Các chuyên gia đánh giá, thị trường Việt Nam có điều kiện để trở thành trung tâm sản xuất xe máy lớn tại châu Á và ngành công nghiệp phụ trợ có điều kiện tốt để phát triển mạnh. bởi nước ta có nhiều đặc điểm của nền kinh tế như : mức thu nhập của người dân còn thấp, chỉ mới 600 USD/ người và đến năm 2010 cũng chỉ hi vọng đạt 950 – 1000 USD/người. Với mức thu nhập bình quân như vậy, người dân chưa đủ điều kiện để sử dụng ô tô một cách rộng rãi và phưong tiện giao thông chính vẫn phải là xe máy
Thứ 2 là theo dự báo đến năm 2010 cả nước sẽ có khoảng 25 triệu xe máy lưu hành và đến 2015 là khoảng 31 triệu xe và 2020 là 35 triệu xe. vậy là trong khoảng thời gian đó lượng xe sẽ tăng gấp đôi lượng xe hiện nay. Thị trường này sẽ giúp Việt Nam có điều kiện trở thành trung tâm sản xuất xe máy lớn tại châu Á và ngành công nghiệp phụ trợ có điều kiện tốt để phát triển mạnh. Khi thị trường trong nước đã bão hòa, các doanh nghiệp phụ trợ sẽ chuyển sang sản xuất linh kiện cho công nghiệp ô tô
20 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 989 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tiềm năng phát triển ngành công nghiệp sản xuất xe máy tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài : tiềm năng phát triển ngành công nghiệp sản xuất xe máy tại Việt Nam
Lời mở đầu
Các chuyên gia đánh giá, thị trường Việt Nam có điều kiện để trở thành trung tâm sản xuất xe máy lớn tại châu Á và ngành công nghiệp phụ trợ có điều kiện tốt để phát triển mạnh. bởi nước ta có nhiều đặc điểm của nền kinh tế như : mức thu nhập của người dân còn thấp, chỉ mới 600 USD/ người và đến năm 2010 cũng chỉ hi vọng đạt 950 – 1000 USD/người. Với mức thu nhập bình quân như vậy, người dân chưa đủ điều kiện để sử dụng ô tô một cách rộng rãi và phưong tiện giao thông chính vẫn phải là xe máy
Thứ 2 là theo dự báo đến năm 2010 cả nước sẽ có khoảng 25 triệu xe máy lưu hành và đến 2015 là khoảng 31 triệu xe và 2020 là 35 triệu xe. vậy là trong khoảng thời gian đó lượng xe sẽ tăng gấp đôi lượng xe hiện nay. Thị trường này sẽ giúp Việt Nam có điều kiện trở thành trung tâm sản xuất xe máy lớn tại châu Á và ngành công nghiệp phụ trợ có điều kiện tốt để phát triển mạnh. Khi thị trường trong nước đã bão hòa, các doanh nghiệp phụ trợ sẽ chuyển sang sản xuất linh kiện cho công nghiệp ô tô.
Lý do chọn đề tài :
Ta đều nhận thấy rằng các công ty sản xuất xe máy lớn trên thế giới có kỳ vọng rất lớn vào ngành công nghiệp xe máy Việt Nam và đang đấu tư rất lớn cho ngành công nghiệp xe máy Việt Nam. Ba hãng xe lớn nhất tại Việt Nam là hãng honda và yamaha và piagio. Đây là những đại diện tiêu biển cho các nhà sản xuất xe máy nổi tiếng trên thế giới đang đầu tư tại Việt Nam và có số lượng xe bán ra nhiều nhất trên thị trường Việt Nam. vậy sự cạnh tranh và tiềm năng của thị trường việt nam được các nhà đầu tư đánh giá như thế nào chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua những dự án và sự đấu tư mà 3 công ty này đang đầu tư tại Việt Nam
Mục đích nghiên cứu : qua đề tài này em có thể phân tích tiềm năng ngành công nghiệp sản xuất xe máy Việt Nam
Đối tượng nghiên cứu là : các công ty sản xuất xe máy tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu : ngành công nghiệp sản xuất xe máy Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu là : tổng hợp và phân tích
Với những lý do trên em lựa chọn đề tài này để có thể tìm hiểu được thực trạng ngành công nghiệp xe máy Việt Nam, tiềm năng của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam. Và hướng phát triển của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2015. Những định hướng chủ chính phủ và mục tiêu của các doanh nghiệp sản xuất xe máy . cuối cùng là những bài học chúng ta cần rút ra để giải quyết những vấn đề cho riêng mình
Kết cấu của đề tài gồm:
Chương 1 : tiềm năng ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
Chương 2 : phân tích tiềm năng phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
Chương 3 : bài học để phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
Kết luận
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này!
Chương 1 : Tiềm năng ngành công nghiệp xe máy việt nam
Bức tranh ngành công nghiệp xe máy Việt Nam :
Theo số liệu của Hiệp hội Xe đạp Xe máy VN, toàn quốc hiện nay có 52 DN sản xuất lắp ráp xe máy. Trong đó, có 22 DN quốc doanh, 7 DN liên doanh. Tổng số vốn đầu tư đạt khoảng 100 triệu USD. Trong khi đó riêng hãng Honda, trong 10 năm qua đã đầu tư đến 194 triệu USD cho sản xuất và kinh doanh xe máy. Các DN sản xuất và lắp ráp xe máy trong nước đã phát triển ồ ạt, nhất là trong giai đoạn 1
Hiện nay, có 3 dòng công nghệ phổ biến ở các doanh nghiệp, đó là:
Công nghệ Nhật Bản: Đạt trình độ cao, chất lượng tốt, lợi nhuận lớn, tập trung ở các liên doanh như Honda, Yamaha, Suzuki
Công nghệ Đài Loan: Đạt trình độ tiên tiến, sản phẩm chất lượng tốt, giá bán thấp hơn so với công nghệ Nhật Bản. Điển hình là CôngtySYM.
Công nghệ Trung Quốc: Công nghệ trung bình, nhiều công đoạn vẫn phải làm thủ công, nên chất lượng không đồng đều, giá bán thấp nên lợi nhuận không cao.
Hàng năm, ngành công nghiệp xe máy trong nước tuy non trẻ, nhưng cũng tạo ra chỗ làm cho khoảng 100 ngàn lao động trong các nhà máy, xưởng lắp ráp, sửa chữa bảo hành, các đại lý bán xe máy Đến quý I năm 2005, theo thống kê của toàn ngành, có 10 doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền lắp ráp trên 30.000 xe một năm. Có 60% dây chuyền trên 150 công nhân. Các doanh nghiệp dưới 50 công nhân hầu như không tồn tại do cạnh tranh quyết liệt. Có tới 45 doanh nghiệp mới nội địa hoá được 40%, hai doanh nghiệp nội địa hoá đến 60%. Một số doanh nghiệp đã bắt tay với nhau không đầu tư từ A đến Z, mà có sự phân công chiếm lĩnh thị trường trong nước như vỏ, khung sườn, moay ơ, bộ điện... hoặc chuyên sản xuất các cụm chi tiết chủ lực, có doanh nghiệp đã xuất khẩu được sản phẩm ra nước ngoài. Nhưng cho đến nay, theo nhận định của Bộ Thương mại, thì một số chi tiết khó thuộc cụm động cơ (như bánh răng ly hợp, vòng bi, ngắt số, bộ khởi động) trị giá khoảng 30 USD trong giá thành một chiếc xe vẫn chưa được đầu tư sản xuất trong nước.
Thị trường trong nước và trên thế giới vẫn có nhu cầu lớn về xe máy, đặc biệt là ở các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng dành cho ô tô còn yếu kém, nên phương tiện giao thông chủ yếu vẫn là xe máy. Theo số liệu của Cục Đăng kiểm Việt Nam, nếu năm 1995 cả nước sản xuất lắp ráp được 62.000 xe, thì đến năm 2004, sản lượng đã tăng gấp 23 lần. Nhiều doanh nghiệp như Công ty T&T, Công ty Hoa Lâm, Công ty TNHH Đức Phương, Lisohaka đã xuất khẩu được xe sang thị trường Đông Ti Mo, ăng Gô La, Đôminica, Nam Phi còn các công ty liên doanh chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường khu vực châu á. Riêng Honda Việt Nam một năm xuất khẩu đạt kim ngạch gần 25 triệu USD. Bình quân số người dân/xe, năm 1990 là 23,8, đến nay đạt gần 7 người/1xe máy. Thị trường xuất khẩu còn tiềm năng rất lớn, do các nước thuộc thế giới thứ ba, là bạn hàng với Việt Nam đang có tăng trưởng kinh tế mạnh, đặc biệt là ở châu á và châu Phi.
Như vậy, cơ hội cho ngành xe máy Việt Nam phát triển trong những năm tới là rất lớn. Song, cũng chưa thoát khỏi những thách thức lớn trước sự cạnh tranh và xu thế phát triển công nghệ như vũ bão trên thế giới
1.2. Tiềm năng của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam:
Thị trường xe máy phát triển mạnh mẽ, sức tiêu thụ ngày càng nâng cao tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành công nghiệp xe máy
Bắt đầu từ tháng 9 cho đến Tết Nguyên đán hàng năm là thời điểm tiêu thụ xe máy tăng mạnh. Một số doanh nghiệp khẳng định lượng xe bán ra của họ đã bắt đầu tăng. Ông Mai Huy - Phó giám đốc kinh doanh Công ty cổ phần xe máy HoaLam - Kymco cho biết so với tháng 7, tháng 8 lượng xe của HoaLam - Kymco đã tăng lên tuy chưa nhiều. Các doanh nghiệp xe máy 100% vốn trong nước như Sufat, T&T cũng cho biết tiêu thụ xe máy đã hết thời kỳ ảm đạm, bắt đầu tăng tốc và họ đang chuẩn bị hàng cho thị trường cuối năm.
Số liệu thống kê của 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là Honda Việt Nam, Suzuki Việt Nam, SYM, Yamaha Việt Nam cho thấy nếu tháng 9/2006 lượng xe tiêu thụ là 107.000 chiếc/tháng thì đến tháng 12/2006 là 127.000 chiếc/tháng, mức tăng gần 20%.
Theo dự tính từ tháng 9/2007 trở đi đến cuối năm, lượng xe tiêu thụ của 4 doanh nghiệp này sẽ ở mức không dưới 150.000 chiếc/tháng.
Đặc biệt xe tay ga có mức tiêu thụ tăng khá mạnh. Công ty Honda Việt Nam trong 8 tháng năm 2007 đã bán được tổng cộng 74.000 chiếc, trong đó xe Air Blade mới đưa ra thị trường vào cuối tháng 4/2007 đã tiêu thụ được 36.000 chiếc.
Theo ông Đinh Quang Tuấn - Giám đốc bán hàng và Marketing công ty Yamaha Việt Nam thì thị trường xe tay ga tại Việt Nam rất tiềm năng. Hiện nay xe tay ga mới chiếm khoảng 17% thị phần và nó còn phát triển rất mạnh. Xu hướng chuyển sang sử dụng xe tay ga ngày càng tăng. Chỉ tính riêng Yamaha Việt Nam nếu tháng 1/2007 các loại xe tay ga bán ra chiếm khoảng 20% tổng số xe thì tới tháng 6/2007 đã chiếm tới 30% trong tổng số xe.
Theo ông Tuấn việc chuyển sang sử dụng xe tay ga đang diễn ra khá nhanh, nhất là tại các thành phố bởi xe tay ga ngày càng có giá rẻ và mẫu mã đẹp. Đây cũng chính là cơ hội lớn và không doanh nghiệp nào muốn bị bỏ lỡ.
Thời gian qua các doanh nghiệp luôn đẩy mạnh việc cho ra đời những sảm phẩm xe tay ga mới. Mới đây, công ty Suzuki Việt Nam cũng đưa ra thị trường mẫu xe Hayate dòng xe ga dành cho nam giới, mang kiểu dáng thể thao, động cơ 125cc. Suzuki Hayate có giá bán khá rẻ với loại vành nan hoa là 21.800.000 VNĐ, còn vành đúc là 22.800.000 VNĐ. Suzuki Việt Nam hy vọng đây sẽ là sản phẩm tạo nên sự đột phá cho họ trên thị trường bởi trong thời gian qua luợng xe tiêu thụ của doanh nghiệp này giảm sút mạnh.
SYM như nói trên, đã cho ra đời một sản phẩm mới là Attila Elizabeth 125cc hiện đang bán khá chạy. Trên thị trường hiện nay có 2 mẫu xe tay ga là Honda Air Blade và Attila Elizabeth đang bị cháy hàng. Khách hàng muốn mua 2 mẫu xe này phải đăng ký đặt tiền trước. Còn muốn mua ngay thì giá cao hơn giá công bố khoảng 2 triệu đồng/chiếc.
HoaLam Kymco cũng đang đẩy mạnh việc sản xuất xe tay ga và coi đây là những sản phẩm chủ chốt để chiếm lĩnh thị trường và phát triển doanh nghiệp.
Thị trường xe máy Việt Nam được đánh giá là còn tiềm năng rất lớn. Theo dự báo của Viện chiến lược và chính sách công nghiệp, thì đến 2010 cả nước sẽ có khoảng 25 triệu xe máy lưu hành và đến 2015 khoảng 31 triệu xe và đến 2020 là 35 triệu xe. Tức là trong vòng 15 năm nữa lượng xe máy sẽ tăng gấp đôi hiện nay.
Thị trường xe máy Việt Nam được đánh giá là còn tiềm năng rất lớn.Theo dự báo của Viện chiến lược và chính sách công nghiệp, thì đến 2010 cả nước sẽ có khoảng 25 triệu xe máy lưu hành và đến 2015 khoảng 31 triệu xe và đến 2020 là 35 triệu xe. Tức là trong vòng 15 năm nữa lượng xe máy sẽ tăng gấp đôi hiện nay.
Hiện nay riêng tại 2 thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã đạt tỷ lệ bình quân là 2 người có 1 xe máy, các tỉnh thành khác như Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương... là 3 người có 1 xe máy, còn các địa phương khác là 6 người có một xe máy.
Ngành công nghiệp xe máy đang thu hút các nhà đầu tư lớn
Điển hình là các công ty sản xuất xe máy hàng đầu trên thế giời đang đầu tư tại Việt Nam
Ngày 18/7, Honda Việt Nam thông báo xây dựng nhà máy xe máy thứ hai tại Việt Nam với diện tích 28 ha, tổng mức đầu tư khoảng 65 triệu USD. Nhà máy mới đặt cạnh nhà máy hiện có ở tỉnh Vĩnh Phúc và dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào nửa cuối 2008. Honda Việt Nam cho biết, sản phẩm chủ yếu của nhà máy thứ hai sẽ là dòng xe tay ga như Air Blade, Click, Future Neo, sản lượng ước tính vào khoảng 500.000 chiếc mỗi năm. Từ cuối năm sau, năng lực sản xuất xe máy của Honda sẽ đạt mức 1,5 triệu chiếc/năm, chiếm khoảng 50% khả năng tiêu thụ của thị trường. Trước đó, ngày 29/6 Yamaha Việt Nam lặng lẽ khánh thành nhà máy mới tại Khu công nghiệp Nội Bài với diện tích nhỏ hơn, 15 ha, vốn đầu tư 43 triệu USD và cũng sẽ đi vào hoạt động từ cuối 2008. Tuy nhiên, sản lượng dự kiến của nhà máy Yamaha mới lên tới 1 triệu chiếc/năm, nâng tổng công suất của cả hai lên mức 1,5 triệu chiếc. Như vậy đến cuối 2008, Yamaha có năng lực sản xuất không thua kém Honda và thị trường hứa hẹn sẽ có những cuộc cạnh tranh khốc liệt về sản phẩm và giá bán giữa hai "ông lớn" này. Tuy nhiên, sự bành trướng sẽ khiến không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, nhất là các công ty trong nước, bởi Yamaha và Honda đã chiếm gần hết sản lượng 3 triệu xe mỗi năm, nếu cả hai đạt công suất thiết kế. Cuộc chiến ở xe tay ga Việc Yamaha và Honda cùng đầu tư nâng sản lượng cho thấy hai nhà sản xuất này nhận định thị trường xe máy Việt Nam còn nhiều tiềm năng, đặc biệt là dòng xe số tự động. Trả lời báo chí ngày 18/7, ông Koji Onishi, Tổng Giám đốc Honda Việt Nam cho biết mặc dù nhà máy thứ hai chủ yếu sản xuất xe tay ga hiện có như Air Blade hay Click nhưng không loại trừ khả năng có thêm các sản phẩm mới như SCR, thậm chí SH. Tất cả đều phụ thuộc vào thị trường. Dù tham gia vào thị trường tay ga sau nhưng Honda gặt hái những thành công đáng kể. Trong 9 tháng có mặt trên thị trường, đã có gần 47.000 chiếc Honda Click (đối thủ của Yamaha Mio) tới tay người tiêu dùng. Riêng với Air Blade, cạnh tranh trực tiếp cùng Nouvo, Honda bán được 19.500 chiếc sau 3 tháng ra mắt và tại các đại lý, người mua phải đợi vài tháng mới có thể nhận xe. Với Yamaha, ông Đinh Quang Tuấn, phụ trách tiếp thị cho biết nhà máy mới sẽ có phân xưởng sản xuất xe số tự động. Hiện tại, thị phần của xe tay ga ở Yamaha đang tăng đáng kể. Nếu đầu năm 2007, dòng xe này chiếm 20% tổng số xe bán ra thì đến tháng 6, tỷ lệ đó tăng lên thành 30% và đến hết năm sẽ chiếm khoảng 40-50%. Trong 6 tháng đầu năm, Yamaha bán 250.000 xe, tăng mạnh so với 170.000 chiếc cùng kỳ năm ngoái. Theo nhận định của các chuyên gia, thời gian tới với ưu điểm về vận hành và thời trang, xe tay ga sẽ là một trong những phân khúc mang lại nhiều doanh số và lợi nhuận nhất cho các hãng, đặc biệt là các liên doanh lớn. Thị phần dòng xe này sẽ tiếp tục nâng cao, đạt khoảng 25% vào cuối 2008, tăng đáng kể so với tỷ lệ 11% hiện nay. Với doanh số ước chừng trên 3 triệu xe thì mỗi năm có khoảng 750.000 chiếc tay ga được tiêu thụ, một con số hấp dẫn nếu tính trên khoảng 10 mẫu xe hiện có. Ngoài hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp với nhau là Yamaha và Honda, phân khúc này còn có sự tham gia của những liên doanh như Suzuki, SYM, các đơn vị trong nước và một nhân tố mới là Piaggio. Dù có mức đầu tư khiêm tốn 15 triệu USD vào nhà máy có diện tích 3 ha nhưng Piaggio vẫn là đối thủ đáng gờm. Với sản phẩm chính là Vespa, Piaggio là hãng đầu tiên lắp ráp xe tay ga cao cấp tại Việt Nam, tạo lợi thế về giá và hệ thống bảo hành trước các mẫu xe nhập khẩu của Honda và Yamaha. Chưa thể là đối trọng của hai liên doanh trên nhưng bước đi của Piaggio nằm trong kế hoạch nâng cao sản lượng toàn cầu. Rất có thể trong tương lai, nhà máy tại Việt Nam là điểm trung chuyển sang các nước khác và khi đó, Piaggio sẽ trở thành một thế lực đáng kể. Trọng Nghiệp VNE
1.4. Định hướng của chính phủ ngành xe máy Việt Nam :
Theo bản quy hoạch, giai đoạn đến năm 2015, đáp ứng được 100% nhu cầu xe thông dụng ở khu vực nông thôn, 90% xe ở khu vực thành thị, phấn đấu đạt tỷ lệ sản xuất trong nước dùng xe tay ga trên 60%, dùng xe thông dụng trên 90%, sản phẩm xe máy đật tiêu chuẩn chất khí thải theo lộ trình được Việt Nam cam kết thực hiện theo các quy định hiện hành, sản xuất được các loại xe phân phối lớn hơn 125cm³, xe tay ga cao cấp, xe thể thao, xe máy 3-4 bánh cho người tàn tật, xe địa hình phục vụ du lịch, ce vận chuyển nông sản ... phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, phấn đấu xuất khẩu xe máy và phụ tùng xe máy đạt khoảng 400 triệu USD
Giai đoạn 2006, các doanh nghiệp (DN) phải quý trọng đến việc nghiên cứu sản xuất các loại đọng cơ xe máy sử dụng nhiên liệu “sạch” phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu. Đến năm 2020 ngành công nghiệp xe máy Việt Nam phấn đấu xuất khẩu xe máy và phụ tùng xe máy đạt khoảng 500-800 triệu USD, trong đó 15%-20% là loại đọng cơ xe máy sử dụng nhiên liệu sạch. Ngành công nghiệp hỗ trợ sản xuất xe máy có thể đáp ứng cơ bản nhu cầu linh phụ kiện của một số ngành công nghiệp lắp ráp khác như ngành sản xuất các thiết bị điện, điện tử, ổ tụ, các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng...
Để đạt được mục tiêu trên, ngành sẽ đẩy mạnh hợp tác, liên doanh liên kết để tăng khả năng cạnh tranh chả các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sản xuất linh kiện, phụ tùng và sản xuất lắp ráp xe máy, chủ động đa dạng hóa sản phẩm, sản xuất linh kiện cho các ngành công nghiệp khác như ổ tụ, cơ khí tiêu dùng, điện tử, hóa chất, nhựa để phát huy cơ sở vật chất và kỹ thuật đó có trong quy trình sản xuất xe máy. Bên cạnh đó, ngành sẽ đầu tư xây dựng một đến 2 khu công nghiệp hỗ trợ tập trung ở hai vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía nam nhằm tăng cường thu hút đầu tư phát triển công nghiệp xe máy, hỗ trợ và khuyến khích đầu tư các DN và các cơ sở sản xuất.
Theo báo cáo của Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách Công nghiệp( Bộ Công thương) cho biết: Thị trường xe máy thế giới vẫn đang tăng trưởng với mức từ 5-6%, các nước đang phát triển là khu vực sản xuất và tiêu thụ xe máy lớn nhất. Dự báo thị trường xuất khẩu các loại xe dưới 175cc, gía thành thấp như sau:
Trong giai đoạn 2020, thị trường Trung Quốc, Lào, Campuchia, châu Phi là những thị trường tiềm năng do có những tương đồng về khí hậu, địa hình với Việt Nam, công nghệ xe máy chưa phát triển, thị hiếu tiêu dùng không nhiều khác biệt. Một yếu tố hy vọng khác để ngành công nghiệp xe máy Việt Nam phát triển là tổng cung của sản xuất xe máy trong nước tương đối lớn. Sản lượng sản xuất lắp ráp xe máy của toàn ngành năm 2004 đạt khỏang 2 triệu chiếc.
Trong quy hoạch phát triển ngành xe máy Việt Nam giai đoạn 2006-2015, về cơ bản, Bộ đã xây dựng 4 chương trình trọng điểm:
Thứ nhất, chương trình sản xuất trong nước, kết hợp đẩy mạnh xuất khẩu, sẽ ưu tiên phát triển các DN sản xuất động cơ, chi tiết động cơ, nguyên phụ liệu; đẩy mạnh sảm xuất phụ tùng, linh kiện theo hướng hợp tác,liên kết, tạo thành hệ thống các nàh cung cấp có tính cạnh tranh caovà có thể gắn kết với sản xuất phụ tùng linh kiện ôtô.Trong lĩnh vực sản xuất phụ tùng, công nghệ xe máy trong nước đã thu được nhiều thành công đáng kể. Hiện tại, tỷ lệ nôi địa hoá đã đạt hơn 80% và tới đây sẽ là 90%. Hãng Honda Việt Nam là nhà tiêu thụ tới 90% phụ tùng nội địa. Rất nhiều DN việt Nam đã sản xuất được phụ tùng chất lượng cao như Nhà máy Công cụ số 1 là nhà cung ứng lớn về hệ thống bánh răng cho Honda Việt Nam, nhà máy Diezen Sông Công đã sản xuất được toàn bộ hệ thống vòng bi, bi phuốc cho Honda Việt Nam và xuất khẩu.
Thứ hai, chương trình “sản phẩm và thị trường”; đáp ứng 100% xe phổ thông cho tiêu dùng nội địa (đề cao phù hợp nhu cầu thị hiếu của khu vực nông thôn và miền núi); đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu phụ tùng, linh kiện có lợi thế cạnh tranh; tiến tới cung ứng một số loại xe tay ga trung bình có giá hợp lý và bước đầu thâm nhập thị trường xe máy chuyên dùng. đối với yếu tố thị trường, chiến lược cũng đề cập tới việc khai thác triệt để yếu tố xe thông dụng, xuất khẩu ra các thị trường khu vực, Trung Á, châu Phi, Trung Mỹ
Thứ ba, sẽ thực hiện chương trình “khoa học công nghệ” theo các hướng: coi công nghệ Nhật, Đài Loan là công nghệ dẫn dắt cho công nghệ trong nước.
Thứ tư là chương tình “tái cấu trúc hệ thống sản xuất, phát triển hệ thống các nhà cung cấp” nhằm sắp xếp, tổ chứ lại các cơ sở sản xuất, tạo sự liên kết, hợp tác tối ưu giữa các DN trong ngành. Tổ chức sản xuất theo hướng chuyên môn, hợp tác hóa, liên doanh, liên kết hình thành các tập đoàn sản xuất quy mô lớn Trong khâu phân phối, sẽ xây dựng và phát triển hệ thống phân phối năng động, chuyên nghiệp.
Trong tương lai, các DN nếu thực hiện tốt các chiến lược trong quy hoạch phát triển ngành công nghiệp xe máy, Việt Nam sẽ trở thành một trung tâm thiết kế, sản xuất, lắp ráp xe máy với quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới, sẵn sàng hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Theo đánh giá của Bộ Công thương; Trong số 52 doanh nghiệp (DN) lắp ráp xe máy hiện nay thì chỉ có 11 DN có khả năng cạnh tranh, 24 DN khả năng cạnh tranh yếu và 10 DN có khả năng giải thể. Đến năm 2005 chỉ còn 10 DN tồn tại và phát triển./.
Chương 2 : Phân tích tiềm năng ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
Thị trường xe máy còn rất lớn với nhu cầu của người dân còn tăng cao
Hiện nay cả nước có khoảng 18 triệu xe máy đang lưu hành và mỗi năm lại được bổ sung thêm khoảng 2 triệu chiếc xe mới. Doanh thu từ xe máy của các doanh nghiệp mỗi năm đạt từ 1,2- 1,4 tỷ USD
Từ giữa tháng hai, tại các cửa hàng, đại lý kinh doanh trên phố ở Hà Nội như: Nguyễn Lương Bằng, Bà Triệu, phố Huế, Tôn Đức Thắng, tấp nập người qua lại mua sắm. Theo tính toán của Đại lý xe máy Kường Ngân lượng xe bán ra trong những ngày cuối tháng hai và đầu tháng 3 ngang bằng với những ngày giáp Tết và tăng tới 20% so với thời điểm năm ngoái. Phần vì các hãng xe vừa mở chương trình khuyến mãi giảm giá bán 5-10% cho khách hàng, phần vì thực hiện theo cam kết gia nhập WTO, thuế nhập khẩu xe máy giảm (10-20%) so với cũ và sẽ tiếp tục giảm mạnh trong những năm tiếp theo. Giá các loại xe máy nhập khẩu được dự báo sẽ tiếp tục giảm cùng với sự cắt giảm của chính sách thuế.
Đại diện Công ty xe máy Hoa Lâm - Kymco tại Hà Nội cho hay các dòng xe máy tay gas của hãng cũng đang dần lấy lại thị trường. Lượng xe bán ra tăng tới 15% so với thời điểm trước Tết. Trong đó, loại xe hút khách nhất vẫn là mẫu xe Jocky (mặt hàng chủ lực của hãng) với giá bán 30,5 triệu đồng/chiếc, giảm 1 triệu đồng so với tháng trước Tết. Các loại xe khác như Vivio và XO có giá bán trên dưới 26 triệu đồng/chiếc cũng đang thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Tuy nhiên, theo các chủ đại lý thì mặt hàng được đông đảo khách hàng quan tâm vẫn là các dòng xe máy nhập khẩu như Honda SCR 110cm3, @ Stream nhập từ Trung Quốc, Đài Loan, xe SHi 150cc...
Xe nhập khẩu hút khách
Nhân viên một cửa hàng trên phố Thái Phiên cho hay, khách hàng rất đa dạng từ sinh viên, công chức ngoại tỉnh, học sinh Hà thành có tiền mừng tuổi hay cán bộ nhân viên các cơ quan có nhu cầu đổi xe, trong đó có cả những bạn trẻ trúng chứng khoán. "Không ít khách hàng vừa lấy xe ra khỏi cửa hàng đã tuyên bố, nếu giá cổ phiếu tiếp tục tăng sẽ lên đời con xe đắt tiền hơn", anh nói. Theo anh, cách phân biệt dân chơi chứng khoán với những người làm công ăn lương bình thường là bao giờ vào cửa hàng họ cũng hỏi dòng xe nhập khẩu trước tiên. Các mẫu được đối tượng khách hàng này ưa chuộng vẫn là các loại xe ga và là hàng chính hãng.
Chủng loại này thu hút phái nữ bởi có nhiều màu sặc sỡ, mới lạ như màu bạc, đỏ mận, da đồng, tím nhạt, trắng, đen... Giá dao động từ 31 đến 50 triệu đồng/chiếc tùy màu xe. Nhãn hiệu xe Honda PS 150 cm3 và Spacy 125 cm3 cũng được nhiều người tìm mua.
Cùng với mặt hàng xe gắn máy nhập khẩu thì các mẫu xe mới lắp ráp trong nước cũng được các hãng thi nhau tung ra thị trường để thu hút khách hàng. Trong số các nhà sản xuất Nhật Bản, hoạt động tích cực nhất ở phân khúc thị trường này là Yamaha với 3 dòng sản phẩm, trong đó có xe Exciter 135cc có mức giá cao nhất với 27,5 triệu đồng.
Theo Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm có khoảng 25 nghìn xe máy nguyên chiếc nhập khẩu về VN, trị giá 28 triệu USD. Con số này tăng 274,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, số xe nhập khẩu trong tháng 1 là14.000, 11.000 chiếc còn lại là của tháng 2.
Ông Yuichiro Ishii, Trưởng phòng cấp cao Phòng Bán hàng và Phát triển sản phẩm Honda Vietnam nhận xét hiện nay, xe tay ga đang ngày càng được khác hàng ưa chuộng, nhất là khách hàng tại khu vực thành thị. Mẫu xe Click tính từ lúc đưa ra thị trường hồi cuối tháng 10 đến cuối tháng 2 vừa rồi đã tiêu thụ gần 28.000 chiếc. "Ngoài Click và Spacy 102cc, chúng tôi sẽ giới thiệu tới khách hàng thêm mẫu xe hợp thời trang và chất lượng cao", ông nói.
Sức tiêu thụ xe máy tăng mạnh thể hiện qua số lượng xe đăng ký mới. Theo Phòng cảnh sát giao thông Công an Hà Nội, có ngày lượng đăng ký xe máy đạt hơn 1.400 xe, tăng 50-80% so với cùng kỳ năm ngoái. Lượng xe đăng ký mới tập trung chủ yếu ở một số quận như: Thanh Xuân, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Hoàng Mai, Tây Hồ.
Thị trường xe máy Việt Nam được đánh giá là còn tiềm năng rất lớn.Theo dự báo của Viện chiến lược và chính sách công nghiệp, thì đến 2010 cả nước sẽ có khoảng 25 triệu xe máy lưu hành và đến 2015 khoảng 31 triệu xe và đến 2020 là 35 triệu xe. Tức là trong vòng 15 năm nữa lượng xe máy sẽ tăng gấp đôi hiện nay.
Hiện nay riêng tại 2 thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã đạt tỷ lệ bình quân là 2 người có 1 xe máy, các tỉnh thành khác như Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình Dương... là 3 người có 1 xe máy, còn các địa phương khác là 6 người có một xe máy.
Tại Thái Lan thị trường xe máy bão hoà khi đạt mức bình quân 3 người/xe, nhưng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn hiện đã ngang nhau, đều ở mức 3 người/xe. Còn tại Việt Nam thì có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn. Nhu cầu về xe máy tại các vùng nông thôn Việt Nam sẽ vẫn tăng mạnh trong thời gian tới do đời sống người dân ngày càng được nâng cao.
Theo ông Kenichi Ohno, Giáo sư Viện Nghiên cứu chính sách quốc gia Nhật Bản thị trường xe máy Việt Nam vẫn đang phát triển khá nhanh. Điều này đang đặt ra vấn đề quan trọng với các cơ quan quản lý trong hoạch định sự phát triển công nghiệp xe máy cũng như các quy hoạch về giao thông. Nếu không có chính sách tốt thì vấn đề tắc nghẽn giao thông và tai nạn giao thông sẽ ngày càng nan giải
Kỳ vọng của nhà đầu tư với ngành công nghiệp xe máy
Hiện các doanh nghiệp Nhật Bản và Đài Loan đang chuyển công nghệ sản xuất xe máy vào Việt Nam thông qua việc đầu tư mạnh vào sản xuất linh kiện tại đây. Việt Nam đang có cơ hội trở thành 1 trung tâm nghiên cứu, thiết kế, sản xuất xe máy công nghệ cao trong khu vực. Và khi đó khả năng xuất khẩu sẽ tăng mạnh. Bởi thị trường xe máy thế giới vẫn đang có nhu cầu cao và ổn định. Hiện nay mỗi năm cả thế giới tiêu thụ khoảng 43 triệu xe máy các loại. Trong đó riêng Trung quốc là 17 triệu xe, Ấn Độ 5 triệu xe , Indonesia 5 triệu xe, các nước Đông Nam Á khác là 6 triệu xe. Với thị trường này, Việt Nam có khả năng xuất khẩu linh kiện và xe máy đạt từ 0,8 -1tỷ USD vào năm 2020.
Ngày 9.10, tại tỉnh Vĩnh Phúc, UBND tỉnh sẽ chính thức trao giấy phép đầu tư thành lập Nhà máy Piaggio tại Việt Nam cho Tập đoàn Piaggio, Ý. Trong dự án này, Piaggio đầu tư với tổng số tiền 30 triệu USD nhằm sản xuất xe gắn máy Vespa model mới nhất.
Nhà máy Piaggio dự kiến sản xuất hơn 50.000 chiếc Vespa/năm khi đi vào hoạt động hết công suất. Những sản phẩm đầu tiên của Nhà máy Piaggio Việt Nam sẽ được đưa ra thị trường vào cuối năm 2009.
Yamaha đã đầu tư xây dựng nhiều nhà máy tại Việt Nam và năm 2007 Yamaha đã khánh thành nhà máy sản xuất lớn tại khu công nghiệp nội bài sóc sơn hà nội . bên cạnh đó công ty cạnh tranh là honda Việt Nam đã khánh thành nhiều đại lý phân phối lơn khắp đất nước. đã cho thấy tiềm năng rất lớn của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam và sự kỳ vọng và tin tưởng một tương lai tốt đẹp của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
Chương 3: Bài học để phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
Những hạn chế của ngành công nghiệp xe máy việt nam và những bài học để phát triển ngành công nghiệp xe máy
Hiện nay, bình quân mỗi năm thị trường Việt Nam tiêu thụ khoảng 2 triệu xe máy. Theo dự tính đến năm 2010, số lượng trên sẽ dao động trong khoảng 1,5-1,8 triệu xe/năm, bình quân hiện nay là 5 người/xe. Dự đoán, thị trường thành thị sẽ dần bị thu hẹp, chỉ chiếm 1/3 thị phần. Chính vì vậy thị phần xe giá rẻ ở nông thôn vẫn còn là cơ hội cho các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, vấn đề kiểu dáng công nghiệp và xây dựng thương hiệu vẫn còn là một bài toán khó đối với các doanh nghiệp sản xuất xe máy trong nước khi hội nhập.
Theo cơ quan quản lý, hiện nay hầu hết các sáng chế, giải pháp kỹ thuật liên quan các doanh nghiệp của ta đều phụ thuộc vào nước ngoài hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ đó dẫn đến tình trạng vi phạm kiểu dáng công nghiệp hoặc có những quy định không rõ ràng gây bất lợi và bức xúc cho các nhà sản xuất trong nước. Thực tế cho thấy, để thiết kế một kiểu dáng cho riêng mình phải đầu tư hàng triệu đô la điều này có vẻ như là quá sức với các doanh nghiệp trong nước. Làm được điều này thời gian qua chỉ có Tập đoàn xe máy T&T đầu tư bài bản, chuyển giao công nghệ tốt, các dòng xe có tầm cạnh tranh ngang ngửa với các xe thương hiệu, còn phần lớn các doanh nghiệp khác đều chắp vá. Tuy nhiên nếu xác định việc đầu tư sản xuất lâu dài và có chiến lược thì việc này không phải quá khó, đặc biệt là khi các chính sách và môi trường cạnh tranh đã ổn định và rõ ràng.
Theo ông Phạm Phi Anh, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu Trí tuệ, công nghệ và kiểu dáng của các doanh nghiệp FDI mặc dù được nghiên cứu ở bản địa, nhưng họ lại không lấy bằng sáng chế (patent) ở đó mà lấy ở Việt Nam, bởi vì họ biết ngành này đang phát triển ở Việt Nam. Nếu chúng ta cứ làm nhái sản phẩm của họ mà không đầu tư nghiên cứu thì đương nhiên sản phẩm đó bị coi là vi phạm. Nhưng nếu chúng ta chịu khó nghiên cứu xem những sáng chế, kiểu dáng của họ đang được bảo hộ tại Việt Nam có nhược điểm gì và người dân muốn cái gì rồi chúng ta cải tiến và đăng ký thì sản phẩm đó sẽ chiếm lĩnh được thị trường mà lại không vi phạm. Đây thực sự là một gợi ý rất đáng để các doanh nghiệp sản xuất xe máy trong nước tham khảo.
Kết luận
Chúng ta đều biết khi sản xuất bất kỳ một sản phẩm công nghiệp nào đều phải đi qua các bước: nghiên cứu công dụng, tính năng, thiết kế phác thảo, lựa chọn công nghệ sản xuất, sản xuất thử, thử nghiệm, thiết kế định hình, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Để tránh những vấn đề nổi cộm gần đây về vi phạm quyền SHTT và để thay đổi thực trạng yếu kém của ngành công nghiệp xe máy VN, Hiệp hội Xe máy VN cùng các cơ quan chủ quản phải tìm một hướng đi cho riêng mình. Ngành xe máy VN phải tạo dựng một thương hiệu cho mình, không vi phạm quyền SHTT của các cty sản xuất xe máy khác cả trong và ngoài nước.
Một mục tiêu nữa cần đặt ra cho ngành công nghiệp xe máy VN là cần tập trung nghiên cứu và sản xuất một loại xe máy thích hợp với VN và các nước trong khu vực để hướng tới xuất khẩu. Từ bài học của các hãng xe máy trên thế giới kinh doanh có hiệu quả cao, chúng ta cần rút ra để giải quyết những vấn đề cho riêng mình. Chúng ta cần xây dựng hệ thống sản xuất theo xu hướng tập đoàn: có nghiên cứu mẫu mã, có hệ thống nhà máy chuyên sản xuất cung ứng phụ tùng, nhà máy lắp ráp, phòng thử nghiệm, bãi thử và đặc biệt là dịch vụ hậu mãi sau bán hàng. Và một điều không thể thiếu là nghiên cứu giá cả hợp lý, phù hợp với túi tiền của từng đối tượng người tiêu dùng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tạp chí ô tô xe máy Việt Nam
Xe máy hút khách (09 /03/ 2007 ) -Hồng Anh -Việt Phong vnexpress
Tầm nhìn xe máy (23 /10 /2006 )-PGS Nguyễn Đức Phú-đh bách khoa hà nội
Cơ hội cho ngành công nghiệp xe máy sau khi ra nhập WTO (27 /11/ 2006 )- vinanet
Thành lập nhà máy Piagio tại Việt Nam (8 /10 /2007 )
Cạnh tranh khốc liẹt trên thị trường xe máy (20 /07/ 2007 )
Diễn đàn doanh nghiệp
Honda Việt Nam nối tiếp thành công (17/ 02/2007 ) – Linh Nguyên
Thông tin công nghiệp bộ công thương
Chiến lược phát triển công nghiệp xe máy đến 2020 tầm nhìn 2020 (14 /07 /2005 )
Báo Việtnamnet
Tiêu thụ xe máy đang tăng mạnh (07 /09/ 2007 ) - Trần Thủy
Doanh thu xe máy đạt 1,2-1,4 tỷ USD/năm (21 /03 / 2007 )-Trần Thủy
Bộ công nghiệp
Công nghiệp xe máy Việt Nam tiềm năng và triển vọng (05 /05 /2005 )
Báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam
Đến năm 2015 xuất khẩu xe máy và phụ tùng đạt 400 triệu USD (12/ 09/ 2007 )
Báo Laodong_com_vn
Tiềm năng phát triển xe máy trong nước còn lớn (30/ 03/ 2007) – theo TTXVN
Vnmedia
Thị trường xe máy vẫn đầy triển vọng (31/ 08/ 2007 ) – H.T
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0363.doc