Ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đều coi tiết kiệm là quốc sách. Mọi tổ chức cá nhân sử dụng vốn và tài sản Nhà nước, tài nguyên thiên nhiên phải thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tuy vậy, ở nước ta tình trạng sử dụng công qũy lãng phí, chi tiêu không có hiệu quả thiết thực còn phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực, các góc độ của nền kinh tế từ Trung ương cơ sở. Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng mình để công khai và mạnh dạn gạt bỏ cho sạch những tiêu cực tham ô lãng phí quan liêu, tạo ra một khí thế cách mạng làm động lực tinh thần cho cán bộ quản lý trên mặt trận kinh tế. Lý thuyết thực tiễn chưa thực sự đi sâu vào từng cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cá nhân. Bởi vì lý thuyết chưa đi cùng thực hành. Những giải pháp cơ bản đưa ra được xem xét trên nhiều góc độ của nền kinh tế là thước đo để tính được mức hiệu quả của công tác thực hành tiết kiệm. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo, xét trên góc độ toàn nền kinh tế là thiếu nguồn lực rất nhiều. Do vậy, với những nguồn lực đã có và các nguồn lực sẽ đạt được trong tương lai thì công tác thực hành tiết kiệm không là trách nhiệm của riêng ai. Đó là yêu cầu cấp bách và khách quan của nền kinh tế nước ta cần phải được thực hiện ngay từ bây giờ, ở mọi nơi, mọi lúc. Để thực hiện tốt quốc sách tiết kiệm cần phải có sự cộng tác tích cực của các cấp, ngành trong việc kiểm tra, giám sát cũng như hoạch định quy chế nhằm triệt để tiết kiệm mọi nguồn lực sao cho hiệu qủa kinh tế cao nhất, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
39 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1675 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiết kiệm là quốc sách - Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực vật bậc cao, 200 loài cây trồng, hơn 200 loài thú quý, 700 loài chim, 500 loài cá nước ngọt. ở dưới biển có khoảng 2000 loài cá (trong đó hơn 100 loài có giá trị kinh tế), hàng trăm loài tôm, 650 loài rong biển.
Do phá rừng và khai thác tài nguyên quá mức, tài nguyên sinh vật đang bị giảm sút đáng kể. Nhiều loại trở nên hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Các hệ sinh thái rừng ngập mặn đangbị huỷ hoại nghiêm trọng.
Nước ta hiện nay có khoảng 9,3 triệu ha rừng tập trung chủ yếu ở ba vùng: Bắc Trung Bộ (gần 1,7 triệu ha), duyên hải miền trung( 1,7 triệu ha) và Tây Nguyên ( 3,3 triệu ha). Nạn phá rừng đang là một hiện tượng nhức nhối của nước ta. Vì vậy, bên cạnh khai thác hợp lý, cần có những biện pháp hữu hiệu về bảo vệ và trồng rừng.
Nguyên nhân của hiện tượng phá rừng và khai thác tài nguyên một cách bừa bãi là do thiếu sự quản lý chặt chẽ một cách có hệ thống. Bên cạnh đó là sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của người dân cũng góp phần vào việc làm cạn kiệt nguồn tài nguyên.
Trong lĩnh vực sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp Nhà nước
Việt Nam sau nhiều đợt cải cách và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước đến nay cả nước có khoảng 5740 doanh nghiệp Nhà nước. Xét về mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17% nhưng vẫn luôn đóng vai trò chủ đạo của nền kinh tế và nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội : 86,6% tổng số vốn, 85 % TSCĐ, 100% mỏ, 80% rừng; 90% lao động được đào tạo có hệ thống. Hàng năm các doanh nghiệp Nhà nước nộp khoảng 30% GDP, trong đó số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả chiếm khoảng 40%. Thực tế đã cứng minh rằng doanh nghiệp với 1 đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, có năng lực quản lý nhiệt tình, luôn đi sâu sát nhậy bén trong việc quản lý bồi dưỡng lao động, khia thác thị trường ,không ngừng cải tiến sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách đổi mới công nghệ và thiết bị hiện đại. Kết hợp với việc thực hiện rất nhiều biện pháp khác nhau để huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư thiết bị, đầu tư đổi mới công nghệ, nhu cầu vốn lưu động và đã giải quyết được mâu thuẫn cơ bản giữa khả năng hạn hẹp về vốn ới nhu cầu vốn ngân sách cấp bằng đa dạng hoá các nguồn vốn từ vốn vay ngân hàng, vốn tín dụng ưu đãi , vốn từ quỹ hỗ trợ quốc gia, vốn bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp ,vốn huy động của cán bộ công nhân viên, vốn do chuyển đổi địa điểm, vốn từ các đối tác nước ngoài ...Thêm vào đó doanh nghiệp thường xuyên thừc hiện phát động các phong trào thi đua tiết kiệm trong sản xuất ,phát huy sáng kiến sử dụng công nghệ tiên tiến.Các doanh nghiệp này sẽ luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao, thu hút được nhiều lao động và tiết kiệm được các nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế bằng cách sử dụng có hiệu quả chúng. Ta có thể lấy ra một số doanh nghiệp làm ăn đạt hiệu quả cao như : tổng công ty Giấy: Đây là một đơn vị luôn có sự tăng trưởng cao,mặc dù năm 2000 có rất nhiều trở ngại cản trở lớn tới tổng công ty như sự khủng hoảng tài chính năm 1999 nhưng tăng trưởng lợi tức của Tổng công ty vẫn đạt 8,9% so với năm trước, bằng 152% kế hoạch đề ra; Tổng công ty thiết bị kỹ thuật điện năm 2001 giá trị sản xuất toàn công ty bằng 825,532 tỷ đồng đạt 105% kế hoạch và bằng 115% so với năm 2000, tổng doanh thu bằng 881,906 tỷ đồng bằng 110,24% só với kế hoạch, đạt 114,5% só với năm 2000. Chỉ tính riêng thành phố hà nội thì có khoảng 25 doanh nghiệp Nhà nước làm ăn đạt hiệu quả cao có tốc độ tăng trưởng bình quân 1994-1997 : 18%, vốn tăng 10,4%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn 9,9%/năm, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 4,2%/năm ( gấp hai lần mức bình quân chung) thu hút được 11733 lao động...
Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hiện nay nước ta vẫn còn tồn tại 1 tỷ trọng lớn các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả thường có lỗ thật lãi giả gây thiệt hại và lãng phí cho nền kinh tế . Cụ thể là hiện nay trong 17 tổng công ty chiếm phần lớn vốn Nhà nước thì chỉ có 5 tổng công ty có lãi là Dầu khí, Bưu chính viễn thông, Điện lực, Cao su và Công nghiệp tầu thuỷ còn các công ty thành viên trong các tổng công ty khác đều lỗ hoặc hoà vốn. Những tổng công ty có lãi là nhờ khai thác tài nguyên thiên nhiên đang có giá hoặc độc quyền hoặc có quyền định giá, trừ cao su và công nghiệp tâù thuỷ. Các công ty mà hoạt động ảnh hưởng nhiều và trực tiếp đến đời sống nhân dân như lương thực, giấy, thép, dệt may, xi măng, đường, trong 6 tháng đầu năm 2002 đều lỗ hoặc hoà vốn. Nợ của các doanh nghiệp Nhà nước vào cuối năm 2000 lên đến 190.000 tỷ đồng (13,1 tỷ USD), bằng 33% GDP .Vì là nợ Nhà nước gánh,số nợ này đưa tổng nợ công của Nhà nước Việt Nam lên 21,3 tỷ USD bằng 63% GDP (không kể số mà doanh nghiệp nợ lẫn nhau), một con số khá lớn, còn các doanh nghiệp Nhà nước nợ lẫn nhau chiếm 5% GDP tức là khoảng 25.000 tỷ đồng, 1,7 tỷ USD. Chính vì thế mà nhìn chung cho toàn bộ doanh nghiệp trong hệ thống doanh nghiệp Nhà nước thì hiệu quả sử dụng vốn và tài sản đạt rất thấp và hiện nay lại đang có xu hướng giảm sút. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm từ 11,2% năm 1996 xuống còn 10,8 % năm 1997, 10,6% năm 1998 và 10,7 % năm 1999. Còn tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm từ 3,46% năm 1995 xuống còn 2,9 % năm 1998, thậm chí trong ngành công nghiệp : 1 đồng vốn chỉ làm ra 0,024 đồng lợi nhuận, chỉ đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp trong khi đó khu vực công nghiệp chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động.
Mặt khác không những vốn và tài sản không được sử dụng hiệu quả mà trong doanh nghiệp Nhà nước còn có tình trạng dư thừa lao động. Chỉ tính ở 42 tỉnh thành phố đến thời điểm 6/1999 số lao động không bố trí được việc làm là gần 42.000 người chiếm 6,08 % tổng số lao động hiện có của các doanh nghiệp Nhà nước do đó ước tính số lao động không được bố trí việc làm vào khoảng 20 vạn người và tình trạng này đang có xu hướng gia tăng. Theo số liệu khảo sát ở một số doanh nghiệp tại 1 vài tỉnh, thành phố hồi tháng 3/2000 cho thấy tỷ lệ này đã lên tới 7,26%. Dự tính trong 3 năm tới (2001-2003) thì sẽ có khoảng 9,76% lao động thuộc diện dôi dư.
Hà nội là 1 thành phố có nhiều doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động trong đó chỉ có khoảng 15 đến 20% doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện làm ăn khá, chuyển đổi và thích nghi nhanh chóng với cơ chế mới. Còn khoảng 60% doanh nghiệp làm ăn trung bình cố gắng đứng vững trong tình hình khó khăn hiện nay sưc cạnh tranh của sản phẩm không cao, khả năng ổn định và phát triển chưa chắc chắn. 20% doanh nghiệp Nhà nước yếu kém thực sự, thua lỗ kéo dài, nợ đọng lớn. Năm 1996 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đạt 2,1 %/năm tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh đạt7,5%. Từ năm 1994 đến hết năm 1996 có 47 doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, trong đó có 18 doanh nghiệp lỗ 1 năm, 22 doanh nghiệp lỗ 2 năm, 7 doanh nghiệp lỗ 3 năm. Đặc biệt tốc độ tăng trưởng sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phố Hà nội có biểu hiện tăng chậm lại: năm 1997 so với năm 1995 doanh thu của doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,56%, mức tăng đã giảm dần từ 10,1% năm 1996 xuống 2,2% năm 1997. Tổng lãi thực hiện của các doanh nghiệp Nhà nước năm 1997 chỉ bằng 7,8% của năm 1995( năm sau thấp hơn năm trước, từ 178 tỷ xuống 164 tỷ và xuống 138,8 tỷ đồng). Lỗ cộng dồn năm 1997 tuy có giảm 6% so với năm 1996 nhưng tăng 2,3 lần so với năm 1995. Tổng nộp ngân sách của doanh nghiệp Nhà nước của Hà nội năm 1997 chỉ bằng92,76% so với năm 1995. Trong khi đó trong 3 năm 95-97 mức tăng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp là 25,22% và mức tăng của vốn ngân sách là 43,54%.Như vậy mức vốn ngân sách cấp cho địa phương tăng nhiều(43,54%) nhưng mức đóng góp của doanh nghiệp địa phương lại giảm, thấp hơn năm 95 là 7%. Điều đáng chú ý là việc tăng đóng góp vào ngân sách của các doanh nghiệp chủ yếu là do tăng phần thuế tiêu thụ đặc biệt( tăng 101,8%). Thuế tiêu thụ đặc biệt thực chất là thuế do doanh nghiệp đóng hộ người tiêu dùng, không phải do hoạt đọng có hiệu quả của doanh nghiệp mà có phần thuế lợi tức thể hiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì giảm dần 19%. Rõ ràng các doanh nghiệp không có hiệu quả nguồn vốn được cấp. Nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ là do:
Doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt năng lực yếu, kém năng động, ít am hiểu thị trường có biểu hiện tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ, không chuyên tâm tìm hướng cho doanh nghiệp phát triển thoát ra khỏi tình trạng khó khăn. Hơn nữa lại thường có kiểu đầu tư vào một số lĩnh vực theo phong trào, đầu tư chắp vá, tản mạn nặng nề về đầu tư cho trước măt mà chưa có chương trình đầu tư cho tương lai, chưa tính đến đối thủ cạnh tranh( nhà máy đường, xi măng). Bên cạnh đó, tính kỷ luật của doanh nghiệp lỏng lẻo, không đưa ra được các phong trào thi đua ý thức trách nhiệm của mỗi lao đọng gây nên tình trạng trong doanh nghiệp còn có người lao động có tư tưởng trông chờ ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước . Nhiều người chưa quen chấp nhận sự vật lộn bươn chải cùng đồng lòng vươn lên tự cứu lấy mình, chấp nhận khó khăn tạm thời thu hút mọi tài trí cùng với doanh nghiệp góp vào giải quyết khó khăn phát triển đi lên
Doanh nghiệp được đầu tư mất cân đối về cơ sở vật chất ngay từ khi được thành lập cho đến nay, máy móc thiết bị công nghệ sản xuất, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm và do hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp còn thời gian khấu hao tài sản cố định kéo dài, bình quân từ 10-12 năm, trong khi đó mức khấu hao bình quân của khu vực và thế giới là 7-8 năm, dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp và do đó lợi nhuận và doanh thu thấp gây tình trạng thua lỗ. Mặt khác các doanh nghiệp này còn thiếu vốn một cách trầm trọng. Họ không có các phương thức thu hút vốn từ nhiều nguồn khác nhau mà chỉ trông chờ vào số vốn ít ỏido Nhà nước cấp và để khắc phục việc không đủ vốn họ đi đầu tư rót vốn nhỏ giọt, không chớp được những cơ hội tốt nhất trong kinh doanh.
Ngoài ra trong quá trình đổi mới công nghệ thiết bị triển khai ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm quố tế chưa được các doanh nghiệp chú trọng đẩy mạnh và thực hiện quyết liệt, chưa có phương pháp rèn luyện cho người lao động thích ứng với máy móc thiết bị hiện đại1 cách khoa học. Chính vì thế mà dù tốn rất nhiều tiền của để đổi mới máy móc nhưng năng suất và chất lượng sản phẩm vẫn không cao và đạt được tiêu chuẩn quốc tế.
Nhiều doanh nghiệp khi đầu tư mới mở rộnghoặc theo chiều sâu không chuẩn bị kĩ lưỡng từ khâu lập dự án thẩm định và phê duyệt, chọn cơ cấu nguyên vật liệu chính chưa phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Thêm nữa, doanh nghiệp lại thường tổ chức các cuộc hội họp có chi vượt quá định mức cho phép ( kiểm tra cho thấy16 bộ ngành chi cho hội nghị vượt chế độ 130 triệu, chi sai chế độ 363 tr)
Đó là một vài lý do chủ yếu dẫn đến sự kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn và tài sản ở các doanh nghiệp Nhà nước , gây nên lãng phí không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung.
V. Trong lĩnh vực chi tiêu của dân cư.
Có thể nói người dân Việt Nam vẫn chưa thật tiết kiệm trong tiêu dùng, sinh hoạt. Đơn cử trong việc tổ chức đám cưới, hầu hết các đám cưới đều tổ chức ăn uống với trung bình khoảng 150 - 200 khách mời. Số khách mời có thể lên đến 900 - 1000 khác tuỳ vào tính chất công việc và các mối quan hệ của người nhà cũng như của cô dâu chú rễ. Mỗi người đi ăn Cưới đều mang tiền mừng trong phong bì như một thông lệ tự thoả thuận. Hiện tượng này được báo chí nhắc với danh từ "cơm bụi giá cao" cho thấy tính hình thức, tiêu cực của nó. Ngoài ra những đám cưới (phần lớn ở nông thông) tổ chức ăn trong nhiều ngày không phải quá hiếm. Tất cả chi phí cho một đám cưới gồm ăn uống, xe ô tô, quần áo.. thực sự là vấn đề lo lắng cho mỗi gia đình. Nhà nước ta đã qui định về việc tổ chức cưới theo nếp sống mới, văn minh và tiết kiệm nhưng thực sự là vẫn chưa được hưởng ứng rộng rãi trong nhân dân. Mặc dù các cơ quan địa phương, trung ương đã chỉ đạo và tổ chức làm mẫu những đám cưới theo nếp sống mới và đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng việc thực hiện mới chỉ dừng lại trong số những người có thu nhập hạn hẹp, những người có ít họ hàng, người thân thích…
Đó chỉ là một ví dụ điển hình, việc tiêu xài hoang phí, không đúng mức còn có thể thấy trong việc ma chay, tổ chức các ngày lễ trong năm (Tết, rằm,…), ngày kỉ niệm của đời người (ngày lễ đầu tháng, sinh nhật…). Thêm vào đó 2,3 năm trở lại đây các cơ quan chức năng cũng đã phải lên tiếng khi nạn đốt vàng mã ở các đền, chùa, phủ quá nhiều gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tiền của nhân dân. Vẫn biết việc thờ cúng tổ tiên, đi lễ đền, chùa vào ngày lễ là một truyền thống, phong tục đáng trân trọng của nhân dân ta. Song cũng cần phải được định hướng để phù hợp với nếp sống văn minh, văn hoá trong thời đại mới. Suy cho cùng, lý do của những việc tiêu sài không hợp lý trên đây là do tâm lý của người Việt Nam vẫn chưa thực sự đổi mới, vẫn theo những lối mòn cũ không phù hợp với thực tế thời đại. Cá biệt có những người lợi dụng những việc trên để trục lợi cho bản thân, thương mại hoá làm mất đi những nét đẹp văn hoá của chúng.
Bên cạnh những vấn đề trên, trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng chưa thật tiết kiệm. Nước sạch là một nguồn tài nguyên quí hiếm không chỉ ở nước ta mà trên toàn thế giới. ở Việt Nam, khôn phải là không có những vùng nước sạch sinh hoạt gần như không có hoặc có nhưng lại chứa quá nhiều tạp chất khiến người dân bị một số bệnh như: bệnh vàng răng, rụng tóc, da liễu,… ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, sản xuất. Thế nhưng hầu hết ý thức tiết kiệm nước vẫn còn kém. Ta vẫn có thể nhìn thấy những vòi nước chảy do quên khoá máy, khoá không chặt hoặc dùng nước vô tội vạ, nhất là ở những gia đình vẫn còn dùng nước theo chế độ khoán. Tương tự với việc dùng điện trong sinh hoạt. Nhà nước ta vào mỗi mùa mưa hạn vẫn phải kêu gọi toàn dân tiết kiệm dùng điện trong giờ cao điểm.
Hàn Quốc là một nước có tỉ lệ tiết kiệm cao nhất nhì thế giới (30 - 30% thu nhật) không chỉ tiết kiệm trong những việc lớn mà trong đời sống hàng ngày người dân Hàn Quốc cũng tỏ ra tiết kiệm
Bàn thêm về vấn đề tiêu dùng, tích lũy trong dân cư, ta thấy những năm gần đây người dân bắt đầu có ''của ăn của để''. Cán bộ công nhân viên chức tích lũy một phần tiền lương và các khoản thu nhập khác. Người lao động thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tích lũy một phần tiền công lao động. Do vậy nguồn vốn tích lũy và tiết kiệm của dân tăng lên theo mức độ tăng trưởng của nền kinh tế. Ngoài ra, lượng vốn tiết kiệm được từ người Việt sinh sống ở nước ngoài không phải nhỏ và có xu hướng ngày càng tăng. Theo Uỷ ban người Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng ``3 triệu người Việt Nam đang sống ở các nước, ước tính mỗi năm họ chuyển về nước không dưới 2 tỉ USD cho gia đình, người thân (khoảng 13% kim ngạch xuất khẩu cả nước). Tốc độ tăng trưởng của kiều hối đã trở thành nguồn nội lực không thể xem xét khi đánh giá sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tuy vậy, hướng sử dụng của các nguồn tích luỹ và tiết kiệm vẫn chưa đa dạng. Chủ yếu vẫn là gửi tiền vào Ngân hàng, tích luỹ để mua nhà ở, tài sản tiêu dùng và đơn thuần chỉ là cất giữ. Do vậy tiết kiệm của dân cư thường tồn tại dưới dạng số dư trên khoản tiết kiệm, chứng khoán có giá, kì phiếu có mục đích…Để kích thích người tiết kiệm tích cực hơn tức là tiết kiệm để đầu tư, kinh doanh, Nhà nước cần có chính sách bố trí cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho họ sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Chương III: Những giải pháp để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Trong lĩnh vực chi tiêu hành chính sự nghiệp và kinh phí dự án
Trên thực tế việc cải cách hành chính toàn diện sẽ động chạm đến những vấn đề rất nhạy cảm của xã hội. Cần xác định trong quá trình cải cách hành chính tạo sự tiến bộ xã hội dù có động chạm đến quyền lợi của bất kỳ ai cũng phải chí công vô tư giải quyết công bằng mới đạt được hiệu quả. Có thể đưa ra một vài giải pháp tác động để tiến hành cải cách hành chính thắng lợi góp phần đấu tranh chống tham nhũng lãng phí:
Khâu tuyển chọn công chức cấn được tiến hành công khai, công bằng và kết hợp với từng loại công chức. Tiêu chuẩn phải rõ ràng để lựa chọn được những người có năng lực thực sự vào công tác được đảm trách. Tránh tuyển chọn hình thức để bằng giả, giấy chứng nhận chắp vá cũng được tuyển dụng làm chất lượng công chức yếu kém và tạo dư luận xã hội xấu.
Tiếp tục tinh gọn bộ máy hợp lý hiệu quả trong thực thi công vụ và quản lý xã hội bằng công nghệ thông tin, hạn chế tối đa hội họp lãng phí. Tinh giản biên chế hành chính sự nghiệp gắn với mở rộng các dịch vụ hành chính công đáp ứng nhu cầu của xã hội và giảm sự chồng chéo công việc, tăng hiệu quả quản lý nhà nước. Tinh giản biên chế thực chất là giải pháp quan trọng để giảm chi phí hành chính, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách. Mục tiêu của nó là làm cho chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức nhất là chất lượng về chính trị được bảo đảm và ngày một nâng cao. Làm thế nào mà giảm được số lượng cán bộ công chức thừa mà không giảm theo tỉ lệ bình quân, giảm đúng đối tượng, bảo đảm nâng cao chất lượng của đội ngũ ổn định, chuyên môn hóa cao khắc phục vấn đề tư tưởng…cần thực hiện theo các hướng sau:
Một là: tiến hành rà soát xác định rõ chức năng thẩm quyền của từng cơ quan tổ chức, xác định cơ cấu tổ chức và biên chế. Có thể nói thực hiện việc sắp xếp lại bộ máy trong các Bộ, cơ quan ngang Bộ là giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc giúp cho hoạt động hành chính sự nghiệp có hiệu quả.
Hai là: xác định biên chế của từng cơ quan trên cơ sở vị trí, tầm quan trọng, khối lượng và độ phức tạp của công việc, cơ cấu, tiêu chuẩn chức danh, định mức lao động của cán bộ công chức. Đó là cơ sở quan trọng để xác định biên chế. Để thực hiện việc này cần xây dựng khung, phân loại thống nhất tầm quan trọng, độ phức tạp và khối lượng công việc quản lý hành chính nhà nước. Ngoài ra cần xây dựng ban hành các chế độ chính sách cho việc sắp xếp kiện toàn tổ, tinh giản biên chế ( chế độ nghỉ hưu, thôi việc, luân chuyển, điều động, chế độ đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức…). Hoàn thiện tổ chức khoa học lao động của cán bộ công chức trong các cơ quan hành chính NN.
Ba là: cải cách triệt để tiền lương, đảm bảo cho công chức sống bằng lương, thực hiện chi trả một số dịch vụ phục vụ công tác như: phương tiện đi lại, bưu chính viễn thông giao dịch, và giành một phần cho tích luỹ. Đồng thời với cải cách tiền lương là khoán việc, kiểm toán chặt chẽ công quỹ và làm rõ tài sản bất minh trong công chức có quyền. Xử lý nghiêm minh kịp thời các hành vi tham nhũng lãng phí.
Bốn là: sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính giành cho cải cách hành chính để bồi dưỡng công chức, nhất là công chức ở địa phương cơ sở. Tăng cường trang thiết bị nhằm từng bước hiện đại hóa hoạt động ở trong cơ quan quản lý nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của bộ máy chính quyền cơ sở trong điều kiện mới, đặc biệt phải xác định được tiến hành ở cơ sở từ đó xác định phương hướng xây dựng cơ cấu, số lượng chức danh của bộ máy chính quyền cơ sở sao cho vừa bảo đảm được hiệu quả công việc mà lại không làm cho bộ máy phình to. Thiết nghĩ cũng cần nói thêm cho rõ hơn về đặc thù của nền kinh tế thị trường trong điều kiện nước ta hiện nay. Thể chế kinh tế ở Việt Nam hiện nay một mặt phải nhất quán với các yêu cầu định hướng khách quan như yêu cầu của một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN coi nó là nền tảng có tính nguyên tắc không thể thay đổi. Mặt khác phải tạo được một không gian đủ rộng cho hoạt động sáng tạo tự chủ của từng đơn vị cơ sở cũng như từng cá nhân mỗi người trong giải quyết các vấn đề có quan hệ trực tiếp và thiết thực với họ. Theo hướng đó việc xóa bỏ chủ quản trực thuộc vừa bảo đảm tính quản lý tập trung về cơ bản đồng thời phát huy tính chủ động sáng tạo của địa phương và cơ sở. Nhà nước quản lý chứ không làm thay bởi thị trường tự do và lành mạnh là thị trường có đầy đủ các thể chế làm cho nền kinh tế vừa năng động vừa có trật tự.
Một giải pháp cũng không kém phần quan trọng được nhắc đến là các giải pháp tạo ra một khuôn khổ pháp lý cũng như những chuẩn mực kinh tế chính trị xã hội làm cơ sở cho các hoạt động kinh tế nhất là hoạt động trong các lĩnh vực nhạy cảm như quản lý hành chính tiền tệ giá cả và phê chuẩn các dự án kinh tế có liên quan đến đầu tư nước ngoài. Nhìn lại kinh nghiệm hơn 40 năm qua của các nước đang phát triển, chúng ta có thể thấy một sự trùng hợp đáng lo ngại và xảy ra tương đối nhiều giữa tình trạng phát triển bất ổn định của một nước với những khoản vốn nước ngoài lớn không được sử dụng một cách phù hợp. Bài học chính rút ra từ kinh nghiệm những nước này là nếu những khoản vốn nước ngoài được đầu tư quá nhanh vào một nước trong khi môi trường chính sách và thể chế của nước đó vẫn còn mất cân đối thì dẫn đến nguy cơ làm trầm trọng thêm những mất cân đối hiện có về tài chính và cơ cấu, phát triển sai lệch các năng lực quốc gia theo hướng chú trọng vào những năng lực quá khứ mà ít chú trọng đến năng lực cần thiết cho tương lai. Khi bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường, tuy chúng ta không thể ngay lập tức xây dựng được hệ thống văn bản pháp lý hoàn thiện song ngay từ đầu phải có những văn bản mang tính chất nền tảng cơ bản lâu dài từ đó mà cụ thể hóa hệ thống văn bản chi tiết cho từng khâu từng lĩnh vực cụ thể. Cần có một văn bản chuyên biệt về kinh tế trong đó có những quan điểm về kinh tế thị trường, về những giới hạn và quyền can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, về quyền sở hữu, quản lý và sử dụng tài sản. Có như vậy các văn bản luật cụ thể như Luật doanh nghiệp, Luật DNNN, Luật thuế, Luật Ngân hàng …mới có cơ sở để thống nhất và bổ xung cho nhau.
Nhưng có luật, có quy chế thể chế, bộ máy mà không có con người đủ đức đủ tài phù hợp thì luật sẽ nằm trên giấy còn thể chế sẽ bị lợi dụng. Cho nên có thể thấy giải pháp về cán bộ chính là giải pháp của các giải pháp, là giải pháp quan trọng bậc nhất nhằm đấu tranh chống lãng phí thất thoát trong điều kiện hiện nay.
II. Trong lĩnh vực đầu tư XDCB
Để khắc phục tình trạng yếu kém trong quản lý vốn đầu tư XDCB thì cần phải thực hiện các giải pháp sau đây:
Khi nghiên cứu các dự án khả thi cần cân nhắc tính toán so sánh kỹ giữa các dự án để có được dự án có hiệu quả kinh tế nhất. Ngay trong quá trình lập dự án dã phải khống chế ước tính được số vốn đầu tư và giá thành XD hợp lý bỏ ra. Do đó khi lập dự án khả thi phải căn cứ quy hoạch chiến lược, quy hoạch tổng thể của từng địa phương, điệu kiện kinh tế xã hội ở nơi XD công trình. Nội dung cơ bản của dự án khả thi phải nêu được sự cần thiết những căn cứ để xác định phải đầu tư xây dựng, hình thức đầu tư, các tiêu chuẩn và định mức, thực hiện lựa chọn các phương án địa điểm cụ thể, công khai quy hoạch đất đai, giao nhiệm vụ cho đơn vị quản lý và bảo vệ đất đai đã được quy hoạch phải rõ ràng, phân tích lựa chọn công nghệ, giải pháp XD, những khó khăn thuận lợi khi XD công trình, nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu trong quá trình khai thác vận hành sau này, giá thành sản phẩm khi công trình đi vào SX ổn định…Đổi mới phương thức tổ chức giải phóng mặt bằng đúng chính sách chế độ, không gây thất thoát tài sản tiền vốn của Nhà nước và nhân dân. Dự án khả thi càng chi tiết có độ chính xác càng cao thì khả năng tiết kiệm vốn đầu tư XD càng lớn.
Về thiết kế công trình: các tài liệu về thăm dò khảo sát địa hình địa chất thuỷ văn và những tài liệu khác dùng để thiết kế XD công trình phải do tổ chức chuyên môn có đủ tư cách pháp nhân lập theo quy chuẩn tiêu chuẩn XD của nhà nước ban hành hay các tiêu chuẩn quy chuẩn khác do Bộ XD ban hành.
Khả năng tiết kiệm vốn đầu tư trong giai đoạn thiết kế công trình có nhiều và có thể thực hiện được dễ dàng. Nếu nghiên cứu chọn lọc được dây chuyền công nghệ hợp lý, có được phương án thiết kế kiến trúc và kết cấu tốt thì đã có khả năng tiết kiệm được 10 – 15% vốn đầu tư. Trong khi đó, khâu thi công xây lắp dù có kiểm tra theo dõi chặt chẽ, quản lý tốt các định mức kinh tế kỹ thuật thì giỏi lắm cũng chỉ giảm được một vài phần trăm là cùng.
Thiết kế công trình là khâu quan trọng không chỉ quyết đình quy mô, độ bền vững, tuổi thọ của công trình mà quyết định cả việc vận hành khai thác sau này có dễ dàng thuận lợi hay không. Đây là giai đoạn thể hiện đầy đủ ý đồ của một dự án khả thi đã được phê duyệt. Trước hết cần nghiên cứu chọn lọc được các dây chuyền công nghệ hợp lý có kĩ thuật tiên tiến, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và phương pháp quản lý hiện tại, không tác hại xấu đến môi trường xung quanh nơi SX. Chỉ cần chọn được dây chuyền công nghệ hợp lý là đủ giảm chi phí khá lớn đồng thời tiết kiệm được đất XD, giảm diện tích XD không cần thiết.
Về thi công xây lắp: sau khi có thiết kế dự toán được duyệt thì tổ chức đấu thầu thi công xây lắp công trình. Có thể đấu thầu theo từng hạng mục công trình, từng phần công việc hay chỉ định thầu những công việc có khối lượng lớn. Khi tổ chức đấu thầu và xem xét trúng thầu phải căn cứ vào Quy chế đấu thầu XD, phải thật sự khách quan và công khai mở thầu thì mới đảm bảo ý nghĩa của nó. Không nên tổ chức đầu thầu một cách hình thức và thực tế bên trong đã có những thoả thuận ngầm nào đó để dành cho một nhà thầu thân quen thi công xây lắp công trình. Điều đó chắc chắn sẽ dẫn đến những lãng phí lớn và lại vẫn được thanh toán dễ dàng thuận lợi.
Trong thời gian tới cần phải xúc tiến nhanh đa dạng các loại hình đấu thầu trong XD và kiện toàn hệ thống quy chế đấu thầu có hiệu quả. Vì đấu thầu là một phương pháp quản lý tốt. Nó chẳng những phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của NN mà còn góp phần tiết kiệm vốn đầu tư XD cho nhiều công trình. Để đấu thầu được áp dụng rộng rãi trong thực tế trước hết cần phải chấn chỉnh và hoàn thiện cơ chế kế hoạch đồng thời cải tiến thủ tục gọn nhẹ. Phải quy định trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng cụ thể của các bên đầu tư, phải thực hiện đúng trình tự quy định, làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư, thiết kế dự toán XD giá thành, phải xác định đúng giá thầu để làm cơ sở cho việc xét chọn giá trúng thầu. Mặt khác chấn chỉnh lại các tổ chức tư nhân nhận thấu xây lắp cung ứng vật tư thiết bị nhằm bảo đảm khả năng tham gia đấu thầu của các nhà thầu phù hợp với năng lực về kĩ thuật và tài chính của mình.
Mỗi dự án cần phải kiện toàn việc tổ chức các ban quản lý dự án đảm bảo là chủ đầu tư thực sự gắn trách nhiệm trong quá trình sử dụng vốn đầu tư, quản lý tài sản khi dự án kết thúc, đưa vào sử dụng. Cần quy đinh tiêu chuẩn nghiệp vụ của chức danh chủ đầu tư đối với các hoạt động đầu tư và XD từ khâu đầu đến khâu cuối.
Muốn dự toán XD công trình không tăng nên sử dụng những loại vật liệu vật tư đúng quy cách, phẩm chất của thiết kế quy định, không tuỳ tiện thay đổi quy cách vật liệu nếu không được phép của cơ quan thiết kế hay bộ phận quản lý công trình. Sử dụng vật liệu đúng quy cách, phẩm chất, bảo đảm chất lượng cũng đã tiết kiệm và hạ được phần giá thành xây lắp vì đã giảm tỉ lệ hao hụt vật tư so với định mức Nhà nước cho phép. Trong giai đoạn thi công, muốn hạ giá thành xây lắp thì điều chủ yếu là: tổ chức lao động hợp lý khoa học để có năng suất cao, giảm tỉ lệ hao hụt vật tư trong khi vận chuyển và sử dụng, tận dụng tốt công suất của máy móc thiết bị thi công trên công trường. Chỉ cần mỗi công trình, mỗi KCN tiết kiệm phấn đâú hạ giá thành 1 – 2% hoặc thi công không vượt dự toán được duyệt thì cũng đã tiết kiệm được nhiều tỉ đồng.
Đối với một số công trình ở xã phường, tổ chức để nhân dân tham gia giám sát thi công. Các cơ quan đơn vị có công trình phải công khai quy hoạch thiết kế và dự toán, đôn đốc và chỉ đạo làm công tác quyết toán cả về nội dung và thời gian, thẩm tra quyết toán trước khi phê duyệt. Vấn đề quan tâm hơn là ở chỗ phải có một cơ quan tổ chức nào đó đứng ra nhận trách nhiệm cho những công trình có chất lượng kém đã dẫn đến hậu quả cho nền kinh tế. Vì vậy, cũng cần thiết phải phân định rõ trách nhiệm cho mỗi bên tham gia và sự phân định này phải được thể hiện rành mạch trong các hợp đồng kinh tế. Công tác quản lý nhà nước về chất lượng công trình dự án đầu tư phải có một “nhạc trưởng” ở cả hai cấp TW và ĐP. Có như vậy công tác đầu tư công trình sẽ đảm bảo chất lượng và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn. Bởi công trình XD là loại hình đặc thù do con người tạo ra và không cho phép phế phẩm. Do vậy, cần quán triệt nguyên tắc quản lý với chủ thể tham gia hoạt động XD là: “ Ai làm việc gì thì phải chịu trách nhiệm về chất lượng đối với phần việc đó, đồng thời phải bảo đảm tiến độ công trình, tránh tình trạng sửa đi sửa lại gây tốn kém tiền bạc thời gian.”
4. Cũng trong lĩnh vực XDCB điều cần quan tâm hơn nữa là công tác kiểm tra
thẩm định tài chính ở các khâu trước, trong và sau khi kết thúc quá trình cấp phát chi, đưa dự án hoàn thành vào khai thác sử dụng. Thẩm định tài chính là giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện pháp lệnh tiết kiệm, chống lãng phí trong lĩnh vực đầu tư XDCB mà công tác này có 4 khâu chính: thẩm định trước khi cấp phát, thẩm định tài chính trong quá trình cấp phát vốn thanh toán, thẩm định dự toán và thẩm định tài chính sau khi dự án hoàn thành được nghiệm thu và đưa vào sử dụng. Trong 4 khâu nêu trên quan trọng nhất là thẩm định quyết toán vốn đầu tư hoàn thành vì khâu này xác định kết quả đầu tư của dự án – xác định vốn đầu tư thực hiện để trở thành tài sản bàn giao cho đơn vị sử dụng. Do vậy, số cắt giảm ở khâu thẩm định quyết toán phản ánh khá chính xác số vốn tiết kiệm trong đầu tư XDCB nếu cần phải nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế phối hợp giải quyết tốt mối quan hệ giữa các khâu thẩm định nhằm bảo đảm độ tin cậy và thống nhất cao giữa các khâu khi nghiệm thu và đưa công trình vào sử dụng.
Như vậy, mọi quyết định đầu tư được đưa ra và kí duyệt phải đúng mục tiêu phát triển KTXH, phù hợp với từng điều kiện của nền kinh tế, vùng ngành, lãnh thổ và cuối cùng là mang lại hiệu quả cao nhất, tránh được lãng phí về thời gian, lao động, tiền bạc cho nền kinh tế mà lớn nhất là lãng phí trong lĩnh vực đầu tư XDCB.
III. Trong mua sắm sử dụng tài sản công và sử dụng ngân sách Nhà nước tài nguyên thiên nhiên.
Như đã nói ở chương II, khi chuyển sang cơ chế mới chúng ta công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau, tồn tại nền kinh tế điều chỉnh theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN tài sản nhà nước có khi không phải chỉ có cơ quan nhà nước sử dụng mà còn có cacs thành phần kinh tế khác. Do vậy chúng ta phải có cơ chế về quản lý thật hợp lý.
Ta có thể xem xét một số giải pháp như sau:
Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ chi tiêu, hội họp, trang thiết bị sử dụng: điện thoại, ôtô…trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước, triệt để tiết kiệm trong việc tổ chức các cuộc họp, hội nghị. Thực hiện quá trình chi tiêu có hiệu quả trong mua sắm trang thiết bị sử dụng, cái gì có thể bỏ qua cho đỡ cồng kềnh thì phải cắt bỏ ngay. Việc cắt bỏ phải trên cơ sở hiệu quả vẫn phải đảm bảo.
Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát lại các quy định về tổ chức lễ hội, đón nhận các danh hiệu, các ngày kỉ niệm, hội nghị…để nghiêm cứu bổ xung sửa đổi và ban hành quy định về chế độ chi tiêu từng loại, bảo đảm thực hiện được yêu cầu nhưng thực sự tiết kiệm.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần kiểm tra và công bố công khai các đơn vị có khuyết điểm vì lãng phí đã thực hiện không đúng quy định về tiêu chuẩn định mức sử dụng mua sắm trang thiết bị không đúng chế độ, phải kiên quyết thực hiện việc điều chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu. Nghiêm cấm việc chi hộ, chi thay của DNNN cho cơ quan quản lý nhà nước, UB các cấp, cấm sử dụng công quỹ Nhà nước, tập thể làm quà biếu và nhận dưới bất kỳ hình thức nào không theo thông lệ Quốc tế, đồng thời cả việc giữ lại các khoản phải nộp cho ngân sách NN để sử dụng vào việc khác chế độ quy định kể cả đầu tư mua sắm tài sản, chi phúc lợi hay thưởng cho CBCNVC. Cơ quan tài chính các cấp kiểm tra phát hiện và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm nhằm thu hồi tài sản, phân bố hợp lý và xác định rõ trách nhiệm đối với thủ trưởng đơn vị nếu có vi phạm.
Một giải pháp tích cực khác là phải làm cho mọi khoản vốn, tài sản, đều phải có chủ thể. Bởi một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho tài sản tiền vốn bị thất thoát lãng phí là tình trạng không có chủ hoặc nhầm chủ. Vô chủ khi tài sản, tiền vốn là tiền chùa; nhầm chủ khi mà tài sản công chỉ giao cho một người( giám đốc) mà muốn sử dụng thế nào cũng được, không có ai quản lý.
Vì vậy trên cơ sở kiểm tra và phân loại toàn bộ tài sản công đặc biệt là đất đai, nhà cửa tại cơ quan nhà nước Đảng, tổ chức CT-XH cần ban hành ngay các chính sách phù hợp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn lực này. Trụ sở làm việc, nhà công vụ, và các công trình kiến trúc khác phải được sử dụng theo đúng định mức chế độ do cấp có thẩm quyền quy định. Tăng cường kiểm tra giám sát việc sử dụng trụ sở làm việc và diện tích đất đã cấp cho DNNN, kiên quyết xử lý hoặc thu hồi diện tích bị sử dụng lãng phí, không đưa vào sử dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích. Luôn xem xét kiện toàn hệ thống hóa đơn chứng từ và bảo đảm sự giám sát của mọi người mỗi khi xuất nhập vật tư, sản phẩm tiền vốn; hiện đại hóa công tác thanh toán, giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt.
Giải pháp quan trọng góp phần hạn chế sự lãng phí thất thoát là cơ chế công khai tài chính đảm bảo quy trình luân chuyển chứng từ để thực hiện sự giám sát của quần chúng đối với kinh phí tài sản công. Các tài sản công, sức lao động, công nghệ …đều cần được khảo sát thống kê và định giá đầy đủ, chính xác để đưa vào lưu thông và tạo điều kiện cho chúng tự do lưu thông, trao đổi chuyển nhượng nhanh chóng thuận tiện trên các thị trường thích hợp.
Một số giải pháp thực hiện bảo vệ môi trường, nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa, phải có tầm nhìn xa, dự báo những khản năng xảy ra để có sự cân nhắc mặt lợi, hại và biện pháp xử lý khi lập các dự án phát triển kinh tế. Một hiện tượng đáng lo ngại là ta thiếu sự sâu sát, thiếu hiểu biết, tài liệu điều tra cơ bản còn ít.. Do vậy cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, khảo sát, đào tạo giáo dục về môi trường. Biến vấn đề môi trường trở thành sự hiểu biết của đông đảo cá nhân trong xã hội và coi đây là cuộc cách mạng toàn dân. Ưu tiên xây dựng các dự án phát triển kinh tế kết hợp bảo vệ môi trường. Ví dụ như dự án xử lý rác thải sản xuất và chế biến vi sinh tại Hoài Đức - Hà Tây(vừa sản xuất phân vi sinh cho nông nghiệp vừa xử lý chất thải từ qúa trình chế biến nông sản…).
- Tăng cường năng lực quản lý của các cơ quan quản lý về môi trường, tài nguyên khoáng sản ở địa phương cũng như ở Trung ương. Xây dựng hệ thống lọc về môi trường, sinh thái, hiệu quả khai thác.
- Chấm dứt tình trạng di dân tự do làm nhà tự phát ven sông, suối, sườn núi dốc ở các tỉnh miền núi (chẳng hạn di dân tự do ở khu vực hồ thủy điện Hoà Bình, Sơn La). Quy hoạch khu dân cư mới thúc đẩy chiến lược trồng và bảo vệ rừng, hoạch định các khu vực khai thác tài nguyên rõ ràng.
- Tăng cường kiểm soát phòng chống tai biến thiên nhiên và sự cố môi trường. Đặc biệt là những tai biến nhân tạo từ nhà máy, công trường khai thác… gây ra. Thực hiện tốt luật môi trường, đặc biệt các vấn đề: bảo vệ cảnh quan, bảo vệ không gian, giữ vệ sinh môi trường, rèn luyện thế lực con người.. có ý nghĩa rất lớn.
- Mở rộng quan hệ hợp tác về môi trường, học hỏi kinh nghiệm các nướ. Sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tham gia các dự án bảo vệ tài nguyên trong toàn khu vực và toàn cầu. Đồng thời xây dựng các dự án đầu tư có hiệu quả với các nước.
Tóm lại bảo vệ môi trường, khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên là vấn đề phức tạp. Do vậy cần có sự chỉ đạo, quản lý một cách hợp lý, có hệ thống, nhất quán của Nhà nước. Bên cạnh đó là nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của nhân dân. Đây là vấn đề mà các quốc gia trên thế giới đều rất quan tâm vì ảnh hưởng của nó đến các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
IV. Trong lĩnh vực sử dụng vốn và tài sản tại DNNN
Để tháo gỡ khó khăn trong việc huy động và sử dụng vốn hiện nay cần phải có các giải pháp mang tính đồng bộ kết hợp hài hòa với sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng nhằm đảm bảo cho nguồn vốn và tài sản của DN nói chung và DNNN nói riêng được sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả. Đó là:
Cấp vốn điều lệ theo ngành nghề kinh doanh cho các DNNN theo quy định. Trong khi nguồn vốn ngân sách còn eo hẹp, cần làm tốt tiến trình sắp xếp lại DNNN, sáp nhập một số DN có cùng lĩnh vực SXKD để nâng quy mô vốn và tiết kiệm các chi phí quản lý; giải thể hoặc sáp nhập các DN quá yếu kém, CPH các DN có điều kiện để tạo nguồn vốn bổ xung cho các DN khác đồng thời giúp cho các DNNN thực sự chủ động hoạt động kinh doanh theo cơ chế mới.
Việc sắp xếp lại DNNN thực chất gặp rất nhiều khó khăn để giải quyết các tồn đọng phát sinh sau khi sắp xếp. Điều quan trọng để việc sắp xếp có hiệu quả nâng cao tính cạnh tranh là từng DN phải tự mình đánh giá xem mình đang ở đâu, đang hoạt động như thế nào trên cơ sở căn cứ vào những hướng dẫn của ngành Tài chính. Đa số tư tưởng là không muốn bị giải thể, giải tán hay sát nhập với DN khác khi đó quyền sử dụng vốn cả quyền lợi đạt được sẽ bị chia xẻ. Do đó cần có những văn bản chính sách phù hợp để làm sao các DN đó hiểu được kết quả của việc sắp xếp lại, CPH DN. Quan điểm định hướng lâu dài là bất cứ DN nào không thuộc diện Nhà nước đầu tư 100% vốn thì sẽ cổ phần hóa. Những DN làm ăn không có lãi mà người ta vẫn mua lại thì vẫn CPH bình thường. Còn những DN có vốn dưới 1 tỷ VNĐ có thể cho xem xét hình thức đấu thầu công khai, cho thuê, sát nhập, khoán KD, bán ưu tiên cho CBCNV trong công ty hoặc cho các pháp nhân thể chế khác, cần thực hiện cơ chế khoán từ chi phí đến sử dụng tài sản trên cơ sở định mức phù hợp và chế độ hạch toán nghiêm ngặt. Những DNNN cùng SX ra một loại sản phẩm hoặc có tính đặc trưng sản phẩm giống nhau trên cùng địa bàn hoạt động trong phạm vi một tỉnh thành phố, không phân biệt DNTW hay ĐP nên khi sát nhập lại để tăng khả năng tích tụ vốn, gạt bớt bộ máy quản lý, trụ sở, xe con, tăng sức cạnh tranh. Khi thành lập các tổ chức mới như Tổng công ty cần phải có dự án kinh tế khả thi tính toán hiệu quả kinh tế. Không nên thành lập Tổng công ty trên cơ sở gộp các đơn vị lại hoặc đổi tên từ Liên hiệp lên Tổng công ty làm tăng bộ máy quản lý trung gian, lãng phí thời gian và chi phí thi hành, dễ quay trở lại cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây.
Nhân lực: trong việc sử dụng người trước hết cần giải quyết theo đúng chế độ ai lớn tuổi thì cho nghỉ, người trẻ thì cho đi đào tạo, chưa tuổi nghỉ mà không phù hợp nữa thì Nhà nước phải trợ cấp. Các giải pháp cho vấn đề lao động phải được đặt ra theo hướng tận dụng triệt để. Các giải pháp này được đưa nhưng là ở cả hai bên: Nhà nước - địa phương và chính người lao động. Không chỉ trong khu vực nhà nước, mỗi ngành mỗi địa phương có đặc điểm khác nhau, có thế mạnh khác nhau và do đó cách tạo việc làm cũng khác nhau rất đa dạng. Người LĐ cũng không thụ động trông chờ vào nhà nước. Tuỳ theo năng lực và điều kiện của mình, người LĐ có thể tự tổ chức các hoạt động SXKD lựa chọn nơi thích hợp với nguồn vốn tự có, vay nhà nước…Trong khi đó nhà nước có trách nhiệm định hướng hoạt động SXKD bằng cách xác định cơ cấu đầu tư thoả đáng, cơ cấu ngành nghề hợp lý, tạo môi trường hoạt động thuận lợi, bình đẳng cho các ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế. Nhà nước dùng chính sách thuế để điều tiết, hỗ trợ vốn cho các tập thể cá nhân tổ chức SXKD. Thông qua các quan hệ quốc tế Nhà nước có thể gửi người ra nước ngoài đào tạo, thực hiện chính sách XK lao động ra thị trường nước ngoài mà đối tượng cần giải quyết nhất là nguồn lao động ở khu vực nông thôn và miền núi. Đó cũng là một vài giải pháp để thực hành tiết kiệm vốn nguồn nhân lực của nhà nước và của cả nền kinh tế. Cần mở rộng quy mô đào tạo kết hợp phải coi trọng cơ cấu và chất lượng, tính toán hiệu quả và của công tác đào tạo bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực cho phù hợp với mục tiêu.
Các cơ quan chức năng cần tổ chức phân tích đánh giá thực trạng vốn và tài sản của DNNN. Xác định số vốn và tài sản thực tế đang phục vụ SXKD; xử lý các tài sản không cần dùng, tài sản mất mát công nợ…làm lành mạnh tình hình tài chính trong các DNNN đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như đổi mới lại tổ chức SXKD. Việc quản lý vốn và tài sản nhà nước như hiện nay vẫn cồng kềnh và chỉ là tổ chức hành chính kinh tế nặng về kiểm tra giám sát hành chính kinh tế nhà nước với mục đích hạn chế thất thoát vốn và tài sản đã giao mà chưa đạt được mục tiêu hiệu quả kinh tế đồng thời chi phí cho công tác này cũng không phải là nhỏ. Do vậy nhà nước nên giao toàn bộ số vốn và tài sản của DNNN cho các tổ chức KD vốn, nhà nước thực hiện chức năng quản lý KD vốn theo đúng luật quy định. Thực hiện theo hình thức tài chính này nâng cao trách nhiệm của đơn vị được giao quản lý vốn và sử dụng vốn.
Các DNNN phải chủ động tìm các biện pháp tự huy động vốn như phát hành trái phiếu, nhận vốn góp liên doanh liên kết theo hợp động được ký duyệt, tăng cường bổ xung vốn từ lợi tức thực hiện sau thuế để lại bổ xung vốn đầu tư phát triển từ khâú hao cơ bản được để lại…Làm sao việc vay ngân hàng chỉ là nguồn vốn bổ trợ khi cần thiết. Trong nền kinh tế thị trường, có rất nhiều cách huy động vốn khác nhau trong đó hình thức huy động qua thị trường vốn đóng vai trò quan trọng. Thay vì tiền vay trực tiếp từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác, nhà đầu tư có thể sử dụng thị trường vốn để vay tiền hay kêu gọi vốn đầu tư bằng cách phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Trong nhiều trường hợp biện pháp này có thể cho phép họ huy động được nhiều vốn với chi phí thấp hơn so với vay trực tiếp từ ngân hàng. Trên thị trường vốn, bất kỳ nguồn vốn nào được sử dụng cũng đều phải trả giá. Vì vậy, nhà đầu tư nhất thiết phải quan tâm đến khả năng sinh lợi trong quá trình sử dụng vốn đầu tư.
Xét trong phạm vi sử dụng đồ dùng phục vụ cho quá trình quản lý thì cần phải thực hiện chế độ sử dụng điện thoại phù hợp. Căn cứ vào chế độ do nhà nước quy định để ban hành quy chế sử dụng điện thoại của DN theo nguyên tắc tiết kiệm, có định mức cụ thể, nếu sử dụng quá mức quy định thì cá nhân tự thanh toán. Mặt khác các DNNN SXKD nhất thiết phải có định mức sử dụng nguyên vật liệu, sáng kiến cải tiến kĩ thuật. Phải định mức chi phí công tác cho nhân viên và ban hành bằng văn bản hàng năm. Việc tổ chức hội nghị, tiếp khách ngày lễ Tết, đón nhận huân chương, đi công tác trong và ngoài nước phải triệt để tiết kiệm và thực hiện đúng chế độ chi tiêu đã quy định của nhà nước, DN.
V. Tiết kiệm chống lãng phí trong SX – TD của nhân dân
Cũng như trong lĩnh vực khác, việc thực hành tiết kiệm trong SX-TD của tầng lớp nhân dân luôn là trọng tâm cần được giải quyết làm sao phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của nước ta đồng thời làm cho quá trình SX-KD của nhân dân đạt được hiệu quả theo đúng mục tiêu.
Chúng ta biết rằng vốn cho SX-TD của nhân dân suy cho cùng là nguồn giá trị thặng dư tích luỹ được từ lao động XH, của cải và tài nguyên khai thác được. Đất nước ta có nguồn tài nguyên khá phong phú, cần có kế hoạch khai thác, sử dụng có hiệu quả để có vốn cho phát triển kinh tế. Song nguồn đầu tư vốn quan trọng nhất là lao động thặng dư của toàn xã hội. Muốn có giá trị thặng dư từ lao động xã hội để tích luỹ chúng ta không còn cách nào khác là phải tạo ra năng suất LĐ cao và thực hành tiết kiệm. Trong lĩnh vực này, Đảng ta đã chủ trương và trong các chính sách đường lối phát triển là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tích luỹ- tiêu dùng, XD phát triển kinh tế với cải thiện nâng cao đời sống nhân dâ.
Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm trong SXTD là tiết kiệm lớn nhất để tạo ra nguồn vốn tích luỹ cho SX. Hiện nay ở nước ta nạn lãng phí và tiêu dúng quá mức so với điều kiện và sức phát triển kinh tế. Để giải quyết tình trạng lãng phí trong SX- TD của tầng lớp nhân dân, có thể đưa ra một số sau:
Việc tổ chức lễ hội, hiếu hỷ và các hoạt động khác phải thiết thực đơn giản và hết sức tiết kiệm. Tránh phung phí trong điều kiện còn nghèo, nhiều rủi ro. Nghiêm cấm việc tổ chức lễ hội để bắt buộc các cá nhân, tổ chức đóng góp tiền của. Các cấp uỷ Đảng và CQĐP cần tuyên truyền giáo dục ý thức tiết kiệm chống lãng phí trong SX- TD của nhân dân, khuyến khích nhân dân tiêu dùng hàng trong nước để hỗ trợ SX- phát triển. Chỉ mua hàng nhập khẩu từ nước ngoài khi tính chất đặc biệt của công tác sử dụng đòi hỏi hay do trong nước chưa SX được, hay giá trong nước quá cao so với các hàng hóa cùng loại ở nước ngoài. Đây là một yếu tố quan trọng không chỉ để thực hành tiết kiệm chống lãng phí mà còn để tạo thị trường, thúc đẩy SX trong nước phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước với hàng ngoại đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong nước.
Tổ chức cá nhân được giao tiếp nhận quản lý phân phối các quỹ hình thành từ nguồn đóng góp, ủng hộ của nhân dân, các tổ chức, CP, tổ chức phi CP cho các hoạt động hỗ trợ, hoạt động nhân đạo từ thiện…Phải công khai nguồn thu, kết quả phân phối sử dụng các quỹ này phải theo đúng quy định ban hành kèm theo.
Đối với nước ta hằng năm ngày Tết cổ truyền, các ngày lễ hội của từng địa phương luôn được tổ chức rất trọng thể và vui vẻ. Đặc biệt Tết cổ truyển hàng năm là dịp là để chúng ta đặt ra những giải pháp làm sao cho nhân dân đón Tết được vui, an toàn và tiết kiệm. Đó cũng là các giải pháp thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng vào các ngày lễ hội hàng năm.
Thứ nhất: nghiêm cấm lợi dụng lễ hội để tổ chức liên hoan ăn uống lãng phí và dùng tiền công quỹ để biếu xén. Các đơn vị trích quỹ thưởng theo chế độ cho đơn vị, cá nhân…phải công khai danh sách thưởng và mức thưởng cho toàn thể cơ quan, đơn vị biết.
Thứ hai: đảm bảo đáp ứng đầy đủ hàng hóa thiết yếu cho nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết với giá cả ổn định, quan tâm tới đời sống nhân dân, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, tăng giá đột biến, đặc biệt chú ý đến đồng bào vùng cao, vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo, vùng chịu nhiều thiệt hại do thiên tai lũ lụt, thăm hỏi tặng quà thương bệnh binh, gia đình có công với cách mạng…Vận động các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống tương thân tương ái giúp đỡ các gia đình nghèo, đảm bảo trật tự an toàn xã hội cho nhân dân, tổ chức tốt các buổi sinh hoạt văn hóa văn nghệ vui chơi giải trí.. đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần cho nhân dân. Tổ chức tốt việc chăm lo phòng chống dịch bệnh và chữa bệnh, kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm.
Đây là một số biện pháp vừa thực hành tiết kiệm trong đời sống hàng ngày của người dân, vừa nêu cao truyền thống văn hóa, tinh thần dân tộc trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển biến tích cực. Song, thiết nghĩ, để có thể thực hành tiết kiệm trong mọi tầng lớp dân cư thì vần đề cốt lõi là cần phải làm thay đổi cơ bản những nếp nghĩ quen thuộc, những thói quen tiêu dùng đã in sâu trong từng thế hệ người Việt Nam. Có như thế việc thực hành tiết kiệm mới được toàn diện, nền kinh tế mới mong có khả năng phát triển nhanh mạnh và bền vững.
Kết luận
ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới đều coi tiết kiệm là quốc sách. Mọi tổ chức cá nhân sử dụng vốn và tài sản Nhà nước, tài nguyên thiên nhiên phải thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tuy vậy, ở nước ta tình trạng sử dụng công qũy lãng phí, chi tiêu không có hiệu quả thiết thực còn phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực, các góc độ của nền kinh tế từ Trung ương ế cơ sở. Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng mình để công khai và mạnh dạn gạt bỏ cho sạch những tiêu cực tham ô lãng phí quan liêu, tạo ra một khí thế cách mạng làm động lực tinh thần cho cán bộ quản lý trên mặt trận kinh tế. Lý thuyết thực tiễn chưa thực sự đi sâu vào từng cơ quan, tổ chức, đoàn thể, cá nhân. Bởi vì lý thuyết chưa đi cùng thực hành. Những giải pháp cơ bản đưa ra được xem xét trên nhiều góc độ của nền kinh tế là thước đo để tính được mức hiệu quả của công tác thực hành tiết kiệm. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nghèo, xét trên góc độ toàn nền kinh tế là thiếu nguồn lực rất nhiều. Do vậy, với những nguồn lực đã có và các nguồn lực sẽ đạt được trong tương lai thì công tác thực hành tiết kiệm không là trách nhiệm của riêng ai. Đó là yêu cầu cấp bách và khách quan của nền kinh tế nước ta cần phải được thực hiện ngay từ bây giờ, ở mọi nơi, mọi lúc. Để thực hiện tốt quốc sách tiết kiệm cần phải có sự cộng tác tích cực của các cấp, ngành trong việc kiểm tra, giám sát cũng như hoạch định quy chế nhằm triệt để tiết kiệm mọi nguồn lực sao cho hiệu qủa kinh tế cao nhất, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Trên đây là những trình bày về chính sách tiết kiệm trên phạm vi của một quốc gia. Trong quá trình thực hiện đề tài do gặp nhiều giới hạn về thời gian và phạm vi hiểu biết, đề tài này chắc hẳn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Vì vậy chúng em rất chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để chúng em tiếp tục sửa đổi bổ sung và hoàn thiện đề tài.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I- Tiết kiệm là quốc sách 2
I- Khái niệm tiết kiệm và nguyên nhân phải tiết kiệm 2
1. Khái niệm 2
2. Nguyên nhân phải tiết kiệm 2
II- Mối quan hệ đầu tư - tiết kiệm 3
1. Các quyết định kinh tế của hộ gia đình 4
2. Các quyết định vay mượn và đầu tư của các hãng 5
3. Tiết kiệm của Chính phủ 5
4. Sự cân bằng giữa cho vay (Tiết kiệm) và vay (Đầu tư ) 6
III- Mối quan hệ giữa tích luỹ và tiết kiệm 8
1. Vấn đề chung về tích luỹ 8
2. Mối quan hệ giữa tích luỹ và tiết kiệm 10
IV- Tiết kiệm là quốc sách 11
Chương II- Nguyên nhân và thực trạng của việc thực hành tiết kiệm chống lãng phí 14
I- Trong lĩnh vực chi tiêu hành chính 14
II- Thực trạng của việc tiết kiệm trong xây dựng cơ bản 16
III- Thực trạng tình hình sử dụng tài sản công, tài nguyên thiên nhiên 19
IV- Trong lĩnh vực sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp Nhà nước 22
V- Trong lĩnh vực chi tiêu của dân cư 25
Chương III- Những giải pháp để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí 27
I- Trong lĩnh vực chi tiêu hành chính sự nghiệp và kinh phí dự án 27
II- Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản 29
III- Trong mua sắm sử dụng tài sản công và sử dụng ngân sách Nhà nước tài nguyên thiên nhiên 31
IV- Trong lĩnh vực sử dụng vốn và tài sản tại doanh nghiệp Nhà nước 34
V- Tiết kiệm chống lãng phí trong sản xuất - tiêu dùng của nhân dân 36
Kết luận 38
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35277.doc