MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
Phần I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU 2
1. Khái niệm về thương mại quốc tế 2
2. Vai trò của thương mại quốc tế 2
3. Xuất nhập khẩu và vai trò của xuất nhập khẩu 3
Phần II: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA TRUNG QUỐC TRONG THỜI KỲ CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA, TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA TRUNG QUỐC 8
I. Tình hình của kinh tế Trung Quốc trước thời kỳ cải cách, mở cửa 8
II. Chính sách kinh tế mở cửa và tác động và tác động của nó đối với hoạt động xuất nhập khẩu 8
1. Nội dung của chính sách kinh tế trong thời kỳ mở cửa 8
2. Quá trình thực hiện cải cách 19
3. Ngoại thương của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách mở cửa 20
4. Quan hệ xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc 21
III. Những thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được trong thời kỳ cải cách 23
1.Tăng trưởng kinh tế và những thay đổi cơ cấu kinh tế 23
2. Trung Quốc gia nhập WTO 23
3. Những kết quả và những vấn đề còn tồn tại 25
IV. Liên hệ với Việt Nam 30
1. Những ảnh hưởng 30
2. Những thành tựu 31
3. Khó khăn và tồn tại 32
Phần III: KẾT LUẬN 33
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương mại quốc tế của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách và mở cửa, tác động của nó đến hoạt động xuất nhập khẩu của Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g...
Trung Quốc sử vốn của nước ngoài đã mở ra những triển vọng mới, đã đem lại những hiệu quả đáng kể có lợi cho việc điều chỉnh kinh tế của Trung Quốc: xây dựng trọng điểm năng lượng, giao thông và cải tiến kỹ thuật ở các xí nghiệp hiện có, tiếp thu kinh nghiệm quản lí khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài.
Nhưng bên cạnh những kết quả lớn, việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài còn đang gặp một số khó khăn. Trước hết là chất lượng thu hút vốn đầu tư chưa cao và trong những năm đầu còn tập trung vào những nghành như du lịch, nhà đất, công nghiệp nhẹ, khách sạn. Còn về mặt kỹ thuật, những xí nghiệp do tư bản nước ngoài đầu tư phần lớn có trình độ khoa học thấp, sử dụng nhiều lao động, nên chưa đạt đượcmục đích thu hút kỹ thuật và kỹ năng quản lí tiên tiến. Ngoài ra, Trung Quốc còn thiếu các chuyên gia thạo giỏi để quản lí tốt các qúa trình xuất nhập khẩu và sử dụng vốn nước ngoài.
Để khắc phục tình trạng trên và để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn nước ngoài, một số nhà nghiên cứu Trung Quốc đã phân tích ảnh hưởng của nhân tố chính sách, chế độ và cán bộ đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Họ đã đưa ra các kiến nghị để cải thiện hoàn cảnh đầu tư như cải thiện chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại; cải tiến việc quản lí giá cả, ngăn chặn tăng giá;cải thiện cơ chế quản lí tư bản nước ngoài, nâng cao hiệu quả quản lí; đề ra chính sách thu hút vốn đầu tư của tư bản nước ngoài, tăng cường nghiên cứu tổng hợp đối với tư bản quốc tế.
Để thể chế hoá việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ngày 11-10-1986 Quốc vụ viện đã công bố quy định về khuyến khích các nhầ đầu tư nước ngoài, nhằm cải thiện môi truờng đầu tư, thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài tốt hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng xuất khẩu thu ngoại tệ, phát triển kinh tế quốc dân. Trong đề cương quy hoạch 10 năm và 5 ăm lần thứ 8, Trung Quốc khẳng định là sẽ lợi dụng tích cực có hiệu quả vốn nước ngoài, tranh thủ các khoản vay quốc tế để tập trung vào các nghành trọng điểm như: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi, năng lượng, thông tin, giao thông, nguyên vật liệu. Trung Quốc chủ truơng cải thiện hơn nữa môi truờng đầu tư, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đồng thời tăng cường và cải thiện việc quy hoạch và chỉ đạo về lợi dụng vốn bên ngoài, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của việc lợi dụng vốn bên ngoài. Và những biện pháp để đảm bảo chắc chắn trả nợ đúng hẹn.
Bên cạnh đó, để giải quyết một phần vấn đề cán bộ, Trung Quốc mời các chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Trung Quốc với tư cách là người quản lí và cử các chuyên gia của Trung Quốc ra nước ngoài(chủ yếu là các nước tư bản chủ nghĩa) để học tập, bổ túc nâng cao trình độ, quản lí và hành chính. Năm 1988 Trung Quốc đã cử 50 cán bộ cao cấp sang học các chương trình huấn luyện hành chính tại trường đại học Havớt, và viện kỹ thuật Masatrusets. Chi phí cho việc học này lên đến7 triệu đôla. Đồng thời Trung Quốc cũng nhận đào tạo sinh viên nước ngoài và coi đó là một bộ phận của chính sách mở cửa.
Song song với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc cũng tăng cường đầu tư ra nước ngoài, Trung Quốc có hợp doanh với nhiều nước trên thế giới như: Mỹ, Nhật, Anh, Hà Lan, Bỉ, Canada, Braxin, Chi Lê, Thái Lan, Băngladet, Hồng kông... Trong hợp tác, đầu tư với nước ngoài Trung Quốc thường dùng các hình thức: Các công ty hữu hạn, các công ty cổ phần hữu hạn, các công ty hợp doanh hợp đồng. Đến nay, Trung Quốc đã có 886 xí nghiệp kinh doanh chung vốn hợp tác mang tính chất phi mậu dịch tại 94 nước và khu vực với tổng kinh phí đầu tư là 2, 44 tỷ đôla, trong đó phía Trung Quốc đóng góp 1, 05 tỷ đôla, chiếm 43%.
Các đặc khu kinh tế và vùng kinh tế ven biển
Trung Quốc xây dựng các đặc khu kinh tế nhằm mục đích thu hút vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước, nâng cao trình độ kỹ thuật, xuất khẩu và giao lưu kinh tế giữa thế giới với trong nước. Trung quốc bắt đầu xây dựng các đặc khu từ tháng 8 – 1979 và quá trình này chia làm hai bước. Bước 1: Kiến thiết cơ bản, tạo hoàn cảnh đầu tư. Bước 2: Phát triển sản xuất công – nông nghiệp, xây dựng kinh tế tổng hợp, hướng sản xuất ra nước ngoài.
Bước 1: Từ năm 1979 đến năm 1984, tập trung xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Trong bước này, Trung Quốc đầu tư vào 4 đặc khu kinh tế 7. 630 triệu nhân dân tệ, xây dựng cơ sở trên 60km2. ở đó đã hình thành hệ thống đồng bộ đường giao thông, điện nước, hải cảng, sân bay, nhà xưởng, trụ sở cửa hàng và các công trình dịch vụ.
Bước 2: Từ năm 1985 trở đi, huy động vốn đầu tư của nước ngoài, tiến hành hoạt động kinh doanh sản xuấ, phát triển đặc khu phù hợp với những điều kiện khách quan, chủ quan của từng đặc khu để nhằm mục đích chung là kích thích nền kinh tế trong nước phát triển.
4 đặc khu kinh tế của Trung Quốc có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nhân lực khác nhau nên phương hướng xây dựng đặc khu cũng có trọng điểm riêng.
Đặc khu Thẩm Quyến kế liền với Hồng Kông, thuận lợi cho việc thu hút vốn của Hoa kiều và người nước ngoài ở Hồng Kông và áo Môn,. Nơi đây sẽ phát triển một đặc khu kinh tế tổng hợp gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, thương nghiệp.
Đặc khu Chu Hải nằm sát áo Môn, phát triển chủ yếu về du lịch, nhà ở, phục vụ thương nghiệp và gia công xuất khẩu.
Đặc khu Sán Đầu phát triển chủ yếu gia công xuất khẩu Long Hổ.
Đặc khu Hạ Môn phát triển chủ yếu là khu gia công xuất khẩu Hồ Lý.
Các đặc khu kinh tế của Trung Quốc đã thu hút được các công ty nưopức ngoài vào tìm kiếm nguồn cung cấp sức lao động to lớn, có chất lượng cao giá lại rẻ. Từ ngày các đặc khu kinh tế được thành lập, những công ty nổi tiếng của phương Tây (như Xerox, International Business Machines oryaler, Corp-Warner, Lomfert and Dou Chemical…) đã làm ăn phát đạt ở Trung Quốc. Và đến nửa đầu năm 1991 các nhà kinh doanh nước ngoài đã đầu tư trực tiếp gần 24 tỷ đôla, hơn 3, 4 vạn xí nghiệp nước ngoài đầu tư, trong đó có 1, 6 vạn xí nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 8 Trung Quốc chủ trưong xây dựng tốt hơn nữa ở 5 đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Sán Đầu và tỉnh Hải Nam. Các đặc khu kinh tế có nhiệm vụ hàng đầu là phải lợi dụng có hiệu quả hơn nữa vốn nước ngoài, kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản lí của nước ngoài, phát triển kinh tế hướng ra bên ngoài, và mở rộng sự liên kết và hợp tác chiều ngang về kinh tế nội địa.
Trong phân vùng phát triển kinh tế của Trung Quốc hiện nay thì trọng điểm chiến lược phát triển kinh tế là vùng ven biển phía Đông với 11 tỉnh, khu, 14 thành phố ven biển mở cửa, 4 đặc khu kinh tế, 3 vùng châu thổ, 2 bán đảo và tỉnh đặc khu Hải Nam. Tiếp theo việc xây dựng các đặc khu kinh tế, năm 1983 Trung Quốc mở cửa 14 thành phố ven biển, sau đó đến 3 vùng châu thổ vào năm 1985 và đến tháng 7- 1985 thì mở cửa hoàn toàn 4 thành phố lớn: Thượng hải, Thiên Tân, Đại Liên và Quảng Châu. Đó là một qúa trình mở cửa dần từng bước với chủ trương đẩy mạnh mở cửa với nước ngoài, tích cực tham gia trao đổi cạnh tranh quốc tế, lấy sự phồn vinh của kinh tế ven biển để kéo theo toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển, liên hiệp kinh tế theo chiều ngang giữa vùng ven biển và nội địa, kéo theo miền tây và miền trung phát triển, phát huy vai trò “cửa sổ” của khu vực ven biển trong quá trình mở cửa với bên ngoài.
Khu vực ven biển của Trung Quốc đang đi đầu trong phát triển kinh tế hướng ra nước ngoài mà khu vực chủ yếu là khu vực Thái Bình Dương, Bắc Mỹ và Tây Âu. Những thành phố ven biển mở của đều nằm ở vùng kinh tế phát triển, giao thông thuận lợi, có cơ sở công nghiệp tốt, văn hoá, khoa học – kỹ thuật tương đối phát triển, có điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, có mạng lưới hợp tác kinh tế với nội địa rộng lớn. Những thành phố này cùng với các đặc khu kinh tế tạo thành dải đất tiền duyên hải mở cửa ra nước ngoài. Sau khi mở của, khu vực này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn nước ngoài, nhập khẩu kỹ thuật, tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế – kỹ thuật ở những nơi đó. Trên cơ sở đó giúp đỡ vùng nội địa về các mặt tiếp thu và phổ biến khoa học – kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, thông tin kinh tế, bồi dưỡng nhân tài, thúc đẩy hiện đại hoá cả nước.
Trong những năm tới, khu vực kinh tế ven biển của Trung Quốc chủ yếu sẽ đi váo nâng cấp và đổi mới sản phẩm phát triển các nghề và sản phẩm trình độ tương đối tiên tiến, tinh vi, mũi nhọn mới, đặc biệt là phải phát huy ưu thế về công nghiệp cơ khí điện tử, công nghiệp nhẹ, phát triển những sản phẩm nổi tiến chất lượng tốt có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời sẽ chuyển dần những sản phẩm tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu lớn đòi hỏi khối lượng vận chuyển lớn vào các vùng nội địa có đủ năng lượng và giàu nguyên vật liệu để từng bước làm dịu tình trạng căng thẳng về năng lượng và giao thông. Bên cạnh việc phát triển san xuất những sản phẩm xuất khẩu có giá trị, vùng kinh tế ven biển sẽ phát triển các ngành tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, tin học, du lịch, tư vấn, nhà cửa và dịch vụ sinh hoạt.
Song song với việc xây dựng các thành phố ven biển. Trung Quốc đã đề ra kế hoạch 10 năm xây dựng các cảng dọc theo 18 000 km bờ biển cho phù hợp với sự phát triển kinh tế và buôn bán cuả Trung Quốc. Dự định đến cuối thế kỷ này số cầu cảng của các cảng ven biển Trung Quốc sẽ lên tới 2000 và trong số đó sẽ có 1200 cảng nước sâu. Hiện nay Trung Quốc có khoảng 60 cảng lớn và vừa trong đó có 40 cảng phục vụ cho chính sách kinh tế mở cửa.
Trong hơn 40 năm xây dựng CNXH, Trung Quốc đã có 20 năm cách biệt với quá trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của thế giới và 20 năm đó chính là giai đoạn cách mạng khoa học thế giới có những bước tiến mạnh mẽ.
Năm 1978, Quốc hội Trung Quốc khoá V kỳ họp thứ I thông qua chương trình 4 hiện đại hoá và đề ra mục tiêu đến năm 2000 tổng sản phẩm xã hội sẽ tăng 4 lần, đồng thời đã xác định muốn phát triển không thể “ Đứng ngoài “ thế giới, mà phải “ Mở cửa”, phải “ bước vào thế giới “. Đồng thời các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã khẳng định rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội phải kiên trì cải cách, mở cửa, cũng như việc nhân dân Trung Quốc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Cải cách, mở cửa là con đường tất yếu để phát triển sức sản xuất xã hội, xây dựng đất nước phồn vinh, vững mạnh. Nhưng đây cũng là một quá trình lâu dài phức tạp, không thể nóng vội.
Trong dịp tổng kết 40 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc những năm cải cách, mở cửa được đánh giá là thời kỳ kinh tế phát triển phồn thịnh nhất, sức mạnh đất nước tăng trưởng nhanh nhất, nhân dân được hưởng nhiều phúc lợi nhất và cũng là thời kỳ Trung Quốc mở cửa đi ra thế giới bên ngoài. Trong thời kỳ này tổng sản phẩm quốc dân tăng 2, 5 lần, bình quân mỗi năm tăng 9, 6 % và đời sống nhân dân được cải thiện nhanh chưa từng thấy. Nhưng con đường cải cách mở của cũng không thể thuận buồm xuôi gió và cũng không tránh khỏi nảy sinh những sai sót cần rút kinh nghiệm về mặt kỹ thuật – kỹ thuật cũng như về mặt chính trị- xã hội. Đòi hỏi mở của với nưỡc ngoài, và chính sách mở của với người nước ngoài phải trở thành luật pháp phải định ra pháp luật, điều lệ, phương châm, chính sách cho những nghành kinh tế có liên quan đến nước ngoài để có căn cứ pháp luật cho các bên hữu quan tuân theo đó là nhân tố quan trọng để cải thiện hoàn cảnh đầu tư nước ngoài.
Quá trình mở cửa cũng là quá trình mở rộng sự giao lưu trong và ngoài nước không chỉ riêng về kinh tế –kỹ thuật mà còn là sự giao lưu các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội, kể cả tư tưởng, tâm lý xã hội. Trung quốc chủ trương cải cách, mở cửa là để tạo điều kiện cho chủ nghĩa xã hội tự hoàn thiện và phát triển. Do vậy để giữ được phương hướng đúng đắn, thì cải cách, mở cửa phải được tiến hành dưới tiền đề 4 nguyên tắc cơ bản; Tiến hành đồng thời xây dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần ;Kiên trì không thay đổi đẩy mạnh cải cách, mở cửa và không ngừng chống tự do hoá tư sản ;Cảnh giác ngăn ngừa và sẵn sàng đập tan âm mưu diễn biến hoà bình hòng đưa cải cách, mở cửa đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng dân chủ và pháp chế, kiên quyết trừng trị tham nhũng, khôi phục và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa đảng và nhân dân.
Tóm lại, theo sự đánh giá của thế giới và trung quốc, trong hơn 10 năm thực hiện chính sách cải cách, mở cửa. Trung Quốc. đã thu được những thành công lớn trong phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của nhân dân. Chính sách này dã có tác dụng kích thích mọi mặt hoạt động của đất nước, tạo cơ sở vững mạnh cho địa vị của Trung Quốc và tạo ra cho Trung Quốc một diện mạo mới trước con mắt của thế giới. Đồng thời, chính sách này cũng đem lại cho CNXH màu sắc Trung Quốc một sưc sống mới và đóng góp những kinh nghiệm đáng kể cho công cuộc cải cách, đổi mới đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
2. Quá trình thực hiện các chính sách cải cách
Thay đổi nhận thức đối với chính sách kinh tế đối ngoại: Trung Quốc đã có một ban lãnh đạo biết nhìn nhận đúng thời cuộc, có chính sách điều hành có hiệu quả. Họ đã kiên trì và nhất quàn thực hiện chính sach mở cửa mặc dù gạp vấp váp do thiếu kinh nghiệm hoặc bị các bạn hàng nước ngoài gây khó khăn. Họ liên tục điều chỉnh chính sách, tạo ra những “ không gian thông thoáng” cho các hoạt động đối ngoại, cải tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho người nước ngoài, bao gồm việc xây dựng cơ sở hạ tầng, cải cách và ban hành hệ thống pháp luật có liên quan tới quan hệ kinh tế đối ngoại và các thủ tục hành chính ; đa dạng hoá các loại hình kinh doanh ; tận dụng tiềm năng kinh tế và trí tuệ của người Hoa và Hoa Kiều... Nhũng thành công trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Trung Quốc trước hết gắn liền với việc lựa chọn các bước đi chiến lược của các nhà lãnh đạo nhằm mở cửa đất nước; đồng thời gắn liền với những biện pháp mở cửa mà họ đã thực hiện một cách linh hoạt, uyển chuyển và có bài bản.
Hình thành thế mở cửa đồi ngoại nhiều tầng; nấc, ra mọi hướng: từng bước mở cửa vùng ven biển, tiến đến mở cửa các vùng ven sông, ven biên giới và mọi vùng nội địa. Những bước đi như vậy đã dần dần hình thành thế mở cửa đối ngoại nhiều tầng, nhiều nấc, ra mọi hướng theo phương châm mở cửa từ điểm đến tuyến, từ tuyến đến diện. Quá trình mở cửa đó cũng theo một nguyên tắc là cho phép một số vùng giàu lên trước, rồi trên cơ sở giàu có đó giúp đỡ các vùng khác giàu theo.
3. Ngoại thương của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách, mở cửa
Mục tiêu chủ yếu của chính sách ngoại thương của cuộc cải cách này là mở rộng quyền hạn chủ động kinh doanh ngoại thpong, khơi dậy tính tích cợc năng động sáng tạo cho các xí nghiệp sản xuất và công ty xuất nhập khẩu ngoại thương, đẩy mạnh việc mở rộng kênh tiêu thụ hàng hoá ra thị trường ngoài nước, tăng cường sức cạnh tranh và nâng cao vị trí của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ mậu dịch của Trung Quốc đối với các cước trên thế giới. Những chính sách cải cách lớn trong lĩnh vực ngoại thương được thực hiện trong các năm qua gồm:
Đưa quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương xuống các địa phương, quyền sản xuất kinh doanh và xuất khẩu cho các xí nghiệp cỡ vừa và nhỏ, từng bước mở rộng quyền kinh doanh ngoại thương cho tổng công ty xuất nhập khẩu.
Đổi mới cơ chế quản lý ngoại thương: Trung Quốc đã thực hiện chính sách điều chỉnh và đổi mới cơ chế quản lý ngoại thương, tạo ra hệ thống quản lý gọn nhẹ, hoạt động linh hoạt, giải quyết có hiệu quả trên cơ sở chuyển từ phương thức quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp, phối hợp quản lý vĩ mô với quản lý vi mô trong hoạt động ngoại thương. Thực hiện điều tiết vĩ mô và điều tiết kinh tế phù hợp, cân đối công tác tổ chức và kiểm tra giám sát, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đổi mới công tác phục vụ, bảo đảm cho hoạt động ngoại thương phát triển thuận lợi hơn nữa.
Đẩy mạnh chế đọ khoán kinh doanh ngoại thương phát triển toàn diện và phối hợp cải cách các thể chế có liên quan: Từ năm 1979 Trung Quốc đã dưa ra một loạt các chính sách nới lỏng hoạt đọng kinhdoanh xuất nhập khẩu cho các xí nghiệp sản xuất hàng hoá và công ty xuất nhập khẩu, nhằm xoá bỏ hiện tượng “ăn nồi cơm chung” và “ bức tường chung” giữ donh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp ngoại thương kéo dài nhiều năm nay. Để phối hợp với việc thực hiện chế độ trách nhiệm khoán kinh doanh ngoại thương một cách đồng bộ, htực hiện đi sâu cải cách ngoại thương toàn diện Trung Quốc đẵ thực hiện cải cách một số thể chế chủ yếu có liên quan đến sản xuất hàng hoá xuất nhập khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu:
+ Cải cách thể chế kế hoạhc ngoại thương
+Cải cách thể chế kinh doanh xuất nhập khẩu
+Cải cách thể chế giữ lại ngoạ tệ
+Cải cách thể chế phân phối lợi nhuận ngoại thương
- Phát triển các cơ quan thương vụ ở nước ngoài: Đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã thành lập 144 cơ quan thương vụ ở 128 nước và khu vực; song đến năm1995 đã có tới 222 cơ quan thương vụ ở hầu hết các nước và khu vực trên thế giới. Đặc biệt, Trung Quốc đã thành lập được 4 trung tâm mậu dịch rất lớn ở New york, Atlantic, Panama và Ham Bourg. Những trung tâm này đã phát huy tác dụng trong việc xây dựng “ cửa sổ thương mại” ngoài nước, góp phần thúc đẩy mối giao lưu, trao đổi và buôn bán giữa các địa phương trong và ngoài nước một cách rộng dãi.
Quan hệ xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
Các nhà kinh tế học quốc tế khi nhìn nhận về vai trò của ngoại thương và sự tăng trưởng kinh tế đã đưa ra thuyéet “ Bi quan xuất khẩu hiện đại”, và nó đặc biệt ảnh hưởng vào những thập kỷ 80. theo kinh nghiệm cho thấy, sự phát triển của nhiều nước đang phát triển phụ thuộc vào sự tăng trưởng của những nước phát triển, mặt khác, từ năm 1973 đến nay tốc độ tăng trưởng ngoại thương đang giảm và như vậy theo thuyết này thì đó là một nguy cơ. Chính vì thuyết đó mà có người đã cho rằng mô hìn kinh tế hướng ngoại kiểu á Đông trong đó có Trung Quốc có thể không phù hợp khi mà trên thế gới hiện nay kinh tế tăng trưởng thấp và chức năng bảo hộ mậu dịch đang thịnh hành.
Tuy nhiên quá trình cải cách và mở cửa đã phản bác hoàn toàn những luận điệu đó, quan hệ giữa vai trò xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế thể hiện trên 3 mặt sau:
Trong thời gian từ năm 1978 – 1992, tỷ lệ tăng trưởng bình quân cũng như tỷ lệ xuất khẩu hàng năm của ngoại thương Trung Quốc không những cao hơn tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm GNP của Trung Quốc mà còn cao hơn nhiều mức tăng trưởng và xuất khẩu toàn cầu cùng thời kỳ (tỷ lệ tăng trưởng ngoại thương hàng năm của Trung Quốc cùng thời kỳlà 16% trong khi tốc độ phát triển của toàn cầu là 7. 75%).
Theo dự đoán sau cải cách thì phải đến cuối thế kỷ này quy mô ngoại thương của Trung Quốc cần đạt được 160 tỷ USD, nhưng chỉ đến cuối năm 1992, quy mô ngoại thương của Trung Quốc đã đạt được 165. 6 tỷ USD, cán cân ngoại thương đã đạt đến 38%, năm 1991 là 36. 41%. Trên thực tế, mức độ đó có thể so sánh với cả các nước phát triển phương tây (năm 1991 nhịp độ tăng ngoại thương của Mỹ là 16, 04%, Nhật 16, 30%, Pháp 37, 12%, Canađa 41, 89%... )
Điều đó không chỉ phản ánh với mô hình phát triển rộng rãi của các nước lớn trên thế giới, mà cò gạt bỏ luận điệu đòi gạt Trung Quốc ra khỏi tổ chức kinh tế khu vực.
Sự phát triển của ngoại thương Trung Quốc có tác dụng thúc đây kinh tế Trung Quốc tăng trưởng. Trong thời gian 1981 – 1991, gái trị thấp nhất của giới hạn xuất khẩu của ngoại thương Trung Quốc là 3, 98%(1983), cao nhất là 60, 5% (1990), nhơng trong 11 năm tổng số giá trị gia tăng là1538, 45 tỷ NDT, tổng số giá trị gia tăng của xuất khẩu ngoại thương 355, 944 tỷ NDT, tỷ lệ so sánh giữa 2 ngành này là 1/0, 23. Điều đó có nghĩa là sự phát triển ngoại thương đã có tác dụng làm động cơ thúc đẩy kinh tế Trung Quốc tăng trưởng. Với việc tốc độ phát triển của tăng trưởng xuất khẩu từ 10 tỷ USD trong 15 năm (1978-1993) Trung Quốc đã không kém các nước phát triển phương tâymà còn cho thấy chính sách mở cửa với bên ngoài đã đạt được những thành tích lớn.
* Thị trường Trung Quốc mở cửa và tỷ trọng nhập khẩu
Bên cạnh việc chiếm lĩnh thị trường thế giới, Trung Quốc cũng đã mở rộng hơn nữa thị trường trong nước, từ đó nâng cao cán cân nhập khẩu (Từ năm 1980 – 1991, tỷ trọng nhập khẩu của Trung Quốc là: 6, 69%; 7, 7%; 7, 26%;8, 91%; 14, 7%; 15, 45%; 14, 28%; 14, 61%; 13, 75%; 14, 55%; 17, 12%) mà hơn nữa là Trung Quốc đã mở cửa rất ổn định.
Nguyên nhân:
Năm 1984, khởi động cuộc cải cách thể chế ngoại thương và thực hiện chế độ đại lý nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu do nhà nước thống nhất giảm nhanh.
Năm 1986, Trung Quốc chín thức đề nghị khôi phục địa vị của nước kí kết hiệp định GATT, nen có điều chỉnh lớn về quản lý nhập khẩu.
Năm 1988, TW Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng ven biển.
III. Những thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được trong thời kỳ cải cách:
Tăng trưởng kinh tế và những thay đổi về cơ cấu kinh tế
Trong những năm 1978-1997, Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm là 10%, mức cao nhất thế giới lúc bấy giờ. Giai đoạn 1992-1997, Trung Quốc thậm chí còn tăng trưởng ngoạn mục hơn nữa với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11%/năm. Nhiều nhà quan sát xem sự tăng trưởng này là thần kỳ, đặc biệt là khi so sánh với các nước XHCN cũ trong lúc các nước này trải qua sự suy thoái kinh tế trầm trọng trong các giai đoạn từ đầu đến giữa thập niên 90.
Tăng trưởng kinh tế nhanh kéo theo thu nhập bình quân đầu người dân Trung Quốc nâng nên đáng kể. từ năm 1978 đến 1997, thu nhập thực tế của dân cư đô thị tăng bình quân 6%/năm, và thu nhập thực tế của cư dân nông thôn tăng 8%/năm. Thu nhập của nông dân tăng đã làm số dân nghèo theo thống kê chính thức giảm mạnh từ mức 33% vào năm 1978 (WB, 1992) xuống còn 4% vào năm 1997 (Li, 1998). Năm 1996, chính phủ công bố kế hoạch 5 năm lần thứ 9 với nội dung là “sẽ cơ bản xoá đói nghèo vào năm 2000”.
Đồng hành với sự tăng trưởng nhanh của Trung Quốc là những thay đổi quan trọng trong cơ cấu ngành của nền kinh tế nước này. Năm 1978, nông nghiệp chiếm 24%, công nghiệp và xây dựng chiếm 48% và dịch vụ 24% GDP. 19năm sau, tâm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã giảm mạnhtrong khi vị trí của dịch vụ đã tăng lên tương ứng. Năm1997, giá trị tăng của nông nghiệp là 20%, của công nghiệp và xây dựng là 50% và dịch vụ là 30% GDP. Kết quả của việc dịch chuyển hoạt động nông nghiệp sang các hoạt động khác đã làm cho lao động trong nông nghiệp giảm xuống còn 50% tổng số công ăn việc làm trong năm 1996 so với mức 70% năm 1978. Sự phát triển của các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn là điều đáng chú ý nhất, tổng sản lượng của các doanh nghiệp hưng trấn tăng với mức bình quân thực tế hơn 20%/nẳmtong thời kỳ 1978-1996. Về việc làm, năm 1996 các doanh nghiệp Hương Trân sử dụng 28% tổng lực lượng lao động, so với mức 9% năm 1978. Năm1996, thu nhập từ các hoạt động phi nông nghiệp chiếm 40% tổng thu nhập ròng của dân cư nông thôn Trung Quốc. ++6`
Trung Quốc gia nhập WTO
Cơ hội và thách thức đói với Trung Quốc sau khi gia nhập WTO
Khi chính thức trở thành nước thành viên của tổ chức thương mạI thế giới, cũng là lúc Trung Quốc bước sang một chặng đường mới trên hành trình cải cách, mở cửa, phát triển kinh tế, hiện đạI hoá đất nước, gắn liền với những mối quan hệ mang tính nguyên tắc trong kinh tế đối ngoại, gắn liền với những cơ hội và thách thức mới. Nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức là khẩu hiệu, là hành động sẽ quyết định tiền đồ của nền kinh tế Trung Quốc. Người ta đã có nhiều cách nói để hình dung việc Trung Quốc gia nhập WTO: "Con dao hai lưỡi", "có phúc có hoạ"… Quan điểm chính thức của lãnh đạo Trung Quốc là "cũng như tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, việc nước ta gia nhập WTO có mặt lợi, có mặt không lợi, nhưng về tổng thể là phù hợp với lợi ích căn bản và lợi ích lau dàI của nước ta. Gia nhập WTO chúng ta sẽ có cơ hội phát triển về nhiều mặt, thúc đẩy và điều chỉnh cơ cấu kinh tế quốc dân và nâng cấp các nghành sản xuất kinh doanh, có lợi trong việc tăng tổng số việc làm và nâng cao đời sống của nhan dân; có việc cho việc phát huy lợi thế so sánh để mở rộng xuất khẩu và sử dụng tốt hơn vốn nước ngoàI; có lưọi cho việc thực thi chiến lược "đi ra ngoài" tham gia cạnh tranh và hợp tác quốc tế trong một chân trời mở rộng hơn; có lưọi cho việc nước ta tham gia vào hoạch định cacs nguyên tắc kinh tế mậu dịch quốc tế, cùng hưởng những lợi ích do thể chế thương mạI nhiều bên và kinh tế toàn cầu hoá mang lại. Nhưng việc gia nhập tổ chức thương mạI thế giới WTO cũng đặt chúng ta trước những thách thức gay gắt. Cơ quan chính phủ phảI có sự hiệu chỉnh cần thiết về quan niệm, thể chế trong quản lí kinh tế, phương pháp quản lí, cơ chế kinh doanh của xí nghiệp cuãng cần có sự chuyển đổi tương ứng, cũng có sự gí tăng hàng nhập ngoạivà dịch vụ nước ngoàI vào thị truờng nước ta, một số nghành nghề của nước ta sẽ vấp phảI sự cạnh tranh quyết liệt, nhất là những doanh nghiệp gía thành sản phẩm cao, trình độ kỹ thuật kém, phương thức quản lí lạc hậu sẽ gặp khó khăn vì sức ép ".
Nông nghiệp là khâu yếu trong nền kinh tế Trung Quốc, kỹ thuật thấp, tiền vốn thiếu, giá thành cao, cơ cấu chưa hợp lí. Trung Quốc hy vọng sau khi gia nhập WTO, thị trường nông sản mở rộng cạnh tranh sẽ thúc đẩy việc nhập tiền vốn, kỹ thuật nông nghiệp nước ngoàI để khắc phục những mặt yếukém nói trên, đưa nông nghiệp Trung Quốc lên hiện đạI hoá. Một bộ phận trong 90 triệu cư dân nông nghiệp sẽ mất việc làm, những cư dân thành thị làm việc trong các doanh nghiệp bị đào thảI rong quá trình hội nhập kinh tế thế giới cũng sẽ mất việc làm. Nhưng Trung Quốc hy vọng với việc tăng lượng vốn đầu tư nước ngoàI, với việc tạo lập một số nghành nghề mới, việc tăng lượng hàng hoá xuất khẩu, sẽ có cơ hội làm cho tổng số việc làm của Trung Quốc tăng lên. Quá trìng cạnh ranh gat gắt với sản phẩm ngoại nhập trên thị trường trong nước và cuộc cạnh trạnh trong thị trường quốc tế, với việc tăng cường thu hút tiền vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của thế giới, thể chế kinh tế Trung Quốc sẽ buộc phải và có thể được cải cách nhanh chóng, thể chế chíh trị cũng buộc phải và có thể nhanh chóng được chuyển đổi tương ứng. Ra nhập WTO, Trung Quốc hy vọng sẽ có điều kiện hợp tác lợi dụng tài nguyên của nước ngoài, khắc phục tình trạng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu người của Trung Quốc tương đối thấp để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Gia nhập WTO Trung Quốc hy vọng có thể giải quyết những tranh chấp thương mại với các đối tác theo nguyên tắc của tổ chức đó. quan hệ kinh tế thương mại giữa Trung Quốc với các nước thành viên WTO sẽ trở nên bền vững hơn, vì không còn đơn thuần còn là quan hệ song phương thường chịu chi phối của những biến động chính trị nữa, mà đã là quan hệ có nguyên tắc chung của WTO, các bên đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ.
Trung Quốc cũng đã tính đến nghững khó khăn thử thách nghiêm trọng sau khi ra nhập WTO. Một số nghành CN chế tạo kém sức cạn tanh sẽ lâm nguy do mất hàng rào bảo hộ về thuế quan. Trung Quốc sẽ vất vả đối phó với sụa cạnh tranh gay gắt của các công ty siêu quốc gia. Cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp, chắc chắn sẽ làm tăng thêm lao động dư thừa vốn đã quá nhiều ở nông thôn, và dòng người di chuyển vào thành phố sẽ đông hơn trước.
tất cả những thuận lợi và khó khăn trên đây các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều đã tín đến, nhưng họ hy vọng và tin tưỏng sau khi gia nhập WTO sẽ có “biển rộng cho cá vãy vùng, trời cao cho chim bay bổng”, trong không gian của trời biển bao la, con tàu cải cách phát triển kinh tế Trung Quốc sẽ buộc phải tăng tốc, vượt qua được sóng gió trên hành trình đi tới mục tiêu hiện đại hoá.
Những kết quả và những vấn đề còn tồn tại
* Những kết quả
Trải qua mười mấy năm cải cách mở cửa, ngoại thương của Trung Quốc đã được coi trọng và đẩy mạnh đáng kể. Từ 19979- 1995, đã thực hiện cải cách, đổi mới và hoàn thiện từng bước thể chế của nghành này. Đến nay thể chế đó đã chuyển biến về cơ bản. Trung Quốc đã đạt được những thành quả to lớn trong việc chuyển thể chế ngoại thương truyền thống của nền kinh tế hiện vật trên cơ sở công hữu đơn nhất sang thể chế mới đa dạng, linh hoạt và phù hợp với nền kinh tế thị trường. Đã thực hiện xoá bỏ từng bước quyền lực kinh tế tập chung. Thống nhất, dành quyền tự chủ rộng rãi trong mậu dịch đối ngoại cho địa phương, xí nghiệp và công ty ngoại thương, cải cách một cách đồng bộ các thể ché có liên quan. Nhờ vậy, quan hệ mậu dịch đối ngoại đã phát triển với quy môlớn, từng bước hoà nhập với xu thế phát triển thương mại của thế giới, mặt khác đã thúc đẩy hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu tăng trưởng mạnh mẽ, làm cho vị trí của Trung Quốc trong lĩnh vực ngoại thương ngày càng được nâng cao. Ngày nay, Trung Quốc đã có quan hệ buôn bán với 227 nước và khu vực trên thế giới.
Năm 1978, tổng mức xuất nhập khẩu của Trung Quốc là 20, 6 tỷ đôla, chiếm chưa đầy 5% giá trị nông nghiệp của cả nước. Trong 10 năm từ 1980- 1989, tổng mức xuất nhập khẩu đã tăng lên 559, 52 tỷ đôla. Song riêng năm 1994, tổng mức xuất nhập khẩu tăng vọt tới 236, 7 tỷ đôla, bằng ẵ tổng mức xuất nhập khẩu của 10 năm trước đó. Con số của năm 1995 đã lên tới 283, 9 tỷ đôla. Năm 1979, Trung Quốc đứng thứ 32 về tổng mức xuất nhập khẩu của thế giới, đến 1993 đã vươn lên hàng thứ 11. Theo tính toán, những năm gần dây có khoảng hơn 20% giá trị sản lưọng công nông nghiệp được đưa ra buôn bán với nuức ngoài. Tỷ lệ xuất nhập khẩu trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) đã tăng lên 38% năm 1993 lên tới 45% năm 1994, trong đó xuất khẩu đạt 121 tỷ đôla, tăng 31% so với năm 1993.
Cùng với việc mở rộng không ngừng khả năng mậu dịch đối ngoại, cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đựoc cải thiện đáng kể. Về xuất khẩu, cơ caaus hàng hoá luôn luôn được thay đổi theo nhu cầu của thị trường thế giới, đã làm gia tăng mức xuất khẩu của Trung Quốc với các nước trên thế giới. Năm 1989, tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng công nghiệp chiếm 84, 2% tổng mức xuất khẩu so với 57, 9% năm 1980, mặt hàng cơ điện chiếm20% tổng mức xuất khẩu, trong đó sản phẩm máy móc, thiết bị viễn thông, thiết bị nhỏ đồng bộ đang trở thành những sản phẩm xuất khẩu quan trọng và ăn khách. Những sản phẩm sơ cấp không phù hợp với nhu cầu của thị trường quốc tế đã được nhanh chóng giảm bớt từ 42, 1% năm 1980 xuống 15, 8% năm 1993. Về nhập khẩu, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế quốc dân một cách cân đối và đẩy mạnh lĩnh vực khoa học kỹ thuật tiên tiến, Trung Quốc đã tăng cường nhập khẩu các thiết bị đồng bộ tiên tiến của nước ngoài, góp phần đổi mới các cơ sở sản xuất lạc hậu. Ngay từ năm 1989, những thiết bị đồng bộ và tiên tiến được nhập vào khoảng 4, 35 tỷ USD, đổi mới được 400 xí nghiệp trọng điểm và đã sản xuất ra hơn 6000 loại sản phẩm mới, trong đó một số lượng khá lớn đạt tiêu chuẩn tiên tiến trên thế giới, có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế. Những năm về sau, do thực hiện ý đồ phát triển theo hướng coi khoa học kỹ thuật là sức sản xuất thứ nhất, hoạt động xuất nhập khẩu kỹ thuật càng sôi động.
Những năm gần đây, hoạt động thương mại của Trung Quốc với các quốc gia và khu vực trên thế giới trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Trung Quốc hiện có 227 bạn hàng ở khắp nơi trên thế giới. Hiện nay, Nhật Bản đã vươn lên trở thành bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc. Năm 1991, tổng kim ngạch buôn bán Trung –Nhật là 20, 283 tỷ USD, song đến năm 94 đã tăng lên tới 46, 3 tỷ USD. Bạn hàng lớn thứ 2 là Mỹ, năm 1990, kim ngạch buôn bán Trung – Mỹ chỉ đạt 11, 7 tỷ USD, đến năm 94 đã tăng lên 35, 43 tỷ USD. Buôn bán giữa Hồng Kông, Ma Cao và Trung Quốc từ năm 1978-1993 tăng hơn 15 lần.
Tóm lại, sau 15 năm cải cách và phát triển, lĩnh vực ngoại thương của Trung Quốc đã phát triển trên phạm vi rộng lớn, ngày càng hoà nhập với xu thế kinh tế quốc tế mới. Trong một quá trình phấn đấu không dài, Trung Quốc đã ngày càng củng cố vị trí của mình trong quan hệ thương mại thế giới, trở thành một trong những cường quốc ngoại thương. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại, Trung Quốc đã có nguồn thu nhập ngoại tệ lớn đạt 70 tỷ USD vào năm 1995, góp phần thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển nhanh chóng.
* Những vấn đề tồn tại:
Cùng với những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện cải cách cũng bộc lộ một số tồn tại nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến tiến trình đổi mới ngoại thương. Biểu hiện ở những mặt sau:
- Biện pháp thực hiện chưa hoàn thiện: chính sách cải cách ngoại thương đưa ra trong thời kỳ cải cách mở cửa với mục tiêu tích cực là nhằm xoá bỏ phương thức quản lý kế hoạch tập trung cao độ của thể chế ngoại thương cũ, thực hiện đổi mới đồng bộ các quy chế, chế độ trong hệ thống kế hoạch, tài vụ và sản xuất kinh doanh phù hợp với tình hình mới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoại thương chủ động sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, cuộc cải cách mới thực hiện trong thời gian không dài, đang trong quá trình mò mẫm, thử nghiệm; mặt khác trong khi thực hiện vẫn không tránh khỏi được sự hạn chế của những quan điểm và nhận thức kinh tế cũ. Do đó đã vấp phải những khó khăn, hạn chế hiệu quả của cải cách. Một thí dụ điển hình là từ năm 1988, Trung Quốc đẩy mạnh thể chế khoán kinh doanh trong ngoại thương, coi đó là một cuộc đổi mới toàn diện nhằm xoá bỏ tình trạng “ăn nồi cơm chung” tài chính giữa địa phương với nhà nước và giành quyền tự chủ kinh doanh cho các doanh nghiệp ngoại thương ở địa phương, giảm nhẹ gánh nặng tài chính của nhà nước. Song trên thực tế, chế độ khoán kinh doanh này chỉ chú trọng vào những biện pháp giữ lại ngoại tệ cho địa phương, không những làm mất cân đối nguồn thu của nhà nước mà còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các địa phương trong nước và giữa các doanh nghiệp ngoại thương. Các doanh nghiệp ngoại thương không chỉ thiếu sức cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu mà trong hoạt động thương mại còn phổ biến hiện tượng nâng giá, mua tranh bán cướp, phá giá tiêu thụ, làm thất thoát một khối lượng lớn nguồn thu tài chính. Mặc dù vậy, hình thức bù lỗ vẫn được áp dụng đã tạo ra hiện tượng phản tác dụng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh tự chủ của xí nghiệp ngoại thương, hạn chế trực tiếp đến chế độ khoán kinh doanh ngoại thương.
Công tác xuất nhập khẩu còn thiếu hiệu quả. Biện pháp chủ yếu của cải cách ngoại thương là đưa quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương xuống các địa phương, tự hạch toán, tự chịu lỗ lãi, mở rộng chế độ khoán trong kinh doanh ngoại thương. Những năm qua, nhiều địa phương, công ty và doanh nghiệp ngoại thương đã mở rộng sản xuất hàng hoá và đẩy mạnh xuất nhập khẩu. Trung Quốc chủ trương đẩy nhanh xuất khẩu, lấy xuất khẩu làm tiền đề và cơ sở vật chất của nhập khẩu, xuất khẩu ngày càng nhiều sẽ nhập được nhiều thiết bị và kỹ thuật tiên tiến. Song nhiều loại hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc lại không phù hợp với đòi hỏi tiêu thụ, phẩm chất, giá cả, đóng gói cũng không phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới, khâu vận chuyển hàng hoá cũng còn xa mới đạt yêu cầu của phát triển mậu dịch đối ngoại. Bên cạnh đó, thể chế mậu dịch cũ cũng là trở ngại lớn cho việc phát triển cảu xuất khẩu. Do đó, ngoại thương của Trung Quốc đã tỏ ra kém hiệu quả và chịu nhiều thiệt hại trong việc bù lỗ cho xuất nhập khẩu.
Về xuất khẩu, nhiều năm qua đã xuất khẩu lấy số lượng là chủ yếu, coi nhẹ nâng cao nguồn thu ngoại tệ, cho nên dù xuất khẩu với số lượng khá lớn song mức thu nhập ngoại tệ tính theo đơn vị hàng hoá lại thấp. Thậm chí, do xuất khẩu quá dung lượng của thị trường quốc tế đã làm cho giá cả hàng hoá bị kéo xuống. Chẳng hạn như mặt hàng lông thỏ năm 1985 xuất khẩu 4, 567 tấn, mỗi tấn giá 38. 805 USD, năm 1988 xuất khẩu với số lượng tăng gấp hai lần là 8, 482 tấn, giá mỗi tấn chỉ còn 17, 220 USD. So sánh hai năm, số lượng xuất khẩu đã tăng 86%, song giá trị lại giảm 56%, lượng ngoại tệ thu về giảm 1, 16 triệu USD. Mặt hàng sợi pha nilon cũng có tình trạng tương tự, so sánh hai năm1987 và 1988, số lượng xuất khẩu năm 1988 so với 1987 tăng 188 % song trị giá mỗi tấn bán ra giảm từ 518 xuống 228 USD (khoảng 56%).
Việc mở rộng quyền hạn kinh doanh xuất nhập khẩu cho các địa phương và xí nghiệp đã làm cho cao trào xuất khẩu dân lên quá bừa bãi, thiếu tổ chức và trật tự mà nhà nước không có biện pháp hạn chế, dẫn tới hiệu quả kinh tế giảm mạnh, lợi ích kinh tế của nhà nước bị thiệt hại nghiêm trọng. Theo thống kê, xuất khẩu hàng tơ lụa của Trung Quốc mỗi năm cũng làm cho nhà nước tổn thất hơn 100 triệu USD. Đặc biệt là mặt hàng quặng Wolfram và những sản phẩm chế tử Wolfram là mặt hàng độc quyền trong xuất khẩu của Trung Quốc, lâu nay chiếm 62 % tổng lượng xuất khẩu của thế giới. Song do Trung Quốc xuất khẩu quá nhiều làm cho thị trường thế giới biến động, làm cho giá trị xuất khẩu sản phẩm này càng giảm, đồng thời mặt hàng này đã chịu mất vị trí độc quyền trong thương mại quốc tế. Năm 1990, giá trị xuất khẩu quặng Wolfram giảm 67, 55% so với năm 1980, từ năm 1980 đến 1990, trong vòng 10 năm, thu nhập ngoại tệ do xuất khẩu mặt hàng này giảm 878 triệu USD.
Những năm qua, tuy Trung Quốc đã xuất khẩu ra nước ngoài nhiều sản phẩm, song có nhiều sản phẩm về mặt chất lượng không bảo đảm đúng yêu cầu và tiêu chuẩn quốc tế, do đó giá trị gia tăng của hàng hoá hầu như không còn tăng. Thu nhập ngoại tệ so với một số nước và khu vực còn thấphơn nhiều lần. Thí dụ như mặt hàng quần áo xuất khẩu, do chất lượng, hình thức, mẫu mã kém nên số thu ngoại tệ của Trung Quốc đặc biệt thấp. Năm 1989, quần áo xuất khẩu tính theo tấn của Trung Quốc chỉ thu được 13, 323 USD, trong khi Italia thu được 76, 922 USD, gấp 5, 77 lần, Pháp thu 55, 383 USD gấp 4, 16 lấn, Liên bang Đức thu về 43, 413 USD gấp 3, 26 lần và Hàn Quốc là 24, 525 USD, gấp 1, 28 lần so với Trung Quốc.
Xuất khẩu của Trung Quốc chủ yếu dựa vào Hồng Kông thông qua phương thức chuyển khẩu. Phương thức chuyển khẩu đương nhiên làm cho Trung Quốc phải chịu những thiệt hại to lớn, không những chi phí tốn kém mà còn bị ảnh hưởng bởi những nguyên nhân khách quan. Thứ nhất là do kinh tế Hồng Kông luôn luôn biến động, giá cả hàng hoá Trung Quốc xuất khẩu qua Hồng Kông cũng phải thay đổi theo thị trường bản địa, để phù hợp với luật quốc tế quy định các nước nhập khàng Trung Quốc phải dựa vào giá của Hồng Kông là nước xuất hàng cuối cùng. Thứ hai, thông qua việc giao nhận chu chuyển, Hồng Kông đã chiếm lĩnh được một số thị trường nhập hàng hoá của Trung Quốc, buộc Trung Quốc nếu muốn xuất hàng đều phải dựa vào việc định giá của Hồng Kông. Điều đó không những ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế mà còn ảnh hưởng đến chiến lược xuất nhập khẩu lâu dài của Trung Quốc. Chẳng hạn như mặt hàng dệt cùng loại được xuất sang các nước phương Tây và Hồng Kông thì giá trị hàng hoá xuất sang Hồng Kông thường thấp hơn từ 20% đến 30% so với xuất sang các nước phương Tây.
Trong thực tế hoạt động kinh doanh ngoại thương, do thiếu kiến thức kinh tế thương mại, thiếu thông hiểu điều luật ngoại thương và những kinh nghiệm trong buôn bán quốc tế nên khi các địa phương, công ty và các doanh nghiệp ngoại thương trực tiếp ký kết hợp đồng với nước ngoài, đã không những thiếu chặt chẽ mà còn không biết tận dụng những chế độ ưu đãi trong ngoại thương. Do đó cũng phải chịu những thiệt thòi khá lớn, góp phần ảnh hưởng đến nguồn thu nhập tài chính nhà nước. Theo thống kê năm 1988, Trung Quốc đã thất thoát một khối lượng lớn ngoại tệ khá lớn ra nước ngoài là 3, 4 tỷ USD do thiếu chặt chẽ trong khi ký kết văn bản mậu dịch và bỏ qua những quy định, chế độ ưu đãi trong buôn bán.
Về nhập khẩu, những năm qua Trung Quốc đã chú trọng đến việc nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị và kỹ thuật của nước ngoài bổ sung cho trong nước. Tuy chỉ tiêu nhập khẩu đưa ra vẫn ở mức khiêm tốn song việc nhập khẩu vẫn thiếu tập trung tràn lan, trùng lặp. Lý do là vì Trung Quốc vẫn chưa xác định được chiến lược nhập khẩu tập trung hoá, biện pháp thực hiện cũng chưa rõ ràng, mặt khác, chính sách nới lỏng kinh doanh xuất nhập khẩu cho địa phương thiếu tổ chức đầy đủ và cụ thể. Lĩnh vực nhập khẩu kém hiệu quả. Năm 1988, có từ 30 – 36 % trong tổng số 20000 hạn mục nhập khẩu không đảm bảo được tiến độ sản xuất làm nhà nước thiệt hại khá lớn về tài chính. Riêng năm 1988, đãtổn thất 1, 26 tỷ USD, trở thành kẻ hứng chịu “gánh nặng” của thế giới do nhập khẩu không tính toán. Thời gian qua, Trung Quốc nhập cùng một loại hàng nhưng mua từ nhiều nước khác nhau nên không được hưởng tỷ lệ chiếu khấu mà ngược lại phải mất một khoản tiền bù ra do chủ hàng tăng giá. Người ta tính rằng việc mua bán theo kiển này khiến Trung Quốc phải bù thêm hàng tỷ USD.
Những lực cản gián tiếp trong buôn bán với nước ngoài: Trung quốc là một quốc gia đất rộng, người đông, có nguồn tài nguyên phong phú, có tiềm năng phát triển kinh tế dồi dào. Công cuộc cải cách mở cửa những năm qua đã làm cho Trung Quốc trở thành một cường quốc kinh tế và một đối thủ đáng lo ngaị trong cạnh tranh mậu dịch quốc tế. Nhưng, một số nước thường gắn vấn đề chính trị và ngoại giao vào quan hệ kinh tế, tạo ra nhiều bất đồng làm hạn chế quan hệ mậu dịch thương mại, ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động ngoại thương. Điển hình là quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc và Mỹ. Dưới con mắt của Mỹ, Trung Quốc là nước đang phát triển có thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng hứa hẹn; Trung Quốc đang tiến hành mở cửa nền kinh tế. Mỹ muốn vào thị trường béo bở này thật nhanh, nhưng lại e ngại điều đó sẽ giúp Trung Quốc tăng trưởng mạnh, sẽ đe doạ ưu thế và địa vị toàn cầu của Mỹ. Do đó, Mỹ tìm cách can thiệp và kiềm chế Trung Quốc. Những năm qua quan hệ buôn bán giữa Trung Quốc và Mỹ ở trong trạng thái vừa có sự phát triển, vừa có sự hạn chế. Ngoài ra, thể chế và chính sách ngoại thương của Trung Quốc và các nước phát triển có sự khác biệt khá lớn. Trong xây dựng nền kinh tế thị trường, các nước Âu, Mỹ và Nhật Bản đã có cơ sở và luật lệ từ trước; Trung Quốc đóng cửa nền kinh tế trong một thời gian dài, mới đang quá độ xây dựng nền kinh tế thị trường, thể chế ngoại thương của Trung Quốc khác biệt quá xa so với thông lệ quốc tế. Những vấn đề này là trở ngại gián tiếp nhưng không kém phần quan trọng trong việc tiếp tục phát triển buôn bán với nước ngoài của Trung Quốc trong thời gian tới.
IV. Liên hệ với Việt nam
Từ chính sách cải cách về thương mại và thương mại quốc tế cũng như việc Trung Quốc ra nhập WTO có ảnh hưởng đến quan hệ song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ khi bình thường hoá quan hệ từ 1991 đến nay mối quan hệ thương mại Việt- Trung dã có bước phát triển vượt bậc. Tính đến cuối năm 2000, kim ngạch buôn bán hai chiều việt- Trung đạt 2, 46 tỷ đôla, tăng gấp 78 lần so với năm 1991, đồng thời chiếm 9, 83% tổng kim nghạch ngoại thương của Việt Nam. Tuy nhiên, một điều đáng chú ý là cán cân buôn bán giữa 2 nước luôn bất lợi cho phía Việt Nam, mức nhập siêu của Việt Nam vẫn cao năm 2000 là 608 triệu USD.
ảnh hưởng đến lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam tại thị trưòng thứ 3. Đây là điều cần được các chuyên gia nghiên cứu thực sự một cách cẩn thẩn và nhiêm túc. Rồi đây, khi gia nhập WTO từ sau 2005, Trung Quốc sẽ được hưởng những ưu đãi về thuế quan, hạnh nghạch xuất khẩu... nhất là thị trường Mỹ, Nhật, EU, thì những mặt hàng cùng chủng loại của Việt Nam sẽ rất khó cạch tranh với Trung Quốc.
ảnh hưởng trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài. khi ra nhập WTO, môi trường đầu tư của Trung Quốc cả về “ môi trường cứng” (cơ sở hạ tầng ) lẫn “ môi trường mềm” (cơ chế chính sách ) sẽ được cải thiện hơn nữa, Trung Quốc sẽ chở thành một trong những “ điểm nóng” thu hút đầu tư nước ngoài của thế giới. ở một khía cạch nào đó đây cũng là một cơ hội tốt cho các nhà đầu tưcủa một số nước ĐNA khi đến đầu tư tại Trung Quốc. Nhưng mặt khác, cũng cần thấy rằng sức hấp dẫn của Trung Quốc cũng sẽ tạo nên một sự cạnh tranh lớn đối với một số nước ĐNA khác, trong đó có Việt Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Trên đây là một số ảnh hưởng bao hàm cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực khi Trung Quốc ra nhập WTO đối với Việt Nam và quan hệ kinh tế Việt Nam – Trung Quốc trong thời gian tới.
Thành tựu:
Trước hết điều dễ nhạn thấy là hoạt động tthương mại của hai nước được thực hiện qua nhiều phương thức khác nhau như buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất, trong đó buôn bám tiểu ngạch và chính ngạch là hai phương thức chính. đa dạng hoá về phương thức trao đổi đã làm cho hoạt động ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét đặc trưng và cũng là lợi thế của hai bên về mặt địa lý.
- Về xuất nhập khẩu chính ngạch: từ năm 1991 đến nay kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đã tăng đều qua các năm. Đặc biệt, năm 2000, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 2, 957 triệu $, tăng 78 lần so với năm 1991, trong đó xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1, 534 triệu $. Riêng 6 tháng đầu năm 2001, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 794, 1 triệu $với mức tăng trưởng là 30%.
Bảng 1: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam – Trung Quốc thời kỳ 1991 –2000
Cùng với sự phát triển các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, cơ cấu xuất nhập khẩu cũng phát triển theo hướng ngày càng đa dạng hoá về mặt hàng và chủng loại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của cả hai bên.
Hàng hoá của Việt Nam xuất sang Trung Quốc gồm 4 nhóm chính: nhóm hàng nguyên liệu ( như than đá, dầu thô, quặng kim loại, các loại dầu cao xu tự nhiên,... ); nhóm hàng nông sản (lương thực, chè, rau, gạo, sắn... );nhóm hàng thuỷ sản tươi sống, thuỷ sản đông lạnh ( như tôm, cá, cua... )và nhóm hàng tiêu dùng (hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép, đò gia dụng cao cấp... ).
Tỷ trọng xuất nhập khẩu các mặt hàng thuộc 4 nhóm trên cũng tăng dần qua các năm, nhất là 3năm gần đây. Đặc biệt, trong năm 2000 Việt Nam đã xuất sang Trung Quốc một mặt hàng mới trườc đây chưa có, đó là linh kiện vi tính.
Hàng hoá Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc gồm 5 nhóm hàng chính là: dây chuyeenf sản xuất đồng bộ (ví dụ dây truyền sản xuất đường, dây truyền sản xuất xi măng lò đứng... ); máy móc thiết bị ( thiết bị y tế, thiết bị vận tải, máy nông nghiệp... ); nguyên nhiên liệu ( xăng dầu, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng,... ); mặt hàng nông sản ( lương thực, bột mì, đường, hoa quả ôn đới,... ) và hàng tiêu dùng như sản phẩm điện tử, xe máy, quần áo, đồ chơi trẻ em...
Từ cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu nêu trên có thể thấy rõ hoạt động ngoại thương đã khai thác được thế mạnh của hai bên. Hàng hoá xuất nhập khẩu như trên đã có tác dụng bổ sung cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hai nước và cũng phù hợp với đặc thù về trình độ phát triển kinh tế của hai nước trong 10 năm qua.
- Về xuất nhập khẩu tiểu ngạch: xuất nhập khẩu tiểu ngạch là hoạt động buôn bán qua biên giới để thu lợi nhuận của những người buôn bán là cư dân khu vực biên giới.
Buôn bán qua biên giới là một bộ phận đán kể trong tổng kim ngach xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong 10 năm qua, ở những năm đầu tỷ lệ dao động giữa buôn bán chính ngach và buôn bán tiểu ngạch thường là ở mức 50 – 60% Vào thời gian này, không chỉ chiếm tỷ trọng lớn, xuất nhập khẩu tiểu ngạch còn góp phần đáp ứng nhu cầu trao đổi của dư dân hai nước, cải thiện, nâng cao đời sống của cư dân khu vực biên giới, thậm chí một bộ phận dân cơ các tỉnh biên giới hai nước đã có thêm việc làm, tăng thêm thu nhập, thoát khỏi cảnh đói nghèo của thời trước khi bình thường hoá. Điều này đã góp phần đáng kể vào việc ổn định và duy trì mối quan hệ hữu nghị giữa hai bên
3- Khó khăn và tồn tại:
Quan hệ ngoại thương giữa hai nước chưa tương xứng với tiềm năng của mỗi nước.
Quan hệ ngoại thương giữa hai nước trong 10 năm qua phát triển dựa trên sự chênh lệch rất rõ về trình độ.
Nạn hàng giả, hàng kém phẩm chất và buôn lậu qua biên giới đang rất phổ biến.
Khả năng đáp ứng cũng như năng lực cạnh tranh của hang hoá và của bản thân các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam còn hạn chế.
Phần 3: Phần Kết Luận
Qua quá trình nghiên cứu chính sách thương mại quốc tế của Trung Quốc đã cho chúng ta thấy toàn cảnh quá trình xây dựng kinh tế và mở cửa của họ trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Từ đó chúng ta có thể rút ra dược một cố bài học kinh nghiệm và có thể xem xét vận dụng phần nào những phương thức, chính sách của họ vào nước ta trong quá trình xây dựng đất nước vào giai đoạn hiện nay. Khi mà trên thế giới, xu thế hội nhập và phát triển, với phương châm hợp tác cùng có lợi, khoa học kỹ thuật đã chở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mạng lưới thông tin phát triển chưa từng thấy... để phát triển được và không bị tụt hậu, thì chúng ta phải phải có những chính sách mở cửa, đối ngoại khôn khéo để hội nhập với nền kinh tế thế giới, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến mà vẫn không bị chệch hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước “ xã hội chủ nghĩa Việt Nam” đi đến cái đích của sự thành công.
Mục Lục
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I: Lý thuyết chung về thương mại quốc tế và xuất nhập khẩu 2
1. Khái niệm về thương mại quốc tế 2
2. Vai trò của thương mại quốc tế 2
3. Xuất nhập khẩu và vai trò của xuất nhập khẩu 3
Phần II: Thương mại quốc tế của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách và mở cửa, tác động của nó đến hoạt động xuất nhập khẩu của Trung Quốc 8
I. Tình hình của kinh tế Trung Quốc trước thời kỳ cải cách, mở cửa 8
II. Chính sách kinh tế mở cửa và tác động và tác động của nó đối với hoạt động xuất nhập khẩu 8
1. Nội dung của chính sách kinh tế trong thời kỳ mở cửa 8
2. Quá trình thực hiện cải cách 19
3. Ngoại thương của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách mở cửa 20
4. Quan hệ xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc 21
III. Những thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được trong thời kỳ cải cách 23
1.Tăng trưởng kinh tế và những thay đổi cơ cấu kinh tế 23
2. Trung Quốc gia nhập WTO 23
3. Những kết quả và những vấn đề còn tồn tại 25
IV. Liên hệ với Việt Nam 30
1. Những ảnh hưởng 30
2. Những thành tựu 31
3. Khó khăn và tồn tại 32
Phần III: Kết luận 33
Tài liệu tham khảo
1. Trung Quốc nhìn lại một chặng đường phát triển
Tác giả: JUN MA
Dịch giả: Nguyễn Quốc Thắng – Hoàng Quốc Hùng
2. Lịch sử Kinh tế Quốc dân – NXB. Giáo dục – 2000
3. Giáo trình Thương mại quốc tế
4. Các tạp chí về Trung Quốc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35251.doc