Mại: Khung chính sách và pháp lý cho thương mại điện tử đã hình thành : Kế hoạch tổng thể phát triễn Thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010; Luật Giao Dịch Điện Tử có hiệu lực kể từ1/3/2006. Luật Thương mại sữa đổi, Luật Dân Sự sữa đổi, Luật công nghệ thông tin, Nghị định về Thương mại điện tử. Nhiều hoạt động hỗ trợ thương mại điện tử của nhà nước : thử nghiệm hải quan điện tử, các trang web công thông tin của các cơ quan nhà nước, hỗ trợ dịch vụ công, các sàn giao dịch xúc tiến thương mại B2B. Hoạt động đào tạo thương mại điện tử đã được chính quy hóa có chương trình đào tạo chuyên nghiệp trong các trường như : ĐH Ngoại Thương, ĐH Bách Khoa, một số trường cao đẳng… Thống kê về thương mại điện tử : số người sử dụng Internet đat khoảng 6,2 triệu người, chiếm khoảng 7,4% dân số, số thuê bao Internet đạt khoảng 2 triệu thuê bao. Tỉ lệ kết nối Internet của các doanh nghiệp : 50-60% doanh nghiệp có kết nối Internet. Các mô hình ứng dụng thương mại điện tử hiện nay : website marketing giới thiệu doanh nghiệp và sản phẩm, website hỗ trợ khách hàng, website bán hang, website giao vặt quảng cáo, website đấu giá, website thông tin… Hạ tầng cơ sở và an ninh mạng : đáng chú ý nhất là dịch vụ truy cập Internet băng thông rộng ADSL, hạ tầng cơ sở chưa có bước tiến nổi bật, an ninh mang là một vấn đề nan giải việc các hacker tấn công vào các website với mục đích xấu mà chưa có một hình thức hữu hiệu nào để ngăn chặn. Theo thống kê mới nhất, tính đến giữa năm 2005, Việt Nam đã có khoảng 10 triệu người truy cập Internet, chiếm gần 12,5% dân số cả nước. Tỷ lệ này cũng ngang bằng với tỷ lệ chung của toàn cầu năm 2004. Nếu cuối năm 2003 số người truy cập Internet ở Việt Nam là khoảng 3,2 triệu người, đến cuối năm 2004 con số này đã tăng lên gần gấp đôi, tức khoảng 6,2 triệu người, sáu tháng sau đó, con số này đã lên tới hơn 10 triệu, dự đoán đến cuối năm 2005, số người Việt Nam truy cập Iternet có thể lên đến 13 đến 15 triệu người, chiếm tỷ lệ 16-18% dân số cả nước. Những thống kê này cho thấy một tín hiệu lạc quan về sự phát triễn thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010. Theo thống kê của Vụ thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại, đến cuối năm 2004, Việt Nam đã có khoảng 17.500 website của các doanh nghiệp, trong đó số tên miền.vn(như.com.vn, .net.vn, …) đã tăng từ 2.300 (năm 2002) lên 5.510 (năm2003) và 9.037 (năm 2004). Năm 2003, 2004 là năm các website sàn giao dịch B2B, các website giao vặt, các siêu thị trực tuyến B2C…đua nhau ra đời. Tuy nhiên, các website này vẫn còn hạn chế, chưa có website nào thực sự phát triễn đột phá vì nhiều nguyên do. Những mặt hàng được bán phổ biến ở Việt Nam hiện nay gồm : hàng điện tử, kỷ thuật số, sản phẩm thông tin, thiệp, hoa, quà tặng, hàng thủ công mỹ nghệ.Các dịch vụ ứng dụng thương mại điện tử nhiều như : du lịch, tư vấn, công nghệ thông tin, dịch vụ thông tin, giáo dục đào tạo… Các doanh nghiệp cũng đã quan tâm nhiều hơn về việc lập website để giới thiệu thông tin, hỗ trợ marketting, bán hàng qua mạng… Bảng sau minh họa kết quả khảo sát của Vụ thương mại điện tử về quan điểm của doanh nghiệp, về tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tác dụng của website đối với Doanh nghiệp Điểm ( 0 là thấp nhất. 4 là cao nhất ) Xây dựng hình ảnh công ty 3,2 Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có 2,9 Thu hút khách hàng mới 2,6 Tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động 2,0 Tăng doanh số 1,9 Kết quả khảo sát trên phản ánh thực tế đa phần doanh nghiệp có website mới chỉ xem website là kênh tiếp thị bổ xung để quãng bá hình ảnh công ty và giới thiệu sản phẩm, dịch vụ, do đó, doanh nghiệp chưa đầu tư khai thác hết những lơi ích thương mại điện tử có thể mang lại cho doanh nghiệp. Thậm chí việc đầu tư marketing website để đối tượng khách hàng biết đến cũng chưa được doanh nghiệp quan tâm thực hiện hiệu quà, bằng chứng là có nhiều website có số lượng người truy cập rất khiêm tốn sau khi khai trương nhiều tháng, nhiều năm, và đa số các website giới thiệu thông tin, sản phẩm này của doanh nghiệp được Alexa xếp hạng rất lớn ( trên 500.000 ) Nhìn chung, việc phát triễn thương mại điện tử ở Việt Nam hiện còn mang tính tự phát, chưa được định hướng bởi chính phủ và các cơ quan chuyên môn nhà nước. Do đó, sự đầu tư cho thương mại điện tử ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp. Cũng có nhiều cá nhân, doanh nghiệp thành lập những website thương mại điện tử để giành vị thế tiên phong, tuy nhiên, tình hình chung là các website này chưa thực sự được marketing tốt và phát triễn tốt để mang lại lợi nhuận kinh tế đáng kể. 3.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin cho thương mại điện tử Công nghệ thông tin (CNTT) gồm hai nhánh : Tính toán và truyền thông tin trên cơ sở của một nền công nghiệp điện lực vững mạnh, là nền tảng của “ Kinh tế số hóa “ nói chung và “Thương mại điện tử” nói riêng. Tính đến cuối năm 2006, trong tổng số 64 Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có 52 tỉnh, thành phố có website hoạt động, 11 tỉnh, thành phố không có website hoặc website không hoạt động trong thời gian khảo sát ( Bạc Liêu, Đắc Nông, Điện Biên, Hà Giang, Hải Dương, Sơn La), còn năm 2005 chỉ có 49 tỉnh, thành phố có website hoạt động. Tổng giá trị ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam năm 2005 là 1,4 tỷ USD, tăng 49,6% so với năm 2004, trong đó công nghiệp phần cứng tăng mạnh, chủ yếu từ sự tăng trưởng của các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam. 3.1.1. Công nghệ tính toán Ở Việt Nam máy tính điện tử được sử dụng đầu tiên vào năm 1968 khi chiếc máy tính do Liên Xô viên trợ được lắp đặt tại Hà Nội. 1970 phía Nam sử dụng một số chiếc máy tính lớn của Mỹ. Cuối 1970 cả nước có 40 dàn máy tính vạn năng thuộc các dòng MILSK và ES ở Hà Nội, và IBM360 ở TP Hồ Chí Minh. 1980 máy tính được nhập khẩu vào Việt Nam. Từ 1995 bắt đầu triển khai chương trình quốc gia về công nghệ thông tin. Lượng máy tính nhập khẩu tăng vọt với tốc độ 50% /năm. Cho tới nay máy vi tính nhập vào Việt Nam lên tớI trên 1triệu chiếc ngoài ra có một số máy tính thế hệ mới loại lớn, và khoảng 800 máy mini. Máy tính cá nhân lắp ráp trong nước đang phát triển nhanh và theo ước tính đã chiếm khoảng 70% thị phần với khốI lượng sản xuất 70 đến 100 nghìn máy 1 năm. Tại nhiều cơ quan và doanh nghiệp, dữ liệu có cấu trúc đã được quản lý bằng nhiều hệ quản trị cở sở khác nhau ( chủ yếu là DBASE, Fox, Access,Oracle,SQL sever) cũng đã sử dụng một số phần mềm nhóm như MS office,Teammoric, Lotus Notes. Đang xây dựng 6 cơ sở dữ liệu quốc gia cỡ lớn phục vụ mục tiêu tin học hóa quản lý nhà nước . Một số mạng máy tính ( Lan,internet) chạy trên các phần mềm khác nhau (Novell Netuare UNIX,Linux,Window NT,…) đã được triển khai như : Mạng của văn phòng chính phủ, mạng của Bộ quốc phòng , mạng của Bộ tài chính, Bộ thương mại … Do máy tính nhập vào nhiều loại rất kém chất lượng, hỏng hóc. Nên thực tế hiện nay số máy đang hoạt động khoảng 350 000 chiếc , tức là cường độ trang bị máy mới đạt khoảng gần 5 máy /1000 người, với mác máy bình quân tương đối thấp (ở tổng cục bưu điện 90% là máy 486 trở xuống). Cường độ sử dụng máy còn thấp, hầu như ở nhiều cơ quan xí nghiệp máy vi tính được sử dụng như một máy đánh chữ là chính. Trang bị CNTT mất cân đối lớn, phần cứng chiếm tới 80% tổng chi phí (lẽ ra trong giai đoạn này phần mềm phải chiếm 35 %, nếu tính cả xây dựng đề án, đào tạo, triển khai, bảo hành,…cũng là yếu tố phần mềm thì tỷ trọng phải là 60% ) Công nghiệp phần mềm ở ta ít phát triển chủ yếu là dịch vụ cài đặt và hướng dẫn sử dụng, sản phẩm phần mềm chủ yếu là các chương trình văn bản Tiếng Việt, Giáo Dục, Văn Hóa, Kế Toán, Thống Kê, … Các công ty trong nước mớI đạt 10 % phần mềm và thị phần . Tóm lạị : Tuy tốc độ phát triển cao trong vài năm gần đây song phần mềm tính toán của Việt Nam còn rất nhỏ bé, đặc biệt là công nghệ phần mềm. 3.1.2. Công nghệ truyền thông Ngành truyền thông Việt Nam những năm gần đây tăng trưởng tới 70% / năm. Viễn thông qua vệ tinh đã được ứng dụng, sử dụng vệ tinh của nước ngoài. Các thiết bị và công nghệ điều khiển tự động tiên tiến đã được áp dụng trong ngành địa chính (Công nghệ định vị vệ tinh toàn cầu GPS : Global Positioning System) ngành hàng không. Năm 1993 , tổng cục Bưu chính viễn thông thiết lập một mạng toàn quốc truyền dữ liệu trên X25, gọi là Vietpac, nhưng mạng này không đủ đáp ứng nên gần đây tổng cục đã phát triển một mạng khung toàn quốc tên là VNN nối internet và các mạng nội bộ của các cơ quan và tư nhân. VNN là mang quốc gia đường dào có hai cổng đi quốc tế, 1ở Hà Nội và một ở TP Hồ Chí Minh. Mạng khung Bắc –Nam có hai đường trung tuyến vận tốc 2MB/Sec ( Hướng là 8-10 MB/Sec và một đường dự phòng 192KB/Sec nốI viới mạng X.25) VNN có thể cung cấp dịch vụ nối mạng khung cho khoảng 30 mạng biệt lập và các dịch vụ nối mạng internet vớI vận tốc 64 KB/Sec Nhờ mạng nội bộ và mạng quốc gia Bộ Tài Chính có thể nhận được thông tin hàng ngày từ các điểm thu thuế trong 63 tỉnh thành. Tổng cục hải quan thu được thông tin hàng ngày về hoạt động xuất nhập khẩu từ 131 cơ sở . Hãng hàng không có trên 20 000 máy liên kết các phòng vé, sân bay và kho hàng. Tuy vậy , tính tin cậy của dịch vụ truyền thông còn thấp, và chi phí còn rất cao so với mức sống trung bình của dân chúng nên tính phổ cập còn rất thấp . 3.1.3. Ngành điện lực Là nền tảng của cả ngành tính toán và truyền thông lai đang gặp khó khăn. Những năm gần đây tiêu thụ điện của toàn quốc tăng khoảng 15% /Năm, nhưng do hạn hán nên thiếu điện. Tình trạng này sẽ khó khăn hơn trong những năm sắp tới. Hệ thống phân phối còn chắp và cung cấp không ổn định gây khó khăn cho tính toán và truyền thông . 3.2. Hạ tầng cơ sở nhân lực cho thương mại điện tử 3.2.1. Chuyên gia Công nghệ thông tin Cho tới 1990 ở nước ta chưa có khoa tin học tại các trường Đại Học cũng chưa có hệ thống đào tạo chuyên gia cho các ngành này. Từ 1980 một số trường ĐH đã mở khoa tin học, một số đã đào tạo sâu. Cùng với đào tạo trong nước, Nhà Nước tiếp tục gửi đi học ở nước ngoài. Lực lượng chuyên gia tin học của Việt Nam hiện nay có thể phân thành : Các chuyên gia có kiến thức cao, được đào tạo ở nước ngoài hoặc các nhà toán học nhiều năm qua đã chuyển hướng sang tin học. Hiện nay số này khoảng 30 000 người. Các cán bộ được đào tạo từ các khoa tin học từ các trường ĐH theo đánh giá trình độ của các sinh viên ở đây khá cao, và để tiếp thu thực tế mỗi năm ra trường 1000 người. Một lực lượng đông đảo các thanh niên học thêm các trung tâm tin học, số này khoảng vài vạn người. Đội ngũ việt kiều tin học, có khoảng 50 000 người. Đây là lực lượng giỏi, nhiều người có trình độ cao và rất cao, một số còn là chuyên gia đầu đàn của các tổ chức tin học thế giới. Năm 2006 các hình thức đào tạo thương mại điện tử phát triễn phong phú. Về đào tạo chính quy tại các trường Đại Học và Cao Đẳng, một cuộc điều tra tại các trường có khoa kinh tế ở miền bắc cho thấy 75% số trường có môn học về thương mại điện tử với ít nhất là 3 học phần. Kết quả điều tra cũng chỉ ra các khoa của trường kinh tế đặc biệt là khoa Quản trị kinh doanh rất quan tâm đến đào tạo thương mại điện tử. Một số chương trình đào tạo về thương mại điện tử tại các trường đại học: Trường Môn học Số lượng Đaị Học Thương mại Thương mại điện tử căn bản Marketing thương mại điện tử Quản trị thương mại điện tử B2B, B2C Bảo mật thông tin Đại Học Ngoại thương Thương mại điện tử 60 tiết Đaị Học Kinh tế Quốc dân Hà Nội Thương mại điện tử 60 tiết Khoa Kinh tế-Đaị Học Quốc gia Thương mại điện tử 45 tiết Đaị Học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Thương mại điện tử 45 tiết Đaị Học Quản lý và Kinh doanh Thương mại điện tử 45 tiết Đaị Học Dân lập Phương Đông Thương mại điện tử 45 tiết Đại Học Sư phạm kỷ thuật Hưng Yên Thương mại điện tử 45 tiết Học viện Ngân hàng Thanh toán điện tử liên ngân hang Sàn giao dịch chứng khoán Khoa kinh tế Quản lý-Đại Học Bách Khoa Thương mại điện tử 45 tiết 3.2.2 .Dân chúng đông đảo Ứng dụng internet/Web, tỉ lệ người sử dụng internet trên 1000 dân mới đạt 0,02 (bằng 1/10 ở Brulay ) cả nước chỉ có công ty VDC là nhà cung cấp duy nhất đầu vào mạng IAP và 4 nhà cung cấp dịch vụ ISP. Hiệu quả sử dụng internet ở các cơ quan rất thấp, không khai thách được nhiều thông tin trên internet. Có thể nói việc sử dụng máy vi tính ngày càng phổ biến nhưng it nhiều vẫn mang tính tự phát . Nguyên nhân : Thiếu một chiến lược nhà nước để phát triển ngành tin học . Tuy nhà nước đã có nhiều lỗ lực : Năm 1975 ban ngành hàng loạt nghị định liên quan đến phát triển và ứng dụng tin học , thành lập tổng cục điện tử tin học, viện tin học, xây dựng các chương trình quốc gia về nghiên cứu ứng dụng tin học . Tháng 8 –1993, ra quyết định 49 CP về việc phát triển CNTT đến năm 2000 và đã thành lập ban chỉ đạo quốc gia. Song đến nay vẫn chưa có một chiến lược công bố về phát triển ngành điện tử tin học. Thiếu đầu tư đầy đủ và cân đối, nhánh truyền thông được đầu tư nhiều hơn tính toán . Bất cập về chính sách : Các chính sách cụ thể không thể hiện được ý đồ phát triển CNTT trái lại nhiều chính sách bất cập về thuế, về lập nghiệp (thủ tục) về bảo hộ, chính sách Việt Kiều. 3.3. Hạ tầng cơ sở kinh tế, pháp lý cho thương mại điện tử Nước ta là nước “ Nông nghiệp lạc hậu” 80% dân số làm nông nghiệp, công nghiệp mới chiếm 32 %, chi phí dịch vụ quá cao . Xét riêng buôn bán hàng hóa và dịch vụ thì thương mại ở mức phát triển thấp. Nguyên liệu thô và hàng công nghiệp mức độ chế biến thấp. Chỉ riêng 4 mặt hàng dầu thô, gạo, hải sản và cà fe chiếm khoảng 40 % kim ngạch suất khẩu, dệt may và giày dép chiếm trên 20% hàng chế biến sâu và hàng chế tạo chưa tới 25 % tổng kim ngạch suất khẩu. Hoạt động buôn bán hàng hóa và dịch vụ của ta, mức độ giao dịch thấp, cả ở trong và ngoài nước, về buôn bán đối ngoại tuy có trao đổi buôn bán với trên 100 nước và địa khu, nhưng vẫn tập trung chủ yếu vào các bạn hàng truyền thống trong vùng Asean . Mạng lưới bạn hàng trong và ngoài nước của các công ty rất hẹp đa số công ty thiếu thông tin về thị trường hàng hóa, bạn hàng nên cơ hội kinh doanh bị hạn chế 3.3.1. Năng lực kinh tế Năng lực yếu kém, hệ thống tiêu chuẩn đúng nghĩa chưa hình thành, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia cũng không tương thích với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế. Bản thân hệ thống này cũng có mâu thuẫn và không thống nhất, hệ thông mã quốc gia chưa có, là điều sẽ gây chở ngại lớn cho việc chuyển sang một nền “Kinh tế số hóa”. 3.3.2. Năng suất lao động thấp, tổ chức lao động Lạc hậu, tỷ lệ thất nghiệp thực còn ở mức cao chưa tao được động lực thực tế thúc đẩy tiết kiệm cao độ chi phí vật chất và thời gian (là mục tiêu cơ bản nhất của môi trường đầu tư) 3.3.3. Mức sống liên quan đến sử dụng thương mại điện tử Mức sống thấp GDP đầu người không cho phép dân chúng và đông dảo doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng với các phương tiện của “ kinh tế số hóa “. Phương tiện điện tử lại quá cao so với mức sống giá máy tính điện tử và các trang bị phụ trợ gần 1000 USD, chi phí hòa mạng internet 250 000 đ, phí thuê bao hàng tháng 50 000 đ , phí truy cập 290đ/phút đều rất cao so với thu nhập đầu người, và còn rất cao so với phí dịch vụ internet trong khu vực. Ở Việt Nam theo VDC một người dùng internet 30 giờ trong một tháng phả trả 54 USD 3.3.4. Chưa hình thành và thực thi đựơc việc tiêu chuẩn hóa toàn bộ nền kinh tế Đa số hàng hóa vẫn còn trao đổi theo mẫu và theo quan sát trực tiếp, hàng giả còn phổ biến, chưa nói tới thống nhất mã thương mại với các nước trong khu vực và trên thế giới ( liên quan tới môi trường đầu tư qua biên giới). Riên mã vạch tới nay Đa số hàng hóa còn trao đổi theo mẫu và theo quan sát mới thể hiện trên thị trường và theo dự kiến sau 5 năm nữa mới đạt tỷ lệ 80%. Thiếu chiến lược mã quốc gia làm cơ sở phát triển công nghệ mã hóa phục vụ mục đích bảo đảm an toàn dữ liệu thông tin. Luật Pháp Hệ thống luật pháp hiện đại đang mới ở giai đoạn hình thành đầu trên và chưa hoàn thiện, đặc biệt là hàng loạt vấn đề pháp lý của các Giao dịch thương mại điện tử chưa được phản ánh trong “Bộ luật thương mại” ,”Bộ luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”, ”Bộ luật hình sự” và các bộ luật khác có liên quan. Trong đó các vấn đề như luật pháp về giá trị pháp lý của các giao dịch điện, về xác thực và chứng nhận chữ kí điện tử, về chồng sâm nhập trái phép vào các dữ liệu, … vẫn chưa hoàn thiện. Hiệu lực thi hành và do đó hiệu lực điều chỉnh của các luật đã ban hành còn thấp, ngay cả trong hoàn cảnh kinh tế và thương mại còn đang được vận hành trên cơ sở giấy tờ. Ngày 1/3/2006, Luật giao dịch điện tử chính thức có hiệu lực, mở ra một giai đoạn mới khi các giao dịch điện tử đã được pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo hộ. Đồng thời, tháng 6 năm 2006 Quốc Hội đã thông qua luật công nghệ thông tin, luật sẻ có hiệu lực vào tháng 1 năm 2007. Tuy nhiên, để luật có thể đi vào cuộc sống và phát huy hết tác dụng, vẫn cần những văn bản dưới luật nhằm điều chỉnh những khía cạnh cụ thể của giao dịch điện tử trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong khi việc xây dựng và ban hành Luật giao dịch điện tử và luật công nghệ thông tin diễn ra khá nhanh so với các luật khác, quá trình xây dựng và ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành các luật này lại chậm chạp. Tính đến cuối năm 2006, trong số năm nghị định cần ban hành để thi hành Luật giao dịch điện tử, Chính phủ mới ban hành được duy nhất nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử. 3.4. Hạ tầng cơ sở chính trị, xã hội cho thương mại điện tử Việt Nam là một nước XHCN một hệ thống đối lập với tư bản chủ nghĩa. Các nước thù địch tìm mọi cách chống phá chế độ ta . Về mặt chính trị, internet/Web đã là một phương tiện tuyệt vời cho bạn phản chế hoạt động và thâm nhập, đòi hỏi nhà nước phải có biện pháp bảo vệ thích hợp. Ngay từ 1996 đã có chỉ thị về tăng cường chỉ đạo, quản lý, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch dùng phương tiện thông tin điện tử để chống phá ta, trong đó đã đề cập đến phương tiện điện thọai, Fax, kênh truyền hình TURO, kết nối mạng thông tin internet và các hoạt động mua bán , trao đổi thông tin giữa các cơ quan trong và ngoài nước . Ngoài ra còn phải đề phòng phim ảnh không lành mạnh, các lối sống thực dụng, bạo lực thâm nhập qua internet Web. Về cách sống và làm việc của dân ta còn qua giao dịch trên văn bản giấy tờ, mua hàng phải qua các giác quan thử nghiệm, trả bằng tiền mặt, … không phù hợp với thương mại điện tử. Về mặt xã hội, người Việt Nam chưa xây dựng được tác phong “ làm việc đồng đội” cỡ tầm toàn xã hội và tầm quốc tế , chưa có lối sống theo pháp luật chặt chẽ chưa có thói quen “công nghiệp” và tiêu chuẩn hóa. Đều là những yếu tố cản đường tiến tới “kinh tế số hóa “ và thương mại điện tử . Tóm lại : Từ 4 hạ tầng cơ sở trên cho thấy môi trường điển hình cho “kinh tế số hóa “ nói chung và thương mại điện tử nói tiêng chưa hình thành đầy đủ ở Việt Nam, đòi hỏi ngay bây giờ phải có kế hoạch chuẩn bị kĩ càng, không được chậm nhưng không được nóng vội . KẾT LUẬN Sự ra đời của xa lộ thông tin, đặc biệt là các ứng dụng CNTT dựa trên kĩ thuật số, máy tính sách tay, lưu trữ dữ liệu và hệ thống làm việc Network đã đưa đến khái niệm nền kinh tế số hóa và là động lực chủ yếu của quá trình toàn cầu hóa đang biến đổi sâu sắc nền kinh tế thế giới và tác động đến từng quốc gia. Viêc ứng dụng thương mại điện tử giúp tiết kiệm chi phí sản xuất, giao dịch và bán hàng cũng như mở ra nhiều cơ hội thâm nhập thị trường sản xuất kinh doanh. Khối lượng và doanh thu từ thương mại điện tử trên thế giới tăng với tốc độ chóng mặt trong mấy năm gần đây, thương mại điện tử sẽ trở thành phương thức phổ biến trong thương mại quốc tế. Sự phát triển của thương mại điện tử cũng đem lại cơ hội cho Việt Nam, một nền kinh tế đang phát triển thúc đẩy tốc độ tăng trưởng, hội nhập với các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới . Là một nước đang phát triển nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) .Việt Nam cũng đứng trước cơ hội và thách thức mà xu thế phát triển khoa học công nghệ nói chung và quá trình toàn cầu hóa nói riêng mang lại. Ứng dụng thương mại điện tử có lẽ là con đường mà xu thế phát triển của nhân loại đã đặt ra trước mắt. Điều này đòi hỏi chính phủ và mọi thành phần kinh tế phải nỗ lực hết mình xây dựng, hoàn thiện các điều kiện thương mại điện tử một cách bền vững. Trong đó đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ là ưu tiên chiến lược dài hạn quan trọng nhất của đất nước ta. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu trong nước Giáo trình kinh tế thương mại, Chủ biên GS.TS Đặng Đình Đào-GS.TS Hoàng Đức Thân, Nhà xuất bảnThống Kê Giáo trình thương mại điện tử, Chủ biên GS.TS Trần Văn Hòe, Nhà xuất bản Thống Kê Bộ thương mại”Thương mại điện tử”, Nhà xuất bản Thống Kê 2005 Báo cáo của Bộ Thương Mại 2005-2006 Thời báo kinh tế Việt Nam 2005-2006 Tạp chí kinh tế phát triển các số 2005-2006 “Thương mại điện tử”, Trung tâm thông tin bưu điện – Nhà xuất bản bưu điện 2004 Báo cáo dự án Quốc Gia “Kỹ thuật thương mại điện tử”, Ban thương mại điện tử - Bộ thương mại –2005 “Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” Ban tư tưởng -Văn Hóa Trung Ương, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia 2002 Tài liệu nước ngoài 1.Aadiya Matto and Ludger Schuknecht,” Trade policy for Electronic Commerce”, WTO Working papers,2001. 2.A.Didar Singh “Electronic Commerce : Issues for the South”, South Centre T.R.A.D.E Working Papers,1999

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0717.doc
Tài liệu liên quan