Đề tài Tiếp tục sắp xếp, đổi mới quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Việc đầu tư ra ngoài doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và bảo đảm nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển được vốn, tăng thu nhập và không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ kinh doanh chính của doanh nghiệp được Nhà nước giao. Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) Quyết định phương án liên doanh trong nước. Trường hợp các doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn và tài sản Nhà nước để góp vốn liên doanh với các chủ đầu tư nước ngoài thì Hội đồng quản trị (đối với doanh nghiệp có Hội đồng quản trị), Giám đốc (đối với doanh nghiệp độc lập không có Hội đồng quản trị) trình Thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập phê duyệt dự án liên doanh đó hoặc tự quyết định nếu được thủ trưởng cơ quan Quyết định thành lập uỷ quyền bằng văn bản. Trong vòng 15 ngày sau khi Thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp phê duyệt dự án liên doanh hoặc doanh nghiệp tự quyết định, doanh nghiệp phải báo cáo cơ quan tài chính Nhà nước bằng văn bản.

doc68 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiếp tục sắp xếp, đổi mới quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thi hành Luật phá sản doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng. Ngoài những quy định riêng cho DNNN hoạt động công ích tại Luật doanh nghiệp nhà nước và Nghị định này, DNNN hoạt động công ích còn thực hiện các quy định khác của pháp luật đối với DNNN. 2.3. Đánh giá chung về hoạt động của DNNN ở Việt nam 2.3.1 Những thành tựu của DNNN và bài học kinh nghiệm Trong hơn 10 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay gắt, doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước; đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự chỉ đạo thực hiện kiên trì của Chính phủ và các cấp, các ngành; sự cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách để vươn lên của các doanh nghiệp nhà nước, của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhà nước cũng còn những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa thật tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt; nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, nợ không có khả năng thanh toán tăng lên, lao động thiếu việc làm và dôi dư còn lớn. Hiện nay, doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 2.3.2 Những tồn tại yếu kém của DNNN và nguyên nhân. Những hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; nhiều vấn đề chưa rõ, còn ý kiến khác nhau nhưng chưa được tổng kết thực tiễn để kết luận. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, vướng mắc; cải cách hành chính chậm. Cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh; một bộ phận cán bộ doanh nghiệp nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu về năng lực và phẩm chất. Sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nhiệm vụ quan trọng và phức tạp này. Tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng tại doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới. CHƯƠNG 3: ĐịNH HƯớNG Và GIảI PHáP CƠ BảN TIếP TụC ĐổI MớI Tổ CHứC QUảN Lý NHằM NÂNG CAO HIệU QUả CủA DOANH NGHIệP NHà NƯớC ở VIệT NAM TRONG THờI GIAN TớI 3.1 Định hướng tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý DNNN ở Việt nam 3.1.1 Quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục đổi mới DNNN ở Việt nam - Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. #ại bộ phận doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận cần thiết có quy mô nhỏ để kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. - Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xóa bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực sản phẩm cần ưu tiên phát triển. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan đại diện quyền chủ sở hữu của nhà nước với chức năng điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp. - Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết triển khai thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực nhưng vững chắc. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở tất cả các cấp, các ngành đối với việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng, phát huy quyền làm chủ của người lao động và vai trò của các đoàn thể quần chúng tại doanh nghiệp. 3.1.2 Một số định hướng cơ bản Định hướng về tổ chức, sắp xếp lại. Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận doanh nghiệp nhà nước phải có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận cần thiết có quy mô nhỏ để kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. - Việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có nghị quyết thì phải khẩn trương, kiên quyết triển khai thực hiện; những vấn đề chưa đủ rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực nhưng vững chắc. Định hướng về hoàn thiện cơ chế quản lý Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xóa bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực sản phẩm cần ưu tiên phát triển. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan đại diện quyền chủ sở hữu của nhà nước với chức năng điều hành sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn đối với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp. Định hướng về cải thiện môi trường hoạt động cho DNNN Chúng ta cần tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (DNNN) của các bộ, ngành, địa phương. Bài viết này cũng đề xuất mô hình thực thi quyền sở hữu nhà nước tại DNNN. Cần tiếp tục đi sâu phân tích vấn đề này cả về lý luận và thực tiễn để có những quyết định đúng, không lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu của các bộ, ngành, địa phương. Trước hết, chức năng quản lý nhà nước là của các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các cơ quan này thực hiện chức năng quản lý nhà nước với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phải chỉ với DNNN. Thí dụ: Ban hành cơ chế chính sách, hướng dẫn kiểm tra giám sát thực hiện cơ chế, chính sách. Đó là chức năng quản lý nhà nước, không phải chức năng chủ sở hữu nhà nước. Cần có một quan điểm dứt khoát là cơ quan hành chính không nên và không thể vừa làm chức năng quản lý nhà nước, vừa làm chức năng chủ sở hữu trực tiếp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải kiên quyết từ bỏ chế độ chủ quản doanh nghiệp đã tồn tại nhiều năm trước đây. Công việc chính của các cơ quan này là thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Phải phân tích rất sâu hai chức năng này để tách bạch những chủ thể nào sẽ thực hiện những chức năng gì trong phạm trù này. Chúng ta cần có cách nhìn mới, xây dựng mô hình mới về việc xây dựng mô hình chủ sở hữu DNNN. Nguyên tắc bất di, bất dịch là Nhà nước (Chính phủ) là chủ sở hữu DNNN. Nhưng những chủ thể thực hiện quyền chủ sở hữu và mối quan hệ chủ sở hữu vốn với người sử dụng vốn phải đổi khác. Thực tế đã cho thấy sự hình thành hai nhóm chủ thể chủ sở hữu. 3.2 Một số giải pháp cơ bản tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý DNNN phù hợp với nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam 3.2.1 Giải pháp về tổ chức lại DNNN a) Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh - Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền Nhà nước, bao gồm: vật liệu nổ, hóa chất độc, chất phóng xạ, hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, sản xuất thuốc lá điếu. - Nhà nước giữ cổ phần chi phối hoặc giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh trong các ngành và lĩnh vực: bán buôn lương thực, bán buôn xăng dầu, sản xuất điện, khai thác các khoáng sản quan trọng, sản xuất một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, sản xuất kim loại đen, kim loại màu, sản xuất hóa chất cơ bản, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất xi-măng, công nghiệp xây dựng, sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng, sản xuất hóa dược, thuốc chữa bệnh, vận tải hàng không, đường sắt, viễn dương, kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm, xổ số kiến thiết, dịch vụ viễn thông cơ bản; chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn, có đóng góp lớn cho ngân sách, đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao và góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo đảm nhu cầu thiết yếu cho phát triển sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào nông thôn, đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Nhà nước giữ cổ phần đặc biệt trong một số trường hợp cần thiết. Chuyển các doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà chủ sở hữu là Nhà nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các doanh nghiệp nhà nước. Căn cứ định hướng trên đây, Chính phủ chỉ đạo rà soát, phê duyệt phân loại cụ thể các doanh nghiệp nhà nước hiện có để triển khai thực hiện và từng thời kỳ xem xét điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức của #ảng thực hiện sắp xếp như đối với doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị -xã hội đăng ký hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. - Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu sẽ thực hiện dưới hình thức công ty cổ phần. Chỉ thành lập mới doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đối với những ngành và lĩnh vực mà Nhà nước cần giữ độc quyền, hoặc các thành phần kinh tế khác không muốn hay không có khả năng tham gia. b) Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích - Nhà nước giữ 100% vốn đối với các doanh nghiệp công ích hoạt động trong các lĩnh vực: in bạc và chứng chỉ có giá điều hành bay; bảo đảm hàng hải; kiểm soát và phân phối tần số vô tuyến điện; sản xuất, sửa chữa vũ khí, khí tài, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp được giao thực hiện nhiệm vụ quốc phòng đặc biệt và các doanh nghiệp tại các địa bàn chiến lược quan trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng theo quyết định của Chính phủ. Các doanh nghiệp của quân đội và công an được sắp xếp và phát triển theo định hướng này. - Nhà nước giữ 100% vốn hoặc cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp công ích đang hoạt động trong các lĩnh vực: kiểm định kỹ thuật phương tiện giao thông cơ giới lớn; xuất bản sách giáo khoa, sách báo chính trị, phim thời sự và tài liệu; quản lý, bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia, sân bay; quản lý thủy nông đầu nguồn; trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn; thoát nước ở đô thị lớn; ánh sáng đường phố quản lý, bảo trì hệ thống đường bộ, bến xe, đường thủy quan trọng; sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ khác theo quy định của Chính phủ. Trong từng thời kỳ, Chính phủ xem xét, điều chỉnh định hướng phân loại doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Đối với các doanh nghiệp hoạt động công ích hiện có, Chính phủ căn cứ vào định hướng trên đây chỉ đạo rà soát và phê duyệt phân loại cụ thể để triển khai thực hiện. Những doanh nghiệp công ích đang hoạt động không thuộc diện nêu trên sẽ được sắp xếp lại. Việc thành lập mới doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích phải được xem xét chặt chẽ, đúng định hướng, có yêu cầu và có đủ các điều kiện cần thiết. Khuyến khích nhân dân và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế sản xuất những sản phẩm, dịch vụ công ích mà xã hội cần và pháp luật không cấm. 3.2.2 Tiếp tục tìm mô hình thể chế hoá hiệu quả sở hữu nhà nước 3.2.2.1 Đại diện sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp   Thời gian gần đây, vấn đề đặt ra trong nhiều cuộc hội thảo là vấn đề thực thi quyền chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Chúng tôi nhận thấy cần phải đi sâu phân tích vấn đề này cả về lý luận và thực tiễn để có những quyết định đúng, không lẫn lộn giữa chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu của các bộ, ngành, địa phương. Trước hết, chức năng quản lý nhà nước là của các bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các cơ quan này thực hiện chức năng quản lý nhà nước với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phải chỉ với DNNN. Thí dụ: Ban hành cơ chế chính sách, hướng dẫn kiểm tra giám sát thực hiện cơ chế, chính sách. Đó là chức năng quản lý nhà nước, không phải chức năng chủ sở hữu nhà nước. Cần có một quan điểm dứt khoát là cơ quan hành chính không nên và không thể vừa làm chức năng quản lý nhà nước, vừa làm chức năng chủ sở hữu trực tiếp. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải kiên quyết từ bỏ chế độ chủ quản doanh nghiệp đã tồn tại nhiều năm trước đây. Công việc chính của các cơ quan này là thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Phải phân tích rất sâu hai chức năng này để tách bạch những chủ thể nào sẽ thực hiện những chức năng gì trong phạm trù này. Chúng ta cần có cách nhìn mới, xây dựng mô hình mới về việc xây dựng mô hình chủ sở hữu DNNN. Nguyên tắc bất di, bất dịch là Nhà nước (Chính phủ) là chủ sở hữu DNNN. Nhưng những chủ thể thực hiện quyền chủ sở hữu và mối quan hệ chủ sở hữu vốn với người sử dụng vốn phải đổi khác. Thực tế đã cho thấy sự hình thành hai nhóm chủ thể chủ sở hữu.     Một là, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, UBND (không nên ghép hội đồng quản trị, tổng công ty vào đây). Nhóm này là những cơ quan hành chính chỉ thực hiện quyền chủ sở hữu mang tính chất hành chính với các tổng công ty, tập đoàn, công ty đầu tư tài chính nhà nước, công ty mẹ nhà nước. Quan hệ này không theo Luật Doanh nghiệp mà dựa theo Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, luật này sẽ ban hành trong thời gian tới.     Hai là, các tổng công ty nhà nước, tập đoàn, công ty đầu tư tài chính nhà nước, công ty mẹ (hội đồng quản trị - đầu não của các tổ chức này không bao gồm các doanh nghiệp thành viên). Nhóm này là doanh nghiệp được Nhà nước giao thực hiện quyền chủ sở hữu mang tính kinh doanh là chủ sở hữu trực tiếp với các doanh nghiệp thành viên theo Luật Doanh nghiệp, khi nó là những công ty mẹ đầu tư vốn vào các công ty con - thành viên.     Nhóm chủ thể chủ sở hữu thứ nhất là những: cơ quan hành chính (Thủ tướng, các bộ, ủy ban) chỉ thực hiện quyền chủ sở hữu của mình với nhóm chủ thể hai theo nguyên tắc hành chính: ra quyết định thành lập và giao vốn một lần, kiểm tra giám sát theo nguyên tắc gần như khoán, không can thiệp và về nguyên tắc không với tay xuống các doanh nghiệp thành viên. Mối quan hệ này sẽ được xác định rõ trong "Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp" sắp tới.     Nhóm chủ thể chủ sở hữu thứ hai: là những doanh nghiệp hoạt động, tổ chức tài chính trung gian (tổng công ty, công ty mẹ, công ty đầu tư tài chính nhà nước), nhóm này là doanh nghiệp được giao thực hiện quyền chủ sở hữu của mình với các công ty con theo Luật Doanh nghiệp theo nguyên tắc kinh doanh vốn đối với các doanh nghiệp thành viên là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Với cách nhìn nhận này, không nên ghép vai trò chủ sở hữu của hội đồng quản trị, tổng công ty vào với các bộ, ngành, UBND các cấp - vừa sai, vừa không đủ. Chính vì ghép như vậy nó sẽ đẻ ra một điều bất cập trong đề án xác lập quyền chủ sở hữu nhà nước: bộ, UBND thì quyết định các vấn đề của doanh nghiệp trực thuộc thường là những doanh nghiệp nhỏ, không quan trọng. Còn hội đồng quản trị, tổng công ty quyết định các vấn đề của tổng công ty mình - là những doanh nghiệp lớn quan trọng hơn!     Ba là, từ những nhận xét trên cho thấy, để có quyết định đúng và khả thi về quyền chủ sở hữu DNNN chúng ta cần làm hai việc quan trọng. Đó là, hoàn thiện quy hoạch tổng thể, có tính chất chiến lược về sắp xếp lại doanh nghiệp: tổ chức lại các mô hình tổng công ty, tập đoàn, công ty mẹ, công ty đầu tư tài chính nhà nước được Nhà nước giao vốn là những chủ thể doanh nghiệp được giao thực hiện quyền chủ sở hữu trực tiếp đối với DNNN theo nguyên tắc kinh doanh; cần thống nhất hai Luật DNNN và Luật DN (thay vì chỉ sửa Luật DNNN như hiện nay) và ban hành Luật vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp làm cơ sở pháp lý thực thi quyền chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước.     Việc chuyển các tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, theo chúng tôi, thực chất là sự chuyển đổi mối quan hệ nội bộ tổng công ty, có tính kế thừa và phát triển. Không nên cho đây là một cơ chế hoàn toàn mới lạ thay cho cơ chế cũ của tổng công ty nhà nước. Mô hình này tạo điều kiện xác định rõ hơn các chủ thể thực hiện vai trò chủ sở hữu nhà nước trong DNNN. Vì vậy, bước đi phải thận trọng, hợp quy luật: Trước hết phải chuyển đổi các doanh nghiệp thành viên: Cổ phần hóa, công ty hóa (chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) không nên ra quyết định chuyển tổng công ty nhà nước thành công ty mẹ mà các công ty con (thành viên) chưa chuyển đổi vì như thế chỉ là hình thức, không đi vào cuộc sống, không đồng bộ. Và cuối cùng là, cần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho mô hình này: Không để tình trạng "Đầu" (công ty mẹ) hoạt động theo Luật DNNN, còn "chân tay" (công ty con) hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. ở đây cũng xuất hiện yêu cầu thống nhất hai Luật và ra đời Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Đó là những yêu cầu tất yếu khách quan đòi hỏi bức bách trong quá trình chuyển đổi DNNN theo tinh thần Nghị quyết T.Ư 3 (khóa IX) và chương trình hành động của Chính phủ thực hiện nghị quyết này. 3.2.2.2 Đổi mới cơ chế kiểm soát vốn nhà nước: Công ty đầu tư tài chính nhà nước Doanh nghiệp được tiếp cận và thu hút các nguồn vốn trên thị trường để phát triển kinh doanh; được chủ động xử lý các tài sản dư thừa, vật tư, hàng hóa ứ đọng. Nhà nước có cơ chế để trong 5 năm 2001-2005 cơ bản tạo đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp. Không thu thuế sử dụng vốn ngân sách, chuyển hình thức cấp vốn sang đầu tư vốn. Thí điểm lập công ty đầu tư tài chính nhà nước để thực hiện đầu tư và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiên cứu ban hành Luật sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào kinh doanh. Doanh nghiệp được tự chủ trong việc phân phối và trích lập các quỹ từ lợi nhuận để lại theo khung quy định chung. Nhà nước có chính sách đối với những tài sản do doanh nghiệp đầu tư bằng vốn vay và đã trả hết nợ bằng nguồn khấu hao cơ bản và lợi nhuận do chính tài sản đó làm ra theo hướng thực hiện hài hòa các lợi ích, phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể, khuyến khích doanh nghiệp tiếp tục tái đầu tư phát triển. - Về đầu tư: tăng thêm quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong quyết định đầu tư trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển được phê duyệt. - Về đổi mới, hiện đại hóa công nghệ: doanh nghiệp được áp dụng chế độ ưu đãi đối với người có đóng góp vào đổi mới công nghệ mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp; chi phí này được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. - Về lao động, tiền lương: doanh nghiệp quyết định việc tuyển chọn lao động và chịu trách nhiệm giải quyết chế độ đối với người lao động do mình tuyển dụng không có việc làm bằng các nguồn kinh phí của doanh nghiệp; được tự chủ trong việc trả tiền lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Về cán bộ quản lý doanh nghiệp: doanh nghiệp chủ động lựa chọn và bố trí cán bộ quản lý theo hướng chủ yếu là thi tuyển; cơ quan nhà nước và tổ chức có thẩm quyền ra quyết định bổ nhiệm cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. Nhà nước có cơ chế khuyến khích vật chất, tinh thần, đồng thời nâng cao trách nhiệm của cán bộ quản lý doanh nghiệp. - Về thanh tra, kiểm tra: hằng năm doanh nghiệp phải được kiểm toán, kết quả kiểm toán là căn cứ pháp lý về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra, kiểm tra. 3.2.3 Hoàn thiện mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của DNNN. Tổ chức đảng ở doanh nghiệp nhà nước lãnh đạo việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia đề ra và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động, phát huy dân chủ, thi đua hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng; lãnh đạo các tổ chức quần chúng làm tốt chức năng, nhiệm vụ. Đối với tổng công ty nhà nước, mô hình tổ chức đảng có thể theo hướng: - Thành lập đảng bộ toàn tổng công ty trực thuộc Đảng ủy khối cơ quan Kinh tế Trung ương trong trường hợp đòi hỏi tổng công ty phải có sự lãnh đạo chặt chẽ theo ngành dọc. - Đảng bộ cơ quan tổng công ty trực thuộc Đảng ủy khối cơ quan Kinh tế Trung ương, còn tổ chức đảng ở các doanh nghiệp thành viên trực thuộc tổ chức đảng địa phương. - Thành lập đảng bộ toàn tổng công ty trực thuộc đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. - Thành lập ban cán sự đảng ở tổng công ty nhà nước trong trường hợp thật cần thiết. Ban Tổ chức Trung ương chủ trì xây dựng đề án cụ thể về đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng tại doanh nghiệp nhà nước phù hợp với yêu cầu và đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp trong điều kiện mới. 3.2.4 Đào tạo và sử dụng hợp lý cán bộ quản lý trong DNNN Chính phủ quy định tiêu chuẩn cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước; chỉ đạo xây dựng hệ thống đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giám đốc doanh nghiệp. Chính phủ quy định chế độ đãi ngộ và chế độ trách nhiệm đối với những cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước theo hướng khuyến khích thỏa đáng về vật chất và tinh thần căn cứ mức độ đóng góp vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp; đồng thời có chế tài phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp nhà nước để xử lý những cán bộ quản lý doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả do nguyên nhân chủ quan. 3.2.5 Hoàn thiện hệ thống luật pháp chi phối DNNN Luật DNNN được ban hành năm 1995, đến nay đã có nhiều quy định không còn phù hợp với thực tế phát triển của nền kinh tế và xu hươngs hội nhập quốc tế. Dự thảo Luật DNNN sửa đổi đang được Quốc hội bàn thảo để thông qua. Việc sửa đổi Luật DNNN dựa trên các tư tưởng chỉ đạo : Quán triệt và thể chế hoá các quan điểm và nội dung đổi mới DNNN tại các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết TW3 khoá 9 về sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN. Khắc phục các tồn tại, vướng mắc được phát hiện sau 8 năm thực hiện luật. Đó là những vướng mắc về thể chế, chính sách, tổ chức quản lý đối với DNNN, theo phương châm là tháo gỡ đồng bộ các vướng mắc để nâng cao tính năng động, tự chịu trách nhiệm, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả DNNN. Thể chế hoá các biện pháp đổi mới DNNN đã và đang tiến hành theo các văn bản dưới luật đang phát huy tác dụng trong thực tế đổi mới DNNN nhưng chưa được quy dịnh trong Luật DNNN. Sửa đổi nội dung của Luật DNNN theo hướng quyền và nghĩa vụ của DNNN trên thương trường là bình đẳng với các doanh nghiệp. Sự cần thiết phải sửa đổi cơ bản luật DNNN : Một là Luật DNNN được banahnhf từ năm 1995,qua 8 năm thực hiện đã bộc lộ những hạn chế và bất cập, nhất là có những vướng mắc về thể chế, chính sách, tổ chức quản lý đối với DNNN, làm cho DNNN thiếu tính năng động tự chủ, tự chịu trách nhiệm , kể cả DNNN và cán bộ quản lý DNNN, năng lực cạnh tranh yếu, hiệu quả chưa cao. Sửa đổi luật để tháo gỡ những vướng mắc này 3.3 Một số kiến nghị b) Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích. Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ mà Nhà nước quyết định quy mô tổ chức, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp công ích. Chuyển từ cơ chế cấp vốn, giao nhiệm vụ sang cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu thực hiện sản phẩm, dịch vụ công ích. Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm và dịch vụ công ích, không phân biệt loại hình doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà nước cấp đủ vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nướchoạt động công ích. Thực hiện cơ chế quản lý lao động, tiền lương và thu nhập trên cơ sở khối lượng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà Nhà nước giao hoặc đặt hàng. Doanh nghiệp công ích cũng phải thực hiện hạch toán. c) Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được. - Bổ sung cơ chế, chính sách đối với lao động dôi dư trong sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước. Cần có hướng dẫn thực hiện một cách cụ thể ( Tháng 4-2002 Chính phủ đã thành lập Quỹ hỗ trợ giải quyết chính sách cho lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN cho giai đoạn 2002 - 2005, với tổng vốn 6.027 tỷ đồng, nhưng đến hết tháng 7 -2003, mới giải ngân được 180 tỷ đồng.) Doanh nghiệp phải rà soát và xây dựng đúng định mức để xác định số lượng lao động cần thiết. Lao động dôi dư được doanh nghiệp tạo điều kiện đào tạo lại hoặc nghỉ việc hưởng nguyên lương một thời gian để tìm việc; nếu không tìm được việc thì được nghỉ chế độ mất việc theo quy định của Bộ luật Lao động. Bổ sung, sửa đổi một số chính sách cụ thể đối với người lao động dôi dư có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi. Chính phủ bố trí nguồn kinh phí để giải quyết chính sách cho số lao động dôi dư. Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động theo hướng cho phép áp dụng chế độ mất việc đối với số lao động dôi dư tại thời điểm giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội; ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo hướng Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng đóng góp. - Xử lý nợ không thanh toán được. Chính phủ quy định biện pháp giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với ngân sách nhà nước và ngân hàng, đồng thời có giải pháp để ngăn ngừa sự tái phát. Thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp nhà nước để xử lý nợ và tài sản không cần dùng, tạo điều kiện lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp. Tổng công ty nhà nước phải có vốn điều lệ đủ lớn, có thể huy động vốn từ nhiều nguồn, trong đó vốn nhà nước là chủ yếu; thực hiện kinh doanh đa ngành, có ngành chính chuyên sâu; có liên kết giữa các đơn vị thành viên về sản xuất, tài chính, thị trường...; có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Hoàn thành việc sắp xếp các tổng công ty nhà nước hiện có nhằm tập trung hơn nữa nguồn lực để chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế làm lực lượng chủ lực trong việc bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu, đóng góp lớn cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần tổ chức tổng công ty nhà nước: khai thác, chế biến dầu khí và kinh doanh bán buôn xăng dầu; sản xuất và cung ứng điện; khai thác, chế biến, cung ứng than, các khoáng sản quan trọng; luyện kim; cơ khí chế tạo; sản xuất xi-măng; bưu chính, viễn thông, điện tử hàng không; hàng hải; đường sắt; hóa chất và phân hóa học; sản xuất một số hàng tiêu dùng và công nghiệp thực phẩm quan trọng; hóa dược; xây dựng; kinh doanh bán buôn lương thực; ngân hàng; bảo hiểm... Trong từng thời kỳ, theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế cần có sự điều chỉnh phù hợp. Những tổng công ty đang hoạt động không có đủ các yêu cầu trên sẽ được sắp xếp lại. Thí điểm, rút kinh nghiệm để nhân rộng việc thực hiện chuyển tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, trong đó tổng công ty đầu tư vốn vào các doanh nghiệp thành viên là những công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ (tổng công ty) hoặc là công ty cổ phần mà tổng công ty giữ cổ phần chi phối. Ngoài ra, tổng công ty có thể đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Tổng công ty 100% vốn nhà nước phải có hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại tổng công ty, nhận và chịu trách nhiệm bảo toàn, phát triển vốn, tài sản Nhà nước giao. Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng quản trị: Trình Thủ tướng Chính phủ (hoặc bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) xem xét quyết định: chủ trương thành lập, chia tách, sáp nhập, chuyển đổi sở hữu, giải thể đơn vị thành viên; ban hành điều lệ mẫu; bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật chủ tịch, ủy viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc; phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trung hạn, dài hạn của tổng công ty, các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền Chính phủ phê duyệt. Quyết định bổ nhiệm phó tổng giám đốc, kế toán trưởng, thông qua việc bổ nhiệm giám đốc đơn vị thành viên để tổng giám đốc ra quyết định; quyết định và chịu trách nhiệm về các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt và các phương án tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh, biên chế bộ máy quản lý tổng công ty; quyết định phân phối lợi nhuận sau thuế. Kiểm tra, giám sát tổng giám đốc, giám đốc đơn vị thành viên trong việc sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và thực hiện nghị quyết của hội đồng quản trị. Chính phủ quy định tiền lương, chế độ tiền thưởng cho hội đồng quản trị gắn với hiệu quả hoạt động của tổng công ty. b) Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng... Cần tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là nhằm: tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không được biến thành tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước. Đối tượng cổ phần hóa là những doanh nghiệp nhà nước hiện có mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp mà quyết định chuyển doanh nghiệp nhà nước hiện có thành công ty cổ phần, trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, cổ phần ở mức thấp, hoặc Nhà nước không giữ cổ phần. Hình thức cổ phần hóa bao gồm: giữ nguyên giá trị doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu để thu hút thêm vốn; bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho các cổ đông; cổ phần hóa đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp; chuyển toàn bộ doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Trường hợp cổ phần hóa đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp thì không được gây khó khăn hoặc làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh các bộ phận còn lại của doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách để giảm bớt tình trạng chênh lệch về cổ phần ưu đãi cho người lao động giữa các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa. Có quy định để người lao động giữ được cổ phần ưu đãi trong một thời gian nhất định. Sửa đổi, bổ sung cơ chế ưu tiên bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp để gắn bó người lao động với doanh nghiệp; dành một tỉ lệ cổ phần thích hợp bán ra ngoài doanh nghiệp. Nghiên cứu sử dụng một phần vốn tự có của doanh nghiệp để hình thành cổ phần của người lao động, người lao động được hưởng lãi nhưng không được rút cổ phần này khỏi doanh nghiệp. Mở rộng việc bán cổ phần của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp cổ phần hóa sử dụng nhiều lao động và có quy định cho phép chuyển nợ thành vốn góp cổ phần. Sửa đổi phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường; nghiên cứu đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp, thí điểm đấu thầu bán cổ phiếu và bán cổ phiếu qua các định chế tài chính trung gian. Nhà đầu tư được mua cổ phần lần đầu đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Khuyến khích nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý, tiền vốn mua cổ phần. Số tiền thu được từ bán cổ phần dùng để thực hiện chính sách đối với người lao động và để Nhà nước tái đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không được đưa vào ngân sách để chi thường xuyên. Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp khi cổ phần hóa có khó khăn. Chỉ đạo chặt chẽ doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn để lập mới công ty cổ phần ở những lĩnh vực cần thiết. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp quy mô nhỏ có vốn nhà nước dưới 5 tỉ đồng, Nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hóa được, tùy thực tế của từng doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định một trong các hình thức: giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê. Khuyến khích doanh nghiệp nhà nước đã giao, bán được chuyển thành công ty cổ phần của người lao động. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả, nhưng không thực hiện được các hình thức nói trên. Sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản doanh nghiệp theo hướng người quyết định thành lập doanh nghiệp có quyền đề nghị tuyên bố phá sản. Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người lao động và toàn xã hội đối với chủ trương cổ phần hóa, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước. KếT LUậN Từ sau đại hội Đảng VI đến nay sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước ta từng bước được chuyển đổi trong một môi trường chính trị ổn định, được đặt dưới sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng ta. Xuất phát từ thực tiễn nước ta, một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ (không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa). Đảng ta đề ra chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và coi đây là chính sách có tính chiến lược được thực hiện một cách nhất quán, lâu dài trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng kinh tế, một phương tiện quan trọng không thể thiếu được để Nhà nước can thiệp, điều tiết, hỗ trợ và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển đúng hướng. Ngoài ra nó còn luôn luôn đi đầu trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc doanh nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong nền kinh tế quốc dân. Khẳng định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước cũng chính là khẳng định tính định hướng của nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên thực tế trong những năm qua một số các doanh nghiệp nhà nước vẫn hoạt động một cách cầm chừng, ỷ lại vào cơ quan cấp trên, số doanh nghiệp bị thua lỗ còn nhiều thậm chí đi đến giải thể và tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó có một số doanh nghiệp nhà nước đã thích nghi với điều kiện của kinh tế thị trường, cạnh tranh lành mạnh với các doanh nghiệp khác, làm ăn có hiệu quả, tự đứng vững và phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước hoạt động ổn định trong nền kinh tế. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo khung pháp lý cho các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Nhưng cho đến nay các văn bản này vẫn chưa đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của các doanh nghiệp. Ngày 20/4/1995 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua luật doanh nghiệp nhà nước. Trong đó quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp. Luật này cũng quy định rõ quyền quản lý doanh nghiệp và quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Ngoài những quy định cụ thể về vấn đề tổ chức và hoạt động Nhà nước ta còn ban hành những văn bản khác nhằm mục đích phát triển quy mô sẵn có của doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước ngày càng vững mạnh, đáp ứng được mọi nhu cầu bức xúc của nền kinh tế. Với việc được Nhà nước tạo dựng một hành lang pháp lý ổn định như vậy các doanh nghiệp nhà nước sẽ được tự do trong sản xuất kinh doanh (trong khuôn khổ pháp luật ) đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm đạt được những mục đích, những chỉ tiêu mà Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước từng bước sẽ khai thác tối đa mọi khả năng sẵn có của mình, đứng vững và khẳng định được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Để doanh nghiệp nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường yêu cầu được đặt ra là phải có sự sắp xếp và tổ chức lại hệ thống doanh nghiệp hiện có. Mặt khác cũng phải có quy định chặt chẽ các quy chế về thành lập mới các doanh nghiệp nhà nước ở các ngành, các lĩnh vực then chốt có tác dụng mở đường và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển, đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế. Xuất phát từ một số lý do khác nhau như doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả doanh nghiệp đã hoàn thành nghĩa vụ, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần cải tổ hệ thống doanh nghiệp trong ngành, trong địa phương theo chiến lược phát triển kinh tế mới...dẫn đến nhu cầu cần tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước. Với mục tiêu củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế, bảo đảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước với các loại hình doanh nghiệp khác tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước, tăng thêm quyền tự chủ của các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời gắn trách nhiệm dân sự trong việc bảo toàn và phát triển vốn với việc chịu sự quản lý của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu đối với vốn và tài sản của doanh nghiệp. Nếu như trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp doanh nghiệp nhà nước chiếm vị trí thống soái trong nền kinh tế quốc dâncác thẩm quyền về kinh tế của doanh nghiệp nhà nước được quy định một cách rộng rãi nhưng không đảm bảo được chức năng hoạt động. Các doanh nghiệp nhà nước có mặt ở hầu hết các nghành nghề sản xuất kinh doanh nhưng hiệu quả kinh tế đem lại không tương xứng với quy môcủa thành phần kinh tế chủ đạo. Trong giai đoạn đất nước chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần, các cơ quan chức năng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bổ sung, chỉnh lý các quy định về quyền và nghĩa pháp lý cho doanh nghiệp nhà nước để phù hợp với xu thế vận động của nền kinh tế quốc dân. Đó là một bước đệm trong sự hoàn thiện các quy định hiện hành về địa vị pháp lý của doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế các cơ quan Nhà nước đã ban hành nhiều hơn văn bản nhằm mở rộng quyền tự chủ trong việc sử dụng các loại tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Song các quyền này chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng đó cũng là một sự quản lý cơ bản trong cơ chế quản lý kinh tế và là cơ sở để xây dựng các điều khoản cụ thể trong luật doanh nghiệp nhà nước. Để tạo cho các doanh nghiệp nhà nước sử dụng hợp lý và có hiệu quả cao nhất tài sản và vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp điều 6 luật doanh nghiệp nhà nước quy định: “Doanh nghiệp nhà nước có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, cầm cố đối với những tài sản mà doanh nghiệp nhà nước chưa sử dụng hoặc sử dụng không hết công suất, không có hiệu quả”. Đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh có quyền chuyển nhượng, cho thuê, cầm cố, thế chấp tài sản thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu hoạt động của mình trừ những nhà xưởng, thiết bị quan trọng theo quy định của Chính phủ phải được cơ quan quản lý có thẩm quyền cho phép. Nhưng khi tiến hành các hoạt động trên doanh nghiệp phải tuân theo những nguyên tắc sau: Đảm bảo lợi nhuận trong giao dịch phải lớn hơn lợi nhuận trong việc sử dụng các loại tài sản đó trong doanh nghiệp. Thực hiện các giao dịch trong khuôn khổ pháp luật. Đảm bảo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Đối với doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích thì chỉ được thực hiện quyền chuyển nhượng, cho thuê, cầm cố, thế chấp tài sản khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Như vậy quyền định đoạt của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích bị hạn chế hơn so với quyền định đoạt của các doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh bởi hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải năng động để nắm bắt được các cơ hội kinh doanh. Song song với việc trao quyền quản lý và sử dụng tài sản, Nhà nước còn quy định những nghĩa vụ nhất định của doanh nghiệp Nhà nước đối với tài sản và vốn Nhà nước giao cho. Tất cá các Doanh nghiệp nhà nước đều có nghĩa vụ sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao (bao gồm cả vốn đầu tư vào doanh nghiệp khác nếu có). Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong việc sử dụng vốn của Nhà nước, Nhà nước tiến hành giao vốn cho doanh nghiệp. Toàn bộ số vốn giao cho doanh nghiệp được ghi vào biên bản giao nhận vốn, biên bản giao nhận vốn là căn cứ pháp luật để xác định trách nhiệm bảo toàn vốn của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định số thu nộp và sử dụng vốn. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nhà nước có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của Nhà nước giao. Hàng năm cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt quyết toán sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời xác định số vốn doanh nghiệp phải bảo toàn trong năm tài chính (ngày 31/12 hàng năm) số liệu này là căn cứ duyệt quyết toán vốn được bảo toàn trong năm, báo cáo và làm cơ sở để kiểm tra mức vốn phải bảo toàn trong năm tiếp theo. Nếu doanh nghiệp nhà nước không bảo toàn được vốn thì doanh nghiệp phải lấy quỹ phát triển sản xuất của doanh nghiệp để bù đắp cho phần vốn Nhà nước đã giao. Trường hợp quỹ phát triển sản xuất của doanh nghiệp không có thì doanh nghiệp phải chuyển phần vốn tự bổ sung sang bù đắp cho đủ số vốn phải bảo toàn. Trường hợp vốn tự bổ sung của doanh nghiệp không còn thì doanh nghiệp phải bù đắp trong những năm tiếp theo. Ngoài nghĩa vụ bảo toàn vốn doanh nghiệp nhà nước còn có nghĩa vụ phát triển vốn, doanh nghiệp nhà nước có nghĩa vụ sử dụng vốn và các nguồn lực khác do Nhà nước giao vào đúng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích thì có nghĩa vụ sử dụng vốn và các nguồn lực do Nhà nước giao để cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ công ích cho các đối tượng theo khung giá do Chính phủ quy định. Doanh nghiệp nhà nước đã trải qua một quá trình hình thành và tồn tại từ lâu gắn với những thăng trầm của lịch sử cộng với giai đoạn phát triển chậm chạp của đất nước nên công nghệ của doanh nghiệp nhà nước đến nay chỉ là những con số lạc hậu và cũ kỹ. Theo báo cáo của Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường thì trình độ công nghệ của các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta thua kém các nước khác đến 3 - 4 thế hệ có những doanh nghiệp vẫn sử dụng những công nghệ còn tồn tại từ năm 1939, quá trình thay đổi thường trải qua một quãng đường dài 14 - 15 năm trong khi mức cần thiết là khoảng 5 năm (sau khi khai thác). Đa số thiết bị của chúng ta được nhập từ khối xã hội chủ nghĩa trước đây và khu vực, chỉ một số ít là nhập từ những nước công nghiệp tiên tiến còn lại là do tự nghiên cứu và chế tạo. Từ sau năm 1986 có khoảng 18% số doanh nghiệp được đầu tư mới nên có công nghệ tương đối hiện đại đáp ứng được nhu cầu sản xuất và chất lượng sản phẩm. Với trình độ khoa học công nghệ nêu trên các doanh nghiệp nhà nước của ta khó có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập và thị trường quốc tế. Những vấn đề đó đòi hỏi chúng ta phải biết tranh thủ thời gian và công nghệ của các nước tiên tiến đang phát triển. DANH MUC TAI LIÊU THAM KHAO Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX Luật Doanh nghiệp Nhà nước ( 1995 ) Nghị định 217/HĐBT 14/11/1987 Nghị định 50/HĐBT 23/3/1988 Quyết định 315/HĐBT 01/9/1990 Nghị định 388/HĐBT 20/11/1991 Nghị định 44/CP 29/6/1998 Nghị định 56 CP ngày 2/10/1996 Nghị định 59 CP ngày 3/10/1996 Giáo trình Luật Kinh tế - Đại học Luật Hà Nội (1994, 1996) Một số quan điểm và giải pháp chuyển sang Kinh tế thị trường - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (1994) Một số vấn đề về cơ chế chính sách và Pháp luật đối với Doanh nghiệp Nhà nước - PTS Lê Đăng Doanh - Viện trưởng Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước Luật Công ty (21/12/1990) Luật Doanh nghiệp Nhà nước (2/4/1995) Luật đầu tư nước ngoài (12/11/1996) Luật khuyến khích đầu tư trong nước (22/6/1994) Quyết định 217/CT (10/12/1987) của Chủ tịch HĐBT về đổi mới cơ chế quản lý DNNN. Quyết định 202/CT (8/6/1992) của Chủ tịch HĐBT về tiếp tục thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần. Quyết định 203/CT (8/6/1992) của Chủ tịch HĐBT chọn 7 doanh nghiệp thí điểm làm cổ phần hoá. Chỉ thị 84/TTg (4/3/1993) của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục thí điểm cổ phần hoá DNNN. Nghị định 28/CP (7/5/1996) của Chính phủ về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước sang Công ty cổ phần. Nghị định 25/CP (26/3/1997) của Chính phủ về sửa đổi một số điều của nghị định 28/CP. Chỉ thị 658/TTg (20/8/1997) của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy triển khai vững chắc cổ phần hoá DNNN. Chỉ thị số 01 ngày 16-1-2003 của Thủ tướng chính phủ về Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệuquả doanh nghiệp nhà nước. Nghị định 44/1998 NĐ - CP (29/6/1998) của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần. Quyết định 111/1998/ QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập ban đổi mới quản lý Doanh nghiệp TW. Chỉ thị 20/1998/CP về việc sắp xếp lại doanh nghiệp. Thống kê số liệu của Tổng cục thống kê. Thông tư 104/1998 TT - BTC (18/7/1998) về hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển sang Công ty cổ phần. Thông tư 117/1998/TT - BTC (22/8/1998) hướng dẫn ưu đãi về thuế và lệ phí trước bạ khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần. Thông tư 11/1998 TT - LĐTBXH (21/8/1998) của Bộ lao động thương binh xã hội hướng dẫn chính sách với người lao động ở Công ty CP. Thông tư 06/1998/TT - NHNN (15/8/1998) của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các vấn đề liên quan tới Nhà nước khi chuyển thành Công ty cổ phần. Thông tư 3395/VPCP - ĐMDN (29/8/1998) của văn phòng Chính phủ về qui trình và phương án mẫu cổ phần hoá. Quyết định 35/1998/ QĐ - UB (15/9/1998) của UBND Thành phố Hà Nội hướng dẫn chuyển giao nhà cho doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang Công ty cổ phần. Báo Đầu tư 26/5/ và 8/6/2003. Báo Diễn đàn Doanh nghiệp 14/7/2003. Hết

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0237.doc
Tài liệu liên quan