Khi Ban công tác đạt được những tiến triển phù hợp về các nguyên tắc và chính sách, thành viên tương lai và các nước thành viên WTO sẽ tiến hành các cuộc đàm phán song phương, cam kết tham gia thị trường và các chính sách khác. Những cam kết của thành viên mới sẽ được trình tất cả các thành viên WTO thông qua nguyên tắc không phân biệt.
"Chúng ta cùng nhau khởi thảo điều kiện gia nhập"
Khi việc thẩm tra cơ chế thương mại của nước đăng ký gia nhập WTO và các cuộc đàm phán vể gia nhập thị từường song phương hoàn tất, ban công tác sẽ kết thúc các điều khoản gia nhập.
68 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiến trình gia nhập WTO và những cam kết của Việt Nam trong WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
., mức độ cam kết về cơ bản không khác xa so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn- xuất bản.
Biểu 1: Diễn giải mức thuế bình quân cam kết
Bình quân chung và theo ngành
Thuế suất MFN hiện hành
(%)
Thuế suất cam kết khi gia nhập WTO (%)
Thuế suất cam kết vào cuối lộ trình
(%)
Mức giảm so với thuế MFN hiện hành
(%)
Cam kết WTO của Trung Quốc
Mức cắt giảm thuế chung tại Vòng Uruguay
Nước phát triển
Nước đang phát triển
Nông sản
23,5
25,2
21,0
10,6
16,7
giảm 40%
giảm 30%
Hàng công nghiệp
16,6
16,1
12,6
23,9
9,6
giảm 37%
giảm 24%
Chung màn biểu
17,4
17,2
13,4
23,0
10,1
3. Tình hình thực hiện cam kết
Trong hơn hai năm qua, nhìn chung Việt Nam đã thực thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết gia nhập WTO, bao gồm các cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ, và các cam kết đa phương về tuân thủ các quy định chung trong WTO.
Ngay sau khi gia nhập WTO, ngày 27-2-2007, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ban hành Chương trình Hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO, giao nhiệm vụ cho các bộ, ngành và địa phương trong giai đoạn hội nhập kinh tế sâu rộng. Chương trình Hành động thể hiện sự chủ động và quyết tâm cao của Chính phủ trong việc tận dụng triệt để các cơ hội và vượt qua các thách thức từ việc gia nhập WTO, để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian tới.
3.1. Tình hình thực hiện cam kết thương mại dịch vụ
Các hoạt động SERV-1 và SERVE-2 của Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa Biên (MUTRAP) được triển khai trong giai đoạn mang tính quyết định, một năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, thời điểm mà về mặt pháp lý, Việt Nam đã phải thực hiện hầu hết các nghĩa vụ và cam kết Hiệp định GATS.
Hoạt động của SERV-2 “ Hỗ trợ Bộ Tư pháp và các bộ, ngành hữu quan rà soát khung pháp lý trong nước so với các cam kết, nghĩa vụ của GATS” tiếp nối Hoạt động SERV-1 của Dự án MUTRAP II về “Hỗ trợ rà soát cam kết và nghĩa vụ GATS của Việt Nam”. Mục tiêu chung của hai hoạt động này là hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực thi các cam kết và nghĩa vụ GATS về thương mại dịch vụ mà Việt Nam đã và đang thực hiện kể từ khi gia nhập WTO, nhằm rà soát sự phù hợp của các quy định và pháp luật Việt Nam đối với các nghĩa vụ điều ước quốc tế này, đồng thời xác định các lĩnh vực liên quan đến quy định và khuôn khổ pháp lý dịch vụ của Việt Nam cần được sửa đổi và có biện pháp mới, với mục tiêu thực hiện các nghĩa vụ và cam kết GATS của Việt Nam và đề xuất biện pháp pháp lý phù hợp.
- Việt Nam đạt tiến bộ vượt bậc trong việc thực thi các nghĩa vụ chung trong GATS, ví dụ đối xử tối huệ quốc, các nghĩa vụ minh bạch hoá trong ban hành các quy định, luật về dịch vụ, thanh toán và chuyển khoản, các thủ tục cấp phép, v.vCó nhiều tiến bộ thông qua việc ban hành pháp lý nói chung trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO, ví dụ Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật các Điều ước và Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
- Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết nhiều nghĩa vụ chung trong GATS, bao gồm đối xử tối huệ quốc (MFN), minh bạch hoá, quy định trong nước, các nhà cung cấp dịch vụ đặc biệt và độc quyền, thanh toán và chuyển khoản, trợ cấp, cũng như nghĩa vụ điều ước để tham gia các vòng đàm phán đa phương GATS, hướng tới mức độ tự do hoá sâu rộng. Việt Nam cũng tham gia đàm phán nhiều cam kết cụ thể về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia liên quan tới tất cả các lĩnh vực dịch vụ và 110 phân ngành. Tuy nhiên, tiến độ thực hiện các nghĩa vụ GATS của Việt Nam trong từng lĩnh vực là khác nhau. Theo tuyên bố gần đây Bộ Công Thương, quy trình pháp lý tốt, xây dựng khung pháp lý mới hay sửa đổi, đã được thực hiện trong các lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, chuyển phát nhanh, phân phối, vận tải và văn hoá.
- Mặc dù đã đạt được những tiến triển pháp lý đối với các nghĩa vụ GATS chung – không chỉ thành phần dịch vụ mà còn cả nền kinh tế, vẫn còn những quan ngại về việc thực hiện một số các nghĩa vụ này. Đó là các cam kết cụ thể trong thủ tục cấp phép. Các chuyên gia trong nước đề cập đến hiện trạng pháp lý đơn thuần và kết luận rằng nói chung Việt Nam tuân thủ các cam kết và nghĩa vụ GATS. Tuy nhiên, Chính phủ nên quan tâm đến ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước thường phàn nàn về sự thiếu chắc chắn và minh bạch các thủ tục hành chính, việc tăng nhanh các yêu cầu cấp phép, cấp phép lại (sub licencing) nặng nề xuất phát từ các quy định và pháp luật mới, các thủ tục tốn kém và chậm trong các vấn đề pháp lý và thực tiễn khác có ảnh hưởng tới khả năng dự đoán và thuận lợi môi trường kinh doanh.
3.2. Tình hình thực hiện cam kết thuế quan
Năm 2007: QĐ78, giảm thuế cho 1.812 dòng thuế:
- Dệt may, đồ sứ; thuỷ tinh kính; đồng hồ các loại; hoa, cây cảnh; một số loại rau; chè; một số loại dầu thực vật; thịt chế biến; bánh kẹo các loại; bia; mỹ phẩm các loại, xà phòng, sản phẩm nhựa gia dụng; giấy in báo; quạt điện; thiết bị lọc nước.
- Mức cắt giảm:1% - 30%, chủ yếu là 2% - 3%. Dệt may là mặt hàng có mức cắt giảm lớn nhất.
- Các quyết định giảm thuế khác để bình ổn giá trong nước.
Năm 2008: QĐ106 giảm thuế cho trên 1.700 dòng thuế:
- Nông thổ sản; rau quả tươi; cà phê; chè, dầu thực vật; thịt chế biến; bia; rượu; thuốc lá, xi măng...
- Mức giảm thêm từ 1% đến 6%, đa số các mặt hàng bị cắt giảm thêm 2% - 3%
- Nâng thuế một số mặt hàng (trong phạm vi mức trần cho phép) để đối phó với tình trạng nhập siêu.
Thực tế tăng kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh trong thời gian hơn 1 năm gia nhập WTO
- Không áp lực về thu ngân sách từ thuế nhập khẩu.
- Tình trạng nhập siêu và mất cân đối trong cán cân thương mại
- Các nguyên nhân khác nhau: cơ cấu hàng hoá nhập khẩu, cơ cấu địa bàn.
Về các biện pháp hạn chế nhập khẩu: Việt Nam cam kết sẽ không áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu kể từ khi gia nhập. Để thực hiện cam kết này, ngay trước khi kết thúc đàm phán, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2006 bãi bỏ toàn bộ các biện pháp hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu, trong đó có việc thay thế lệnh cấm nhập khẩu thuốc lá điếu và xì gà bằng việc qui định đầu mối nhập khẩu. Bộ Thương mại cũng đã có Thông tư số 06 ngày 30/5/2007 cho phép nhập khẩu xe máy phân khối lớn vào Việt nam. Nhiều văn bản quản lý xuất nhập khẩu chuyên ngành cũng đã được các Bộ, ngành rà soát, sửa đổi để bảo đảm các văn bản này chỉ phục vụ cho những mục đích mà WTO cho phép như bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ sức khỏe con người và môi trường sống, bảo vệ các giá trị văn hóa và thuần phong mỹ tục..., không để các văn bản này trở thành những rào cản trá hình đối với thương mại hàng hóa.
3.3. Tình hình thực hiện cam kết về hải quan
Trong những năm qua, Hải quan Việt Nam đã tích cực thực hiện các cam kết quốc tế, hiện đại hoá hải quan góp phần chuyển hóa một số nguyên tắc, nội dung của WTO vào hoạt động thực tiễn của Ngành như thực hiện xác định trị giá theo Hiệp định GATT/WTO, thực hiện các quy tắc xuất xứ, các quy định về phí và lệ phí, về tự do quá cảnh trong WTO và thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới theo Hiệp định TRIPS. Cho đến nay, Hải quan Việt Nam đã tham mưu cho Chính phủ nội luật hóa một số yêu cầu của WTO về quản lý hải quan. Cụ thể, Việt Nam đã tham gia Công ước về đơn giản hóa và hài hòa hòa thủ tục hải quan (Công ước Kyoto), Công ước về Hệ thống hài hòa về mô tả và mã hóa hàng hóa (Công ước HS) và đã đưa những nguyên tắc cơ bản nhất của các Công ước này vào Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành, áp dụng quản lý rủi ro trong kiểm tra hải quan. Hiện nay, chúng ta đang tham mưu để Việt Nam gia nhập Công ước Kyoto sửa đổi (Công ước Kyoto 1999) và sau đó là Công ước quốc tế về sổ tạm quản (Công ước ATA).
Liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Hải quan Việt Nam cũng đã tham mưu nội luật hóa các quy định của Hiệp định TRIPS được xây dựng từ sau vòng đàm phán Urugoay, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA), Luật mẫu của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) vào hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam. Nhằm tạo thuận lợi cho thương mại trong lĩnh vực hải quan khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục tạo thuận lợi cho tự do thương mại quốc tế thông qua áp dụng các chuẩn mực, công cụ quản lý quốc tế nhằm đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan.
Về lĩnh vực thuế nhập khẩu, một điểm thuận lợi là từ tháng 1-2003, ngành Hải quan đã triển khai thực hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT/AFTA) với lộ trình cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu từ 40 - 50% xuống còn 20%, và đến năm 2015 xuống 0%. Có thể nói đây là bước chuẩn bị vững chắc cho việc thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan khi gia nhập WTO. Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện lộ trình cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường cho tự do lưu thông hàng hóa, và nguồn thu quốc gia từ xuất nhập khẩu sẽ giảm dần. Theo báo cáo đàm phán gia nhập WTO mới được công bố tháng 11-2006, Biểu cam kết về hàng hóa của Việt Nam khi vào WTO sẽ có 3.800 dòng thuế sẽ phải cắt giảm. Trên thực tế, từ vài năm trở lại đây số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu trong tổng thu ngân sách Nhà nước cũng bắt đầu giảm (từ năm 2003, trung bình giảm khoảng 1%/năm). Điều này hoàn toàn bình thường khi mà mục tiêu chính của cơ quan Hải quan của những nước phát triển là chuyển từ thu ngân sách sang tạo thuận lợi cho thương mại và bảo đảm an ninh quốc gia. Đồng thời, Hải quan Việt Nam đã áp dụng Hiệp định trị giá GATT 1994 (có bảo lưu một số điều) với sự ra đời của Nghị định 60/2002/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện xác định trị giá hải quan. Đến tháng 1-2006, Hiệp định được áp dụng đầy đủ tại Việt Nam theo quy định tại Nghị định 155/2005/NĐ-CP ngày 15/12/2005 của Chính phủ.
Liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động nghiệp vụ Hải quan, Hải quan Việt Nam đã bắt đầu áp dụng mô hình dữ liệu chuẩn của WCO phục vụ xác định trị giá hải quan theo Hiệp định GATT/WTO. Đồng thời, trang Website Hải quan Việt Nam ngày càng được hoàn thiện cùng với phiên bản tiếng Anh đã đáp ứng được yêu cầu của WTO về minh bạch, công khai thủ tục hành chính trong lĩnh vực hải quan.
Ngoài ra, đối với cam kết giảm các loại phí và lệ phí áp dụng với dịch vụ công (chủ yếu là phí hải quan), từ năm 2004 ngành Hải quan đã phối hợp cùng với các đơn vị liên quan trong Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi cho phù hợp với quy định của WTO.
Để sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu mới khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, Hải quan Việt Nam còn chủ động trong công tác hiện đại hoá nhằm nâng cao năng lực cán bộ và hiện đại hoá quy trình thủ tục. Hàng loạt các dự án liên quan đến hiện đại hoá đã đươợ triển khai như Dự án về đào tạo của JICA, Dự án hiện đại hoá hải quan sử dụng nguồn vốn của Ngân hàng Thế giới (WB) từ 2006 đến 2010 Những hoạt động này góp phần nâng cao nhận thức và khả năng thích nghi của Hải quan Việt Nam khi đất nước bắt đầu thực hiện các luật lệ của WTO.
Tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2006 và triển khai chương trình công tác năm 2007 được tổ chức tại Hà Nội ngày 24-11-2006 vừa qua, lãnh đạo ngành Hải quan đã xác định một trong những mục tiêu hoạt động chính trong năm 2007 sẽ là: “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách; quy trình thủ tục và hoạt động của Hải quan cho phù hợp với các quy định của WTO”.
Có thể khẳng định rằng năm 2007 sẽ là năm bản lề đối với Việt Nam trong thực hiện các cam kết với WTO nói chung và trong lĩnh vực hải quan nói riêng. Đây là một công việc hết sức khó khắn vì những cam kết của WTO bao gồm những luật lệ hết sức chặt chẽ. Với những kết quả khích lệ đạt được trong thời gian qua, tin chắc chắn rằng Hải quan Việt Nam sẽ tiếp tục vươn lên, đóng góp vào công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là WTO.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ NHỮNG CAM KẾT CỦA VIỆT NAM TRONG WTO
I. Giải pháp chung
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang có những đột biến khó lường, tiếp tục tác động không thuận đến kinh tế trong nước, để tăng cường hiệu quả việc thực thi các cam kết với WTO trong thời gian tới, qua đó phục vụ đắc lực sự phát triển bền vững của đất nước, cần tập trung vào một số định hướng sau:
Thứ nhất, để sớm ổn định kinh tế vĩ mô, các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ, đẩy mạnh việc thực hiện tám nhóm giải pháp kinh tế nhằm sớm kiềm chế lạm phát, giảm nhập siêu, đồng thời triển khai những đối sách thích hợp để hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới hiện nay. Các biện pháp áp dụng cần phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế và quy định của WTO.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, đi đôi với chủ động, tích cực tham gia đàm phán thương mại đa phương, nỗ lực cùng các thành viên WTO sớm kết thúc Vòng Ðô-ha với những kết quả công bằng, cân bằng và vì mục tiêu phát triển.
Thứ ba, sớm xây dựng và hoàn thiện chiến lược hội nhập kinh tế tổng thể trong giai đoạn tới với những trọng tâm, ưu tiên rõ ràng và phù hợp điều kiện phát triển của Việt Nam, trong đó thống nhất định hướng tham gia chủ động, tích cực và cân bằng vào hội nhập đa phương và liên kết khu vực, song phương. Chiến lược này cần bảo đảm các điều kiện thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở trong nước, điều hòa được mối quan hệ phức tạp, đan xen giữa các cam kết quốc tế của Việt Nam nhằm tăng cường tác động bổ trợ lẫn nhau giữa các cam kết này, đồng thời nâng vai trò của Việt Nam trong quá trình hoạch định chính sách thương mại toàn cầu.
Thứ tư, đẩy mạnh việc vận động chính trị và đàm phán kỹ thuật với các đối tác về quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, góp phần giảm thiểu sự phân biệt đối xử và tác động tiêu cực của các tranh chấp thương mại do các đối tác nước ngoài khởi kiện nhằm vào các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng các tiêu chuẩn ngày càng cao của giai đoạn hội nhập sâu rộng; đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến thông tin để nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và của toàn xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ khi Việt Nam là thành viên WTO.
Việc gia nhập WTO đã đánh dấu quá trình tham gia sâu rộng của nền kinh tế nước ta vào hệ thống kinh tế quốc tế, với những cơ hội và thách thức, những tác động cả thuận và không thuận đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ðặc biệt, quá trình này diễn ra trong bối cảnh kinh tế khu vực và kinh tế thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường và tác động sâu rộng đến các nền kinh tế trên thế giới. Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước trong hơn hai thập kỷ qua, cùng với cam kết mạnh mẽ của Ðảng và Nhà nước ta tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, như đã được khẳng định tại Ðại hội X của Ðảng (tháng 4-2006), cũng như sự chủ động và quyết tâm của Chính phủ và của toàn xã hội trong việc tận dụng tối đa các cơ hội và vượt qua các thách thức, là cơ sở vững chắc để chúng ta tin tưởng vào những bước phát triển mới của đất nước trong thời gian tới.
II. Giải pháp thực hiện một số hiệp định của Việt nam trong WTO
Khi đàm phán gia nhập WTO Việt Nam đã ký kết khá nhiều hiệp định cả song phương và đa phương như: Hiệp định TRIPS (Sở hữu trí tuệ), Hiệp định TRIMS (Đầu tư), Hiệp định trị giá hải quan (CVA), Hiệp định các rào cản kỹ thuật (TBTs), Hiệp định thủ tục cấp phép nhập khẩu (ILP), Hiệp định kiểm tra trước khi xuất hàng, Hiệp định kiểm dịch động thực vật (SPS) Sau đây xin trình bày về giải pháp thực hiện hiệp định tiêu biểu là Hiệp định hàng rào kỹ thuật (TBT) và các cam kết về hải quan.
1. Giải pháp thực hiện Hiệp định TBT
Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), và một trong những yếu tố quan trọng là thực hiện Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Agreement on Technical Barriers to Trade, gọi tắt là hiệp định TBT) của WTO.
1.1. Giới thiệu về Hiệp định TBT
Hiệp định TBT có 15 Điều và 3 phụ lục.
Đối tượng áp dụng bao gồm:
- Quy chuẩn kỹ thuật.
- Tiêu chuẩn.
- Quy trình đánh giá sự phụ hợp.
Phạm vi áp dụng: Trong thương mại hàng hóa.
Mục đích: Đảm bảo các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn, các quy trình ĐGSPH không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại quốc tế.
Song Hiệp định cũng thừa nhận không nước nào bị ngăn cản áp dụng các biện pháp cần thiết đẻ bảo vệ các mục đích hợp pháp (Chất lượng hàng xuất khẩu; bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật; bảo vệ môi trường; tránh gian lận thương mại; bảo vệ an ninh quốc gia).
Các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định:
- Không phân biệt đối xử.
- Tránh các cản trở thương mại không cần thiết đối với thương mại.
- Hài hòa hóa.
- Tương đương.
- Thừa nhận lẫn nhau.
- Minh bạch hóa.
Gia nhập WTO, Việt Nam cam kết thực hiện nghiêm túc Hiệp định hàng rào kỹ thuật thương mại (TBT).
1.2. Giải pháp thực hiện Hiệp định TBT
Đối với Hiệp định TBT, Việt Nam cam kết thực hiện đầy đủ và toàn diện Hiệp định kể từ thời điểm gia nhập. Để thực hiện cam kết này, Chính phủ đã chủ động chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng chương trình hành động từ năm 2002, đồng thời ban hành Quyết định số 444/QĐ-TTg ngày 26/5/2005 về việc phê duyệt Đề án triển khai thực hiện Hiệp định Hàng rào kỹ thuật trong thương mại và Quyết định số 114/2005/QĐ-TTg ngày 26/5/2005 về việc thành lập và ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của mạng lưới Cơ quan thông báo và Điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Cho đến nay, các bộ, ngành và địa phương đã triển khai thành lập mạng lưới văn phòng thông báo và điểm hỏi đáp theo quy định. Bộ Khoa học và Công nghệ cũng ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn thực hiện.
Việc thực hiện các yêu cầu của Hiệp định TBT của Việt Nam đã được triển khai kịp thời và đạt được kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua thực tế hoạt động, vẫn còn một số hạn chế và tồn tại, như:
- Số lượng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật hiện hành của Việt Nam chưa hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế còn khá lớn (chiếm trên 70%);
- Tiến độ xây dựng một số đề án liên quan đến hoạt động đánh giá hợp quy còn chậm do chưa có sự chỉ đạo sát sao và sự phối hợp tích cực giữa các cơ quan liên quan;
- Việc thành lập Điểm TBT tại một số địa phương còn gặp khó khăn;
- Tại các Điểm TBT đã được thành lập, cán bộ chủ yếu là kiêm nhiệm, công việc hoàn toàn mới mẻ nên nhiều khi còn lúng túng trong việc triển khai các hoạt động nghiệp vụ cụ thể;
- Công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Hiệp định TBT còn yếu.
Để thực hiện tốt việc triển khai áp dụng Hiệp định cần phải thực hiện một số công việc sau:
- Tập trung rà soát, xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia; quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá hợp quy hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu của Hiệp định TBT;
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và thực hiện các đề án về hoạt động đánh giá hợp quy;
- Nghiên cứu quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại liên quan đến Hiệp định TBT, chủ động xử lý các tranh chấp này, nếu có;
- Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch về Hiệp định TBT; hỗ trợ các Điểm TBT địa phương trong thực hiện nhiệm vụ;
- Bổ sung nhân sự và tổ chức đào tạo cho mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp về TBT bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, đặc biệt là các quy trình thông báo và xử lý thông báo;
- Tích cực tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của Hiệp định TBT tới các tổ chức, cá nhân liên quan.
Nghiên cứu và thực thi đầy đủ các quy định của Hiệp định là việc làm cần thiết của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Giải pháp thực hiện các cam kết về hải quan
Hải quan là một trong những lĩnh vực được Việt Nam (VN) cam kết nhiều khi gia nhập WTO. Các cam kết thể hiện trên 10 vấn đề: Thực hiện xác định trị giá hải quan (HQ) theo WTO; đơn giản hóa thủ tục HQ để tạo thuận lợi cho thương mại; thực hiện các quy định về phí và lệ phí trong WTO; thực hiện các quy định về xuất xứ trong WTO; thực hiện các quy định về tự do quá cảnh; tăng cường chống buôn lậu, gian lận thương mại; nâng cao năng lực, trình độ quản lý; hiện đại hóa quản lý HQ; thực hiện yêu cầu an ninh chống khủng bố quốc tế; thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới theo Hiệp định TRIPS.
2.1. Những cam kết cơ bản
Xác định giá hải quan: Kể từ ngày gia nhập, VN sẽ áp dụng đầy đủ các quy định của WTO liên quan đến xác định giá trị HQ. VN sẽ đảm bảo rằng bất kỳ phương thức xác định trị giá HQ nào cũng sẽ được áp dụng phù hợp với quy định của WTO. VN cũng cam kết không cho phép cơ quan HQ áp dụng lại quy định về giá nhập khẩu tối thiểu hay là danh mục giá mang tính áp đặt nhằm hạn chế nhập khẩu.
Quy tắc xuất xứ: VN cam kết kể từ ngày gia nhập WTO, pháp luật và các quy định khác của VN về quy tắc xuất xứ đối với cả hàng hóa được buôn bán theo thỏa thuận mậu dịch ưu đãi và theo quy chế Tối huệ quốc sẽ được áp dụng đúng theo các quy định của Hiệp định về Quy tắc xuất xứ của WTO. Liên quan đến các quy tắc về xuất xứ ưu đãi và không ưu đãi, VN cam kết sẽ không ảnh hưởng đến các biện pháp hoặc công cụ của chính sách thương mại mà theo đó quy tắc xuất xứ được áp dụng, VN sẽ không sử dụng các quy tắc này như một công cụ để theo đuổi các mục tiêu thương mại một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Đơn giản hóa thủ tục HQ: Các thủ tục HQ nhìn chung sẽ phải đảm bảo không gây rào cản cho thương mại và phải được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực quốc tế theo Công ước Kyoto, bao gồm các chuẩn mực về thông quan, thủ tục HQ, thuế quan và kiểm tra HQ.
Quy định phí và lệ phí: Các khoản phí hải quan thu trên hoạt động xuất nhập khẩu sẽ phải đảm bảo không vì mục đích số thu hoặc tạo rào càn thương mại chỉ thu bằng mức dịch vụ cung cấp.
Quá cảnh: VN cam kết tuân thủ hoàn toàn các quy định của WTO về quá cảnh ngay khi gia nhập, đặc biệt là Điều V của Hiệp định GATT 1994. Hàng hóa quá cảnh được lưu ở kho ngoại quan hoặc kho HQ phải nộp phí lưu kho theo quy định của Bộ Tài chính và Tổng cục HQ. Hàng quá cảnh được lưu ở kho không thuộc HQ sẽ nộp phí và lệ phí cho những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lưu kho theo mức quy định riêng của từng doanh nghiệp.
2.2. Giải pháp thực hiện cam kết về hải quan
Vào WTO, thủ tục hải quan phải thông thoáng hơn.
Chủ động khi tham gia hội nhập, ngành hải quan đã và đang chuẩn bị những nội dung cần thiết để thực hiện cam kết liên quan lĩnh vực hải quan trong WTO.
Cần tạo thuận lợi cho thương mại thông qua các hoạt động đơn giản hóa thủ tục hải quan theo các chuẩn mực quốc tế theo Hiệp định GATT và thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới theo Hiệp định TRIPS.
Ðể thực hiện hai mục tiêu này, trong thời gian qua, ngành hải quan đã thực hiện những cam kết hải quan trong Tổ chức thương mại thế giới (WTO): tham gia các điều ước quốc tế, tạo cơ sở pháp lý cho hội nhập sâu rộng; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật hải quan. Trong quá trình cải cách thủ tục hành chính, ngành hải quan đã tiến hành hàng loạt các biện pháp đơn giản hóa thủ tục hải quan theo các chuẩn mực quốc tế. Thí dụ, Công ước Kyoto 1999 có tiêu chí về đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục hải quan, thì đến nay hệ thống quy trình nghiệp vụ hải quan đã phù hợp tới 84% so với chuẩn mực của Công ước này.
Xác định trị giá hải quan luôn là vấn đề phức tạp, đến nay đã chuyển dần từ hệ thống xác định trị giá áp đặt sang hệ thống xác định trị giá trên cơ sở trị giá giao dịch (thực hiện theo Hiệp định trị giá GATT). Từ đó tạo ra một hệ thống xác định trị giá hải quan công bằng, nhất quán và khách quan đối với hàng hóa nhập khẩu (NK), tạo sự minh bạch, góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế và vẫn bảo đảm tuân thủ các quy định của quốc gia.
Trong quá trình hiện đại hóa quản lý hải quan, cùng với việc áp dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin, Hải quan Việt Nam đã xây dựng và triển khai thí điểm hệ thống thông quan điện tử, từng bước tự động hóa quy trình thủ tục hải quan.
Ngành hải quan đang tích cực triển khai việc thực hiện xác định trị giá GATT - đây là một trong những nội dung quan trọng của WTO... Do đó thực hiện có hiệu quả các nội dung của Công ước quốc tế về mô tả mã hóa hàng hóa của Hiệp định trị giá GATT, điều này có tác dụng quan trọng trong việc chống gian lận thương mại, gian lận qua giá.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập cũng đưa đến cho công tác điều tra chống buôn lậu những nhiệm vụ mới. Ngoài đối tượng truyền thống là buôn lậu hàng hóa và gian lận thương mại, Hải quan Việt Nam đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác như chống tội phạm xuyên quốc gia, chống buôn bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy, vũ khí, độc hại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và động, thực vật có nguy cơ tuyệt chủng.
Ðể thực hiện nhiệm vụ này, hải quan cần từng bước áp dụng kỹ thuật quản lý rủi ro, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin tình báo để phòng, chống, phát hiện tội phạm.
Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ hải quan có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và yêu cầu hội nhập ngày càng cao, công tác đào tạo nâng cao trình độ, năng lực cho công chức được ngành hải quan đặc biệt chú trọng. Hằng năm, ngành tổ chức các khóa học bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, cử cán bộ ra nước ngoài học tập, trao đổi kinh nghiệm. Hợp tác chặt chẽ với hải quan một số nước trên thế giới và các tổ chức liên quan để hỗ trợ, xây dựng các chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ hải quan Việt Nam...
Bên cạnh việc bảo đảm tạo thuận lợi thương mại đồng thời kiểm soát hiệu quả bảo vệ an ninh quốc gia, Tổng cục Hải quan đã và đang phối hợp chặt chẽ các bộ, ngành để tham gia tích cực vào công tác kiểm soát xuất khẩu, an ninh biên giới và chống khủng bố quốc tế. Về thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới, thời gian qua Tổng cục Hải quan góp phần đưa các quy định của Hiệp định TRIPS, Hiệp định Thương mại Việt Mỹ, Luật mẫu của Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) vào hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam.
Phối hợp các Bộ Khoa học - Công nghệ, Bộ Văn hóa - Thông tin, Tổng cục Hải quan đã hướng dẫn thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa XNK. Ðể thực thi nhiệm vụ này, ngành hải quan cũng đã xây dựng một đội ngũ cán bộ công chức chuyên trách về sở hữu trí tuệ từ cấp cơ sở đến cấp Tổng cục.
Một trong những nội dung thiết thực để tăng cường thủ tục hải quan, đồng thời để tạo cơ sở pháp lý cho hội nhập sâu rộng hơn, ngay từ năm 1997 Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan (Công ước Ky-ô-tô). Năm 1999, Công ước đã được sửa đổi. Tổng cục Hải quan chuẩn bị báo cáo Thủ tướng Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội việc gia nhập Công ước Kyoto sửa đổi.
Hiện nay, hệ thống pháp luật về hải quan đã và đang được hoàn thiện theo hướng minh bạch hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi phương thức quản lý hải quan từ truyền thống sang hiện đại, về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập quốc tế nói chung. Tuy nhiên, để có đủ điều kiện tham gia hội nhập, ngành hải quan có nhiều giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý, hệ thống pháp luật theo hướng thống nhất, minh bạch, đơn giản, hài hòa và phù hợp các chuẩn mực quốc tế và sớm có được hệ thống quản lý hải quan hiện đại.
Cần định hướng quản lý hàng hóa XNK của ngành hải quan
Theo TBKTVN, nhằm thực hiện đúng các cam kết khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ngành hải quan đã đưa ra định hướng quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu .
Theo đó, hải quan cần giãn bớt việc kiểm soát, kiểm tra hàng hóa tại các cửa khẩu, chú trọng phân luồng, quản lý rủi ro và đẩy mạnh hình thức kiểm tra sau thông quan đối với hồ sơ, hàng hóa tại doanh nghiệp.
Hải quan cần hoàn chỉnh danh bạ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu; phúc tập xong tất cả các hồ sơ hải quan năm 2005 và các hồ sơ từ đầu được thông quan theo luồng xanh. Đồng thời, phân loại và tiến hành kiểm tra sau thông quan đối với các lô hàng được thông quan theo luồng xanh từ đầu năm 2006. Đây chính là bước chuẩn bị cần thiết để bước sang năm những năm tiếp theo, ngành sẽ có điều kiện áp dụng phương pháp quản lý mới dựa trên đánh giá và phân tích rủi ro, chuyển từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm" để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nếu thực hiện tốt công tác hậu kiểm sẽ không chỉ làm tăng thu ngân sách, chống gian lận thương mại mà còn góp phần thực hiện tốt các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực hải quan khi gia nhập WTO. Theo định hướng, lực lượng kiểm tra sau thông quan của ngành Hải quan cần tập trung kiểm tra, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của nhóm những doanh nghiệp lớn, chiếm tỷ trọng lớn về kim ngạch xuất nhập khẩu; tập trung xác định và kiểm tra đối với những doanh nghiệp và mặt hàng trọng điểm. Việc tập trung kiểm tra này sẽ giúp cơ quan Hải quan xác định mức độ chấp hành pháp luật của những doanh nghiệp này. Từ đó có thêm thông tin hỗ trợ để xác định hình thức và mức độ kiểm tra khi làm thủ tục đối với lô hàng xuất nhập khẩu. Đối với những doanh nghiệp và mặt hàng trọng điểm, việc kiểm tra sau thông quan cũng sẽ hạn chế những sai sót, vi phạm trong quá trình thông quan, từ đó chống thất thu ngân sách và chống gian lận thương mại.
Để thực hiện mục tiêu trên, cơ quan hải quan phải phân loại nhóm các doanh nghiệp lớn theo từng loại hình kinh doanh, xác định những doanh nghiệp và mặt hàng trọng tâm, trọng điểm. Trong quá trình kiểm tra sau thông quan sẽ tập trung kiểm tra về giá tính thuế, mã số hàng hóa xuất nhập khẩu, chú trọng kiểm tra hàng lỏng, hàng rời.
Song song với việc đó, hải quan cần tiếp tục tăng cường năng lực thông tin phục vụ cho công tác kiểm tra sau thông quan, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tổ chức bộ máy, bổ sung cán bộ, đào tạo kiến thức chuyên sâu cho công chức làm công tác kiểm tra sau thông quan... Một việc làm cần thiết để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan là sẽ kiến nghị ban hành một số văn bản đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của kiểm tra sau thông quan như: hướng dẫn thực hiện điều 161 Luật Hình sự; thủ tục tạm giữ hàng hóa, kê biên tài sản; xử lý vi phạm hành chính. Đồng thời ngành cũng sẽ đưa ra các quy chế nhằm phối hợp trao đổi thông tin bên trong hệ thống và với bên ngoài.
Tương tự, khâu kiểm tra hồ sơ hàng hóa doanh nghiệp tư nhân cũng cần được chú trọng trong việc tìm và phát hiện tình trạng 2 hệ thống sổ sách kế toán. Tăng cường việc đối chiếu các chứng từ ở đầu vào của một đối tượng bán hàng với nhiều doanh nghiệp nhập khẩu để phát hiện sự bất hợp lý trong hợp đồng, hóa đơn. Đối với đầu ra, cũng phối hợp với cơ quan thuế để kiểm tra hóa đơn bán ra qua nhiều đối tượng.
III. Một số kết quả về kinh tế_thương mại Việt Nam sau hơn hai năm gia nhập WTO
Ðể thực hiện nghĩa vụ thành viên WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính sách thương mại theo hướng minh bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn bản dưới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong quá trình hội nhập.
Mặc dù thời gian hai năm chưa đủ để có thể đánh giá toàn diện những tác động kinh tế - xã hội của việc gia nhập WTO, nhưng chúng ta cũng có thể thấy một số kết quả tích cực như sau:
Thứ nhất, việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao,... Các đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO, ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam.
Thứ hai, việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP năm 2008 của nước ta vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%, xuất khẩu vẫn bảo đảm nhịp độ tăng trưởng khá: Năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 48,56 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006; Năm 2008, dù đa số các thị trường lớn rơi vào suy thoái nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn rất đáng khích lệ, ước tính đạt khoảng 63 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã đa dạng hơn và hàng hóa của Việt Nam đã thâm nhập tốt hơn, đứng vững hơn trong các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU,...
Thứ ba, do việc điều chỉnh chính sách kinh tế theo các cam kết quốc tế, môi trường kinh doanh và đầu tư trở nên thông thoáng và minh bạch hơn, dẫn đến việc gia tăng luồng vốn FDI vào Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam đã thu hút trên 20,3 tỷ USD, tăng 69,2% so với năm 2006. Sang năm 2008, dù tình hình kinh tế thế giới xấu đi, nhưng vốn FDI cam kết đã đạt hơn 64 tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007. Ðiều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình hội nhập, mở cửa thị trường, cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam, tin tưởng vào sự ổn định chính trị, xã hội và những quyết sách tích cực và hiệu quả của Chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.
Thứ tư, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nâng cao trình độ công nghệ cho các nhà sản xuất, dẫn tới việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Mặt khác, thông qua việc liên doanh, hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cũng được tăng cường thêm về vốn, trình độ quản lý, nhân sự và phát triển công nghệ.
Thứ năm, ngành công nghiệp Việt Nam đã phát triển theo hướng tích cực, sản xuất công nghiệp đạt năng suất tương đối cao: Năm 2007 giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với 2006; Năm 2008 ước đạt 650 nghìn tỷ đồng tăng 14,6% so với năm 2007; Các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động như thủy sản, may mặc, giày dép, đồ nội thất, thủ công cũng có tốc độ tăng trưởng cao.
Hai năm gia nhập WTO càng làm rõ thêm những thời cơ và thách thức mà Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa X đã chỉ ra, đặc biệt là những tác động không thuận đối với nước ta do những biến động của nền kinh tế thế giới. Bước vào năm 2009, Chính phủ đã đề ra năm nhóm giải pháp để ngăn chặn và đẩy lùi suy giảm kinh tế, trong đó biện pháp quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu. Việc thực hiện cam kết với WTO và điều chỉnh chính sách theo các cam kết quốc tế phải bám sát và hỗ trợ những nhiệm vụ cấp bách mà Chính phủ đã đề ra.
Sau đây là những thay đổi của kinh tế_thương mại Việt Nam sau hơn hai năm gia nhập WTO.
1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Biểu đồ 1. Tăng trưởng GDP của Việt Nam qua các năm
Có thể thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam liên tục tăng từ năm 2001 đến năm 2005 và có giảm tại thời điểm 2006. Nhưng đến năm 2007- năm đầu tiên gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng đạt mức cao nhất trong giai đoạn này. Đó chính là nhờ tân dụng và khai thác hiệu quả những lợi ích và cơ hội từ gia nhập WTO như: thị trường rộng mở, lượng vốn đầu tư tăng mạnh tạo điều kiện xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, sản xuất và dịch vụ, việc gia nhập WTO đã góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao; việc điều chỉnh thể chế kinh tế, hoàn thiện từng bước khung pháp lý, xóa bỏ các rào cản và nâng cao tính minh bạch trong chính sách kinh tế, thương mại, cải thiện môi trường kinh doanh đã làm tăng hiệu quả và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững hơn
Năm 2008, mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, tiền tệ toàn cầu, nhưng GDP nước ta vẫn tăng trưởng ở mức 6,23%. Sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế cho thấy cả mặt tích cực và tiêu cực. Đó là song song với những cơ hội của gia nhập WTO thì chúng ta cũng nhận thấy nền kinh tế càng trở nên nhạy cảm hơn với những biến động kinh tế, mà cụ thể ở đây là khủng hoảng kinh tế 2008. Mặt tích cực cho thấy nền kinh tế của chúng ta đang ngày một phát triển bền vững hơn, phản ứng tốt hơn trước những thay đổi của thế giới, nhờ đó vẫn giữ được mức tăng trưởng coi là khá trong giai đoạn khủng hoảng này.
2. Lạm phát qua các năm.
Biểu đồ 2: Lạm phát qua các năm.
Đây là biểu đồ tỉ lệ lạm phát tại Việt Nam trong giai đoạn 1995 – 2007. Từ biểu đồ có thể thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Việt Nam vào tháng 12/2007 đã tăng 12,6% so với tháng 12/2006. Đây là mức tăng giá tiêu dùng cao nhất trong vòng 12 năm qua. Đây là những tác động không nhỏ của hậu gia nhập WTO, khi tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lượng vồn chảy vào ồ ạt và mở rộng thị trường. Những tác động này cộng với khủng hoảng kinh tế khiến cho tỉ lệ lạm phát năm 2008 còn tăng lên đến 22,97%. Do đó chính phủ đã có môt loạt những biện pháp cấp bách để hạn chế con số này và bình ổn thị trường và cũng đã cho thấy nhứng hiệu quả tích cực, kéo con số này giảm dần về cuối năm.
3. Xuất khẩu gia tăng
Bên cạnh thành công thu hút FDI là gia tăng xuất khẩu, đây là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam hiện ở vị thế xuất siêu với 159 trong số 200 nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ thương mại. Đáng chú ý là khu vực kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn tốc độ chung, qua đó chứng tỏ các doanh nghiệp trong nước đã bước đầu tận dụng được khả năng mở rộng và tiếp cận thị trường từ việc gia nhập WTO.
Kết quả xuất khẩu năm 2007 đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt trên 3% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra.
Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm xấp xỉ 57% kim nSạch xuất khẩu của cả nước, đạt 27,3 tỷ USD, tăng 18,6% so với năm 2006, khu vực doanh nghiệp trong nước tăng trên 23%.
Kết thúc năm 2007, có 10 mặt hàng và nhóm mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, dầu thô, dệt may, giày dép, điện và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ, nhóm sản phẩm cơ khí. Trong đó, ngoài 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản đều đạt trên 3 tỷ USD, hai mặt hàng điện tử và sản phẩm gỗ cũng đạt trên 2 tỷ USD. Một số nông sản chủ lực cũng đã thắng lớn trong năm 2007 do những lợi thế về giá trên thị trường thế giới.
Năm 2008, kim ngạch cả năm ước đạt xấp xỉ 63 tỷ USD, tăng trên 29,5% so với năm 2007. Kim ngạch của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 34,87 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 55,4%, tăng 25,5% so với năm 2007; của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 28,02 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 44,6%, tăng 34,9%, so với năm 2007.
Biểu đồ 3: Giá trị xuất, nhập khẩu qua các năm
Đây là biểu đồ giá trị xuất nhập khẩu qua các năm từ 1986 – 2008 của Việt Nam, cho thấy sự gia tăng trong giá trị xuất nhập khẩu từ 1986 – 1997 và từ 1997 – 2008. Đặc biêt hai năm 2007 và 2008 có mức tăng rõ rệt cho thấy hiệu quả tích cực của việc gia nhập WTO. Đây không chỉ là mở rộng thị trường cho các nhsà xuất khẩu trong nước mà còn kéo theo một loạt những chính sách mới khuyến khích các nhà kinh doanh nước ngoài đến với thị trường Việt Nam như: đơn giản hoá các thủ tục, dở bỏ dần các hàng rào thuế quan theo quy định của tổ chức WTO Tuy nhiên cũng do mặt trái của việc mở thị trường và do sự thiếu chuẩn bị của các doanh nghiệp trong nước khiến cho chênh lệch cán cân thương mại càng tăng theo. Nhập siêu ngày càng tăng đặt ra câu hỏi cho các nhà sản xuất trong nước trong việc tăng cường sức cạnh tranh của hàng trong nước. Và câu hỏi giải quyết nghịch lí giữa việc có được những sản phẩm nhập khẩu rẻ hơn cho người tiêu dùng, người sản xuất và nhu cầu phát triển sản xuất trong nước, tạo việc làm cho người lao động; đó là khả năng mở rộng thị trường cho những ngành xuất khẩu có lợi thế và nguy cơ mất thị trường cho những ngành kém khả năng cạnh tranh.
4. Khả năng cạnh tranh
Sau những cải cách theo quy định của WTO và một loạt những chính sách hợp lí, khuyến khích doanh nghiệp và nhà đầu tư , môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cai thiện và được ghi nhận bằng việc tăng sáu bậc trong bảng xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu, từ vị trí 71 (trong số 82 nước) của giai đoạn 2004 - 2008 lên vị trí 65 của giai đoạn 2009 – 2013; tiếp tục được đánh giá cao về triển vọng thu hút đầu tư và được xếp thứ ba trong danh sách hấp dẫn đầu tư của các nhà đầu tư Nhật Bản sau Trung Quốc và Ấn Độ
5. Quan hệ thương mại của Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ
Mục tiêu tổng quát trong chiến lược Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010: phát triển xuất khẩu với tốc độ cao, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trong đó tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, tích cực phát triển các mặt hàng tiềm năng, mặt hàng mới theo hướng nâng cao hiệu quả đi đôi với chuyển dịch cơ cấu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu các nhóm hàng có giá trị gia tăng cao, giảm dần tỉ trọng hàng thô hoặc sơ chế, tăng xuất khẩu dịch vụ, phấn đấu đến năm 2010 xuất khẩu hàng hoá đạt trên 80 tỉ USD, tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2006- 2010 tối thiểu 18%.
Các mặt hàng xuất khẩu: Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu chủ lực truyền thống, cao su và cà phê lần đầu tiên đạt kim ngạch 1 tỉ USD. Các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD đã tăng từ 7 lên 9 nhóm, trong đó có bốn nhóm hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỉ USD là thủy sản, dệt may, giày dép và dầu thô.
Thị trường xuất khẩu: Xuất khẩu đã tăng ở hầu hết các khu vực và đang chuyển dịch từ châu Á sang châu Âu và châu Mỹ, trong đó châu Á-Thái Bình Dương tăng 19%, châu Âu tăng 27%, châu Mỹ tăng 33,4%, châu Phi-Tây Nam Á tăng 77,1% so với năm 2005. Tuy vậy, châu Á – châu Đại dương vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất đạt 20,84 tỉ USD chiếm 52,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, châu Mỹ đạt 9,2 tỉ USD chiếm 23,1%, châu Âu đạt 7,65 tỉ USD chiếm 19,2%, châu Phi-Tây Nam Á đạt 2,1 tỉ USD chiếm 5,3% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhiều thị trường mới, mặt hàng mới được khai thác rất có triển vọng, rõ nhất ở khu vực nam Mỹ, châu Phi, nam Âu, đông Âu, Nga và SNG. Cán cân thương mại đang được cải thiện. Tình trạng nhập siêu lớn từ châu Á đang được khắc phục từng bước, trong đó nhập siêu năm 2006 từ Singapore 4,6 tỉ USD, Trung Quốc 4 tỉ USD, Đài Loan 3,8 tỉ USD, Hàn Quốc 2,9 tỉ USD, Thái lan 1,9 tỉ USD, Hồng Kông 0,9 tỉ USD
Cải thiện môi trường pháp lý tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất, xuất nhập khâủ: Trong hai năm 2005-2006, Bộ Thương mại đã trình Quốc hội thông qua Luật Thương mại sửa đổi và Luật Cạnh tranh; trình Chính phủ thông qua 21 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thương mại mới và Luật Cạnh tranh; ban hành 13 Thông tư hướng dẫn thực hiện các Nghị định của Chính phủ liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
Ký kết được nhiều Hiệp định/thoả thuận thương mại quan trọng như Hiệp định tiếp cận thị trường với EU, Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, ASEAN - Ấn Độ, ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN – Australia-New Zealand, Hiệp định hợp tác kinh tế-thương mại với Hungari, Séc, Bulgari, Slovenia, v.v... Đặc biệt, đã kết thúc đàm phán gia nhập WTO vào thời điểm phù hợpĐến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ.
Chương trình xúc tiến thương mại: Năm 2005 có 169 chương trình xúc tiến thương mại với tổng kinh phí 321,88 tỉ đồng do 28 đơn vị chủ trì thực hiện, tập trung cho các hoạt động xúc tiến thương mại tại các thị trường Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga về đồ gỗ, hải sản, dệt may, giày dép.v.v... là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn.
Năm 2006 có 155 chương trình XTTM được phê duyệt, với kinh phí hỗ trợ của Nhà nước là 144,77 tỷ đồng (theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự thì mức độ chi cho hoạt động này của Việt Nam đang ở mức thấp nhất Thế giới). Cũng trong năm 2006, Việt Nam đã thực hiện xong 112 Chương trình xúc tiến thương mại (đạt 88% chương trình đề ra của cả nước) cao hơn nhiều những năm trước. Các Chương trình này do 27 đơn vị chủ trì thực hiện về thủy sản, gạo, chè, rau quả, dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm điện tử-tin học và một số mặt hàng mới xuất khẩu sang các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Nga, châu Phi và Trung Đông.
Năm 2007, công tác XTTM đã thay đổi cơ bản cách làm. Các chương trình XTTM đã được phê duyệt từ tháng 9/2006 sẽ thuận tiện cho việc triển khai thực hiện đồng thời tăng thêm đầu mối cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện toàn bộ danh mục các chương trình XTTM của năm 2007 đã được công khai trên trang Web của Bộ Thương mại.
Hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài: Bộ Thương mại đã thành lậpS 55 Thương vụ tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và 7 chi nhánh Thương vụ tại Tổng Lãnh sự quán các khu vực thị trường châu Âu, châu Á- Thái Bình Dương, châu Phi và châu Mỹ- La tinh. Trong đó, có 52 Thương vụ phụ trách quan hệ thương mại song phương, 1Thương vụ (Brussels) phụ trách quan hệ song và đa phương, 1 Thương vụ (Geneve) bên cạnh WTO phụ trách quan hệ đa phương.
- Châu Âu: 19 Thương vụ phụ trách thị trường 19 nước và 21 nước kiêm nhiệm.
- Châu Á -Thái Bình Dương: Có 15 Thương vụ phụ trách thị trường 15 nước, vùng lãnh thổ và kiêm nhiệm.
- Châu Mỹ-Latinh: 7 Thương vụ phụ trách thị trường 7 nước và kiêm nhiệm.
- Châu Phi-Tây Nam Á: 7 Thương vụ tại châu Phi và 6 Thương vụ tại Tây Nam Á.
6. Vẫn còn nhiều thách thức
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mặc dù GDP năm 2007 tiếp tục đà tăng trưởng, đạt 8,5%; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp-xây dựng và giảm tỷ trọng khu vực nông nghiệp, nhưng, năm 2008, do những tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tếGDP chỉ đạt 6,2% và chậm lại đáng kể vào quý IV/2008. Tăng trưởng xuất khẩu năm 2007 chưa thể hiện mức độ bứt phá so với các năm trước và như kỳ vọng sau khi nước ta gia nhập WTO, chỉ tăng 13,5%. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá năm 2007 đạt 62,7 tỷ USD (giá CIF), tăng 39,6% so với năm 2006, nhập khẩu và nhập siêu cả năm 2008 tương ứng là 80,4 tỷ USD và 17,5 tỷ USD. Vốn đầu tư nhà nước năm 2007 chỉ tăng 1,7% so với năm 2007. Vốn đầu tư ngoài nước và FDI vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao, vốn FDI năm 2007 đạt trên 129,3 nghìn tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD), chiếm tới 24,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; năm 2008 đạt khoảng 189,9 nghìn tỷ đồng (tương đương 11,3 tỷ USD), chiếm 29,8% tổng vốn đầu tư.
Sau 2 năm gia nhập WTO, số lao động có việc làm tăng chậm khoảng 2,3% và thấp hơn 2% so với năm 2007. Tình trạng thất nghiệp của lực lượng lao động ở khu vực thành thị mặc dù được cải thiện trong năm 2007, nhưng đến cuối năm 2008, số lao động mất việc làm tại các thành phố lớn và một số khu công nghiệp trong quý IV/2008 đã lên tới 30.000-40.000 người.
Đa số các ý kiến đều nhận định, mở cửa nền kinh tế theo cam kết hội nhập và gia nhập WTO chính là động lực dẫn đến việc tăng hiệu quả của nền kinh tế, từ đó dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế của nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng có thể là một trong các nguyên nhân gián tiếp làm cho các bất ổn trong nền kinh tế vĩ mô khó kiểm soát hơn. Lý do chủ yếu là cùng với việc gia nhập WTO, sự phụ thuộc của nền kinh tế thế giới cũng tăng lên, điều này thể hiện rõ nhất ở việc tỷ lệ giữa xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài ngày so với GDP ngày càng tăng (năm 2006 là 137%, năm 2007 là 140%, năm 2008 là 160%). Trong bối cảnh đó, chúng ta phải chủ động hơn trong điều hành, phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô để tránh, hoặc chí ít là giảm bớt các biến động trên thị trường thế giới đến nền kinh tế còn ở quy mô nhỏ của nước ta. Thực tế thời gian qua cho thấy, mặc dù tỷ lệ xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài vẫn cao, tình hình thế giới vẫn biến động phức tạp, nhưng nhờ chủ động quyết liệt trong công tác điều hành nên tốc độ tăng giá ở nước ta đã có dấu hiệu chững lại, tỷ giá và hệ thống tài chính-tiền tệ cũng đi vào giai đoạn ổn định hơn trước.
KẾT LUẬN
Trên đây là quá trình Việt nam gia nhập WTO - tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh và một số kết quả về kinh tế thương mại sau hai năm hội nhập. Việc Việt Nam gia nhập WTO có ý nghĩa quan trọng, là tin vui cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta đều hiểu rất rõ rằng, hội nhập tạo ra cơ hội, nhưng không đảm bảo sẽ biến cơ hội thành lợi ích. Cơ hội và thách thức bao giờ cũng đan xen, như mọi sự vật hiện tượng khác, đều có 2 mặt của một vấn đề. Thực tiễn cho thấy, nhiều quốc gia trước khi gia nhập WTO có cùng xuất phát điểm như nhau, nhưng sau khi trở thành thành viên của tổ chức này thì phát triển không đồng đều, điển hình là Hàn Quốc và Ghana có xuất phát điểm thu nhập đầu người bằng nhau khi vào WTO, nhưng trong khi Hàn quốc phát triển thì Ghana lại tụt hậu. Như vậy, một số nước hội nhập tốt hơn so với nước khác, đó là do họ có chính sách hội nhập hiệu quả hơn. Những nước không có chính sách hiệu quả sẽ bỏ lỡ thời cơ là sự thúc đẩy mà thương mại đem lại cho nền kinh tế.
Như vậy, vấn đề là nắm bắt thời cơ, tận dụng vận hội như thế nào để phát triển kinh tế - xã hội hiệu quả, đó là sứ mệnh cao cả, trách nhiệm to lớn mà lịch sử, thời đại giao phó cho chúng ta. Hơn nữa, trong một thế giới toàn cầu hóa, những tiến bộ, phát triển của chúng ta cần phải được đặt khung cảnh của những cuộc đua tranh, ta tiến thì thế giới cũng tiến, và thậm chí họ tiến nhanh, tiến xa hơn ta rất nhiều, chỉ riêng nội trong khu vực Đông Á thôi cũng đã minh chứng được điều đó.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Theo WTO.org; Wikipedia; Tài liệu hỏi đáp về WTO.
2. Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. WTO - Việt Nam và trách nhiệm của trí thức khoa học và công nghệ thời kỳ hội nhập quốc tế - Hà Nội, tháng 01 năm 2007.
3. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 2007 và kế hoạch năm 2008 của nghành Công Thương.
4. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 2008 và kế hoạch năm 2009 của nghành Công Thương.
5. Tờ trình của Chính Phủ về kết quả đàm phán WTO của Việt Nam.
6. WTO - Việt Nam và trách nhiệm của trí thức Khoa học và công nghệ thời kỳ hội nhập quốc tế. Hà Nội 01/2007.
7. Báo điện tử Vietnamnet.vn
8. Báo điện tử Vietbao.vn
9. Website Chính phủ
10. Website hoinhap.gov.vn
11. Website doanhnghiep24g.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1976.doc