MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
I. Lý do chọn đề tài 1
II. Phương pháp nghiên cứu 2
III. Kết cấu đề tài 2
CHƯƠNG I: CÁC KHÁI NIỆM 3
I. Tín ngưỡng phồn thực 3
1. Khái niệm tín ngưỡng phồn thực 3
2. Các hình thức biểu hiện 4
1.2.1. Tục thờ sinh thực khí 4
1.2.2. Một số hình tượng (biểu tượng) 8
1.2.2. Hành vi giao phối 12
II. Phân tâm học 13
1. Khái niệm Phân tâm học 13
2. Các vấn đề khác 15
Tiểu kết 18
CHƯƠNG 2: LUẬN GIẢI TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC 19
I. Luận giải tín ngưỡng phồn thực ở khía cạnh Biểu tượng 19
1. Lý luận chung 19
2. Nguồn gốc hình thành dạng biểu tượng Tín ngưỡng phồn thực 20
3. Lý luận về Biểu tượng và chức năng đi kèm 22
4. Logique của Biểu tượng 24
Tiểu Kết 26
II. Luận giải Tín ngưỡng phồn thực từ góc độ bản chất Tính dục, Vô thức và Tôn giáo 26
1. Luận giải tín ngưỡng phồn thực từ góc độ Tính dục, Vô thức 26
2. Luận giải tín ngưỡng phồn thực từ góc độ tôn giáo (theo quan điểm Phân tâm học) 29
KẾT LUẬN 31
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2876 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiếp cận tín ngưỡng phồn thực từ góc nhìn Phân tâm học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện nó theo một cơ chế phản xạ vô điều kiện được xác lập từ con đường phát triển giống nòi.
Cơ chế đó được thể hiện như sau :
Ý muốn à Biểu hiện à Tín ngưỡng phồn thực à Hình thức thể hiện tín ngưỡng à Các hoạt động khác có phương thức dẫn con người liên tưởng đến tín ngưỡng phồn thực à Ý thức về vai trò của sự hiện diện Tín ngưỡng phồn thực và cần phải nghiên cứu nó.
Với sơ đồ như vậy, tín ngưỡng này phát triển liên tục, đa dạng và thể hiện vai trò của nó khắp nơi, theo chức năng sẵn có của nó.
Tiểu kết :
Bằng lý luận về tính dục và vô thức, chúng ta giải quyết vấn đề động cơ và sự cấu thành tín ngưỡng phồn thực. Song song với đó là sự nhìn nhận theo quan điểm tôn giáo về tín ngưỡng phồn thực như một sự phản chiếu (reflection) ý muốn ra bên ngoài nhằm bổ sung cho vô thức. Sự bổ sung này được coi là phản ánh chủ thể khách quan một cách chủ quan vào đầu óc con người nhằm từ đó sản sinh ra những hình thái tư duy tương ứng, có mức độ tùy thuộc vào cấp độ phản chiếu.
Kết Luận
Theo tuyên bố Venice năm 1986, các học giả đoạt giải Nobel đều thống nhất với ý kiến, thời đại của các phương pháp nghiên cứu bây giờ là bằng phương pháp liên ngành. Nhà nhân học văn hóa Mỹ G.P. Murdock cho rằng, có ít nhất là bốn hệ lý thuyết cần được áp dụng khi khảo nghiệm một vấn đề văn hóa học : xã hội học, nhân học văn hóa, tâm lý học hành vi ứng xử và phân tâm học.
Tín ngưỡng phồn thực, trong vai trò của một thành tố văn hóa, dĩ nhiên là hoàn toàn có khả năng được xem xét bởi một trong những hệ lý thuyết kể trên, mà ở đây là Phân tâm học. Ta không xem xét nó ở hình thức nó biểu lộ đặc điểm để khẳng định bản chất, mà bằng phương pháp Phân tâm, ta cố gắng giải thích nó ở tính phát xuất và khai triển hình thức tín ngưỡng. Vấn đề ở đây, do hạn chế về khuôn khổ, khó có thể được trình bày hết về sự biểu hiện văn hóa và bản lĩnh tồn tại trong văn hóa, nhưng dựa vào sự biện luận về vai trò và ý thức hình thành, đề tài ít nhiều đã đề cập được cái khung lý luận cho việc nghiên cứu tín ngưỡng hay tôn giáo từ một góc độ mới. Dù biết đây vẫn là một vấn đề mà vẫn chưa được tiếp nhận một cách trọn vẹn ở Việt Nam, tác giả chỉ có thể tham khảo từ những ý kiến của bác sỹ Nguyễn Khắc Viện qua một số di cảo của ông hay một vài tác phẩm của Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại cũng về đề tài phân tâm học, tuy vậy, về cơ bản, việc hình thành một quan niệm khoa học về Phân tâm học ở Việt Nam đã có những chuyển động cơ bản. Ngoài ra, qua những nghiên cứu về phong tục, tập quán và lễ hội, việc xác lập tư duy tín ngưỡng cũng qua đó mà có một bước tiến về phương pháp luận, đặc biệt là trong vấn đề về tiếp biến văn hóa (acculturation)và bản sắc văn hóa dân tộc (cultural identity).
Tín ngưỡng phồn thực ở đây được phân theo chức năng (Biểu tượng) và Động cơ (Vô thức). Do còn có nhiều khúc mắc đặt ra, ví dụ như giải mã tư duy Âm Dương (Yin và Yang) từ góc nhìn này ( quan hệ giữa các thành tố và sự chuyển hóa giữa các thành tố, sự đan xen trong tư duy, sự khởi hình trong tư tưởng …) – do là một triết luận bác học, tính dân gian không cao, nên trong khuôn khổ hạn hẹp, chưa thể đưa vào nghiên cứu, nhưng cũng sẽ là một thử thách lớn khi tiếp tục nghiên cứu văn hóa tôn giáo từ những tư tưởng Phân tâm hay Tâm lý học phân tích. Tuy vậy, trên đây là toàn bộ nội dung nghiên cứu, cũng mong là sẽ có được những đóng góp về lý thuyết nhằm ứng dụng vào khảo nghiệm văn hóa học theo một quan điểm khác lối tư duy tuyến tính, nhất là trong một nội dung ảnh hướng sâu sắc đến tinh thần, vốn rất được coi trọng trong xã hội DUY TÌNH (sentimentalism) của người Việt nói riêng và cư dân Đông Nam Á nói chung.
Thư Mục Tài Liệu Tham Khảo
Jean Chevalier và Alain Greerbrant, Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trường viết văn Nguy ễn Du, 1997
Đỗ Văn Khang (chủ biên), Mỹ học đại cương, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, 2002
Sigmund Freud, Nguồn gốc văn hóa và tôn giáo - Vật tổ và Cấm kỵ, Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia, 2000.
Sigmund Freud, C.G.Jung, E.Fromm, R. Assagioli, Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2002, tái bản 2004.
Rosemary Ellen Guiley, Từ điển tôn giáo và các thể nghiệm siêu việt, Nhà xuất bản Tôn giáo, 2005.
David Hicks, Ritual and Belief – Readings in the anthropology of religion, McGraw –Hill College, 1999.
Hồ Ngọc Đại, Chuyện ấy …, Nhà xuất bản Hà Nội, 1995.
David Stafford – Clark, Freud đã thực sự nói gì, Nhà xuất bản Thế giới, 1998.
Trần Ngọc Thêm – Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1995.
Vũ Dũng, Tâm lý học Tôn giáo, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1998.
Tạp chí Tâm lý học
Phụ Lục
Văn hoá dưới cái nhìn phân tâm học của Sigmund Freud
Nguyễn Huy Hoàng
Website: www.chungta.com
Năm 1915, với việc S. Freud đọc giáo trình Nhập môn phân tâm học cho các sinh viên chuyên ngành tâm thần học tại các trường đại học ở Viên, có thể nói, Phân tâm học đã bắt đầu trở thành một trào lưu tư tưởng lơn của thế kỷ XX. Gần 100 năm đã trôi qua, dù cho xuất hiện không ít các quan điểm và ý kiến trái ngược nhau về học thuyết của S. Freud, nhưng Phân tâm học vẫn tiếp tục phát triển và tự khẳng định mình trong cuộc sống hôm nay. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng, không phải y học đã cuốn hút S. Freud lúc còn trẻ mà ngược lại, chính ông lại quan tâm và chú ý đến các khoa học nhân văn. Ông chọn nghề bác sỹ bởi đó là cánh cửa bước vào đời hiếm hoi mở ra cho một chàng thanh niên Do Thái ở thành Viên. Trong sự trưởng thành của mình, S. Freud đã chuyển dần từ những vấn đề ứng dụng sang các vấn đề triết học. Bắt đầu từ việc nghên cứu bệnh loạn thần kinh, ông hướng tới việc vạch ra đề tài cái vô thức trong đời sống tâm lý của con người, hướng tới việc sáng tạo ra phương pháp phân tâm học. Sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, S. Freud hình thành học thuyết các cấp độ cơ bản của nhân cách. Vào những năm 20, ông phân tích những hiện tượng văn hoá xã hội (Tâm lý học đại chúng và việc phân tích cái tôi, 1921; Tương lai của một ảo tưởng, 1927; Đôxtôiepxki và kẻ giết cha, 1928). Vào cuối đời, S. Freud đã viết những công trình triết học: Sự không mãn nguyện bởi văn hoá (1930); Vì sao có chiến tranh (1933). Kế thừa tư tưởng của Sôpenhauơ và Nitsơ trong việc giải quyết những vấn đề văn hóa học, S. Freud đã xuất phát từ vấn đề nhân cách - một vấn đề đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau vào cuổi thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong một mức độ lớn, các kết quả nghiên cứu, tìm tòi của S. Freud phụ thuộc vào kinh nghiệm lâm sàng và những tư tưởng tâm lý học mà ông đã tiến hành một cách hạn chế nhưng đầy sự độc đáo. Sự ra tăng số lượng những người bị bệnh tâm thần và thần kinh đã làm ông xúc động, lo âu. S. Freud nhìn thấy nguyên nhân chủ yếu của sự gia tăng ấy trong mâu thuẫn giữa những khát vọng bên trong của con người với những đòi hỏi bên ngoài của xã hội. Là một nhà tâm lý học, cách tiếp cận của S. Freud vơi văn hoá khác biệt với quan điểm của nhà kinh tế, nhà xã hội học hay chính trị học.Ông nghiên cứu vai trò của văn hoá trong đời sống tinh thần cua con người, những trải nghiệm ở con người qua những đòi hỏi của văn hoá. Có thể nói ngắn gọn rằng, S. Freud đã đưa ra cách tiếp cận phân tâm học với văn hoá.
Những thủ thuật của phân tâm học đem lại không ít sự bất ngờ. Các khám phá của nó thường không được chờ đợi và lắm khi còn gây sốc. Chẳng hạn, khi giải mã nụ cười đầy bí ẩn của La Giôcôngđơ trong tranh của Leôna đờ Vangxi, S. Freud cho rằng. Môna Lida chính là mẹ của Lêôna đơ Vanhxi. Theo ông, “khi thành công vì đã đem lại cho nét mặt của La Giôcôngđơ hai ý nghĩa của nụ cười này: hứa hẹn ây yếm tột cùng và đe doạ báo trước tai hoạ, Lêôna còn trung thành với nội dung của những ký ức đầu tiên của mình. Bởi sự âu yếm quá mức của mẹ đối với ông là giết chết ông, bịt kín số phận và những thiếu thốn của con người ông và cuộc sống của ông…
Tình yêu của mẹ đối với hài nhi mà bà nuôi dưỡng và chăm sóc là một cái gì sâu sắc khác với yêu con về sau khi con đã bắt đầu lớn. Đó là mối quan hệ tình yêu bao gồm thoả mãn đầy đủ không chỉ những ham muốn tâm trí, mà còn làm giảm nhẹ mọi nhu cầu thực tế. Và nếu nó biểu tượng một trong những dạng hạnh phúc mà con người có thể vươn tới, cái đó phần lớn nhờ khả năng của quan hệ mẹ -con có thể thoả mãn đồng thời, không chê trách, những ham muốn cũ, bị dồn nén, gọi cho đúng là tà “dâm”
Cũng cảm giác bất ngờ như thế khi ta thấy S. Freud đưa ra những phán quyết của phân tâm học về văn hoá: “mỗi con người riêng biệt là kẻ thù thực sự của văn hoá, cái văn hoá mà dường như là đại diện chung cho quyền lợi của toàn nhân loại”. Xung đột của con người với văn hoá là vốn có và đó là do những khiếm khuyết của các thiết chế điều chỉnh những mối quan hệ xã hội, gia đình và cá nhân. Với quan điểm về tha hoá, chính C. Mác đã khám phá ra cơ chế của xã hội tư bản nhằm chuyển hoá các quá trình xã hội hoá và các thiết chế của xã hội tư bản nhằm chuyển hoá các quá trình xã hội và các thiết chế xã hội được tạo lập bởi con người thành một lực lượng xa lạ để khống chế con người, thù địch với con người. Tuy nhiên, trong tư tưởng của S. Freud có một cái gì đó khái quát hơn: bất kỳ người nào đó cũng đều là kẻ thù của mọi nền văn hoá mà không chỉ là các hình thái lịch sử cụ thể của nó. Văn hoá luôn bảo vệ những quy định của mình trước mỗi cá thể riêng biệt. Thật ra có thể là vào một lúc nào đó, người ta sẽ đạt được việc chuyển hoá số đông thù địch với văn hoá thành thiểu số, nhưng văn hoá vẫn thường xuyên cưỡng bức con người phải hiện thực hoá các mục đích của mình, hạn chế những đam mê, ham muốn vốn có của mình.
Người ta có lý khi phê phán người sáng lập ra phâm tâm học, vì lẽ ông đã tuyệt đối hoá xung đột của con người trong các hình thái văn hoá nhất định. Nhưng, cũng cần phải nhận thấy những cái thú vị trong tiến trình suy luận của S. Freud để dẫn tới kết luận như thế. Tron cơ sở lý luận của ông luôn chứa đựng những quan niệm độc đáo nhưng cũng đầy tranh luận về sự tiến hoá của cái tâm lý và về cấu trúc của nhân cách.
Theo S. Freud, trong đời sống tinh thần của con người, chẳng có một cái gì, xuất hiện một lần nào đó, rồi có thể biến mất hoàn toàn. Tất cả đều luôn được gìn giữ hay chìm ngập ở đâu đó để rồi, trong những điều kiện nhất định, nó lại có thể trồi lên trên bề mặt. Tâm lý con người không phải là một cái gì đó bất biến, nó luôn phát triển. Nhưng, những nhân tố mới mẻ của nó thường xuất hiện bằng con đường biến đổi mồt phần những cái cũ, trong khi vẫn giữ gìn tất cả những hình thái khởi nguyên của mình. Cái nhìn của S. Freud đối với sự tiến hoá đó đã tạo nên ba nguyên tắc: 1. những ham muốn đầu tiên là cơ sở mà nhờ sự biến đổi của nó, những hình thức tâm lý cao hơn được xuất hiện. 2. Rốt cuộc thì những tầng lớp cổ xưa của tâm lý (cái vô thức) quyết định những hình thức cao hơn của đời sống tâm lý. Chính vì thế mà S. Freud thường nhấn mạnh ý nghĩa của những kinh nghiệm xúc cảm thời thơ ấu trong những xung đột tâm lý, trong hoạt động tưởng tượng của người lớn. 3. Sự xung đột giữa “cái tự nhiên” (những ham muốn đầu tiên) và “cái văn hoá” (những ham muôn đã được biến đổi) ngày càng được tăng cường theo mức độ phát triển của tâm lý. Phần “tự nhiên”của cái tâm lý tuân theo nguyên lý mãn nguyện, nghĩa là mong muốn thực hiện mà thiếu sự cân nhắc tới hoàn cảnh bên ngoài. Phần “văn hoá” được định hướng bởi nguyên tắc hiện thực, nghĩa là hiện thực hoá mình trên cơ sở cân nhắc những điều kiện bên ngoài.
Thực ra, cách tiếp cận của S. Freud với “cái tự nhiên” và “cái văn hoá” trong con người, chỉ là sự bi kịch hoá thế giới bên trong của con người, chỉ là sự chia cắt con người thành những phần tách biệt hẳn nhau và đối lập nhau. Cần phải thấy rằng, do thường xuyên làm việc với các bệnh nhân tâm thần mà cuộc sống bên trong của họ đã tách biệt thực sự với những hoàn cảnh bên ngoài và thường được thể hiện trong các hành vi, cử chỉ không tương ứng, nên S. Freud đã đi đến kết luận về tính nhị diện của tâm lý con người; “căn hầm vô thức” với những ham muốn, đam mê khởi nguyên đang sôi sục và “cái ý thức” mong muốn dung hoà áp lực của những dục vọng với các đòi hỏi của văn hoá. S. Freud đã quan tâm tới xung đột, tính căng thẳng ở đời sống bên trong của con người, tới vai trò của tình cảm và xúc động trong các động cơ hành động. Chẳng thế mà ông đã tuyên bố rằng, cảm xúc là cái giá trị nhất trong đời sống tâm lý thực sự có giá trị chỉ khi chúng thức tỉnh những cảm xúc. Nói chung, S. Freud đã phác hoạ nên một bức tranh về nhân cách năng động hơn, phức tạp hơn, đây là những mâu thuẫn và xung đột hơn so với tâm lý học cổ điển.
Trong mô hình về nhân cách của S. Freud, thoạt tiên ta thấy ông lựa ra hai hệ thống: “cái ấy” và “cái tôi” để sau này, bổ sung thêm “cái siêu tôi”. “Cái ấy” là hàm chứa những ham muốn vô thức hay những đam mê đã bị chèn ra khỏi ý thức. Nó là tầng cổ xưa của tâm lý luôn cực kỳ khoa khát được mãn nguyện. Còn “cái tôi” được ý thức đó chính là cái trung gian giữa “cái ấy” và thế giới bên ngoài, được hình thành trong quá trình xã hội hoá cá thể. “cái tôi” phục vụ những ham muốn của “cái ấy”, mưu toan dẫn dắt những kích thích động phi lý của “cái ấy” để tương hợp với những đòi hỏi của hiện thực, với những luận cứ của lý tính nhằm hạn chế chúng với sự trợ giúp của hàng loạt những cơ chế chúng với sự trợ giúp của hàng loạt những cơ chế phòng vệ khác nhau. Quan trọng nhất trong chúng là cơ chế để chèn ép những ham muốn không cần thiết ra khỏi giới hạn của ý thức từ góc độ văn hoá. Với sự giúp đỡ của việc lý tính hoá ý thức lý giải những hành động bị dấy lên bởi những khao khát không được phép từ quan điểm xã hội và những động cơ được xã hội chấp nhận. Với sự giúp đỡ của việc “phóng chiếu”, những khát khao và những kích động vốn có được gán cho đối tượng bên ngoài, gán cho người khác. Với sự trợ giúp của việc “thăng hoa”, những năng lượng của sư kích động đã bị cấm đoán được giải toả bằng những phương thức khác nhau mà cả xã hội và cá nhân đều chấp nhận. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều cơ chế bảo vệ khác cho phép kiểm soát sức ép của các ham muốn.
“Cái siêu tôi là kết quả của việc nội quan hoá những đòi hỏi và những mệnh lệnh của đời sống xã hội. Quá trình chuyển hoá những đòi hỏi và những mệnh lệnh bên ngoài thành các nhân tố của thế giới bên trong được thực hiện dưới ảnh hưởng của các quan hệ cảm xúc với cha mẹ, với những người giáo dục, với “các thủ lĩnh” theo nghĩa rộng của từ này, bao gồm cả các thủ lĩnh chính trị. Thông thường, “cái siêu tôi” này hành động một cách vô thức, nhưng nó cũng có “những đại diện” của mình trong ý thức - lương tâm, quan niệm về những con người lý tưởng mà cá thể này tôn kính hoặc ngưỡng mộ. Nếu như “cái tôi” có dấu hiệu giải quyết các sự việc hay thực hiện những hành động một cách vô thức, không cân nhắc đến những ngăn cấm của xã hội, thì dưới sự tác động của “cái siêu tôi”, trong đó sẽ nảy sinh cảm giác hối hận, sự quở trách của lương tâm, nỗi sợ hãi.
Như vậy, trong mô hình của S. Freud, chúng ta thấy có những cách tiếp cận mới với cấu trúc của tâm lý. Khi khẳng định rằng, “bản chất nhân cách của chúng ta được tạo thành bởi cái tôi thầm kín mà không có mảy may một mối quan hệ trực tiếp nào với thế giới bên ngoài”, thì rõ ràng, S. Freud đã đánh giá quá mức vai trò của cái vô thức, đã phổ quát hoá sự cách biệt giữa những người bị bệnh tâm thần với môi trường xã hội. Nhưng, mặt khác, ông đã quan tâm một cách đúng đắn đến sự đa phương diện trong động cơ hoạt động của con người, đến sự tồn tại ở trong nó một sự liên kết chặt chẽ và phức hợp những nhân tố sinh học, cá tính và xã hội. Hơn nữa, S. Freud đã đưa ra quan niệm về chức năng của “cái tôi”, của cái ý thức một cách hoàn toàn mới mẻ. Phân tâm học đã bác bỏ sự đồng nhất tâm lý với ý thức, một sự đồng nhất vẫn thống trị trong tâm lý học bấy lâu nay, bởi tâm lý còn bao hàm trong mình cả cái vô thức kia. Đồng thời, ông cũng không bằng lòng với cái nhìn hẹp hòi vào ý thức chỉ như một luồng những tư tưởng và những quan niệm. Với S. Freud, ý thức được hình dung như một hệ thống phức hợp và đa cấp độ nhằm đảm bảo cho việc gìn giữ tính chỉnh thể của nhân cách. Dù cho “cái tôi” quả là hãy còn yếu ớt để xông vào cuộc chiến trực tiếp với “cái ấy”, còn những lý lẽ của lý tính không đủ khả năng làm giảm áp lực của các ham muốn thì rốt cuộc, sức mạnh của cái vô thức cũng vẫn không phải là tuyệt đối. Để kiểm soát cái vô thức, ý thức có thể sử dụng sức mạnh của “cái Siêu tôi” để chống lại những hàm muốn phá hoại xã hội, sử dụng những quy luật của chính cái vô thức - nguyên lý tối thượng của sự mãn nguyện để chứng minh rằng, việc thực thi những ham muốn vô thức như thế chăng đem lại sự mãn nguyện đâu. Đồng thời, những cách tiếp cận mới này còn bị giảm giá trị thực sự bởi sự thấu hiển những khía cạnh vô thức của tâm lý một cách phiếm diện và hẹp hòi chỉ nhăm nhe quy chúng vào những ham muốn tình dục hay hiếu chiến và bởi việc bóp méo mối quan hệ của chúng với ý thức. Cái vô thức và cái ý thức trong tâm lý không nhất thiết phải nằm trong trạng thái mâu thuẫn đối kháng, trong những tình huống nhất định, chúng có thể thống nhất với nhau để tạo thành một chỉnh thể hoà hợp cả nhân tố vô thức và ý thức.
Sự đối kháng của “cái tự nhiên” và “cái văn hoá” trong mỗi cá thể tất yếu phải làm tăng theo sự đối kháng giữa những khát vọng cá nhân và những mục tiêu phát triển của văn hoá. S. Freud đã hiểu văn hoá hoàn toàn theo lối truyền thống mà theo đó, văn hoá có nghĩa là toàn bộ tổng thể những tri thức và hiểu biết cho phép con người khai thác những sức mạnh của tự nhiên nhằm thoả mãn những nhu cầu vốn có của mình cũng như tất cả các thiết chế điều chỉnh những mối quan hệ tương hỗ giữa con người với con người. Hay nói một cách văn tắt, theo S. Freud, văn hoá là tất cả những cái nâng cuộc sống con người vượt lên trên động vật. Chức năng chủ yếu của văn hoá - đảm bảo sự sinh hoạt hoà hợp của mọi người bằng con đường hạn chế những ham muốn phản lại xã hội và trao “những lối thoát dự trữ” cho những khao khát đã bị chèn ép hay lấn át. Chính từ đây, trong học thuyết của ông đã xuất hiện thuật ngữ “văn hoá trấn áp”. Có lẽ vì thế mà ở nhiều chỗ khác nhau và bằng nhiều cách khác nhau, S. Freud đã mô tả xung đột của văn hoá với con người. Chẳng hạn, trong Tương lai của một ảo tưởng, ông nói về mâu thuẫn giữa những mong muốn hạnh phúc mang đầy tính ích kỷ của mỗi người với mong muốn của văn hoá trong việc tạo nên sự liên kết giữa người với người. Trong những luận đề về hai nguyên tắc của hoạt động tâm lý, ông lại khẳng định rằng, chỉ ở thời thơ ấu, con người mới được tự do hoàn toàn, bởi vào lúc đó, nguyên tắc mãn nguyện đang thống trị trong tâm lý, còn môi trường bên ngoài lại tương ứng với nguyên tắc này. Xã hội hoá con người chính là ở việc từ bỏ sự thoả mãn trực tiếp bằng những khát khao. Con người ngày càng hạn chế “cái tự nhiên” của mình và buộc phải thoả mãn những ham muốn bằng con đường vòng và buộc phải bao bọc chúng bằng những hình thức văn hoá. Trong Không mãn nguyện bởi văn hoá, S. Freud lại tiếp tục tìm kiếm thực chất của sự xung đột này. Theo ông, một trong những mong muốn chủ yếu của văn hoá chính là việc liên kết mọi người thành những cộng đồng lớn hơn mà sự liên kết này, không thể có được nếu không có việc hạn chế ham muốn tình dục, bởi tình yêu bao giờ cũng hướng các cá thể vào những khuôn khổ hạn hẹp của đôi lứa và gia đình. Có lẽ vì thế mà văn hoá đã tước đoạt một lượng lớn năng lượng tâm lý của tình dục để dành cho những mục đích của tập thể. S. Freud đã khẳng định rằng, văn hoá hiện đại không cho phép tình dục tồn tại với tư cách là một cội nguồn độc lập của sự khoái cảm; nó biến đổi và ép buộc tình dục chỉ còn là phương thức sinh sản thôi.
Những hạn chế như thế là tất yếu, bởi hãy còn tồn tại một ham muốn chủ yếu nữa ở con người: sự hiếu chiến. Theo S. Freud việc tìm hiểu ham muốn ấy chẳng khó khăn gì. Chúng ta có thể cảm nhận nó ở trong chính bản thân mình và ở những người khác. Tính hiếu chiến vốn có ở con người luôn đe doạ sự tồn tại của xã hội, bởi thế mà nó phải được đè nén một cách nghiêm túc bằng những ngăn cấm mang tính văn hoá.
Như vậy, có thể nói, cách tiếp cận phân tâm học đã đưa S. Freud tới việc hiểu sai bản chất của văn hoá. Ngay cả Hêgen cũng cho rằng, sự tồn tại chân chính của con người là trong hành động của nó. S. Freud đã trộn lẫn lao động với bản tính tự nhiên của con người. Ông cho rằng, theo bản tính tự nhiên của mình, con người không thích làm việc. Nhưng vì quyền lợi của toàn cộng đồng, văn hoá đã cưỡng bức con người phải lao động. Thực ra, hoạt động sáng tạo của con người là cội nguồn, là nền tảng của đời sống con người. Chính trong tiến trình này mà “cái tự nhiên” đã được nhân cách hoá và “cái văn hoá” đã được sinh thành. Nhận thức duy vật lịch sử của C.Mác đã khám phá ra điều đó. S. Freud đã có lý khi chia khát vọng cá nhân thành “Sống theo mong muốn” và “sống theo tất yếu”. Nhưng S. Freud lại quên rằng, mong muốn của con người được hình thành trong hoạt động tập thể của mọi người. Vì thế, theo bản chất của mình, chúng không đối lập với những tất yếu xã hội, mà bao hàm cả những tất yếu ấy. Có lẽ vì thế mà những người kế nghiệp S. Freud đã cố gắng thoát khỏi những bế tắc trong học thuyết của ông. Chẳng hạn, E.Phrom đã sáng lập ra “phân tâm học nhân văn” nhằm xem xét lại hàng loạt những luận điểm cơ bản của phân tâm học cổ điển mà trước tiên là quan niệm về bản chất của con người và sự xung đột tất yếu của nó với văn hoá. Đối với E. Phrom, “cái nhân loại” sẽ bắt đầu ở nơi mà “cái tự nhiên” kết thúc. Quan điểm như thế đã bị xem là “xét lại” chủ nghĩa S. Freud, đã bị coi là có ý tổng hợp học thuyết của S. Freud với học thuyết của C. Mác, “xã hội hoá” học thuyết của S. Freud và “nhân văn hoá” học thuyết của C.Mác. Thực ra, những tìm tòi của E.Phrom đã một lần nữa chỉ ra rằng, chỉ có học thuyết của C.Mác mới đem lại cho chúng ta cơ sở phương pháp luận đúng đắn để hiểu rõ bản chất của văn hoá và con người./
Chân dung nhà tâm lý học: Sigmund Freud và học thuyết phân tâm
Ngụy Hữu Tâm
Tạp chí Tâm lý học, 2005
Cuộc đời Freud cũng mâu thuẫn như thuyết của ông. Ông sinh ngày 6/5/1856 tại Freiberg thuộc Đức, nay là Pribor thuộc Cộng hoà Séc. Bố ông là một người Do thái buôn vải nhưng không có nhiều vốn, chỉ sau 1860, khi gia đình rời về Viên, kinh tế gia đình mới khấm khá lên. Vì truyền thống gia đình là không trọng tín ngưỡng nên ngay từ thời trẻ, Freud đã là một người vô thần nhiệt thành. Chỉ khi ở Đức dấy lên phong trào chống Do Thái, vào năm 1962 ông mới tuyên bố: “Ngôn ngữ, văn hoá, giáo dục của tôi đều là Đức, tôi luôn coi mình là người Đức, chỉ có điều bây giờ ở Đức co phong trào bài Do Thái, tôi mới tự nhận mình là người Do Thái mà thôi”.
Ông học giỏi ngay từ nhỏ, rồi khi học đại học (Đại học Tổng hợp Viên 1873, đầu tiên học luật, sau học y), ông vẫn luôn là sinh viên giỏi. Từ môn y, ông đi sâu vào tâm linh, rồi sau mở được phòng mạch riêng về ngành này.
1886, ông lấy vợ. Ở phòng mạch của mình, ông cố gắng tìm hiểu bệnh nhân, đặc biệt là các bệnh nhân cũ với các giấc mơ của họ. Ông nghiên cứu ý nghĩa của nó, dùng phân tâm học để giải thích giấc mơ và hiểu bệnh thần kinh phân lập.
1900, ông công bố một trong các tác phẩm đầu tay: “Ý nghĩa của giấc mơ” và lây đó làm khuôn mẫu để giải thích giấc mơ theo góc độ phân tâm học, rồi điều trị các chứng bệnh phân liệt.
Vào những năm 90 của thế kỷ XIX, ông đã phát hiện rằng: những ham muốn và lo hãi tình dục có thể ảnh hưởng đến bệnh tình của bệnh nhân; thậm chỉ ông còn lập giả thiết rằng, việc lạm dụng tính dục trẻ em gây ra bệnh phân liệt.
Năm 1897, ông phải từ bỏ giả thiết này, đây cũng là thất bại của ông, nhưng ông cố gắng tìm ra cái mới. Ông lấy những người tiên phong là Montaigne, Rousseau, Goethe; nhưng Freud là người đi xa nhất trong việc kiểm nghiệm chính bản thân mình, vì ông làm việc một cách rất có hệ thống. Vật liệu cho sự phân tích này cũng chính là những thất bại của bản thân ông: Các giấc mơ, các bước tư duy mập mờ nhất của ông.
Tác phẩm đầu tay này cũng là một trong những cuốn quan trọng nhất, dù khi đó ông đã là một nhà thần kinh học nổi tiếng.
Năm năm sau, cuốn tiếp theo về phân tâm học: “Ba luận văn về lý thuyết tình dục” cũng là đề tài đã được ông theo đuổi từ lâu. Sách được tái bản nhiều lần, lần nào cũng có chỉnh lý. Ông giải thích các “sai lệch” không qua góc độ đạo đức học, mà đưa nó vào các thành phần của đời sống tình dục “bình thường”. Đó cũng là cái giá mà Freud trả cho dục năng (libido). Kể từ đó, ông không còn sao nhãng các đề tài tình dục nữa.
Cũng vào lúc này, Freud bắt đầu có các môn đồ. Họ tụ tập lại để thảo luận về các ý tưởng của Freud dựa trên những giải thích cho các tiểu thuyết, và những nghiên cứu các ca lâm sàng. Từ đấy, ông cũng đưa ra các nghiên cứu những ca lâm sàng trên chính bản thân ông. Năm trong số các trường hợp này - dĩ nhiên phải kể cả trường hợp Dora, hay “kết cục dang dở của một phân tích về hystery” - cho đến hôm nay vẫn được coi là mẫu mực và được thảo luận rất kỹ ở mọi viện nghiên cứu về phân tâm học. Ông nỗ lực ứng dụng phân tâm học như một ngành của tâm lý học đại cương. Cũng vậy, số môn đệ của ông lan ra toàn thế giới, đặc biệt là Anh, Mỹ Thuỵ Sỹ… và đã đến thời điểm phải tổ chức hội thoả và phát hành các tạp chí.
Nhưng ngay trước thế chiến II, nhiều đệ tử của Freud đã tách khỏi ông và lập trường phái riêng cho mình. Trong số đó, nổi tiềng nhất là vị bác sĩ ở Viên và cũng là người theo Phái chủ nghĩa xã hội Alfred Adler. Với “Tâm lý học cá thể” đầy lạc quan của mình, Adler chống lại ý nghĩa trung tâm của Freud về tình dục và tính hung bạo gắn với bản năng. Còn nhà tâm lý trị liệu học Zuyrich Carl Gustav Jung lại lấy khát vọng của con người để tiến tới sự hoà trộn với một cái “siêu bản ngã” làm tiêu điểm cho “Liệu pháp phân tích” của riêng ông. Freud không tiếc Adler, nhưng sự “đảo ngũ” của Jung vào năm 1912 là một tổn thất nặng nề, hết sức bi ai đối với ông, bởi vì Freud đã coi ông này là “Thái Tử”, người kế tục chính thức của mình. Cũng còn đặc biệt bởi vì khác với các môn đệ. Do Thái của ông ở thành Viên, Jung không phải là người Do Thái, nên Freud rất coi trọng ông này để khoa học tâm linh của ông không bi coi thường đến mức là một ngành khoa học Do Thái. Nhưng ông cũng khó hy vọng rằng, ngay trong lĩnh vực nan giải nhất của nghiên cưu tâm linh - nơi người ta có thể thảo luận không phải giữ ý về những vấn đề riêng tư nhất - mọi việc lại có thể tiến triển một cách hiền hoà!
Đời sống tình dục của con người là lĩnh vực mà ngay những chuyên gia giỏi nhất, thậm chí đôi khi chính Freud, cũng phải mò mẫn trong bóng tối. Kỳ vọng có sự nhất trí là không tưởng.
Mâu thuẫn giữa các nhà phân tâm học không chỉ là ở lý luận, mà cả trong thực tiễn trị liệu. Ngay từ đầu, với Freud, phân tâm học đã không chỉ là học thuyết tâm linh. Nó được sinh ra trong thực tiễn trị liệu, và nhận được chứng thực hay phản bác cho các vấn đề của lý thuyết ngay trong quá trình và kết quả của điều trị phân tâm.
Những đề tài về thực tiễn phân tích, chẳng hạn nghiên cứu kể từ ngày điều trị đầu tiên, xử lý giấc mơ khi phân tích, cho đến “tình yêu chuyển dịch” của người được phân tích tới người tích…, Hiện nay nếu không còn được tranh cãi nữa, thì mặc nhiên vẫn còn hết sức thời sự.
Sau thế chiến I, thậm chí, ông còn tiến hành phân tích con gái rượu của mình là Anna. Đó là một sự vi phạm thô thiển tới quy tắc cơ bản là không được phép phân tích bạn bè, nói chi người thân, vì qua đó không còn khoảng cách cần thiết phải có giữa người phân tích và người được phân tích. Trong hai luận văn: “Ở phía bên kia của nguyên tắc khoái cảm” (1920) và “Cái tôi và cái ấy” (1923), ông trình bày cấu trúc của tâm linh. Theo Freud, nó gồm 3 thẩm cấp:
* “Cái ấy” là cái bể chứa bí mật, khó tiếp cận, gồm cái bẩm sinh cũng như cái bị chèn ép, hoàn toàn thoát khỏi ý thức con người và chỉ nhận biết gián tiếp qua giấc mơ, triệu chứng…
* Trái lại, “cái tôi” mặc dầu cũng phần nào là không có ý thức, lại bao gồm sự tiếp xúc có lý trí với thế giới bên ngoài và gồm các cơ chế phản vệ để bảo vệ con người trước những kích thích có tính áp đảo. Không có “cái tôi” thì cũng không có sự tự kiểm soát, và không có văn minh.
* Cuối cùng, cái thứ ba là “cái siêu tôi”, nó tương tự như tương tự như lương tâm, mặc dầu một phần của thẩm cấp này cũng là không có ý thức. Ở đây, chủ yếu xảy ra các xung đột nội tâm mà ngay cả những người khoẻ mạnh nhất cũng phải chịu đựng chúng.
Cho đến tuổi 60, Freud luôn khoẻ mạnh, nhưng vào năm 1923, ông phát bệnh ung thư vòm họng. Vì nghiện xì gà, ông phải trả giá là trong 16 năm tiếp theo, ông bị hơn 30 lần mổ xẻ đau đớn. Ông hầu như không còn nói được nữa, và phải cử con gái rượu là Anna đại diện cho ông ở các hội nghị hay các buổi lễ long trọng. Ở nhà, cô được bố gọi yêu là “Ananuensis”, nhưng ngoài đời đã là một bác sỹ phân tâm trẻ em nổi tiếng. Tuy ốm nặng nhưng ông không ngừng phân tích và viết những luận văn giàu ảnh hưởng tới hậu thế. Những luận văn nổi tiếng nhất trong số này là: “Tương lai của một ảo mộng” (1827) - bản tổng kết cuối cùng của ông về tôn giáo, và “Sự khó chịu trong văn hóa” (1930) - một bản tóm tắt xuất sắc về triết học chính trị của ông. Bản tiểu luận này về văn hoá mang dấu ấn của những năm tháng sôi động ở Đức, và mối đe doạ ngày càng tăng, trước hết ở đây, bởi hoạ Nazi.
Tháng 5/1938, năm năm sau khi Hítle lên cầm quyền, Freud phải thấy cảnh Viên, thành phố vừa được ông yêu lẫn ghét, bị bọn Đức Quốc xã chiếm đóng. Hítle trở lại Áo với tư cách kẻ chiến thắng, Áo bị đức sáp nhập sau khi dân Do Thái ở đây bị đàn áp tàn bạo, con gái ông cũng bị bọn Gestapo tra khảo. Freud cảm thấy mình già yếu, ông quyết định di cư sang Anh. Và chính ở đó, ở Luân Đôn ngày 23/9/1939, ông mãi mãi ra đi, hay nếu dùng ngôn từ của ông, “ô đã chết một cách tự do…”
Cái chết của ông cũng là một quyết định sáng suốt, dũng cảm như cuộc đời ông vậy, bởi vì phần nào ông kiểm soát được vận mệnh của chính mình. Khi biết chắc cái chết đã đến gần, ông đề nghị bác sỹ riêng của mình là Max Schur thảo luận vấn đề này với con gái ông là Anna, và nếu bà đồng ý thì tiêm cho ông lượng Moóc -phin đủ mạnh cho ông ra đi. Cái chết của Freud là một vụ tự sát bình thản có bác sỹ trợ giúp. Với cơ sở của phân tâm học, Sigmund Freud đã đặt lên hàng đầu hai tư tưởng: “Cái vạn năng” của “tính nhân quả”, và tính chất không tránh được của các xung đột.
Freud coi tâm linh con người là một thành phần của tự nhiên. Các quy tắc mà nó tuân theo rất khó lý giải. Nhiệm vụ chính của nghiên cứu về phân tâm là phải phát hiện ra chúng. Nói gọn là: Cuộc sống tâm linh cũng chịu sự chi phối của các quy luật nhân quả như tất cả hiện tượng tự nhiên khác.
Trong cái thế giới của Freud thì, tuy nhiên vẫn có những sự ngẫu nhiên, nhưng tất cả chúng đều là những hậu quả không được dự báo trước của các nguyên cớ giao thoa. Không có hệ quả nếu chẳng có nguyên nhân. Điều đó có nghĩa là tất cả các quá trình tâm linh như giấc mơ, rối loạn và các triệu chứng, dù như chúng có vẻ kỳ lạ và vô nghĩa thế nào chăng nữa, đều có nguyên nhân cả.
Đồng ý rằng, tất cả các mối liên hệ nhân quả này hoàn toàn chẳng có ảnh hưởng lơn như nhau. Để nói lời có cánh nổi tiếng mà có lẽ Freud chưa bao giờ thốt ra: Đôi khi điếu xì gà. Chúng đã phát hiện được một cái như là một bản đồ để giải mã cái mê cung này và nó có thể chỉ ra con đường để từ sự không thể hiểu được đến sự dễ hiểu. Khi đó thì công việc của nhà phân tâm học chẳng phải là cho cái vô nghĩa một ý nghĩa nào đó, bởi vì cái gì lúc đầu còn có vẻ như là vô nghĩa, sau này vẫn có nhiều ý nghĩa; nhưng trước hết phải dụ nó đi từ chỗ trốn của nó ra đã. Dù cho chẳng thể phát hiện ra những mối liên hệ nhân quả trong cuộc sống tâm linh, thì nó vẫn phải ẩn mình ở đâu đó, và Freud dùng kết luận này làm một dẫn chứng - không phải duy nhất - cho tiêu đề của ông mà cho tới nay vẫn còn tranh cãi, của một vận động nội tâm là cái không biết, là cái mà con người xô đẩy những ý tưởng và ham muốn khó chịu và gây lo hãi này ra khỏi ý thức, và bằng cách này thử từ bỏ chúng. Từ chuyên môn của Freud dành cho điều đó là: “Verdranhung - sự chèn ép”.
Ông nhìn con người là một con vật ham muốn. Những bản năng ngang ngạnh nhất của nó là dục vọng và hung bạo sẽ làm tới mức tột cùng để chuyển cái đòi hỏi đang thôi thúc si mê đến tột đỉnh của chúng thành hiện thực, dĩ nhiên càng nhanh càng tốt. Nhưng, ngay từ những tháng đầu đời của đứa trẻ sơ sinh, cuộc đời đã cự tuyệt nhiều ham muốn của nó, hay ít nhất cũng bắt nó hạn chế chúng. Bố mẹ, cô bảo mẫu, anh chị em, rồi sau đó là thầy cô, đoàn thể hay những uy quyền khác sẽ lo cho việc thích nghi vào nền văn hóa. Bởi vậy mà cuộc sống con người trở thành một sự thoả hiệp liên tục. Nó bắt đứa trẻ phải chờ sữa mẹ, phải kiềm chế sự bực tức của mình lại, không được sờ bộ phận sinh dục, và nhiều điều khác. Đa phần giáo dục là trường học dạy cách khước từ và tự thoả mãn.
Theo cơ sở thư hai của thuyết phân tâm của Freud thì tất cả những điều này nhất thiết phải kéo theo xung đột nội tâm. Với tư cách nghề nghiệp luôn bi quan, ông thấy cuộc sống nội tâm là một cuộc đâu tranh gần như liên tục, thậm chí thường đến mức kiệt sức. Điều hay nhất mà con người có thể hy vọng là một cuộc ngừng bắn giữa đòi hỏi của bản năng và sự cân đối kháng của văn hoá. Và cái đối kháng ở đưa trẻ mới lớn này phải chấp nhận - “nội tâm hoá” - đã tạo cho cái ham muốn cấp bách nhất của nó có cái vẻ dục năng, hay thậm chí cái vẻ trọng tội.
Trong biến thể đơn giản, tích cực của mặc cảm Ơ - đíp thì đứa con trai giết cha mình và ngủ với mẹ là những ham muốn hầu như không thể nào chấp nhận được. Bởi thế, đứa trẻ học cách đẩy những ham muốn như vậy càng xa mình cang tốt, phát vãng chúng ra khỏi ý thức, mà như Freud gọi là: “dồn nén” chúng. Theo quan niện của Freud thì hai quy tắc cơ bản này là có giá trị phổ biến.
Năm 1913, Freud viết: “Tuy phân tâm học lấy tâm linh cá nhân làm những cơ sở cảm xúc cho mối quan hệ của cá nhân với xã hội cũng không thể thoát khỏi nó được”. Nhưng ông còn muốn đi xa hơn trong tiểu luận về “mối quan tâm tới phân tâm”, trong các lĩnh vực nghiên cứu điển hình là triết, khoa học về ngôn ngữ, sinh học, lịch sử phát triển theo tâm lý học, lịch sử văn hoá, khoa học nghệ thuật, xã hội học và giáo dục học. Tuy vậy, “Tâm lý học số đông và phân tích bản ngã” (1921) trìng bày những quan điểm về các cơ sở tình dục của sự hình thành các nhóm, vẫn chỉ dừng lại ở mức một tiền đề lý thú, rất giá trị mà thôi. Vậy nên, một thế kỷ sau khi Freud đã phát triển các tư tưởng phân tâm mở đường đầu tiên của mình, thì ông vẫn bị tranh cãi như vậy - cả ở tư cách con người lẫn lý luận gia, và cũng sẽ mãi như vậy mất!
Những người giáo điều muốn Freud luôn luôn đúng. Nhưng ngày nay người ta thấy: không phải phân tâm học đã tự giải phóng khỏi Freud, mà là khỏi một bức tranh lệch lạc về “siêu nhân”. Cũng có người cho rằng, bức tranh con người của Freud không có hiệu lực tổng quát bởi vì nó chỉ đúng cho: a) giai cấp tiểu tư sản và b) cũng chỉ đúng cho thành Viên mà thôi. Nhưng dễ dàng phản bác kết luận này: Trong 40 năm thực tiễn phân tâm học vừa qua, cả người Mỹ, Người Anh, Pháp, Nga, Đức và Áo - Ki Tô hay Do Thái - nam hay nữ, đều đã ngồi trên cái ghế phân tích của Freud. Càn hiểu Freud hơn thì phát biểu của ta về ông càng phải chính xác hơn.
Cũng cần chú ý là có nguyên nhân chính trị chống lại tư tưởng của Freud: những người đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ cho rằng trong 3 tiểu luận cuối cùng về tình dục phụ nữ, ông đã coi thường chị em khi ông khẳng định “siêu tôi” của nữ nông cạn hơn nam, nghĩa là họ dễ nói dối hơn nam, chẳng những la ngạo mạn, mà còn là điên khùng. Nhưng ông đúng khi đề nghị phải có tự do hơn trong tình dục, và từ chối coi đồng tính luyến ái là phạm tội, hay mắc bệnh tâm thần.
Hôm nay hay ngày mai có thể kết luận gì về Freud? Còn quá sớm để nói gì. Việc nghiên cứu não bộ đang đe doạ học thuyết Freud. Trong khi trước đây, người ta coi môi trường là quyết định tới cuộc sống tâm linh, thì nay lại có vẻ như tự nhiên quyết định - tức là di truyền.
Các nhà nghiên cứu não bộ đã phải cùng thảo luận để xem hai ngành khoa học rất tách biệt này có cái gì chung không? Cũng có thể Freud tương lai là nhà sinh lý tâm lý học, hay tâm lý - sinh lý học. Bản thân Freud , những ngày cuối đời, cũng hoàn toàn chẳng còn “talkinh cure”, tức là không thể không có sai sót. Trong cuốn sách cuối cùng còn bỏ dở là “Phác thảo Phân tâm”, ông viết một cách dứt khoát: “có lẽ tương lai có thể dạy chúng ta cách dùng những hoá chất đặc biệt để tác dụng trực tiếp vào dung lượng năng lượng (tâm linh) và sự phân bố của chúng trong bộ máy tâm linh, cũng có thể hình thành những khả năng bất ngờ khác cho cách trị liệu; nhưng tạm thời thì chúng ta chưa có cái gì tốt hơn kỹ thuật phân tâm. Bởi vậy dù cho có những hạn chế, chúng ta vẫn không được pháp khinh miệt nó”
Có lẽ, nếu còn sống, Freud cũng đã theo dõi tiến bộ của ngành dược lý học ở Mỹ với sự nghi ngờ, nhưng cũng với một mốu thiện cảm nhất định và cũng sẽ lên tiếng phản bác việc công kích một chiều bức tranh Con người và các học thuyết về sự phát triển tâm linh của ông.
Ngay từ năm 1943 đã hình thành 3 “trường phái” về Freud: *) Phái Klein xung quanh nhà phân tâm Hungary Melanie Klein, tập trung vào giai đoạn trước Ơ - Đíp ở trẻ em, *) Nhóm B là nhóm xung quanh đối thủ của Klein là Anna Freud giữa quan điểm bảo thủ, và *) Nhóm những người “Độc lập” xây dựng “object relaions theory” (lý thuyết về quan hệ đối tượng) và qua đó chống lại nhận định rằng, ảnh hưởng của bản năng lên đời sống tâm linh phân bổ không đều.
Những người chống Freud cũng như các học trò của ông đều lý tưởng hóc các hình mẫu của Freud. Với nhiều nhà khoa học, chúng ta thần dược cho những người nhiễu tâm và cả “các xã hội nhiễu tâm”. Dĩ nhiên, cuối cùng phải là sự vỡ mộng.
Có lẽ, dù học thuyết của ông đã thấm sâu vào máu thịt của chũng ta và đóng góp nhiều vào việc trang bị tâm linh cho con người hiện đại, nhưng chẳng bao giờ sẽ thật sự dễ hiểu, bởi vì Freud quá bi quan khi vẫn đề xoay quanh bản chất con người. Những xung đột làm cho cá nhân trở thành kẻ thù của gia đình, xã hội và thậm chí ngay cả bản ngã, là một thứ bệnh nan y. Để trốn khỏi thực tế khủng khiếp này, con người đi tìm sự lãng quên trong những giấc mơ ban ngày, trong ma tuý, sự đơn độc, tình ái hay thậm chí là trong hy vọng hão huyền thằng được cả cái chết.
Nhưng Freud, ngay từ khi còn trẻ đã tin rằng những tư tưởng của mình sẽ phá rối giấc ngủ của loài người, lại chẳng hề muốn nuôi dưỡng những ảo mộng lày một chút nào. Trong “Sự khó chịu trong văn hoá” ông đã viết: “Tôi chẳng hề có dũng cảm làm nhà tiên tri cho đồng loại và phải rạp mình trước lời trách cứ của họ rằng, tôi chẳng hề biết cách an ủi họ, vì thực ra tất cả bọn họ, kể từ những nhà cách mạng dũng mãnh nhất, đến những kẻ sùng đạo khép nép nhất, đều đòi hỏi ở tôi điều ấy”. Freud đã sống như vậy và ông cũng đã chết như vậy. Nhưng đối với đa số loài người thì một triết lý cuộc sống như vậy qúa ư là khó để có thể chấp nhận được.
Tài liệu tham khảo
Gay P.: Mehr als Theorie der seele, Der Spiegel, Nr, 53/1998, Hamburg 1998
Freud S: Oeuvres complétes, Psychanalyse 1894 -1936, P. U. F, 1956.
Mannoni O: Freud Par lui même, Editions du Seuil, Paris, Hamburg, 1971
Nguyễn Khắc Viện: Tâm lý học trẻ em hiểu theo phân tâm học, NXB thế giới, Hà Nội, 1991.
Freud S: Phân tâm học, NXB thế giới, Hà Nội, 2000
Stafford - Clark D: Freud đã thực sự nói gì, NXB Thế giới, Hà Nội, 1998
Nhu cầu và vấn đề điều khiển hành vi
Nguyễn Bá Minh
Tạp chí Tâm lý học
Nhu cầu với tư cách là một hiện tượng tâm lý của con người, nó chi phối một cách mãnh liệt đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con người nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học nghiên cứu và ứng dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống: Trong quản lý, kinh doanh, giáo dục... Trong tâm lý học nhu cầu được nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới. Ở đây tôi xin đề cập tới vấn đề nhu cầu trong mối quan hệ với việc điều khiển hành vi của con người.
Tại sao con người lại có hành động này chứ không phải là hành động khác trong một số hoàn cảnh? Hành động được hình thành như thế nào? Yếu tố gì quyết định đến hành vi của con người?
Bất cứ một hoạt động nào của con người cũng là nhằm thỏa mãn một nhu cầu nào đó của bản thân. Nhưng nhu cầu với tư cách là một điều kiện bên trong, là trạng thái thiếu thốn của cơ thể - trạng thái này tự nó không gây ra bất kỳ hoạt động nào có định hướng nhất định. Chức năng của nó chỉ giới hạn trong việc phát động những chức năng sinh lý tương ứng và kích thích chung đối với lĩnh vực vận dụng biểu hiện thành những cử động tìm tòi không có phương hướng. Chỉ khi nào gặp được vật (đối tượng ) đáp ứng thì khi đó nhu cầu mới trở thành có năng lực hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động. Sự việc nhu cầu gặp được đối tượng là sự việc đặc biệt lúc đó như cầu được đối tượng hóa làm cho nhu cầu chứa đầy nội dung rút ra từ thế giới xung quanh. Chính lúc này nhu cầu có ý nghĩa hướng dẫn hành vi hoạt động của chủ thể:
Con người là chủ thể của hoạt động, của hành vi. Con người thực hiện: hành vi nhằm thỏa mãn nhu cầu được ý thức và hành vi này được thực hiện trên những khách thể nhất định. Muốn hướng con người vào một hành vi nào đó phải nghiên cứu hệ thống nhu cầu của người đó, giúp họ ý thức được nhu cầu, tạo điều kiện cho sự gặp gỡ giữa nhu cầu và đối tượng hay nói cách khác là phải tìm cách đối tượng hóa nhu cầu của chủ thể.
Nhu cầu của con người theo ông Nguyễn Khắc Viện có ba loại cơ bản: nhu cầu vật chất, nhu cầu xúc cảm và nhu cầu xã hội.
Các nhu cầu vật chất: có liên quan mật thiết đến hoạt động của cơ thể và đôi khi được mô tả như là các xung năng (drives) sơ cấp hoặc sinh lý. Chẳng hạn như xung năng tình dục, xu năng đói. Đó là các nhu cầu bẩm sinh. Các nhu cầu vật chất thông thường ở người là nhu cầu về thực phẩm, phương tiện sinh sống như nước, ô xy và nhu cầu bài tiết, quần áo và nơi che chở để bảo vệ và giữ cơ thể ấm áp. Nhu cầu được hoạt động, hoặc được kích thích cảm giác và vận động kể cả khoái cảm, tình dục, luyện tập thân thể và nghỉ ngơi.
Nhu cầu về cảm xúc: loại nhu cầu này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực cho hành vi và khi cảm xúc bị hẫng hụt thì dẫn đến hậu quả gây ra các nhiễu loạn trong hành vi (nên chú ý khi ta muốn đề đạt vấn đề gì muốn được chấp nhận thì phải lựa lúc, lựa lời để tăng hiệu quả). Các nhu cầu chung về cảm xúc là: Nhu cầu về tình thương yêu của con người, sự tán thành và kính trọng, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu về sự xứng đáng, nhu cầu được cần tới và được người khác mong muốn.
Các nhu cầu xã hội: các nhu cầu xã hội và các cách thỏa mãn các nhu - cầu đó nảy sinh lừ nền văn hóa hoặc bối cảnh xã hội mà con người là một thành viên. Các nhu cầu xã hội đan xen với các nhu cầu vật chất và nhu cầu cảm xúc. Những nhu cầu xã hội chung là nhu cầu đồng nhất hóa hay nhu cầu được quy thuộc một nhóm, một hạng người nào đó: Nhu cầu giáo dục, nhu cầu theo tôn giáo, nhu cầu giải trí... Các nhu cầu xã hội cũng như các nhu cầu khác được đáp ứng trong tác động qua lại với những người gần gũi, các thành viên của cộng đồng, các nhóm xã hội cũng như gia đình.
Các nhu cầu đan xen nhau phụ thuộc lẫn nhau quan hệ qua lại với nhau tới mức trong thực tế chúng không thể tách rời được nhau, chúng như một dịch lỏng và luôn luôn thay đổi. Có cái khởi sự bằng nhu cầu được thoả mãn bằng cách cùng chia sẻ món thức ăn đã trở thành lễ nghi như là tượng trưng cho sự tôn trọng: Chẳng hạn việc đưa đồ giải khát mời khách biểu thị lòng mến khách của người phương Nam, việc mời trầu hay một món ăn nào đó biểu thị sự kính trọng của người phương Đông.. Một số món ăn nào đấy, một số cách nấu nướng nào đấy, một cách phục vụ nào đấy cả cách ngồi ăn, tập quán ăn uống được nhận biết cùng với nền văn hóa.
Chúng ta có thể chia nhu cầu con người dựa theo các tiêu chuẩn khác nhau
Căn cứ vào đối tượng có hai loại nhu cầu: Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất là nhu cầu cơ bản bảo đảm sự tồn tại của con người: Nhu cầu thức ăn thức uống, nhà cửa, quần áo... Nhu cầu vật chất được phát triển cùng sự tiến bộ của xã hội,
Nhu cầu tinh thần được nảy sinh trên cơ sở của nhu cầu vật chất và được nhu cầu vật chất nuôi dưỡng. Nhu cầu tinh thần làm cho nhu cầu vật chất biến dạng cao thường phức tạp thêm lên. Nhu cầu tinh thần cũng vô cùng đa dạng: Nhu cầu học tập, nhu cầu làm khoa học nghệ thuật, chính trị, nhu cầu công bằng xã hội...
Nhu cầu tính thần phát triển không ngừng. Việc tìm cách thỏa mãn các nhu cầu ngây càng cao làm cho xã hội phát triển.
Xét về mức độ ta có thể chia nhu cầu trên ba mức độ:
Thứ nhất: Lòng mong muốn, ở mức độ này con người còn giữ được ý thức sáng suốt, động cơ còn trong sáng, nhân cách còn trọn vẹn.
Thứ hai: Tham, đến mức độ cả tham ý thức bắt đầu lệch lạc và thiếu sáng suốt cho nên con người hoạt động rất tích cực và. mang tính ích kỷ.
Thứ ba: Đam mê, ở mức độ này nhân cách bị tha hóa hoàn toàn, mất hẳn ý thức, có nhiều hoạt động thiếu sáng suốt đến mức mất hẳn tính người, hoạt động điên cuồng, rồ dại và độc ác.
Nhu cầu của con người không phải là cái bất di bất dịch mà nó rất năng động, biến đổi thường xuyên song sự vận động và biến đổi của nhu cầu cũng tuân theo một số quy luật nhất định.
Quá trình thỏa mãn nhu cầu của con người thông thường trải qua ba giai đoạn hay ba trạng thái: Lúc chưa được thỏa mãn thì háo hức, mong ước do đó thúc đẩy con người hoạt động tìm tòi để lấy cân bằng. Muốn điều khiển hành vi của con người nên đánh vào những nhu cầu đang ở giai đoạn này. Khi đang chiếm lĩnh đối tượng để thỏa mãn nhu cầu thì con người có trạng thái khoan khoái dễ chịu, ngây ngất sung sướng. Khi đã lấy được cân bằng, nhu cầu đã được thỏa mãn cực độ bão hòa thì có tâm trạng chán chường. Lúc này đối tượng mất hết ý nghĩa. Nếu đánh vào những nhu cầu ở giai đoạn này thì không có ý nghĩa gì. Nhưng nếu có đối tượng mới sẽ kích thích nhu cầu mới và nhu cầu mới sẽ nổi lên, hoạt động mới sẽ xuất hiện. Vì vậy nhu cầu con người là bất tận.
Nhu cầu với tư cách là trạng thái có thể có nhiều đối tượng để thỏa mãn cũng như nhiều con đường để thỏa mãn song chủ thể sẽ chọn đối tượng nào có thể đem lại lợi ích nhất và tạo nên khoái cảm nhiều nhất cho chủ thể. Đây là một điểm rất đáng chú ý trong vấn đề điều khiển hành vi con người.
Hầu hết mỗi người có một hệ thống nhu cầu. Khi nhu cầu này được thỏa mãn thì nhu cầu khác trở nên bức thiết và cấp bách hơn (trước đó có thể là thứ yếu). Con người không bao giờ thỏa mãn được cùng một lúc mọi nhu cầu. Khi những điều mong ước trước đây đã được giải quyết thì những điều mong lược mới sẽ phát sinh. Nhu cầu mong ước của con người là vô tận. Muốn điều khiển hành vi của con người cần xác định thời điểm đó nhu cầu nào đang nổi lên, đang trở nên cấp bách nhất đối với con người đó để có những tác động thích hợp.
Mọi nhu cầu đều được cụ thể hóa thành xu hướng: Xu hướng là khuynh hướng, là hệ thống nhu cầu được phản ánh vào hứng thú, ước mơ, lý tưởng. Hệ thống nhu cầu này nó quy định xu hướng của con người. Xu hướng thường được biểu hiện ra ở các mặt như hứng thú, ước mơ, lý tưởng.
Hứng thú là sự xuất hiện cảm xúc trong nhu cầu, là sự chú ý đặc biệt của con người đến một hay vài đối tượng nào đó, là sự khát khao muốn tiếp cận để đi sâu tìm hiểu. Hứng thú rất phong phú đa dạng và nó đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động của con người. Trước tiên nó tạo ra khát vọng tìm hiểu đối tượng từ đó mà điều chỉnh hành vi cử chỉ, ý nghĩa tình cảm của con người theo một hướng xác định. Như thế thông qua hứng thú ta biết được những nhu cầu nào đang nổi lên đang cấp thiết gắn với chủ thể. Và thông qua việc tác động vào những nhu cầu đó tạo nên hứng thú. Ở con người điều khiển hành vi cần con người.
Ước mơ: ước mơ là những nhu cầu đã được con người ý thức và cụ thể hóa theo một khuynh hướng nhất định. Đó là những mong ước được phản ánh thành những hình ảnh khá sinh động, tạo thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động mãnh liệt. ước mơ rất phong phú đa dạng: ước mơ nhỏ bé như ước mơ có cái áo đẹp, ước mơ có nhà cao cửa rộng. Ước mơ cao đẹp như ước mơ thành nhà bác học, phi công...
Lý tưởng là hình ảnh của hiện thực và là hệ thống biểu tượng về một cái gì đó mà con người và xã hội cần vươn tới.
Mọi hành vi, cử chỉ, ý nghĩ của con người bị điều chỉnh bởi lý tưởng. Lý tưởng được hình thành và phát triển trên cơ sở của niềm tin. Niềm tin là hệ thống nhận thức rõ các nhu cầu của con người tạo thành nhân sinh quan, thế giới quan.
Khi nghiên cứu hệ thống nhu cầu ở mọt người hoặc một nhóm, một tầng lớp cần phải nghiên cứu điều kiện xã hội, điều kiện kinh tế, phong tục tập quán, đặc điểm tâm lý… của họ. Chính những điểm đó quy định hệ thống nhu cầu của con người. Thường thì con người thực hiện một hành vi nào đó là để thoả mãn một hệ thống nhu cầu. Trong hệ thống nhu cầu đó có những nhu cầu cấp thiết hơn nó thúc đẩy mạnh mẽ con người tới hành vi và ta gọi những nhu cầu đó là nhu cầu nổi trội.
Nhu cầu nổi trội hiện diện ngay trong hứng thú, ước mơ và lý tưởng nhưng vẫn có lúc nó tiềm ẩn và nếu được đánh thức thì nó lại tạo nên những hứng thú ước mơ và thôi thúc con người hành động. Nhu cầu nổi trội, nó nổi lên trên cái nền là hệ thống các nhu cầu khác xin chú ý là nhu cầu nổi trội đóng vai trò động. Không có nhu cầu nào luôn luôn là nhu cầu nổi trội cả. Trong cùng một hệ thống nhu cầu sống ở hoàn cảnh này nhu cầu này là nhu cầu nổi trội, ở hoàn cảnh khác nó lại trở nên thứ yếu và nhường chỗ cho nhu cầu khác. Trong một loạt khách thể tương đồng thì chủ thể hay chọn một khách thể nào đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu nổi trội (tất nhiên khách thể đó phải đáp ứng cả hệ thống nhu cầu). Muốn tác động vào con người để điều khiển hành vi của họ trong một hoàn cảnh nào đó phải xác định hệ thống nhu cầu họ có thể có trong hoàn cảnhđó và điều quan trọng nhất là xác định nhu cầu nổi trội để kế hoạch tác động thích hợp.
Qua phân tích trên ta thấy việc nghiên cứu nhu cầu ở con người với tư cách là một hiện tượng lâm lý có một ý nghĩa rất lớn lao đối với việc điều khiển hành vi của con người nên trong công tác tuyên truyền quảng cáo, trong công tác quản lý cần phải có những kiến thức về nhu cầu của con người phải biết phương pháp xác định và nắm bắt nhu cầu của con người, phải biết được ý nghĩa của từng nhu cầu đối với từng con người cụ thể trong những hoàn cảnh xác định.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LSDOCS (100).doc