Thứ hai là: Nguyên tắc “Đãi ngộ quốc gia” (NT), quy định tại Điều 3 hiệp định GATT, điều17 GATS và điều 3 TRIPS. Nguyên tắc NT được hiểu là hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hoá cùng loại trong nước. Trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi áp dụng của nguyên tắc NT đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ có khác nhau. Đối với hàng hoá và sở hữu trí tuệ, việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung (general obiligation).
Thứ ba là: Nguyên tắc “Mở cửa thị trường” hay còn gọi là “Tiếp cận thị trường” (Market access) thực chất là mở của thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Về mặt chính trị, nguyên tắc này thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO. Về mặt pháp lý, nó thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà đã chấp thuận khi đàm phán gia nhập WTO .
64 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiến trình gia nhập WTO và những thách thức đặt ra đối với Việt Nam khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u của Trung Quốc đạt 680 tỷ USD vào năm 2005 tăng 43% so với năm 2000.
Bảng: Giá trị xuất, nhập khẩu của Trung Quốc
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
2005
(ước)
Tổng xuất khẩu (Tỷ USD)
Tổng nhập khẩu (Tỷ USD)
Tổng kim ngạch (Tỷ USD)
250
225
475
258
245
503
325.75
295.05
620.77
330
350
680
(Nguồn: Tổng cục Thống kê Nhà nước Trung Quốc, 2003)
Theo báo cáo của chính phủ Trung Quốc thì tỉ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) không ngừng gia tăng, năm 2004 là 9.5%, luồng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài từ 13.32% tới 60.63 tỉ đôla trong năm 2004Bên cạnh đó, chính quyền các cấp ở Trung Quốc đang dựa vào yêu cầu của "luật hành chính" mới đợc ban hành, thực hiện việc quy phạm hành vi phê duyệt, kiện toàn chế độ công khai phê duyệt, hoàn thiện cơ chế phản hồi thông tin, xây dựng chế độ truy cứu trách nhiệm phê duyệt hành chính.
Gia nhập WTO có lợi cho cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa bảo hộ thương mại của Trung Quốc với Quốc tế. Trung Quốc có thể lợi dụng những quy tắc của WTO và cơ chế giải quyết tranh chấp, giải quyết tranh chấp thương mại với các thành viên khác, bảo hộ hợp lý các ngành và thị trường trong nước. Sau khi gia nhập WTO, tỷ lệ hầu kiện chống bán phá gía các sản phẩm xuất khẩu, các biện pháp bảo đảm của Trung Quốc được nâng cao một cách rõ rệt.
Bây giờ, việc Việt Nam gia nhập WTO chỉ còn là vấn đề thời gian, do đó kinh nghiệm của Trung Quốc sau khi gia nhập cũng là những bài học rất quý báu đối với Việt Nam. Thông thường, trong quá trình gia nhập các nước đều rất cố gắng nỗ lực cải cách hệ thống pháp luật, hệ thống các chính sách kinh tếnhng sau khi việc gia nhập WTO đạt đựơc thì một số nước thường lại chậm trễ trong việc tiếp tục điêù chỉnh những nội dung trên. Vậy câu hỏi đặt ra đối với các nhà chức trách của Việt Nam đó là: Liệu sau khi gia nhập được WTO,Việt Nam có giữ vững được tiến độ cải cách như hiện nay hay không?
Mặt khác, những vấn đề chủ yếu đặt ra đặt ra đối với Việt Nam sau khi gia nhập WTO đó là:
Thứ nhất: Phương thức quản lý kinh tế của Chính phủ vẫn chưa hoàn toàn thích ứng với tình hình mới, công tác ứng phó của các lĩnh vực và các ngành nghề khác nhau vẫn chưa cân đối.
Thứ hai: Chủ nghĩa bảo hộ thương mại quốc tế ngày càng tăng, đe doạ việc mở rộng xuất khẩu của nước ta.
Thứ ba:Sức ép mở cửa thị trường đặt ra trong vòng đàm phán thương mại đa phương mới cũng ngày càng tăng lên. Sẽ rất là nguy hiểm khi các doanh nghiệp trong nước có thể mất ngay thị trường tại "sân nhà".
Vậy Chính phủ cần phải làm gì để đối phó với những tình hình trên?
2. Kinh nghiệm của Campuchia đối với Việt Nam.
Là một nước kém phát triển và vấn đề thực hiện về việc quyền sở hữu, về đầu tư nước ngoài, thuê và sa thải nhân công, thuộc loại kém nhất thế giới trong số 10 nước kém nhất. Nhưng tại sao Campuchia xin gia nhập sau Việt Nam, lại có thể gia nhập WTO vào tháng 9/2003 đó là một câu hỏi rất lớn mà các nhà chức trách cần quan tâm và tìm hiểu để học hỏi kinh nghiệm. Từ việc nghiên cứu cho thấy lý do khiến Campuchia có thể gia nhập WTO được là vì: Thứ nhất: Campuchia đã xây dựng được một hệ thống toạ đàm tư vấn của các nhà tài trợ khá tập trung. Hệ thống này bao gồm các hội nghị chính thức của nhóm cố vấn và các cuộc hội đàm hậu nhóm cố vấn, tổ chức 2 năm một lân(nhóm cố vấn gồm các tổ công tác trong đó có các nhà tài trợ và chính phủ), tập trung vào các lĩnh vực cải cách cụ thể như: Khu vực tài chính, khu vực xã hội, khu vực côngbao gồm cả cải cách luật pháp và tư pháp và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Trong quá trình hợp thức hoá mạng lưới các chế độ trợ giúp thương mại của mình, Campuchia có khả năng cung cấp một số dịch vụ cho các nhà xuất khẩu: Thông tin chính sách thương mại và tin tức thương mại; Tiếp thị phát triển sản phẩm; Các dịch vụ tài chính và đào tạo. Một số tư nhân cũng như các tổ chức nhà nước- có khả năng cung cấp dịch vụ trợ giúp thương mại đã được tập hợp lại để tham gia vào việc trợ giúp thương mại. Các chế độ trợ giúp thương mại được coi là thành công ở Campuchia thời gian qua có thể kể đến như: Uỷ ban Luật Quốc gia được thành lập để giúp đỡ các doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn kĩ thuật và đóng gói hàng cho thị trường xuất khẩu; Các hiệp hội doanh nghiệp tư nhân thuộc từng lĩnh vực riêng cũng đã được hình thành.
Nhằm tạo ra môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh, đồng thời đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước, Campuchia đã có một số biện pháp trong lĩnh vực kinh tế, bao gồm cả việc cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
Về hoạt động đầu tư.
Campuchia rất quan tâm đến vấn đề tạo môi trường đầu tư tốt hơn thông qua các biện pháp: ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định an ninh chính trị-xã hội, ban hành thêm một số luật,Xây dựng mối quan hệ hợp tác giữa ngành thuế, hải quan với Hội đồng phát triển Campuchia, Uỷ ban đầu tư Campuchia và các Bộ, Ngành hữu quan. Tranh thủ viện trợ Quốc tế để đầu tư cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ cơ bản tạo điều kiện tốt cho môi trường đầu tư.
Về cải cách tài chính.
Đây là vấn đề then chốt trong chiến lược cải cách kinh tế của Campuchia. Chính sách này là một công cụ then chốt của quản lý kinh tế và cũng nhằm phất triển cơ cấu tài chính tạo ra các nguồn nội địa cần thiết cho chi tiêu công cộn đang ngày càng tăng lên ở các lĩnh vực hạ tầng cơ sở xã hội ưu tiên. Mặt khác, với chủ trương tiếp tục làm trong sạch và vững mạnh các định chế tài chính và quản lý ngân sách, tạo thặng dư ngân sách thông qua việc tăng thu ngân sách, hợp lý hoá và tăng hiệu quả các chương trình chi tiêu công cộng, tăng cường chức năng quản lý trong các ngành thuế và hải quan, thực hiện chế độ kiểm toán tại chỗ
Về hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng Quốc gia Campuchia tiến hành việc cấp phép lại và tăng vốn của hệ thống ngân hàng thương mại giúp cho các ngân hàng thương mại tránh được những khoản nợ khó đòi. Thông qua dự luật về các cơ sở ngân hàng và tài chính là vấn đề then chốt để đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng có hiệu quả, nhất là trong tình hình vốn ở các ngân hàng của Campuchia đang bị chảy ra nước ngoài.
Về cải cách hành chính.
Campuchia coi công tác cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống quản lý, chống tham nhũng là những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến việc phát triển đất nước. Một số nghiên cứu cho rằng “Bằng việc thực hiện thành công cải cách hành chính, Campuchia sẽ trở nên phát triển và có vị thế hơn. Canpuchia có thể huy động tiết kiệm trong và ngoài nước để phát triển đất nước. Tăng trưởng kinh tế sẽ đủ mạnh để hấp thụ những lao động mới có năng suất, tham gia vào thị trường lao động. Dự trữ ngoại tệ sẽ tăng ổn định, hạn chế sự bất ổn định cua tỷ giá hối đoái. Tỷ lệ lạm phát sẽ thấp và nền kinh tế Campuchia sẽ ngày càng có tính cạnh tranh so với các đối tác chính”. Trên thực tế Campuchia đã xác định mục tiêu cải cách hành chính là: “Xây dựng một cơ cấu hành chính độc lập, minh bạch và gần dân, thông qua việc hợp lý hoá cơ chế và phạm vi quản lý”. Đồng thời Campuchia đã ban hành chương trình Quốc gia về cải cách hành chính, hoàn thành công trình nghiên cứu về chương trình phi tập trung hoá và phân quyền, tăng thu nhập cho công chức, dự kiến thành lập Hội đồng tối cao về cải cách nhà nước và Hội đồng cái cách hành chính, cắt giảm biên chế trong cơ quan hành chính,Mặt khác, để có cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng, Campuchia đã ban hành Luật quy định trách nhiệm của người quản lý tiền công, Luật Kiểm toán,Cơ quan Kiểm toán Quốc gia được thành lập nhằm kiểm tra các cơ quan, tổ chức và cá nhân được sử dụng ngân sách nhà nước.
Như vậy, trước khi Campuchia trở thành thành viên của WTO, Campuchia đã thực hiện việc tự do hoá nền kinh tế, xoá bỏ hoàn toàn cơ sở kinh tế Quốc doanh, mở cửa thị trường cho tư nhân và đầu tư nước ngoài trên tất cả các lĩnh vực, kể cả sản xuất năng lượng, hạ tầng thông tin, dịch vụ thương mại-du lịch, ngân hàng, và đang hướng đến cả các lĩnh vực khác của hạ tầng cơ sở kinh tế như giao thông , thuỷ lợi, cảng biển, cơ cấu thành phần kinh tế ở Campuchia có thể làm cho tiến trình gia nhập WTO của Campuchia nhanh chóng và triệt để hơn. Kết quả là Campuchia đã gia nhập được tổ chức này vào ngày 23/11/2004.
Sau khi gia nhập WTO, Campuchia đã không ngừng cải thịên hệ thống chính sách. Theo ngân hàng thế giới (WB) năm 2001 tỉ lệ thuế quan trung bình là 15.8 giảm xuống 16.5% trong năm 2005. Theo ban thương mại của Mỹ thì Chính phủ Campuchia tiếp tục loại bỏ hàng rào phi thuế quan. Về giấy phép nhập khẩu , Campuchia yêu cầu phải có cho các mặt hàng súng ngắn và dược phẩm. Về giấy phép xuất khẩu, Campuchia yêu cầu phải có đối với những di tích cổ, đồ cổ, than và cao su. Việc tham gia vào tổ chức thương mại thế giới đã giúp cho Campuchia thu hút thêm được nguồn đầu tư từ nước ngoài như: ADB, IMF, WB.Bên cạnh đó tháng 2/2005 ADB đã phê chuẩn khoản vay cho
Campuchia trong hai năm trị giá 104.3 triệu USD và phê chuẩn chiến lược giảm đói nghèo trong 5 năm nhằm mục tiêu vào chống tham nhũng và các chương trình ở Tonle Sap-một hồ lớn ở Campuchia, vốn là nguồn cung cấp cá chính cho Campuchia.
Trên đây là những bài học kinh nghiệm quý báu của Campuchia mà Việt Nam nên học hỏi.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ ĐỐI PHÓ VỚI NHỮNG THACH THỨC KHI GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM.
1.Tích cực hoàn thành đàm phán các hiệp định song phương và hoàn tất quá trình gia nhập WTO.
Hiện nay Việt Nam vẫn còn 2 đối tác đàm phán chưa thành công đó là Hoa Kỳ và Mêhicô mà khó khăn của ta là vấn đề trên bàn đàm phán và thiện chí chính trị của các đối tác đàm phán. Vấn đề khó khăn trên bàn đàm phán đó là các vấn đề về tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông, dịch vụ văn hoá. Các đối tác đã đàm phán được đều có thiện chí với Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi. Các đối tác còn lại có những yêu cầu cao mà Việt Nam đang tiếp tục thương lượng để họ chấp nhận, linh hoạt trong việc xử lý các vướng mắc còn lại.
Đối với khó khăn thứ hai, tức là thiện chí của các đối tác còn lại, Việt Nam cũng đang tiếp tục vận động ngoại giao để họ biến quyết tâm chính trị ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO thành hành động cụ thể là kết thúc cuộc đàm phán với Việt Nam.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của Trung Quốc cũng như kinh nghiệm của Campuchia thì Việt Nam nên nhanh chóng đẩy nhanh chuẩn bị về hệ thống thị trường, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng để dần phù hợp với những nguyên tắc của WTO .
Mặt khác, đối tác mà Việt Nam đàm phán khó khăn nhất vẫn là Hoa Kỳ, nếu chúng ta kết thúc đàm phán với Hoa Kỳ sớm thì các nước còn lại sẽ không còn là vấn đề khó khăn. Chính vì vậy chúng ta phải nhanh chóng đưa ra những quyết sách cụ thể để cho Mỹ thấy được đầu tư vào Việt Nam là có lợi, và ta sẽ sẵn sàng nhượng bộ tất cả những điều kiện trong giới hạn cho phép mà ta có thể làm được, có như vậy thì việc đàm phán mới có thể nhanh chóng đi đến cái đích cuối cùng được .
2. Chuẩn bị tốt về nội lực để đối phó với các thách thức khi gia nhâp WTO
Gia nhập WTO không chỉ đem lại những cơ hội lớn mà còn cả những thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp trong nước và cả nền kinh tế quốc dân. Để có được những cơ hội đó nước ta đã phải trải qua hơn 10 năm tích cực đàm phán, nhưng để nắm bắt và tận dụng được những cơ hội đồng thời khắc phục, đẩy lùi được những thách thức đó lại là một thách lớn hơn nhiều. Theo Ông Long Vĩnh Đồ, Thứ trưởng Ngoại thương, trưởng đoàn đàm phán gia nhập WTO của Trung Quốc, đã tâm sự: “ Đàm phán chủ yếu để gia nhập WTO diễn ra ở Điếu Ngư Đài, ở Bắc Kinh chứ không phải ở Geneva. Nếu trong nước thống nhất, thông suốt, quyết tâm và tích cực chuẩn bị thì đàm phán ở Geneva đơn giản hơn nhiêu”. Câu nói đầy hình ảnh đó nói lên bản chất của việc gia nhập WTO là cải cách kinh tế trong nước, thiết lập các thể chế kinh tế thị trường, đối xử bình đẳng, minh bạch, công khai với doanh nghiệp trong nước và ngoài nước theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải chuẩn bị tốt về nội lực để sớm hoàn tất quá trình gia nhập WTO cũng như đối phó với những thách thức, từ đó tận dụng được những cơ hội khi gia nhập WTO, bằng cách đẩy mạnh cải cách kinh tế trong nước, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời phải đảm bảo phát triển bền vững
2.1.Về đẩy mạnh cải cách kinh tế trong nước
Cải cách kinh tế trong nước có rất nhiều nội dung, tuy nhiên có hai nội dung quan trọng liên quan trực tiếp đến hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, đó là về cải cách doanh nghiệp nhà nước và hệ thống tài chính – ngân hàng.
Về cải cách doanh nghiệp nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường với bối cảnh hội nhập và tự do hoá kinh tế như hiện nay thì sự tồn tại của hệ thống doanh nghiệp nhà nước là không nhất thiết, đặc biệt là trong một số lĩnh vực không nhạy cảm về an ninh chính trị và quốc phòng.
Mặt khác, khi Việt Nam ra nhập WTO thì quy định về doanh nghiệp thương mại nhà nước sẽ chặt chẽ hơn. Điều này sẽ buộc doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh trong môi trường hoàn toàn bình đẳng, không những với khu vực dân doanh mà cả với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam sau khi tiến hành công cuộc đổi mới doanh nghiệp cần phải năng động hơn trong tiến trình hội nhập quốc tế. Nhận thức được điều đó nên việc đổi mới, sắp xếp và phát triển doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn đã được Đảng và Nhà nước ta thực hiển trong hơn 15 năm qua. Tháng 11 năm 2005, Quốc hội đã thông qua luật doanh nghiệp (luật này có hiệu lực thi hành từ 01/07/2006), trong luật doanh nghiệp mới này không tồn tại doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời Quốc hội cũng quy định trong thời gian 4 năm, các doanh nghiệp Nhà nước phải hoàn tất sự chuyển đổi để chịu sự chi phối của Luật này. Điều này càng đòi hỏi phải đẩy nhanh hơn nữa việc cải cách các doanh nghiệp Nhà nước.
Mặc dù kết quả của quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong 15 năm qua đã có những kết quả đáng ghi nhận, xong cũng còn chứa đựng những thực trạng chưa được giải quyết. Sau đây là một số thực trạng và kiến nghị:
Thứ nhất, trong quá trình cải cách hay đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, Việt Nam đã không tiến hành chương trình tư nhân hoá rộng rãi, thay vào đó là chương trình cổ phần hoá dần các doanh nghiệp Nhà nước và giữ lại các lĩnh vực kinh tế chiến lược. Tuy nhiên theo đánh giá của IMF và WB, tiến độ cải cách (bao gồm cổ phần hoá, bán, giải thể, sát nhập- chủ yếu là cổ phần hoá) diễn ra rất chậm chạp, không đạt được như kế hoạch đề ra. Trong giai đoạn 1992-1997, chỉ có 20 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Theo kế hoạch của Nhà nước trong vòng ba năm từ 2001-2003 phải chuyển đổi khoảng 2053 doanh nghiệp, chiếm 31% lao động và 11% tổng vốn của khu vực doanh nghiệp Nhà nước , nhưng đến cuối năm 2003 mới chuyển đổi được khoảng 1000 doanh nghiệp trong đó cổ phần hoá là 800 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp chuyển đổi phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 5 tỷ đồng, số doanh nghiệp này chiếm đến 84% các doanh nghiệp được chuyển đổi.
Thứ hai, tiến độ cải cách doanh nghiệp Nhà nước diễn ra chậm chạp là do các trở ngại chủ yếu sau đây: thứ nhất là khó khăn trong việc định giá doanh nghiệp, đặc biệt là định giá đất. Phần lớn các trường hợp Nhà nước áp dụng giá không sát giá thị trường, thực tế cho thấy nếu doanh nghiệp được định giá thấp thì các nhà đầu tư bên ngoài không thể tham gia đầu tư, trong trường hợp như vậy tài sản của Nhà nước rơi vào tay một số cá nhân vụ lợi. Ngược lại nếu doanh nghiệp được định giá cao hơn giá thực tế của nó thì cổ phần bán không ai mua. Đây cũng là một cách để ban lãnh đạo doanh nghiệp cố tình trì hoãn việc chiyển đổi doanh nghiệp. Thứ hai, sức ì hay thái độ không hợp tác của các nhà quản lý doanh nghiệp và các Bộ ngành chủ quản vì họ không muốn mất đi quyền lãnh đạo và các đặc quyền đặc lợi khác mà họ đang có. Điều này khiến cho các doanh nghiệp né tránh việc chuyển đổi doanh nghiệp bằng nhiều biện minh khác nhau như doanh nghiệp của họ đóng vai trò quan trọng trong tổn công ty, sợ cổ phần hoá không ai mua, sợ công nhân mất việc.
Thứ ba, sự chậm chạp còn do Nhà nước muốn nắm cổ phần chi phối để kiểm soát doanh nghiệp và còn lo ngại về viêc làm cho người lao động hay nói cách khác Nhà nước còn thiếu quyết tâm hay thiếu can đảm chính trị cần thiết trong việc từ bỏ việc nắm giữ hay kiểm soát các hoạt động kinh tế một cách trực tiếp. Thực ra lý do việc làm của người lao động là không đáng lo ngại bởi vì tỷ lệ việc làm trong khu vực nhà nước hiện nay chỉ khoảng 9,3%, hơn nữa nhiều nghiên cứu về hậu chuyển đổi doanh nghiệp cho thấy các doanh nghiệp làm ăn khấm khá hơn, quy mô doanh nghiệp gia tăng nên đã tạo tạo ra nhiều việc làm hơn và tăng thu nhập cho người lao động. Chỉ một số ít lao động không phù hợp dôi ra và số lao từ các doanh nghiệp bị giải thể thì Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ và đào tạo lại để giúp họ tìm việc làm mới.
Thứ tư, số doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm cổ phần chi phối trên 51% vẫn còn nhiều, chiếm khoảng 47% trong tổng số doanh nghiệp cổ phần hoá. Việc định hướngcổ phần hoá như vậy sẽ dẫn đến vốn của Nhà nước tiếp rục bị dàn trải và không hấp dẫn các nhà đầu tư bên ngoài. Cổ phần hoá mà Nhà nước vẫn nắm cổ phần chi phối đã làm cho việc cổ phần hoá chỉ mang tính hình thức, không thay đổi căn bản được bộ máy quản lý và bản chất của doanh nghiệp (theo định nghĩa của các nước phương Tây thì loại hình doanh nghiệp như vậy cũng là doanh nghiệp Nhà nước) nên khó có thể đạt mục tiêu huy động vốn, cơ chế quản lý năng động và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Nếu Nhà nước muốn cải cách doanh nghiệp Nhà nước nhưng vẫn muốn nắm cổ phần chi phối thì khác nào thay bình mới cho rượu cũ bởi vì điều nay sẽ không khuyến khích các cổ đông rư nhân lớn bên ngoài đầu tư vào các doanh nghiệp và do đó không thể đầy nhanh được việc cải cách doanh nghiệp Nhà nước.
Ngoài ra tâm lý e ngại khu vực kinh tế tư nhân và vì lợi ích cục bộ của các Bộ ngành dẫn đến tình trạng ngăn cản, phân biệt đối xử với các nhà đầu tư lớn từ bên ngoài. Một yếu tố nhạy cảm khác về mặt chính trị là sợ người lao động mất quyền làm chủ nên chỉ ưu tiên bán cổ phần cho người lao động, điều này cũng tạo ra rào cản đối với các nhà đầu tư lớn, những người sẽ dốc hết khả năng và ưu thế vốn có vì doanh nghiệp và là những người có ảnh hưởng rất lớn đến tính hiệu quả của doanh nghiệp hậu chuyển đổi. Nói cách khác Nhà nước nên phân biệt được sự khác biệt về chuyên môn giữa người lao động, những cổ đông nhỏ, và các doanh nhân hay các nhà đầu tư lớn để có chính sách cải cách doanh nghiệp Nhà nước triệt để.
Trong tiến trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước chỉ nên duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp Nhà nước trong một số lĩnh vực có tính độc quyền tự nhiên như cung cấp nước, điện, cung cấp hàng hoá công như y tế, giáo dục, chiếu sáng công cộng nhằm tối đa hoá phúc lợi xã hội; các lĩnh vực nhạy cảm về an ninh quốc phòng, chính trị, văn hoá như sản xuất vũ khí, chất nổ, chất phóng xạ, hệ thống dự trữ quốc gia, báo chícác lĩnh vực mà hiện tư nhân chưa đủ sức làm hoặc không muốn làm như trồng rừng phòng hộ, thuỷ lợi, các công trình hạ tầng khó thu hồi đầu tưTuy nhiên không nên duy trì độc quyền nhà nước ở một số lĩnh vực không nhạy cảm về an ninh chính trị và quốc phòng, nên cho phép khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào để tạo ra sự cạnh tranh cần thiết.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên tăng cường áp dụng các công cụ thay thế cho hình thức doanh nghiệp nhà nước như thuế, trợ cấp, chính sách chống độc quyền, các qui định và luật lệ hay đặt hàng cho doanh nghiệp khu vực tư nhân để giảm thiểu sự can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế nhằm tập trung nguồn lực vào việc nâng cao hiệu quả quản lý hành chính nhà nước.
Về hệ thống tài chính – ngân hàng
Trên thực tế đã cho thấy sự tự do hoá các hoạt động tài chính, ngân hàng đã có những tác động mạnh tới thu nhập và tăng trưởng, cải thiện chất lượng và hiệu quả đầu tư; Nâng cao sự phân bổ nguồn lực theo ngành, theo thời gian và quốc tế một cách có hiệu quả. Có thể nói rằng tự do hoá tài chính là quá trình xoá bỏ các hạn chế, các định hướng hay ràng buộc trong việc phân bổ nguồn lực tín dụng. Mọi điều tiết trong quá trình phân bổ này đều được đặt trên nền tảng là cơ chế giá, tức là các định chế tài chính được quyền tự do xác định lãi suất tiền gửi, cho vay. Điều này cũng bao hàm việc xoá bỏ các mức trần lãi suất cũng như các ràng buộc khác trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được. Tự do hoá tài chính sẽ tạo môi trường và điều kiện mở rộng cạnh tranh trong hoạt động của các định chế tài chính, tạo lập cơ chế, một khuân khổ về đối xử bình đẳng giữa những loại hình định chế tài chính làm giảm sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ và các giao dịch tài chính. Tự do hoá tài chính cùng với việc xoá bỏ kiểm soát về lãi xuất và các dịch vụ tài chính, giảm thiểu tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xoá bỏ bao cấp vốn qua chỉ định tín dụng, tự do hoá hoạt động ngoại hối, tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính thì việc phát triển mạnh thi trường tài chính tiền tệ được coi là điều kiện không thể thiếu trong quá trình tự do hoá tài chính. Bởi lẽ, các quan hệ tài chính, các hoạt động của các định chế tài chính thực hiện theo các tín hiệu của thị trường và được điều tiết theo các quy luật của thị trường. Nhà nước định hướng, điều tiết, can thiệp và quản lý các hoạt động của các định chế tài chính thông qua thị trường tài chính bằng các công cụ gián tiếp. Như vậy có thể nói khi quá trình tự do hoá tài chính càng cao thì vai trò của thị trường tài chính ngày càng quan trọng, và việc phát triển thị trường tài chính là điều quan trọng để thúc đẩy tự do hoá tài chính. Như vậy Việt Nam cần tổ chức lại và củng cố thị trường liên ngân hàng với cơ chế hoạt động thông thoáng, đồng thời tăng cường vai trò giám sát, điều hành hoạt động thị trường của ngân hàng nhà nước với tư cách là tổ chức và là thành viên của thị trường có khả năng kiểm soát và xử lý tình trạng mất cân đối cung- cầu về tiền tệ trên thị trường để định hướng lãi suất và tỷ giá. Việt Nam cần phát triển thị trường đấu thầu trái phiếu, tín phiếu kho bạc. Tăng cường sự liên kết hoạt động và quản lý, điều hành giữa các thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán nhằm tăng tính linh hoạt của thị trường và khả năng phòng ngừa cũng như khả năng chuyển đổi rủi ro giữa các thị trường.
Mặt khác, Việt Nam cũng cần mở cửa một phần thị trường tài chính và bảo hiểm trong nước, cho phép vốn nước ngoài có điều kiện tự do tham gia thị trường vốn trong nước nhằm thu hút nguồn vốn từ nước ngoài, tăng số lượng ngân hàng nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam.
2.2. Về đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế
Thực hiện các biện pháp chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, bao gồm:
Xác định cụ thể các mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn về hội nhập kinh tế quốc tế trong chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, làm cơ sở cho việc hoạch định nội dung, lộ trình tham gia các tổ chức hợp tác, liên kết quốc tế, đồng thời định hướng cho các doanh nghiệp, các Bộ, các địa phương xây dựng và thực thi chương trình hội nhập kinh tế quốc tế của mình.
Kết hợp hài hoà và có hiệu qủa giữa hội nhập đa phương, khu vực và song phương dựa trên nguyên tắc chung là cùng có lợi, cùng phát triển và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Đối với hội nhập đa phương, cần xác định rõ việc gia nhập WTO và thực hiện các cam kết với tổ chức này là nền tảng chung của quá trình hội nhập. Về hội nhập khu vực, coi việc hợp tác toàn diện với ASEAN và cùng ASEAN phát triển quan hệ với một số đối tác khác là một ưu tiên chiến lược, đồng thời là chỗ dựa để mở rộng và củng cố các quan hệ hợp tác khu vực và song phương. Trong quan hệ song phương, tích cực mở rộng các quan hệ đối tác tin cậy để chủ động hợp tác, phân công quốc tế, phát huy lợi thế so sánh của đất nước, trong đó cần xác định các đối tác song phương rất quan trọng như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Nga, Ấn Độ và một số nước trong ASEAN trên cơ sở xem xét toàn diện các yêu cầu về phát triển bền vững.
Tăng cường vai trò của Nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong việc tạo lập khung pháp lý và thể chế thông qua việc ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương, khu vực và song phương. Cải cách pháp lý để có được một hệ thống pháp luật tương đối đủ về số lượng, bảo đảm tính đồng bộ, nhất quán, ổn định, minh bạch, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hành lang pháp lý để thực hiện những cam kết quốc tế. Trong lập pháp, lập qui, cần cải cách theo hướng tập trung xây dựng luật, hạn chế tối đa việc ban hành các văn bản dưới luật, vừa chồng chéo, kém hiệu quả và không minh bạch; tiến tới chấm dứt việc ban hành văn bản dưới luật có chức năng độc lập về qui phạm pháp luật.
Thực hiện các chính sách và biện pháp tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể là trong xuất khẩu, nhập khẩu, liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài, và trong việc đầu tư ra nước ngoài. Nội dung chính sách chủ yếu ở đây hướng vào đẩy mạnh tự do hóa thương mại, đầu tư và cải cách thủ tục hành chính trong thương mại và đầu tư quốc tế.
Thực hiện các biện pháp nhằm làm cho hội nhập kinh tế quốc tế thâm nhập sâu vào đời sống xã hội. Phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị và phát huy vai trò của báo chí, của các hiệp hội để tiến hành rộng rãi công tác giải thích trong các doanh nghiệp, doanh nhân và mọi tầng lớp trong nhân dân nhằm đạt được nhận thức và hành động thống nhất, nhất quán về hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3. Về đảm bảo phát triển bền vững
Phát triển bền vững là mục tiêu của mọi quốc gia ở bất kỳ thời điểm nào trong ngắn hạn hay trong dài hạn, tuy nhiên, trong quá trình toàn cầu hoá chứa đựng nhiều phức tạp, liên quan giữa các quốc gia thì mục tiêu đảm bảo phát triển bền vững lại càng quan trọng hơn. Để đạt được sự phát triển bền vững thì trước tiên phải giải quyết được những nội dung sau:
Về môi trường:
Mặc dù nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc hoạch định các thể chế, chính sách và tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ môi trường, tuy nhiên, trên thực tế, quá trình phát triển kinh tế đã gây ra những vấn đề ngày càng nghiêm trọng về môi trường sinh thái, tình trạng khai thác khoáng sản quá mức, phá rừng, xói mòn đất, ô nhiễm các nguồn nước, ô nhiễm môi trường công nghiệp, đô thị và nông thôn, thiên tai thường xuyên với tần suất cao, sự suy giảm các nguồn tài nguyên đa dạng sinh học, đang là một thực tế ngày càng nghiêm trọng ở nước ta. Dưới đây là bảng đánh giá chung về ô nhiễm của các ngành công nghiệp ở Hà Nội năm 2003.
BẢNG 1: ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ Ô NHIỄM CỦA CÁC NGÀNH
CÔNG NGHIỆP Ở HÀ NỘI NĂM 2003
STT
Ngành
Thành phần môi trường
Bụi
Khí độc
Tiếng ồn
Nước
Sức khỏe cộng đồng
Kim loại nặng
1
điện lực
Nhiệt điện
****
****
**
***
V
**
Thủy điện
V
V
V
V
****
V
2
Cơ khí
**
**
***
**
***
**
3
Hóa chất
***
****
**
**
***
**
4
Luyện kim
****
****
***
***
***
***
5
điện tử
V
V
V
**
V
***
6
Khai khoáng
****
**
***
****
**
***
7
Dệt nhuộm
****
***
**
****
V
***
8
Giấy
****
***
**
****
V
V
9
Thuộc da
***
****
**
****
V
****
10
Bột ngọt
**
**
V
****
V
V
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường thành phố Hà Nội, 2003)
Chú thích: **** ô nhiễm nặng
*** ô nhiễm vừa
** ô nhiễm nhẹ
V không ô nhiễm
Từ bảng trên cho ta thấy các ngành công nghiệp của nước ta thải ra một lượng thải rất lớn vào môi trường, gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Hiện nay sự suy thoái và xuống cấp của môi trường đang trở thành thực trạng đáng báo động ở nước ta. Đặc biệt khi nước ta gia WTO, nền kinh tế phát triển đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp với sự đầu tư ồ ạt của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều đó có nghĩa là con người sẽ tác động ngày càng nhiều vào môi trường tự nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên mạnh hơn và thải ra lượng chất thải nhiều hơn, độc hại hơn vào môi trường làm huỷ hại môi trường với tốc độ nhanh hơn. Trong khi đó bảo vệ môi trường là một trong ba cột trụ chính của phát triển bền vững, nếu nhà nước không có những biện pháp nhằm bảo vệ môi trường thì sẽ không thể đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Dưới đây là một số kiến nghị về vấn đề bảo vệ môi trường.
Thứ nhất, thực hiện lồng ghép đầy đủ và cụ thể các vấn đề môi trường, tài nguyên vào các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội các cấp và các chương trình, dự án đầu tư. Vấn đề bảo vệ môi trường, tài nguyên ở đây không chỉ được coi là một yêu cầu tất yếu mà còn phải coi là mục tiêu hướng tới. Cần thực hiện cấp bách hai việc: (1) làm thay đổi nhận thức và tư duy của các nhà hoạch định chính sách để họ thấm sâu quan điểm về phát triển bền vững sinh thái, thân thiện với môi trường; (2) xây dựng và hoàn thiện qui trình lồng ghép các vấn đề bảo vệ môi trường, tài nguyên vào các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ hai, Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành các qui định cụ thể về việc áp dụng và cưỡng chế thi hành các tiêu chuẩn môi trường đối với các doanh nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa tất cả các loại hình doanh nghiệp khi thực hiện các qui định kiểm soát ô nhiễm. Đồng thời, Nhà nước cần bổ sung các chính sách, khuyến khích việc nhập khẩu và sử dụng các loại công nghệ sạch, ít gây ô nhiễm, ưu tiên sử dụng máy móc, thiết bị và sản phẩm ít phế thải.
Thứ ba, tăng cường đầu tư của nhà nước và huy động các nguồn đầu tư đa dạng khác cho công tác bảo vệ môi trường, như: nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ về bảo vệ môi trường; hiện đại hóa hệ thống theo dõi, kiểm soát, phân tích, đánh giá các yếu tố môi trường trên toàn quốc; khắc phục tình trạng ô nhiễm, bảo tồn và tăng trưởng đa dạng sinh học;
Thứ tư, tăng cường quản lý nhà nước về môi trường theo phương châm “ phòng bệnh hơn chữa bệnh”, chú trọng phòng ngừa ô nhiễm, bảo vệ thiên nhiên, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về môi trường, đồng thời thực hiện các biện pháp nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo vệ môi trường.
Về xã hội và xóa đói giảm nghèo
Theo một số nhà nghiên cứu, một xã hội càng công bằng thì càng có mức tăng trưởng nhanh. Công bằng xã hội ở đây không chỉ là công bằng trong phân phối thu nhập, mà rất quan trọng là sự bình đẳng trước các cơ hội nâng cao nguồn vốn nhân lực và có mức sống cao hơn; nói cách khác, tất cả mọi người dân đều có khả năng tiếp cận các cơ hội phát triển.
Người nghèo – nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế toàn cầu. Đối với các nước đang phát triển như nước ta có tầng lớp dân nghèo vẫn chiếm đa số thì các chính sách nhằm giải quyết tận gốc tình trạng đói nghèo có vai trò cực kỳ quan trọng. Xóa đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tăng thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định của xã hội. Ở một mức độ nhất định, xét về ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể thu nhập xã hội cho chương trình xóa đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, xong xét một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xóa đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững, đóng góp vào quá trình phát triển chung của đất nước.
Nhiều nước, mặc dù GDP tính theo đầu người đạt mức cao, nhưng mức sống của đa số cư dân vẫn không được cải thiện tương ứng, phúc lợi do tăng trưởng đem lại rơi vào tay một nhóm nhỏ người trong xã hội. Với những nước như vậy, khó có thể nói là họ đã đạt những mục tiêu phát triển. Trong những năm qua Nhà nước ta đã có những chính sách tích cực nhằm khắc phục những thất bại của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là về thất nghiệp, sự bất bình đẳng trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo và các tệ nạn xã hội. Tuy nhiên cũng còn nhiều bất cập, được thể hiện:
BẢNG 2. BẤT BÌNH ĐẲNG GIỮA NHÓM GIÀU NHẤT VÀ NHÓM NGHÈO NHẤT CỦA VIỆT NĂM 2002
Nhóm
giàu nhất
Nhóm
Nghèo
Nhất
Tỷ lệ nhóm giàu nhât / nhóm nghèo nhất
Tỷ lệ biết chữ(%)
97
83.9
1.16
Chi tiêu cho giáo dục bình quân năm ( nghìn đồng)
1418
236
6.00
Tỷ lệ đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế (%)
22
16.5
1.33
2.99
Chi tiêu cho y tế bình quân năm
(nghìn đồng)
1181.43
395.03
1.70
Số giờ làm việc trung bình tuần ( giờ)
42.4
25
8.08
Thu nhập bình quân đầu người tháng (nghìn đồng)
873
108
4.44
Chi tiêu cho đời sống bình quân
đầu người tháng
(nghìn đồng)
547.53
123.3
1.84
Diện tích ở bình quân nhân khẩu ( m2)
17.5
9.5
27.29
Tỷ lệ hộ sử dụng nước máy (%)
34.93
1.28
(Nguồn: Tổng cục Thống kê, Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình năm 2002)
BẢNG 3: CÁC NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NGHÈO ĐÓI, 2002
Thiếu vốn
Thiếu đất
Thiếu lao động
Thiếu kinh nghiệm
Bệnh tật
Tệ nạn
Rủi ro
đông người
Cả nước
63.69
20.82
11.40
31.12
16.94
1.18
1.65
13.6
-Đông Bắc
-Tây Bắc
-ĐB sông Hồng
-Bắc Trung Bộ
-Duyên Hải miền Trung
-Tây Nguyên
-Đông Nam Bộ
-ĐB sông Cửu Long
55.20
73.60
54.96
8.095
50.84
65.95
79.92
48.44
21.38
10.46
8.54
18.90
12.59
26.12
20.08
47.73
8.26
5.56
17.50
14.60
10.8.
7.76
8.64
5.47
33.45
47.37
23.29
50.65
17.57
27.11
20.60
5.88
7.79
5.78
36.26
14.42
31.95
9.03
17.54
4.22
2.30
0.58
1.46
0.80
0.83
1.22
0.37
0.87
1.26
0.52
2.39
1.92
1.34
1.32
0.39
1.80
12.08
9.39
7.30
16.61
20.71
13.72
9.50
11.95
(Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, số liệu nghèo đói năm 2002)
Vì vậy, để đảm bảo cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội tiến triển với tốc độ nhanh và bền vững, Chính phủ Việt Nam cần đề ra các chính sách thích hợp nhằm làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, giảm khoảng cách về thu nhập và giúp người nghèo nâng cao mức sống, thực hiện công bằng xã hội và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Về thực hiện công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo:
Thứ nhất, thực hiện các chính sách và biện pháp nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư trong việc tiếp cận với các yếu tố “ đầu vào” và hưởng thụ các kết quả “đầu ra” của quá trình sản xuất, kinh doanh. Thực chất, đây chính là những chính sách nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và phát triển thị trường ( đã được trình bày ở các phần trên). quan hệ bình đẳng giữa các thành phần kinh tế hướng vào sự tiếp cận bình đẳng với các yếu tố “đầu vào”, còn việc phát triển thị trường có sự điều tiết thích đáng của nhà nước đảm bảo sự phân phối bình đẳng các kết quả “đầu ra”. Chính cơ chế thị trường lành mạnh đảm bảo thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn và nguồn lực khác vào quá trình sản xuất, kinh doanh - đây là nguyên tắc phân phối chủ yếu được chúng ta thừa nhận trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ hai, điều chỉnh thích hợp chính sách đầu tư phát triển để đạt tới một cơ chế phân bổ nguồn lực hướng đến sự công bằng xã hôị, cụ thể là cần tập trung vào những định hướng chính sau đây:
+ Tăng cường và khuyến khích đầu tư cho các ngành và các dự án tạo ra nhiều việc làm mới, nâng cao thu nhập cho nhiều người.
+ Việc ưu tiên đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm là rất cần thiết nhằm tạo ra những “đầu tàu” tăng trưởng, song cũng cần phải chú ý đầu tư thích đáng cho các vùng khác, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây. Tuy nhiên, cần tránh tình trạng đầu tư tràn lan, đầu tư theo phong trào, không tính đến hiệu quả gây lãng phí nguồn lực.
+ Đầu tư vốn cho khu vực doanh nghiệp nhà nước nhất thiết phải tuân thủ nguyên tắc doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động có hiệu quả trong cơ chế thị trường. Đồng thời, cần giảm thiểu mạnh mẽ bao cấp cho khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, thực hiện có hiệu quả chính sách phúc lợi xã hội, đồng thời bổ sung và mở rộng thành hệ thống chính sách an ninh xã hội gồm nhiều tầng nấc với các chính sách then chốt như:
+ Chính sách ưu đãi xã hội nhằm bảo đảm mức sống của những người có công với cách mạng, ít nhất là ngang mức trung bình ở địa phương.
+ Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động một phần tích lũy từ thu nhập của người dân lúc bình thường để đáp ứng nhu cầu khi không có việc làm, khi ốm đau hoặc khi gặp chuyện không may
+ Chính sách trợ cấp xã hội để cưu mang những người yếu thế và dễ bị tổn thương.
+ Chính sách tương trợ xã hội nhằm phát huy truyền thống tương thân tương ái trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống.
+ Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại do dịch họa, thiên tai hoặc rủi ro trong cuộc sống.
Để tăng cường mạng lưới an ninh xã hội, cần duy trì và bổ sung các chính sách nêu trên, đặc biệt chú ý đến việc khuyến khích sự tham gia của đông đảo các tầng lớp dân cư nhằm huy động được các nguồn lực đa dạng cho việc thực thi chính sách. Đối với nguồn ngân sách nhà nước, cần điều chỉnh phương pháp phân bổ theo hướng trao quyền chủ động cho các địa phương, nhất là cấp xã, cấp huyện để đẩy mạnh phát triển các quĩ cộng đồng ở làng, xã - nơi tập trung nhiều người nghèo, yếu thế.
Thứ tư, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác xóa đói, giảm nghèo một cách vững chắc. Năm 2002, Việt Nam đã ban hành Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, sau ba năm thực hiện nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Trong thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược này, chú trọng một số biện pháp chủ yếu sau đây:
+ Nâng cao năng lực của các ngành, các cấp trong xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội gắn với mục tiêu tăng trưởng và giảm nghèo. Thực hiện việc lồng ghép các mục tiêu của Chiến lược xóa đói, giảm nghèo vào các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm và hàng năm.
+ Tăng cường sự phối hợp giữa các Bộ, các địa phương trong quá trình thực hiện Chiến lược, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách phát triển kinh tế – xã hội một cách đồng bộ.
+ Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, đáng giá Chiến lược xóa đói giảm nghèo.
+ Tăng cường sự tham gia của cộng đồng dân cư trong công tác xây dựng, giám sát và đáng giá thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, và chiến lược xóa đói, giảm nghèo.
Về phòng chống các tệ nạn xã hội
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, giáo dục, làm chuyển biến nhận thức về định hướng giá trị, lối sống lành mạnh, không xa vào tệ nạn xã hội, nhất là trong thanh niên, thiếu niên, phát động nhân dân, bắt đầu từ trong mỗi gia đình, mỗi nhà trường, mỗi đơn vị công tác đến từng thành viên của tổ chức chính trị – xã hội tham gia đấu tranh, phòng, chống tệ nạn xã hội.
Thứ hai, phát hiện, đánh giá, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng các mô hình có hiệu quả chữa trị cai nghiện và tái hòa nhập cộng động cho các đối tượng nghiện ma túy, mại dâm. áp dụng các biện pháp kinh tế – xã hội sau cai nghiện, nhất là dạy nghề, lao động trị liệu tạo việc làm và cách ly môi trường dễ dẫn đến tái phạm.
Thứ ba, mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động xây dựng xã, phường lành mạnh, không có tệ nạn xã hội gắn chặt với cuộc vân động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới”. Huy động nguồn lực của cộng đồng cho công tác cai nghiện, phòng chống tệ nạn mại dâm; xây dựng các đội công tác xã hội tình nguyện, các hội cơ sở trong việc đỡ đầu, hỗ trợ đối tượng và gia đình có người nghiện không xa lánh, kỳ thị những người mắc tệ nạn xã hội, những người nhiễm HIV/AIDS.
Thứ tư, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy phòng, chống tệ nạn xã hội, nâng cao năng lực cán bộ chuyên trách phòng, chống tệ nạn xã hội các cấp, nhất là cấp cơ sở.
KẾT LUẬN
Từ khi ra đời, WTO mà tiền thân là GATT đã không ngừng lớn mạnh và không ngừng gia tăng lợi ích cho các quốc gia thành viên về mặt kinh tế. Ý thức được tầm quan trọng đó, Việt Nam đã nộp đơn xin gia nhập vào tổ chức (1995). Sau rất nhiều những nỗ lực thực hiện cải cách hệ thống chính sách cũng như việc cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiên hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế Thế giới. Đó cũng là tiền đề để Việt Nam đạt những thành công trên bàn đàm phán song phương và đa phương. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khiến Việt Nam đã không thể gia nhập WTO vào năm 2005. Để khắc phục những khó khăn này và đối phó với những thách thức khi gia nhập WTO thì việc học tập những kinh nghiệm của Campuchia và Trung Quốc là vô cùng quan trọng.
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần phải nhanh chóng trở thành thành viên chính thức của tổ chức này. Nếu Việt Nam gia nhập càng muộn thì khó khăn Việt Nam gặp phải càng nhiều. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên cứu đề tài này chúng em muốn thấy được tổng quan về tổ chức này cũng như vai trò của nó đối với nền kinh tế thế giới. Mặt khác, cũng muốn thấy được nguyên nhân tại sao Việt Nam lại không thể gia nhập tổ chức này vào năm 2005. Để qua đó có những phương hướng và biện pháp đối phó với những thách thức khi gia nhập tổ chức này. Năm 2006 mở ra với việc chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ kết thúc các cuộc đàm phán một cách tốt đẹp, trở thành thành viên chính thức của WTO trong năm nay, và trong tương lai với những nỗ lực không ngừng, Việt Nam sẽ nắm bắt được những cơ hội khi là thành viên của WTO và đưa nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển.
MỤC LỤC
Lời mở đầu.
Chương I: Tổng quan về WTO và sự cần thiết của việc gia nhập WTO.
I: Giới thiệu tổng quan về tổ chức thương mại thế giới (WTO).
1.Lịch sử hình thành, mục tiêu và chức năng của WTO.
2.Nguyên tắc hoạt động của WTO
3.Cơ cấu tổ chức của WTO.
4.Sơ lược các hiệp định của WTO.
5.Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
6. Qui định về việc gia nhập WTO.
II: Tại sao Việt Nam cần phảI gia nhập WTO.
1.Vai trò của thương mại quốc tế.
2.Thương mại quốc tế và quá trình phát triển của các quốc gia.
Chương 2: Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO, cơ hội và thách thức.
I.Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam.
1.Khái quát về tiến trình gia nhập WTO.
2.Những nguyên nhân chủ yếu khiến Việt Nam chưa thể gia nhập WTO vào năm 2005.
II.Đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO.
1.Việt Nam đã làm gì để đẩy nhanh tiến trình gia nhập WTO.
2.Những vòng đàm phán đa phương và song phương của Việt Nam với một số quốc gia.
III.Cơ hội và thách thức.
Chương 3:Những bài học kinh nghiệm của một số quốc gia khi gia nhậpWTO và những kiến nghị.
I.Những bài học kinh nghiệm của một số quốc gia khi gia nhập WTO.
1.Kinh nghiệm của Trung Quốc đối với Việt Nam.
2.Kinh nghiệm của Campuchia đối với Việt Nam.
II.Một số kiến nghị để đối phó với các thách thức khi gia nhập WTO của Việt Nam.
1.Tích cực hoàn thành đàm phán các hiệp định song phương và hoàn tất quá trình gia nhập WTO.
2.Chuẩn bị tốt về nội lực để đối phó với những thách thức khi gia nhập WTO.
Kết luận.
Danh mục các chữ cái viết tắt.
Danh mục các tài liệu tham khảo.
Trang
1
3
3
3
3
4
5
6
7
9
9
13
21
21
21
23
33
33
35
37
40
40
40
44
46
46
47
58
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AD, A-D
Anti-dumping measures
Phương sách chống bán phá giá
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực thương mại tự do ASEAN
APEC
Asia-Pacific Economic Cooperation
Hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các nớc Đông Nam Á
ATC
Agreement on Textiles and Clothing
Hiệp định về quần áo và hàng dệt may
CTD
Committee on Trade and Development
Uỷ ban thương mại và phát triển
CTE
Committee on Trade and Environment
Uỷ ban thương mại và môi trờng
DDA
Doha Development Agenda
Trương trình nghị sự phát triển Doha
DSB
Dispute Settlement Body
Uỷ ban giải quyết tranh chấp
DSU
Dispute Settlement Understanding
Điều kiện giải quyết tranh chấp
EFTA
European Free Trade Association
Hiệp hội tự do thương mại Châu Âu
EIU
Economist Intelligence Unit
Cơ quan tình báo kinh tế
EU
European Union (officially European Communities in WTO)
Liên minh Châu Âu
FAO
Food and Agriculture Organization
Tổ chức lương thực và nông nghiệp
GATS
General Agreement on Trade in Services
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GATT
General Agreement on Tariffs and Trade
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
GSP
Generalized System of Preferences
Hệ thống ưu đãi phổ cập
ILO
International Labour Organization
Tổ chức lao động quốc tế
IMF
International Monetary Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
ITC
International Trade Centre
Trung tâm thương mại quốc tế
ITO
International Trade Organization
Tổ chức thương mại quốc tế
MERCOSUR
Southern Common Market
Thị trường chung Nam Mỹ
MEA
Multilateral environmental agreement
Hiệp định môi trường đa biên
MFN
Most-favoured-nation
Nguyên tắc tối huệ quốc
MTN
Multilateral trade negotiations
Đàm phán Thương mại đa phương
NAFTA
North American Free Trade Agreement
Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ
NT
National Treatment
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
S&D, SDT
Special and differential treatment (for developing countries)
Sự đối sử đặc biệt và ưu tiên (cho các quốc gia đang phát triển)
TMB
Textiles Monitoring Body
Ban quản lý hàng dệt may
TNC
Trade Negotiations Committee
Uỷ ban đàm phán thương mại
TNCs
Through Nations Corporation
Công ty đa quốc gia
TPRB
Trade Policy Review Body
Ban kiểm điểm chính sách thương mại
TPRM
Trade Policy Review Mechanism
Cơ chế xem xét chính sách thương mại
TRIMs
Trade-related investment measures
Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
TRIPS
Trade-related aspects of intellectual property rights
Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ có liên quan đến thương mại
UNCTAD
UN Conference on Trade and Development
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển
UNDP
UN Development Programme
Chương trình phát triển liên hợp quốc
UNEP
UN Environment Programme
Chương trình môi trường liên hợp quốc
UR
Uruguay Round
Vòng đàm phán Uruguay
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới
WCO
World Customs Organization
Tổ chức Hải quan thế giới
WIPO
World Intellectual Property Organization
Tổ chức bảo vệ sở hữu trí tuệ thế giới
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
BẢNG TÓM TẮT CẤU TRÚC CƠ BẢN CỦA HIỆP ĐỊNH WTO. LÀM THẾ NÀO ĐỂ SÁU KHU VỰC CÓ THỂ PHỐI HỢP HÀI HOÀ VỚI NHAU.
umdrella
AGREMENT ESTABLISING WTO (hiệp định thành lập WTO)
Goods (hàng hoá)
Services (dịch vụ)
Intellectual proverty
(sở hữu trí tuệ)
Basic principles
(Những nguyên lý cơ bản)
GATT (hiệp định chung về thuế quan)
GATS (hiệp định chung về thương mại dịch vụ)
TRIPS (hiệp định về quyền sở hữư trí tuệ)
Additional details (những quy định chi tiết đi kèm
Other goods agreements and annexes (những hiệp định và phần phụ đi kèm của những hàng hoá khác)
Services annexes (những dịch vụ phụ)
Market access commitments (những cam kết gia nhập thị trường)
Countries’schedules of commitments (chi tiết cam kết của các quốc gia)
Countries’schedules of comitments (and MFN exemptions)(chi tiết cam kết của các quốc gia
Disput settlement
Giải quyết tranh chấp)
DISPUTE SETTLEMENT BODY
(cơ quan giải quyết tranh chấp)
Transparency (sự rõ ràng)
BIỂU 8 : KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
SAU KHI THIẾT LẬP QUAN HỆ VỚI HOA KỲ
Đ.vị
1985
1990
1995
2000
2004
Ước 2005
Tổng kim ngạch cả nước
Tr. USD
698,5
2.153,4
4.953,5
13.329,0
26.504,0
31.500,0
Kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ
Tr. USD
0,0
0,0
169,7
732,8
4.992,30
6.230,0
Tỷ trọng kim ngạch thị trường Hoa Kỳ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
%
0
0
3,1
5,1
18,8
19,7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bình đẳng quan hệ thương mại WTO. //H-T/C Tài chính doanh nghiệp
2. Có sự bình đẳng nào trong quan hệ thương mại của WTO-Phan Tiến Nam
3. Đường tới WTO của Việt Nam-Vũ Tứ
4. Giáo trình kinh tế thương mại- Chủ biên: GS.TS. Đặng Đình Đào 2005
5. Giải đáp các vấn đề về thủ tục gia nhập WTO/Quốc Đạt/H Thế giới 2005.
6. Gia nhập WTO cần sự nỗ lực từ nhiều phía/ H-T/C Tài chính doanh nghiệp
7. Gia nhập WTO Việt Nam kiên định con đường đã chọn . Tiếng nói bè bạn .H-chính trị quốc gia 2004.
8. Kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc trong tiến hội nhập WTO và gợi ý vận dụng đối với Việt Nam / Nguyễn Thị Thuý Hồng-H 2005
9. Kinh tế học quốc tế (chương trình cơ sở)- Tô Xuân Dần
10. Mười lợi ích khi là thành viên của WTO và mười điều hiểu lầm thường thấy về WTO – Nguyễn Hữu Tấn.
11. Một số vấn đề cần biết về toàn cầu hoá và hội nhập KTQT - NXBLĐ - HN, 2004 - Trần Tiến Hoàn
12. Những vấn đề đặt ra với ngành thương mại trước thềm WTO -Lương Văn Tự
13. Phát triển, thương mại và WTO - NXB Chính trị Quốc gia - HN, 2004.- Ngân hàng thế giới
14. Quan niệm và thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội tốc độ nhanh, bền vững chất lượng cao ở Việt Nam- TS. Đinh Văn Ân-NXB thống kê 2005
15. Tác động của tiến trình gia nhập WTO đối với chính trị-xã hội của Việt Nam- Trần Ngọc Hiên.
16. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 333-tháng 2/2006
17. Tổ chức thương mại thế giới (WTO): Sự hình thành và phát triển// H – T/C Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương; số 01; tháng 01/2006; 06 tr; tr.20-25.
18. Toàn cầu hoá đối với các nước đang phát triển
19. Trung Quốc gia nhập WTO kinh nghiệm với Việt Nam/T.S Đỗ Sâm –H/ Khoa học xã hội 2005.
20. Trung Quốc gia nhập WTO thời cơ và thách thức – H/Khoa học xã hội - Viện khoa học XHVN Viện KT & CT Thế giới - Võ Đại Lược.
21. Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO, Hà Nội - 2005, ĐH QGHN
22. WTO những quy tắc cơ bản- NXB- KHXH- HN, 2003
23. WTO- thuận lợi và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam: Nguyễn Bá Ngọc Thuỷ Nguyên biên soạn-H; LĐXH 2005
24. WTO và tiến trình gia nhập của Việt Nam. Kinh nghiệm thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc trong tiến hội nhập WTO và gợi ý vận dụng đối với Việt Nam/Nguyễn Thị Thuý Hồng-H 2005
25. www.adb.org
26. www.doingbusiness.org
27. www.gso.gov.vn
28. www.hersitage
29. www.hoinhap.gov.vn
30. www.mofa.gov.vn
31. www.mot.gov.vn
32. www.mpi.gov.vn
33. www.undp
34. www.worldbank.org
35. www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/tif_e.htm
36. www.yahoo.com. Economic freedom index
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6670.doc