Đề tài Tiềm năng và thực trạng phát triển văn hóa tại Hà Nội

Trong những năm qua, sự chuyển biến của ngành du lịch Hà Nội đã có nhiều tiến bộ đáng kể, xuất hiện nhiều doanh nghiệp du lịch kinh doanh năng động, có hiệu quả, đảm bảo được chất lượng và uy tín với khách. Tuy nhiên, đó chỉ là bước đầu khởi sắc trong quá trình đổi mới. Để có thể cạnh tranh và hòa nhập vào thị trường du lịch của khu vực và trên thế giới vẫn đòi hỏi ngành du lịch Hà Nội phải có sự cố gắng và tiến nhanh gấp bội về mọi mặt. Trong du lịch, văn hóa là một yếu tố đặc biệt quan trọng. Những động cơ thúc đẩy khách đến các điểm du lịch chính là sự mong muốn được tiếp cận giá trị văn hóa. Văn hóa là nội lực bên trong của sự phát triển. Vì thế yêu cầu thúc đẩy loại hình du lịch văn hóa ở Hà Nội đang trở nên gấp rút đối với các nhà quản lý.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiềm năng và thực trạng phát triển văn hóa tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Văn hóa là một sản phẩm do con người tạo nên, nó không do một cá nhân mà do cả một cộng đồng, một tập thể người. Tương ứng với mỗi thời kì phát triển của loài người là một nền văn hóa tập trung riêng. Đồng thời văn hóa tự đánh giá phần nào sự phát triển của văn minh nhân loại và ngày nay văn hóa còn là một yếu tố cấu thành, thúc đẩy động cơ đi du lịch. Mỗi một quốc gia và một dân tộc có những nét đặc trưng văn hóa riêng, do vậy để hiểu biết, giao lưu, tìm hiểu và thưởng thức buộc con người phải có hoạt động đi du lịch và thông qua du lịch cảm thấy gần gũi, thân thiết với nhau hơn. Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên thế giới lại không coi trọng sự phát triển của du lịch văn hóa bởi đây là một loại hình du lịch có nhiều ưu điểm, không phụ thuộc vào thời tiết, có thể phát triển quanh năm. Nguồn thu từ du lịch văn hóa là nguồn thu ổn định với mức tăng trưởng ngày càng lớn, nó giúp con người hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh. Điều đó rất phù hợp với thời đại ngày nay. Quan trọng hơn, việc khai thác tiềm năng văn hóa truyền thống trong kinh doanh du lịch cũng là một cách tốt nhất để bảo tồn và tôn tạo chúng Ở Việt Nam, bắt đầu từ nền văn hóa trải dài theo thời gian, thông qua năm tháng đã tích lũy được một kho tàng văn hóa lớn và nó ngày càng có sức thu hút sự quan tâm, chú ý của mọi người ở các quốc gia khác nhau. Hơn bất cứ một ngành nào du lịch ngày càng có mối quan hệ mật thiết với văn hóa. Văn hóa không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn được gọi là điểm tựa, là nền tảng cho sự phát triển bền vững. Văn hóa du lịch đang trở thành xu thế chủ đạo trong chiến lược trong chiến lược phát triển của ngành du lịch thế giới. Trong nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ : “Phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hóa sinh thái, môi trường xây dựng các chương trình và các điểm hấp dẫn du lịch về văn hóa, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Trong bối cảnh việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong khi thời đại đang có những chuyển biến phức tạp thì thiết nghĩ, việc phải tạo dựng nên một "bản sắc văn hóa Việt Nam mới" là vấn đề rất quan trọng. Đó là công việc phù hợp với logic của phát triển, phù hợp với sự vận động nội tại của văn hóa dân tộc, phù hợp với những biến đổi trong quan hệ dân tộc và quốc tế. Hà Nội là cái nôi văn hóa của cả nước, nơi tập trung nhiều giá trị văn hóa gồm cả vật chất lẫn tinh thần, có sức thu hút lôi cuốn ngày càng nhiều khách du lịch. Vì thế yêu cầu phải có sự phát triển một cách hiểu quả các tiềm năng, khuyến khích sự phát triển của du lịch văn hóa trong giai đoạn mới là hết sức quan trọng. Trong khuôn khổ đề án môn học này, em xin được trình bày hiểu biết của mình về du lịch văn hóa và kiến nghị một số giải pháp để phát triển loại hình này ở Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo bộ môn, đặc biệt là thầy Trần Đình Hòa – giáo viên trực tiếp hướng dẫn đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA VÀ DU LỊCH VĂN HÓA . Văn hóa – cội nguồn của sự phát triển loài người Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh...Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận...Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa. Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất. Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh. Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá thể là thành viên. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin. Cũng chính vì thế văn hóa biểu trưng cho sự phát triển của loài người qua các thế hệ. Một đất nước giàu truyền thống văn hóa là một đất nước giàu có về tinh thần. Nội hàm của văn hóa Văn hóa vật thể Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hoá nhân loại, thể hiện đời sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ vật có giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người. VHVT quan tâm nhiều đến chất lượng và đặc điểm của đối tượng thiên nhiên, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và chất liệu tự nhiên thông qua sáng tạo của con người biến thành những sản phẩm vật chất giúp cho cuộc sống của con người. Trong văn hóa vật thể, người ta sử dụng nhiều kiểu phương tiện: tài nguyên năng lượng, dụng cụ lao động, công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng sinh sống của con người, phương tiện giao thông, truyền thông, nhà cửa, công trình xây dựng phục vụ nhu cầu ăn ở, làm việc và giải trí, các phương tiện tiêu khiển, tiêu dùng, mối quan hệ kinh tế... Tóm lại, mọi loại giá trị vật chất đều là kết quả lao động của con người. Văn hóa vật thể là một nguồn tài nguyên lớn và quan trọng để phát triển du lịch văn hóa nói riêng và du lịch nói chung. Văn hóa phi vật thể Văn hóa phi vật thể là một bộ phận của văn hoá nói chung. Theo nghĩa rộng, đó là toàn bộ kinh nghiệm tinh thần của nhân loại, của các hoạt động trí tuệ cùng những kết quả của chúng, bảo đảm xây dựng con người với những nhân cách, tác động dựa trên ý chí và sáng tạo. VHPVT tồn tại dưới nhiều hình thái. Đó là những tục lệ, chuẩn mực, cách ứng xử... đã được hình thành trong những điều kiện xã hội mang tính lịch sử cụ thể, những giá trị và lí tưởng đạo đức, tôn giáo, thẩm mĩ, xã hội, chính trị, hệ tư tưởng, vv. Theo nghĩa hẹp, VHPVT được coi là một phần của nền văn hóa, gắn với cuộc sống tâm linh của con người, thể hiện những giá trị, lí tưởng, kiến thức. Đó là một dạng tồn tại hay thể hiện của văn hóa không phải chủ yếu dưới dạng vật thể có hình khối tồn tại khách quan trong không gian và thời gian, mà nó thường tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi, ứng xử của con người và thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội, trong hoạt động tư tưởng và văn hóa – nghệ thuật mà thể hiện ra, khiến người ta nhận biết được sự tồn tại của nó. Có thể kể ra đây những dạng thức chính của văn hóa phi vật thể : ngữ văn truyền miệng, thần thoại cổ tích, truyền thuyết ca dao, thành ngữ, tục ngữ, vè, ngụ ngôn… Các hình thức diễn xướng và trình diễn bao gồm các hình thức ca múa, nhạc, sân khấu… Những hành vi ứng xử của con người, đó là ứng xử giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân trong cộng đồng và giữa các cộng đồng với nhau. Các hình thức nghi lễ, tín ngưỡng tôn giáo, phong tục, lễ hội như Phật giáo, Ki- tô giáo, Đạo giáo, thờ cúng tổ tiên, đạo Mẫu… Tri thức dân gian cũng là một lĩnh vực của văn hóa phi vật thể Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển Kinh tế xã hội nói chung và du lịch nói riêng Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế xã hội Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội, là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế hệ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa không ra đời một cách ngẫu nhiên mà hình thành, khẳng định và phát triển như sản phẩm của hoàn cảnh kinh tế, địa lý, của quá trình dựng nước và giữ nước, của quá trình sáng tạo những giá trị văn hóa "nội sinh" kết hợp với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa "ngoại sinh". Bản sắc văn hóa vừa gắn với các giá trị cơ bản, cốt lõi của một dân tộc, vừa biểu thị trong sinh hoạt hằng ngày. Để có những giá trị thiêng liêng tạo nên bản sắc văn hóa, dân tộc phải đổ mồ hôi và đổ cả máu mới có được. Xây dựng, bảo vệ bản sắc văn hóa là yêu cầu khách quan của mọi dân tộc khi gia nhập vào cộng đồng văn hóa nhân loại. Song sự nghiệp đó phải được kết hợp với tính tích cực năng động của nhân tố chủ quan để bảo đảm cho bản sắc văn hóa luôn là bộ phận hữu cơ của sự phát triển. Khi một dân tộc quay lưng với truyền thống văn hóa, đánh mất bản sắc văn hóa thì tâm lý sùng ngoại sẽ hoành hành và khả năng bị nô dịch về kinh tế, chính trị là khó tránh khỏi. Đánh mất bản sắc văn hóa là cắt đứt sợi dây thiêng liêng liên kết với quá khứ, để lại hậu quả không thể lường hết. Trước những thách thức của thời đại, bản sắc văn hóa dân tộc là động lực khơi dậy nguồn sinh lực từ lòng tự tôn dân tộc và chính bản sắc văn hóa sẽ tạo ra tính bản thể của sự phát triển dân tộc. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của du lịch Tiềm năng văn hóa là giá trị của toàn bộ những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn. Đó là những cảnh quan tự nhiên ấp ủ một truyền thuyết, một nỗi niềm, một bản lĩnh, một tư duy; là những di tích lịch sử, những lễ hội, những làng nghề thủ công cổ truyền, những trò vui dân gian… những cách thức ăn mặc, nói năng; những phong tục tập quán, tóm lại tất cả là những gì đã tạo nên một bản sắc văn hóa riêng của một địa phương, một khu vực. Thông qua các giá trị vật thể như di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, các công trình kiến trúc… và các giá trị phi vật thể như: nghệ thuật truyền thống, phong tục tập quán, tâm hồn cốt cách của con người, văn hóa có sức thu hút con người tìm đến với nhau để khám phá, chiêm nghiệm. Sức thu hút đó chính là cơ sở của ngành Du lịch, vì du lịch xét đến cùng là một hoạt động của con người nhằm thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần đặc sắc, độc đáo ở một nơi khác bên ngoài nơi cư trú. Do đó, phát triển du lịch phần lớn là khai thác tiềm năng văn hóa để đem lại hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là phát huy khả năng, phát triển kinh tế trên cơ sở khai thác tiềm năng văn hóa Trên thế giới ngày nay đang phát triển nhiều loại hình du lịch như du lịch hoài cổ, du lịch khám phá, du lịch sinh thái, … Nhưng du lịch theo kiểu nào, nước nghèo hay nước công nghiệp phát triển, du lịch luôn bao giờ cũng gắn liền với văn hóa, với bản sắc của mỗi quốc gia. Văn hóa luôn tiềm ẩn, hóa thân trong hoạt động du lịch và hoạt động du lịch trước tiên là hoạt động nhằm đi tìm các giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại nhằm thưởng thức, khám phá, hưởng thụ và sáng tạo. Ta có thể khẳng định rằng du lịch không thể tự mình phát triển được nếu không dựa trên một nền tảng văn hóa và ngược lại nhờ có du lịch mà các dân tộc hiểu biết được những thành tựu rực rỡ của nền văn hóa nhân loại, tạo điều kiện cần thiết cho sự xích lại của các nền văn hóa khác nhau.Hoạt động du lịch càng hiện đại hóa thì càng phải làm giàu thêm bản sắc và truyền thống dân tộc. Du lịch văn hóa Khái quát về du lịch văn hóa Có lẽ hiếm có một quốc gia nào trên thế giới muốn phát triển ngành du lịch của mình lại không coi trọng du lịch văn hóa. Nhưng không phải quốc gia nào cũng có điều kiện để phát triển loại hình du lịch này. Du lịch văn hóa chỉ thực sự phát triển ở những nơi có nền văn minh cổ đại nổi tiếng, có nghệ thuật dân tộc đặc sắc, có những cảnh đẹp làm say đắm lòng người. Có thể hiểu du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Du lịch văn hóa với mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân thông qua các chuyến đi đến vùng đất mới hay tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương, đất nước đến du lịch hoặc là kết hợp với những mục đích khác nữa. Du lịch là nhằm mục đích chuyển hóa các giá trị văn hóa cả về vật chất lẫn tinh thần. Du lịch văn hóa vừa là phương tiện vừa là mục đích của kinh doanh du lịch. Nhận biết được vấn đề đó các nhà kinh doanh du lịch, các nhà quản lý kinh tế không những phải kiểm tra ngăn chặn những mặt phi văn hóa bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng hơn là phải tạo ra sức hấp dẫn từ bản sắc, thuần phong mỹ tục của dân tộc, bảo tồn và nâng cấp các di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc. Các loại hình du lịch văn hóa Tùy theo các tiêu thức khác nhau người ta có thể chia du lịch văn hóa ra thành nhiều loại: Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hóa : Mục đích chuyến đi là khảo cứu, nghiên cứu, tìm hiểu bản sắc văn hóa vùng miền. Đối tượng chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên. Du lịch tham quan văn hóa : Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất. Du khách thường kết hợp giữa tham quan và nghiên cứu tìm hiểu văn hóa trong một chuyến đi. Đối tượng khách rất phong phú. Bên cạnh những khách kết hợp tham quan với nghiên cứu còn có khách chỉ đi chiêm ngưỡng, biết để thỏa mãn sự tò mò hay đi theo trào lưu. Do vậy trong một chuyến du lịch khách thường đi đến nhiều điểm, vừa có điểm du lịch văn hóa vừa có điểm du lịch núi, biển, du lịch dã ngoại, săn bắn,… Họ là những người ưa thích phiêu lưu mạo hiểm, thích sự mới lạ và chủ yếu là những người trẻ tuổi. Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hóa và các mục đích khác : Mục đích chính của khách trong chuyến đi là công tác nghề nghiệp, tham dự hội nghị, hội thảo, triển lãm… và có kết hợp với tham quan văn hóa. Đooid tượng khách này đòi hỏi trình độ phục vụ có chất lượng cao với một quy trình đồng bộ. Khả năng thanh toán cao nhưng họ rất ít có thời gian dành cho du lịch. Tuy nhiên cách phân loại du lịch văn hóa trên chỉ mang tính chất tương đối. Đây là loại hình du lịch tiềm năng, ít chịu sự chi phối của yếu tố thời vụ du lịch ( thời tiết, khí hậu ) nhưng nó phụ thuộc vào các đặc điểm nhân khẩu học như : giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tôn giáo, … của du khách. Điều kiện để phát triển du lịch văn hóa Để du lịch văn hóa phát triển thì nhất thiết phải có tài nguyên văn hóa, đây là yếu tố quyết định. Tài nguyên văn hóa với những đặc điểm kì diệu, thú vị, đa dạng độc đáo sẽ ngày càng thu hút khách du lịch đến tham quan nhằm thỏa mãn trí tò mò cũng như phần nào đáp ứng được lòng mong muốn hiểu biết sâu rộng về cái hay cái đẹp của mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi đất nước. Tài nguyên văn hóa bao gồm những tài nguyên có giá trị về vật chất qua các di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam, thắng cảnh, các công trình kiến trúc… Ngoài ra nó còn thu hút khách du lịch bởi các giá trị văn hóa phi vật chất, đó là các loại hình nghệ thuật, phong tuc tập quán, những nét đặc sắc dân gian và chất liệu cho các lễ hội. Khác với nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên văn hóa không hề cạn kiệt nếu chúng ta biết duy trì tôn tạo, bảo vệ và phát triển đừng để cho chúng bị suy thoái. Việc khai thác hợp lý nguồn tài nguyên văn hóa cho phát triển du lịch đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết cho các nhà quản lý hiện nay. Ngoài tài nguyên về văn hóa không thể không nhắc đến nền kinh tế và và các chính sách phát triển của bộ máy nhà nước. Một đất nước có nền kinh tế phát triển cao sẽ là điều kiện để phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng. Người dân với mức sống cao cũng sẽ có nhu cầu đi du lịch cao, đặc biệt là mong muốn hiểu biết nhiều hơn về văn hóa các vùng miền. Bên cạnh đó các chính sách khuyến khích du lịch văn hóa của nhà nước cũng rất quan trọng để phát triển du lịch văn hóa một cách hợp lý và có hiệu quả. CHƯƠNG 2 : TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TẠI HÀ NỘI 2.1 Tài nguyên du lịch văn hóa 2.1.1 Tài nguyên văn hóa vật thể Việt Nam là đất nước có truyền tống văn hiến. Cuộc đấu tranh trường kì của dân tộc trong lịch sử giữ nước là truyền thống, là điểm tựa vững chắc cho du lịch văn hóa. Đất nước với những chiến công hiển hách từ chống giặc phương Bắc ( Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh…), những kì tích hào hùng qua cuộc kháng chiến chống Pháp ( 80 năm ), chống Mỹ ( 21 năm ). Do những chiến công mà mỗi mảnh đất, mỗi con sông, ngọn núi đều trở thành huyền thoại. Đặc biệt là Hà Nội ngàn xưa, chiếc nôi hồng lịch sử, trái tim thiêng liêng của đất nước, của mảnh đất Thăng Long. Hà Nội – đặc điểm về vị trí địa lý, địa thế Hà Nội nằm ở trung tâm Bắc Bộ, giữa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nổi tiếng là trù phú với diện tích 920,5 km². Trong đó nội thành có diện tích 40 km², ngoại thành là 880,5 km². Với vị trí địa lý và địa thế tự nhiên của mình, Hà Nội sớm có một vai trò đặc biệt trong sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam. Từ nghìn năm nay Hà Nội đã được ông cha ta chọn là thủ đô. “ … Thành Đại La nằm ở trung tâm của trời đất, có các hình thể như hổ phục rồng chầu đúng các vị trí bốn phương Đông Tây Nam Bắc, trước mặt và sau lưng đều có sự thuận tiện của sông núi. Đất rộng mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa, dân cư không phải cái nạn tối tăm, ẩm thấp, muôn vật cực kỳ giàu thịnh, đông vui. Xem khắp đất Việt, đó là chỗ danh thắng, thật là đô hội trọng yếu để bốn phương xum họp và là đô thành bậc nhất đáng đặt làm kinh sư cho muôn đời…” ( Chiếu dời đô – Lý Công Uẩn ) Từ đó đến nay Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước. Đây cũng chính là tiềm năng cho Hà Nội trở thành trung tâm du lịch hàng đầu của nước ta. Hà Nội – vị trí đầu mối giao thông quan trọng Với vị trí trung tâm kinh tế chính trị của cả nước và với vị trí thuận lợi Hà Nội đã trở thành trung tâm đầu mối các hệ thống mạng lưới giao thông : đường bộ, đường sắt, đường không từ Hà Nội tỏa đi các vùng miền của cả nước, còn nối tiếp nước ta với các nước láng giềng và thế giới. Trong vòng bán kính xấp xỉ 60 – 80 km, khách du lịch có thể đến Đền Hùng, Tam Đảo, Hồ Đại Nải, Ba Vì, các làng quan họ Bắc Ninh, Côn Sơn Kiếp Bạc ( Hải Dương ), Hoa Lư – Cúc Phương – Nhà thờ đá Ninh Bình… Trong vòng bán kính xấp xỉ 100km khách có thể đến thăm quan cảng Hải Phòng, hải đảo Cát Bà, Vịnh Hạ Long… Tính đến năm 2000 thủ đô Hà Nội đã có 201 di tích. Mật độ di tích thuộc loại cao nhất cả nước ( 0,24 di tích/ 1km² ). Nhiều quận huyện có từ 20 – 50 di tích lịch sử , văn hóa, các danh thắng đã được xếp hạng. Một số di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng tiêu biểu ở thủ đô Hà Nội: ® Chùa Một Côt : Một trong những công trình tiêu biểu cho vẻ đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Được dựng năm 1049 chùa có tên là Diên Hựu, nghĩa là phúc ấm dài lâu. Sự độc đáo của kiến trúc chùa là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá cao 20m. Ở đây, có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng bông sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ. Khối kiến trúc được phụ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh tịch. ® Chùa Kim Liên : Chùa Kim Liên ( bông sen Vàng ) nằm trên một doi đất bằng phẳng trong lòng Nghi Tàm, xã Quảng An, huyện Từ Liêm – Hà Nội. Bao quanh đất chùa là gương nước Hồ Tây trong xanh. Có lẽ do bắt nguồn từ một cung điện nên phong cách kiến trúc tam quan chùa Kim Liên đượm dáng vẻ cung đình. Đây là một loại hình kiến trúc gỗ đặc sắc và quý hiếm trong kiến trúc chùa chiền ở nước ta. Trong chùa có rất nhiều tượng đẹp, nổi tiếng nhất là pho Quan Âm Thiên Phủ ngang hàng với những pho có giá trị nghệ thuật cao ở nước ta… Chùa Kim Liên được coi là ngôi chùa đẹp nhất Hà Nội. ® Chùa Trấn Quốc : Có thể coi đây là ngôi chùa vào loại cổ nhất nước ta, tương truyền là có từ thời Lý Nam Đế ( 544 – 548 ). Chùa còn giữ được lối kiến trúc độc đáo khác với nhiều chùa, phía trước là nhà Bắc Đường, rồi đến nhà Tam Bảo, phía sau mới là hai dãy hành lang thập điện và gác chuông. Trong chùa có một số tượng đẹp, đáng chú ý là pho tượng Thích Ca nhập niết bàn bằng gỗ thếp vàng. ® Văn Miếu – Quốc Tử Giám : Văn Miếu được xây dựng vào năm 1070 để làm nơi biểu dương cho Nho giáo. Sáu năm sau (1076) xây nhà Quốc Tử Giams ở kề sát Văn Miếu, ban đầu là nơi học của các hoàng tử sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong cả nước. Ngày nay ở đây được dùng làm nơi trưng bày chuyên đề về cổ sử của thủ đô. Du khách tới đây không chỉ tiếp xúc với một di tích văn hóa giáo dục có đủ 900 tuổi mà còn được giới thiệu thêm về lịch sử hình thành của Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội. ® Di tích thành cổ Hà Nội : Thăng Long là kinh đô từ năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã xây thành trải qua các đời Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Tây Sơn đều sử dụng thành này. Năm 1803, vua Gia Long nhà Nguyễn cho lệnh phá thành này để xây mới. Thành cổ đã bị thực dân Pháp phá hủy từ năm 1894 đến năm 1897. Ngày nay chỉ còn lại một di tích đáng kể là thềm điện Kính Thiên. ® Cột Cờ Hà Nội : Đây là một trong những công trình kiến trúc ít ỏi thuộc khu vực thành cổ Hà Nội may mắn thoát khỏi sự phá hủy do thực dân Pháp tiến hành trong 3 năm 1894 – 1897. Đỉnh cột cờ được cấu tạo thành một cái lầu bát giác cao 3m có 8 cửa sổ tương ứng với 8 cạnh. Giữa lầu là một trụ tròn đường kính 40m cao đến đỉnh lầu là chỗ để cắm cán cờ cao 8m. Như vậy toàn bộ cột cờ bao gồm 3 tầng, đế cao gần 20cm và thân cao khoảng 40cm, là một điểm cao đáng kể ở nội thành thủ đô Hà Nội. ® Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn : Đây là một danh thắng nổi tiếng của Hà Nội. Hồ Gươm ở giữa Hà Nội, nơi đã từng gắn với bao sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc từ ngàn xưa để lại. Hồ Gươm là niềm tự hào không những của người Hà Nội mà của cả đồng bào ta. Ngày nay cùng với sự đi lên của đất nước, Hồ Gươm dù được nhà nước chú ý đến nhiều. Tháp Rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc đã được sửa sang tu bổ, song không bao giờ Hồ Gươm mất đi nét cổ kính, tâm linh trong lòng người Hà Nội. Ngoài ra khi đến thăm Hà Nội, du khách có thể đến thăm các viện bảo tàng để tìm hiểu chiều dài lịch sử, chiều sâu văn hóa của dân tộc Việt Nam như : Bảo tàng lịch sử, bảo tàng dân tộc học, bảo tàng Hồ Chí Minh,… Kiến trúc của Hà Nội cũng đặc sặc và rất đa dạng. Ở Việt Nam ngoài Hội An chỉ có Hà Nội là còn giữ được một khu phố cổ. Cái hấp dẫn của khu phố ở Hà Nội chính là tổng thể do con người sắp đặt thành một cơ thể đầy sống động, khăng khít, gắn bó, kề tựa vai nhau mà sinh sôi… Ngoài những dãy nhà san sát nhau với cấu trúc đặc trưng còn có khá nhiều đình chùa, đền miếu nằm rải rác trên các khu phố. Sự tồn tại của chúng là bằng chứng tâm linh của người Hà Nội cũ. Bên cạnh sự hòa đồng với tự nhiên và cộng đồng xã hội, người Thăng Long Hà Nội còn luôn luôn tìm cách hòa đồng với một thế giới tâm linh vì cùng với một không gian đô thị vật chất còn tồn tại một không gian đô thị huyền thoại và thiêng liêng, ở đó có thể giao hòa cùng quá khứ và tìm được ở đó một nguồn sinh lực tiềm ẩn. Ngày nay, mặc dù qua các biến động lịch sử, qua sự thích ứng với đời sống xã hội, khu phố cổ có biến động ít nhiều song bóng dáng của thời xưa vẫn còn lưu lại ở một vài nơi và đặc biệt ở cái không gian văn hóa vẫn đậm đà bản sắc cổ truyền. Cho nên khu phố cổ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, thanh tú, những con đường hẹp lòng nhưng ấm áp người qua lại, cả những không gian cây xanh mướt và ngọt ngào hương hoa nữa… tất cả làm nên một vẻ đẹp đô thị cổ mà chỉ thành phố Hà Nội mới có. Bên cạnh khu phố cổ là những khu phố kiến trúc theo kiểu Pháp thanh nhã, nhẹ nhàng làm giàu di sản kiến trúc Hà Nội và được rất nhiều du khách nước ngoài yêu thích. Hà Nội là thủ đô duy nhất trên thế giới có được một điều kì diệu đó là các làng Ngọc Hà, Nghi Tàm, Phương Liên, thanh nhàn,… với dáng dấp của các làng nông thôn vẫn còn giữ được nhịp thể giữa lòng thành phố. Nói theo cách nói Á Đông thì cấu trúc Hà Nội có cả âm – dương. Đó là làng và đô thị. Thêm vào đó nhiều làng quanh Hà Nội vẫn còn giữ được nghề truyền thống từ xa xưa như làng Gốm Bát Tràng, làng đúc đồng Ngũ Xá, làng hoa Ngọc Hà… Nếu những làng nghề này tiếp tục được giữ gìn và phát triển thì sẽ trở thành tuyến điểm du lịch văn hóa hấp dẫn cho du khách. 2.1.2 Tài nguyên văn hóa phi vật thể Hà Nội luôn tự hào là thành phố có bề dầy truyền thống văn hóa lịch sử, mảnh đất ngàn năm văn hiến, là điểm đến hấp dẫn của khách du lịch trong nước và quốc tế. Cùng với những thắng cảnh, di tích lịch sử, các loại hình văn hóa phi vật thể đang tạo bản sắc rất riêng cho thành phố du lịch này, nhất là khi nhiều loại hình văn hóa đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới, Hà Nội càng trở thành địa chỉ được quan tâm đối với khách du lịch. Lễ hội truyền thống Các hoạt động văn hóa văn nghệ có ý nghĩa rất to lớn đối với du lịch. Ở Hà Nội nổi bật là các hoạt động lễ hội. Trong những lễ hội này du khách sẽ được tiếp xúc, khám phá nền văn hóa dân tộc đậm đà bản sắc. Các lễ hội được biểu hiện thành lịch dưới đây. Dựa vào đó những người làm công tác du lịch có thể quảng cáo, mời chào khách và lập kế hoạch đòn tiếp du khách cho sát thực. Lễ hội ở Hà Nội ( cũ) tính theo âm lịch : Ngày tháng Tên lễ hội – Đặc điểm Nội dung – Nghi thức Tháng Giêng 1/1 Tết Nguyên Đán Tết đầu năm, lễ hội lớn nhất của người Việt. Đây là thời gian đoàn tụ gia đình, bàn về dòng họ, tưởng nhớ tổ tiên 1-3/1 Khai bút, đi thăm đi mừng Mùng 1 Tết ở nhà cha, mồng 2 ở nhà mẹ, mồng 3 ở nhà thầy. 4-6/1 Hội vật Mai Động-Xã Mai Động-Hai Bà Trưng Thờ bà Lê Chân và ông Tam Trinh, ông tổ nghề Vật,mở lò dạy vật ở làng. Lễ diễn lại cuộc thi vật để tuyển quân của bà Lê Chân, chọi gà, cờ tướng 4-7/1 Hội Sài Đồng huyện Gia Lâm Cầu mùa, chơi trò giả trang 5/1 Hội trận Đống Đa, quận Đống Đa Kỉ niệm chiến thắng 20 vạn quân Thanh của vua Quang Trung (1789) ở gò Đống Đa-Chùa Bộc : nơi thờ Quang Trung 6/1 Hội Gióng Sóc Sơn, huyện Đông Anh Thờ Thánh Gióng, thổ thần, sơn thần. Mồng 6 dâng hương, mồng 7 chính hội : lễ rước dâng hoa cướp lộc. Mồng 8 chọi gà, cờ tướng, đánh đàn, hát ca trù. 10-12/1 Hội làng Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì Thờ Phùng Hưng- thế kỷ 18, kỷ niệm lên ngôi, tế thần, chạy cờ duyệt quân đấu vật, đánh đu, múa lân, rồng. Tháng hai 5/2 Hội làng Nhân, quận Hai Bà Trưng 3/2 mở cửa đền, 5/2 lễ tắm tượng thờ, múa đèn cờ hoa, hát chèo. Tháng ba 3/3 Hội tết bánh trôi 7-8/3 Hội chùa Láng, xã Yên Lăng, huyện Từ Liêm Thờ Từ Đạo Hạnh 15-17/3 Hội đền Ninh Xá- Ninh Sở, huyện Thanh Trì Thờ 2 công chúa con vua Lý Nhân Tông 23/3 Hội làng Lệ Mật, xã Việt Hưng, Gia Lâm Thờ chàng trai họ Hoàng có công cứu công chúa bị Giao Long nhốt. Diễn lại sự tích đánh nhau với Giao Long Tháng Tư 8/4 Lễ phật Đản 9/4 Hội Gióng Phù Đổng- Đông Anh Thờ Thánh Gióng, lễ rước cỗ chay, rước ngựa. Hội trận lớn Gióng đánh giặc Ân, múa cờ, múa rối nước. Tháng Năm 5/5 Tết Đoan Ngọ Ăn hoa quả, giết sâu bọ 13/5 Hội Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì Thờ nàng Tía, diễn đánh trận giả. 15/5 Hội đền Chèm Thờ Lý Ông Trọng, rước và tắm giữa sông Hồng. Tháng Tám 15/8 Hội rằm Trung Thu Trẻ em được rước đèn hình trăng sao, ăn bánh nướng bánh dẻo Tháng Chạp 23/12 Tết Táo Quân Cúng cá chép để ông Táo lên chầu trời 24-30/12 Chợ hoa tết Hàng Lược Bán các loại hoa cắm ngày Tết 30/12 Chuẩn bị giao thừa Cúng gia tiên. Đêm : làm lễ Trừ tịch, cúng Giao thừa, đi hái lộc ở các đình chùa. Những lễ hội muôn màu muôn vẻ, mang ý nghĩa tâm linh, truyền thống cao đã góp phần làm cho Hà Nội thêm đậm đà bản sắc, hấp dẫn du khách thập phương muốn tìm hiểu văn hóa nơi đây. Không chỉ có lễ hội, Hà Nội còn có những ưu thế về âm nhạc và nhiều loại hình nghệ thuật đặc sắc với một kho tàng các loại nhạc cụ dân tộc phong phú, mang đậm chất Việt Nam với tính cách dân tộc rõ nét. Nói đến Hà Nội đầu tiên phải nhắc đến chèo, hát chầu văn và đặc biệt là múa rối nước – những loại hình nghệ thuật có từ lâu đời và chỉ Việt Nam mới có. Các kịch bản gắn liền với quá trình phát triển của dân tộc, cuộc sống, sản xuất đời thường giúp cho du khách hiểu thêm về đất nước và con người Việt, đặc biệt là người Hà Nội. Nét đẹp người Tràng An Hà Nội là thủ đô lâu đời, mảnh đất ngàn năm văn vật, sự hội tụ văn hóa qua cuộc sống lại được chắt lọc, phát huy và nâng cao sáng tạo ra nét văn hóa riêng của người Tràng An. Đó là một nếp sống thanh lịch, thân thiện, cởi mở luôn là niềm tự hào của người Hà Nội. “ Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An” Màu sắc ẩm thực đậm chất Hà Nội Hương vị những món ăn ở vùng đất Á Đông này đã được biết đến ở rất nhiều các quốc gia. Những quán ăn ở Hà Nội luôn sẵn sàng phục vụ du khách với nhiều món ăn cổ truyền, mang nét riêng của nơi này như : gạo Tám, phở bò, rau húng Láng, cá rô Đầm Sét, chả cá Lã Vọng, bánh tôm, cá chép Hồ Tây,… Việc nấu ăn của người Hà Nội đã trở thành nghệ thuật tiêu biểu cho cả nước, tạo ra các món ăn nổi tiếng, đi vào lòng người. Năm cửa ô Hà Nội đã và đang tiếp tục mở rộng. Những con đường lớn mở ra nhiều ngả đang sẵn sàng đón tiếp bạn bè quốc tế đến thăm một vùng đất giàu truyền thống anh hùng. 2.2 Thực trạng phát triển du lịch văn hóa ở Hà Nội 2.2.1 Công tác tổ chức, quản lý Những thuận lợi Trong tình hình hiện nay khi mà ngành du lịch đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước thì việc nhà nước quan tâm tới phát triển du lịch văn hóa ngày càng nhiều hơn. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quản lý, đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử, di sản văn hóa, đặc biệt là việc phong sắc hiệu và xếp hạng các di tích lịch sử, di sản văn hóa có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển du lịch văn hóa. Ngoài ra nhà nước còn cho thành lập các công ty du lịch, công ty lữ hành với mạng lưới và các chi nhánh văn phòng ngày càng rộng lớn hơn trên cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng. Những khó khăn Trong thời gian qua, việc định hướng phát triển tràn lan, quản lý lỏng lẻo dẫn đến sự lộn xộn trong công tác du lịch làm thiệt hại cho nhà nước và các đơn vị kinh doanh du lịch văn hóa chính thống. Ở Hà Nội các công trình do con người tạo nên để phục vụ hoạt động du lịch thì quá ít, công viên nước Hồ Tây thì chỉ hoạt động những ngày hè, phố ẩm thực thì thoi thóp, các công viên thưa thớt bóng người. Nhiều dự án có hàng chục năm nay vẫn mờ mờ ảo ảo: tuyến du lịch sông Hồng, khu Cầu Đôi, khu Sóc Sơn, khu Cổ Loa chưa vào đâu cả. Bên cạnh đó hiện tượng trốn thuế kinh doanh hoặc quá trình giành giật khách bằng mọi giá từ khâu dịch vụ đến xét cấp thị thực nhập cảnh, khâu vận chuyển ăn nghỉ… gây ra khó khăn cho khách. Nhà nước ta cũng chưa có sự đầu tư thích đáng cho việc bảo tồn và tôn tạo các di tích. Nhiều di tích, danh lam thắng cảnh đáng giá bị xuống cấp trầm trọng. Chùa Một Cột – trong sử sách ghi rất to đẹp với cột bằng đá khảm nhiều màu sắc, đường kính rộng hơn hiện nay, cao từ 5-7m. Chùa bây giờ chỉ còn cột xi măng cao 2m, thấp nhỏ giữa hồ phất phơ một vài bông sen chứ không nằm trên tòa sen như được miêu tả. Gần đây do chạy theo kinh tế thị trường nhiều tư nhân cho đến cấp quản lý đã vô tình phá đi sự tôn nghiêm, sự cân bằng tổng thể trong sắc thái văn hóa của Hà Nội. Các khu phố cổ với những mẹt hàng bày bán lung tung làm mất đi cảnh quan của một khu phố từ lâu đã đi vào tiềm thức của bao thế hệ người dân… Nhận thức, nét văn minh, trách nhiệm với cộng đồng của con người Hà Nội cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của du lịch văn hóa. Hình ảnh những chú bé đánh giày, những người phụ nữ bán tập gấp chạy theo níu kéo các vị khách ngoại quốc cho đến những người ăn xin, ăn mày có mặt ở mọi nơi sẽ làm băng hoại đi truyền thống văn minh lịch sự từ lâu đời. Để thay đổi được tình trạng trên đòi hỏi công tác tổ chức quản lý của các cấp các ngành phải hợp lý và triệt để. 2.2.2 Kết qủa sản xuất kinh doanh du lịch văn hóa Trong mấy năm qua, tuy đã trải qua nhiều khó khăn song hoạt động kinh doanh của ngành du lịch văn hóa cũng đạt được một số kết quả đáng kể. Trong những năm qua, tạp chí du lịch có uy tín của Mỹ Travel & Leisure liên tiếp bình chọn Hà Nội là một trong những thành phố du lịch tốt nhất châu Á, và năm 2009, Hà Nội được bình chọn đứng thứ 3. Sở dĩ Hà Nội đạt được vị trí bình chọn cao do có nguồn tài nguyên tự nhiên và nhân văn phong phú, hấp dẫn; trong đó văn hóa phi vật thể đóng góp một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, văn hóa phi vật thể là nguồn tài nguyên du lịch rất đặc sắc. Văn hóa phi vật thể của Hà Nội được các nhà nghiên cứu văn hóa, các nhà du lịch đánh giá cao với nhiều loại hình  đậm đà bản sắc như ca trù, rối nước, các điệu múa cổ... thậm chí cả phong tục tập quán sinh hoạt của người Hà Nội gốc. Hầu như không một khách quốc tế nào đến Hà Nội lại không quan tâm đến rối nước, một loại hình văn hóa dân gian đặc biệt. Chính vì vậy, mỗi buổi chiều hoặc tối các ngày trong tuần, trước cửa Nhà hát múa rối nước Thăng Long luôn nhộn nhịp khách nước ngoài chờ đợi, ra vào xem rối nước. Không chỉ có vậy, 82 bia đá tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám trước khi được công nhận là di sản tư liệu thế giới cũng đã thu hút đông đảo khách trong nước và quốc tế đến tham quan, tìm hiểu. Các cô cậu học trò ngưỡng mộ bia đá tiến sĩ, là biểu tượng của sự đỗ đạt cao trong học hành. Các loại hình văn nghệ dân gian như xẩm, ca trù, rối nước, rối cạn, chèo Tàu, quan họ, múa rồng, các điệu múa cổ ... thu hút không ít khách nước ngoài tìm đến tìm hiểu khi khám phá về văn hóa Hà Nội. Ngoài các loại hình văn hóa phi vật thể thông thường, tập quán sinh hoạt, phong cách sống của người Hà Nội đang trở thành tâm điểm thu hút sự quan tâm của du khách, nhất là khách nước ngoài. Người Hà Nội lại vốn nổi tiếng hào hoa, thanh lịch do được thừa hưởng nền văn hóa từ nghìn năm nay và bản sắc ấy vẫn hiện hữu trong nếp sống, từng lời ăn, tiếng nói của họ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều du khách nước ngoài khi đến Hà Nội lại rất thích thăm thú phổ cổ, bởi ở đó họ vừa khám phá nét cổ kính của kiến trúc nhà ở, di tích lịch sử và còn được xem tập quán sinh hoạt của người dân.. Kinh doanh du lịch ở Hà Nội đang có sự chuyển biến về chất từng bước trưởng thành, vươn lên vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế ở Hà Nội và tạo khả năng đóng góp lớn cho nguồn thu của ngân sách, tạo khả năng cân đối ngoại tệ của thành phố, góp phần tạo công ăn việc làm, thúc đẩy các ngành khác cùng tphát triển. Tuy nhiên doanh thu bình quân một lượt khách chưa cao cho chất lượng dịch vụ chưa thật tốt, chưa đạt được những sản phẩm độc đáo, tương xứng với tài nguyên du lịch văn hóa ở Hà Nội. Cơ sở vật chất kĩ thuật còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh doanh du lịch quốc tế. Mặt khác qua thực tế kinh doanh của các công ty du lịch cho thấy số khách quốc tế vào Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng lần thứ hai chưa nhiều. Năm 2000 khách du lịch quốc tế đến Việt Nam xấp xỉ 4.000.000 lượt người, trong đó tại địa bàn Hà Nội là xấp xỉ 1.300.000 lượt.Trong hệ thống các chương trình du lịch của các công ty trên địa bàn Hà Nội hiện nay, các chương trình du lịch văn hóa chiếm tới trên 85%, tour du lịch cũng được chú ý xây dựng một cách phong phú với nhiều điểm văn hóa, kết hợp tham quan cả văn hóa vật thể và phi vật thể trong cùng một tour. 2.2.3 Một số tour du lịch văn hóa của các công ty du lịch ở Hà Nội Có thể kể đến một số tour du lịch văn hóa điển hình : Tour Hà Nội - Bát Tràng - Cổ Loa Thời gian: 1 ngày Phương tiện: Xe ô tô Sáng: 8h00: Xe và hướng dẫn viên đón du khách tại điểm hẹn khởi hành chuyến tham quan làng gốm sứ Bát Tràng, nơi đây có rất nhiều những nghệ nhân tài giỏi đã tự tay làm ra muôn vàn chủng loại vật dụng và đồ trang trí bằng gốm sứ, quý khách tự do mua sắm. Sau đó thăm Cổ Loa - một thành cổ tại Việt Nam. Ăn trưa tại nhà hàng. Chiều: Du khách lên xe trở về Hà Nội. Kết thúc chương trình. Làng quê truyền thống Thời gian: 1 ngày 1 đêm CHƯƠNG TRÌNH 1: Thăm làng gốm Bát Tràng ( nghề làm gốm có từ thế kỷ 15 và hiện nay đã được xuất khẩu khắp thế giới). Thành Cổ Loa và đền thờ An Dương Vương, nơi được coi là thủ đô đầu tiên của Việt Nam được xây dựng từ thế kỷ 3 trước công nguyên là một công trình phòng ngự chống giặc ngoại xâm nổi tiếng của dân tộc ta. CHƯƠNG TRÌNH 2: Thăm làng Lụa Vạn Phúc – du khách sẽ thấy mỗi nhà là một xưởng dệt lụa, những tấm lụa tơ tằm mang những mầu sắc ưa nhìn luôn luôn là món quà hấp dẫn nhiều du khách từ phương xa đến. Tiếp đó du khách sẽ thăm Chùa Trầm và Chùa Trăm Gian. CHƯƠNG TRÌNH 3: Thăm làng gốm Bát Tràng (làng gốm có từ thế kỷ 15 và hiện nay đã được xuất khẩu khắp thế giới ). Làng tranh Đông Hồ (với nghệ thuật in tranh bằng bản khắc gỗ trên giấy dó đặc sắc), Chùa Bút Tháp, làng chạm khắc gỗ Đông Kỵ – Bắc Ninh. CHƯƠNG TRÌNH 4: Chùa Thầy - được xây trên sườn núi Phật Tích, có hồ nước long Trì và nhà Thuỷ Đình dùng để biểu diễn rối nước, đặc biệt trên hồ có nhà cầu lợp ngói dựng từ năm 1602. Chùa Tây Phương được xây dựng từ thế kỷ 8, nơi nổi tiếng có 79 bức tượng gỗ sơn son thiếp vàng cỡ lớn tinh hoa của nghệ thuật tạc tượng cổ truyền theo truyền thuyết Phật giáo. Với nhiều ưu điểm cho phát triển du lịch, các công ty du lịch và lữ hành Hà Nội đang rất chú ý khai thác tour văn hóa. Ông Trần Thành Công, Phó giám đốc Công ty Lữ hành Hanoitourist cho biết: “Ngoài các điểm tham quan thông thường, các địa chỉ văn hóa ẩm thực; việc giới thiệu văn hóa phi vật thể là phần không thể thiếu đối với bất kỳ tour nào được Hanoitourist tổ chức tại Hà Nội. Do đa phần du khách đến Hà Nội đều quan tâm đặc biệt đến các yếu tố ý nghĩa lịch sử và văn hóa gốc của người Hà Nội, Hanoitourist tập trung khai thác loại hình văn hóa phi vật thể này”. Hiện tại, công ty này đang xây dựng và tổ chức các tour homstay dành cho khách tìm hiểu về phong cách sống của người Hà Nội tại thành phố và phong cách sống của người Hà Nội tại vùng nông thôn. Ông Hoàng Nhân Chính, Giám đốc Công ty Du lịch JIB – TNT cũng đồng nhất với quan điểm trên, cho rằng: “Cùng với sự hào hứng khi được xem rối nước, khách nước ngoài, đặc biệt là khách châu Âu rất thích tìm hiểu về phong tục, tập quán của người Hà Nội cũng như của Việt Nam nói chung”. Những dịp Tết nguyên đán, nhiều công ty lữ hành bận rộn trong việc đưa đón khách thâm nhập, tìm hiểu phong tục đón Tết của người Hà Nội. Hoặc đôi lúc, họ đưa khách về các vùng nông thôn ven Hà Nội như Đa Tốn, Bát Tràng (huyện Gia Lâm) để xem người dân cấy cầy hay hóa thân vào nông dân đề mò cua, bắt cá.. Nhưng cũng phải khẳng định rằng, văn hóa phi vật thể, thứ hồn cốt của dân tộc Việt nói chung và Hà Nội nói riêng chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng vốn có của nó. Trong kho tàng văn hóa dân gian đó, chỉ có số lượng khiêm tốn loại hình văn hóa phi vật thể được các công ty lữ hành đưa vào phục vụ khách, đa phần còn bỏ ngỏ. Và việc xâu chuỗi các loại hình văn hóa phi vật thể cũng đang cần sự phối hợp giữa hai nhà văn hóa – du lịch, để khách nước ngoài có thêm cơ hội khám phá bản sắc của Hà Nội và Việt Nam. CHƯƠNG 3 : KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA Ở HÀ NỘI Rõ ràng tiềm năng và tài nguyên du lịch văn hóa Hà Nội rất đa dạng, phong phú nhưng vẫn chưa được khai thác một cách triệt để. Thực ra việc khai thác di sản văn hóa phục vụ cho phát triển du lịch không phải là ý tưởng mới, song gần đây, khái niệm du lịch văn hóa mới được hình thành và phổ biến. Du lịch văn hóa phải được xem là một hiện tượng tổng thể của du lịch. Những cố gắng thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang tính chất văn hóa. Do văn hóa có vai trò hết sức quan trọng để phát triển du lịch như vậy, cho nên việc khai thác tiềm năng văn hóa phải gắn liền với việc giữ gìn, tôn tạo các tài nguyên này. Việc khai thác tiềm năng văn hóa không phải là công việc riêng của những người làm du lịch mà cần kết hợp với các nhà văn hóa cùng với sự trợ giúp của chính quyền Hà Nội và cộng đồng người dân. 3.1 Các giải pháp chiến lược Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hai ngành văn hóa và du lịch với quan điểm khép kín là: văn hóa là động lực phát triển du lịch, đồng thời du lịch (phát triển trên cơ sở văn hóa) đến lượt mình sẽ có tác dụng gìn giữ và duy trì các giá trị văn hóa mang bản sắc dân tộc. Cần nắm đầy đủ các di tích danh thắng và đánh giá từng di tích để phân loại chúng theo các nhóm như những di tích vừa có giá trị văn hóa vừa có khả năng hấp dẫn du lịch; những di tích chỉ có giá trị đối với du lịch mà ít văn hóa hoặc ngược lại… Cần xác định thị trường mục tiêu cho từng nguồn di sản (di tích, lễ hội, ẩm thực) trên địa bàn. Điều đó có nghĩa là cần nghiên cứu xem từng nguồn di sản phù hợp với những đối tượng tham gia du lịch khác nhau như thế nào. Phối hợp quy hoạch du lịch với quy hoạch đô thị nhằm thống nhất các dự án xây dựng để không làm ảnh hưởng đến môi trường cảnh quan. Quy hoạch các di tích danh thắng trên cơ sở quy hoạch du lịch của Thủ đô Hà Nội sẽ đưa các di tích có giá trị trở thành các điểm tham quan du lịch đồng thời lồng ghép với kế hoạch tôn tạo và giữ gìn các di tích. Cần có định hướng văn hóa trong kinh doanh du lịch tại các điểm di tích, danh thắng nhằm tránh thương mại hóa các di tích văn hóa và phong tục tập quán. Ngăn chặn các hiện tượng phi văn hóa trong kinh doanh du lịch tại các điểm di tích. Cần có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực phù hợp với sự phát triển du lịch trên địa bàn. Quán triệt phương châm lấy văn hóa để phát triển du lịch và ngược lại phát triển du lịch để bảo tồn, duy trì bản sắc văn hóa. 3.2 Các giải pháp cụ thể Tăng cường công tác tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng dân cư để nâng cao hiểu biết và trân trọng các di sản văn hóa, hiểu biết về lợi ích của phát triển du lịch và cả những mặt trái mà sự phát triển này có thể mang lại. Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch nhằm giới thiệu hình ảnh Hà Nội với các sắc màu văn hóa khác nhau thực sự quan trọng, có giá trị thu hút khách có nhu cầu thẩm nhận văn hóa từ các thị trường trong và ngoài nước. Cần có nhiều ấn phẩm với nhiều hình thức quảng cáo được bán ở nhiều nơi công cộng và điểm du lịch. Nhưng tuyên truyền chỉ là bước khởi đầu. Quan trọng hơn là trong thực tế các di tích có đáng để khách du lịch xem không. Thực tế cho thấy ngoài vài di tích có tiếng ra, phần lớn các di tích khác cảnh quan còn đơn điệu, nội dung tham quan nghèo nàn, công trình, kiến trúc thì thấp bé, tuy nhiều nơi có lịch sử cả ngàn tuổi. Vì vậy trước tiên cần phân loại xác định ưu tiên với các di sản văn hóa cần được bảo vệ và có giá trị cao. Tôn tạo lại các di sản đã bị tàn phá như phủ Thiên Tường, khu Lam Kinh. Bên cạnh đó cần thành lập các trung tâm bảo quản, lưu trữ tư liệu nhằm giúp khách du lịch khai thác thông tin một cách dễ dàng hơn về các loại hình văn hóa. Chỉnh trang tôn tạo khu phố cổ nhưng phải giữ được vẻ đẹp truyền thống của Hà Nội như độ rộng của đường, dáng phố, không gian sống,… Cần thiết phải đưa các công trình công nghiệp, các khách sạn hiện đại, khu vui chơi giải trí cao cấp ra ngoài tuyến phố này. Phối hợp với các ngành khác tổ chức nhiều hơn nữa các sự kiện thu hút khách du lịch như hội chợ du lịch, năm du lịch, năm văn hóa nghệ thuật Việt Nam, tuần lễ văn hóa các vùng miền… Cần tôn vinh và có biện pháp khuyến khích phát triển các làng nghề truyền thống, hỗ trợ bán sản phẩm cho các doanh nghiệp, giải quyết khâu tiêu thụ vốn là khó khăn lớn nhất của các làng nghề. Để có thể lưu chân khách ở lâu hoặc sẽ quay lại, các công ty du lịch nên nâng cao chất lượng phục vụ, đào tạo đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, tạo ra những sản phẩm mới, phải có những Suối Tiên, Đầm Sen, những Đại Nam quốc tự. Cần kêu gọi sự đầu tư, tài trợ của các tổ chức trong nước cũng như nước ngoài. Một vấn đề đặt ra là để hấp dẫn du khách, ta cần tôn tạo các di tích theo chiều hướng xây dựng bổ sung cho di tích. Nói cụ thể hơn là xây thêm những công trình phụ trợ trong từng di tích để vừa góp phần làm đậm tính lịch sử của di tích lại vừa tăng giá trị thẩm mỹ, lôi cuốn khách tới xem. Để di tích đa dạng lên, khỏi đơn điệu, nên xây bổ sung, có thể làm thêm một số đình, tạ, nhà giải vũ, thậm chí tạo dựng một không gian mới – dĩ nhiên phải có căn cứ từ lịch sử hoặc truyền thuyết. Không kể các nước châu Âu, có một nền văn hóa vĩ đại với bao di tích đã trở thành sản phẩm du lịch sáng giá mà ngay ở châu Á, vốn là nơi mới phát triển ngành du lịch dăm chục năm nay thì như ở Thái Lan, Thủ đô Băng Cốc có ngôi chùa Vàng đẹp vậy mà trong khuôn viên chùa này vẫn xây thêm một số công trình bổ sung như các hành lang, các ngôi đền nhỏ… Mới gần đây họ còn đặt vào khuôn viên đó một cái trống hình ống và làm một ngôi đình đặt trống ở giữa với lời thuyết minh khéo léo đã lôi cuốn du khách. Hoặc ở Trung Quốc người ta xây bổ sung rất nhiều công trình phục vụ du lịch. Ngay ở khu vực Khổng Miếu - Khổng Lâm - Khổng Phủ ở Sơn Đông, có lịch sử trên 2.000 năm, mà nay người ta vẫn tiếp tục xây thêm những công trình phụ trợ để làm đẹp thêm di tích. Hay cung A Phòng ở Tây An đời Tần đã bị Hạng Võ đốt trụi từ 200 năm trước công nguyên đã không còn, nay họ dựng lại một cung A Phòng giống như là nó có từ đời Tần. Họ đã biết cách khai thác triệt để lịch sử. Cho nên Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung cần đổi mới tư duy, giữ di tích lại nhưng phải xây dựng bổ sung cho di tích thêm đa dạng, phong phú. KẾT LUẬN Trong những năm qua, sự chuyển biến của ngành du lịch Hà Nội đã có nhiều tiến bộ đáng kể, xuất hiện nhiều doanh nghiệp du lịch kinh doanh năng động, có hiệu quả, đảm bảo được chất lượng và uy tín với khách. Tuy nhiên, đó chỉ là bước đầu khởi sắc trong quá trình đổi mới. Để có thể cạnh tranh và hòa nhập vào thị trường du lịch của khu vực và trên thế giới vẫn đòi hỏi ngành du lịch Hà Nội phải có sự cố gắng và tiến nhanh gấp bội về mọi mặt. Trong du lịch, văn hóa là một yếu tố đặc biệt quan trọng. Những động cơ thúc đẩy khách đến các điểm du lịch chính là sự mong muốn được tiếp cận giá trị văn hóa. Văn hóa là nội lực bên trong của sự phát triển. Vì thế yêu cầu thúc đẩy loại hình du lịch văn hóa ở Hà Nội đang trở nên gấp rút đối với các nhà quản lý. Tiềm năng và tài nguyên du lịch văn hóa Hà Nội rất đa dạng, phong phú, tuy nhiên vẫn chưa được khai thác một cách đúng tầm, đặc biệt là văn hóa phi vật thể. Phát triển du lịch văn hóa cần phải có sự phối hợp đồng bộ các giải pháp, sự kết hợp gắn bó mật thiết giữa các ban ngành quản lý trong và ngoài lĩnh vực du lịch. Với truyền thống văn hóa lâu đời, có bề dày lịch sử đã đang và sẽ là nền tảng vững chắc, là chiếc chìa khóa vàng để du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Hà Nội nói riêng tiến theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn hóa và phong tục Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, 1999 Tạp chí du lịch số 3, 4, 5 năm 2009 GS.TS Nguyễn Văn Đính, PGS.TS Trần Thị Minh Hòa. Giáo trình Kinh tế du lịch, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, 2008 Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, Hà Nội – Nét phác thảo du lịch văn hóa Báo điện tử Vietnamnet.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32512.doc
Tài liệu liên quan