Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang – Siêu thị máy tính Blue Sky

Đây là một chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp, với việc thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước mà còn đối với quá trình tái sản xuất mở rộng trong phạm vi toàn xã hội. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm được xác định cả khi thu được tiền của khách hàng và được khách hàng chấp nhận thanh toán số tiền hàng đó. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm phản ánh quy mô kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh trình độ tổ chức, chỉ đạo sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác thanh toán. Có được doanh thu bán hàng chứng tỏ doanh nghiệp đã sản xuất ra những sản phẩm được thị trường chấp nhận. Doanh thu tiêu thụ phẩm có thể hiều là toàn bộ số tiền bán sản phẩm hàng hoá, cung ứng các dịch vụ sau khi trừ đi các khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại . và được khách hàng chấp nhận trả tiền. Trong đó giảm giá hàng bán là số tiền người bán giảm trừ cho người mua trên giá đã thoả thuận do nhu cầu thị trường hoặc là hình thức doanh nghiệp ưu đãi cho những khách hàng mua những khối lượng sản phẩm lớn. Doanh thu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm:

doc32 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1122 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang – Siêu thị máy tính Blue Sky, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trung nhất các mặt đối lập của sản xuất hàng hoá, là mục tiêu khởi điểm của quá trình kinh doanh và cũng là nơi kết thúc của quá trình kinh doanh. Đồng thời thông qua thị trường doanh nghiệp tìm kiếm và xác định cho mình một đối tượng, lĩnh vực thị trường kinh doanh phù hợp để trụ vững trong cuộc cạnh tranh gay gắt và đạt được mục tiêu lợi nhuận luôn là nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của mỗi doanh nghiệp. II. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và vai trò của tài chính trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. I. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu chuyển hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại.Thông qua tiêu thụ sản phẩm thì đồng vốn bỏ ra ban đầu sẽ trở về trạng thái ban đầu của nó. Với doanh thu bán hàng doanh nghiệp có thể trang trải các khoản chi phí: Tiền lương, thưởng cho cán bộ nhân viên, bù lại giá vốn, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, thực hiện nộp thuế và có lợi nhuận... Trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp thương mại phải duy trì quá trình tiêu thụ đạt hiệu quả, không để hàng tồn kho không bán được. Xã hội luôn có nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao. Vì vậy quá trình tiêu thụ luôn phải được mở rộng mới đáp ứng này càng tăng lên của xã hội cả số lượng và chất lượng hàng hoá. Nếu mở rộng được tiêu thụ sẽ tạo điều kiện tăng doanh thu. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt của doanh nghiệp đều tiến hành cải cách nâng cao thị phần hàng hoá của mình vì tiêu thụ sản phẩm hàng hoá chậm chạp, yếu kém gây ứ đọng hàng hoá, tiền vốn chậm luôn chuyển sẽ gây ra chi phí bảo quản hao hụt, chi phí lãi vay, chi phí quản lý bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Do đó để chiến thắng trong cạnh tranh doanh nghiệp luôn phải cải tiến công tác tiêu thụ sản phẩm của mình. 2. Vai trò của tài chính trong công việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. a) Mối quan hệ giữa tài chính và tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xét về mặt tài chính tiêu thụ sản phẩm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng ngược lại tài chính của doanh nghiệp cũng tác động không nhỏ đến tiêu thụ sản phẩm, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau hết sức chặt chẽ, thường xuyên và liên tục. Có thể hiểu hoạt động tài chính doanh nghiệp là tổ chức các luồng vận động chuyển hàng hoá, vốn tiền tệ để tạo lập phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường và áp dụng chế độ tự hạch toán, các doanh nghiệp không thể trông chờ vào nguồn vốn tự cấp phát của Nhà nước mà phải chủ động tạo lập vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh và mở rộng thị trường, vì thế doanh nghiệp phải chủ động khai thác nguồn tài chính tự có từ kết quả sản xuất kinh doanh của mình nhất là nguồn thu từ công tác tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm nhanh sẽ làm tăng vòng quay của vốn, rút ngắn kỳ thu tiền trung bình, tăng hiệu quả sử dụng vốn, từ đó làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm được điều này, mỗi doanh nghiệp tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh của mình cần đưa ra, bao gồm nhưng không giới hạn một số biện pháp sau đây: -- Giá cả hàng hoá hợp lý. -- Chiết khấu bán hàng -- Hoa hồng cho các đại lý và các cửa hàng ký gửi -- Dịch vụ vận chuyển hàng hoá -- Thực hiện một số hình thức khuyến mại, quảng cáo... chương II: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty nhật quang năm 2000 I. Tình hình đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Nhật Quang 1. Sự ra đời và phát triển. Công ty Nhật Quang được Nhà nước cho phép thành lập vào tháng 4 năm 1998, trụ sở chính tại số nhà 16C Hàm Long - Quận Hoàn Kiếm - Hà nội. Đây là một địa điểm thuận lợi về giao thông và nằm giữa trung tâm của thủ đô Hà nội. Công ty Nhật Quang là một doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại, chuyên doanh chủ yếu về sản phẩm điện tử tin học, thông tin thiết bị máy văn phòng. Vào tháng 5 năm 1999 công ty đã áp dụng hình thức bán lẻ tiên tiến nhất, cụ thể là trên mạng internet. Điều này chứng tỏ rằng công ty là nơi khởi đầu để đưa công nghệ thông tin của chúng ta hào nhập với nhịp độ phát triển của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Với hình thức mua bán này không những giúp cho khách hàng mua được mặt hàng họ cần, mà còn giúp họ có sự lựa chọn chính xác, nắm bắt được thông tin về các mặt hàng mới ở trong nước cũng như thế giới. Sở dĩ đạt được thành công như vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập công ty đã tận dụng tiềm năng về địa điểm thuận lợi cho việc giao dịch mua bán . Công ty không ngừng phát triển mạng lưới kinh doanh, nâng cao chất lượng, đổi mới chủng loại, tạo lập cho công ty một thị trường kinh doanh ổn định, mở rộng thị trường kinh doanh, đẩy mạnh công tác tiêu thụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tốt hơn trong xã hội, mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và tuy mới thành lập nhưng công ty đã có số vốn là: - Vốn cố định: 1.200.000.000VNĐ - Vốn lưu động: 4.160.929.788VNĐ - Vốn chủ sở hữu: 1.206.670.356 VNĐ Chỉ sau ba năm công ty đã thu được với doanh số là 90 tỷ. Với doanh số này không những mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp là 13.273.760.090VNĐ mà còn giúp cải thiện, tăng thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty với bình quân thu nhập là 1.200.000VNĐ. Bên cạnh đó với doanh số này công ty còn đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước qua hình thức nộp thuế, cụ thể trong 3 năm 1998,1999,2000 là 1.054.923.000VNĐ. 2. Đặc điểm tổ chức quản lý kinh doanh ở công ty Nhật Quang * Cơ cấu tổ chức quản lý Để quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh doanh, công ty không ngừng hoàn thiện bộ máy tổ chức của mình, bởi vì bộ máy là hình ảnh vẽ nên bức tranh tươi sáng của công ty, cơ cấu bộ máy hợp lý và tổ chức quản lý tốt cũng góp phần không nhỏ trong những bước đi của công ty. Công ty Nhật Quang là một đơn vị kinh tế với cơ cấu bộ máy quản lý được sắp xếp theo các phòng ban và mỗi phòng ban thực hiện một chức năng. Đứng đầu công ty là ban giám đốc, trong đó có 1 giám đốc và 1 phó giám đốc. - Giám đốc là người đứng đầu công ty, có nhiệm vụ điều hành toàn bộ hoạt động của công ty và chịu trách nhiệm kết quả kinh doanh, đảm bảo đời sống công ăn việc làm của toàn công ty, ký kết các hợp đồng kinh tế, liên doanh với các cá nhân, đơn vị và tổ chức kinh tế trong nước cũng như nước ngoài. - Phó giám đốc có nhiệm vụ trợ giúp và tham mưu cho giám đốc Ngoài ra còn có các phòng ban chức năng phục vụ cho quá trình kinh doanh của Công ty. (sơ đồ bộ máy quản lý được thể hiện ở trang bên) Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty được thể hiện theo sơ đồ sau: Ban giám đốc Phòng tổng hợp Phòng kinh doanh Phòng kỹ thuật Phân xưởng lắp ráp Phòng dự án Phòng Tài chính kế toán Khối văn phòng Phòng hệ thống và hỗ trợ KH Phòng marketing Bộ phận bán hàng Trong đó: - Phòng kỹ thuật: Hỗ trợ các hợp đồng, chịu trách nhiệm về kỹ thuật cho các đề án, bảo hành - Phòng kinh doanh: Kinh doanh bán lẻ máy tính và các thiết bị tin học khác - Phòng dự án: Với chức năng lập và thực hiện các dự án của công ty - Phòng tài chính- kế toán: Chịu trách nhiệm vốn, hạch toán kinh doanh, thanh toán quyết toán với Nhà nước, đồng thời cung cấp thông tin, tài liệu kinh tế cần thiết cho giám đốc - Phòng marketing: Tìm kiếm thị trường, khách hàng, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm mới * Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Nhật Quang. Cùng với quá trình phát triển của công ty Nhật Quang – Siêu thị máy tính Blue Sky đã và đang là một trong những công ty thương mại, hoạt động trong lĩnh vực tin học hàng đầu của Việt nam với đội ngũ nhân viên có trình độ tay nghề cao, chất lượng, quy mô hoạt động lớn, được khách hàng tin cậy bạn hàng tín nhiệm và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Bên cạnh đó công ty còn thiết lập trung tâm thiết bị và chuyển giao hoạt động trong lĩnh vực cung cấp thiết bị, khoa học,thí nghiệp, hiệu chuẩn trắc địa, giảng dạy và đo lường. Ngoài ra hoạt động của công ty không chỉ dừng ở đó mà còn hướng dẫn khách hàng biết được những giải pháp tốt nhất trong quá trình sử dụng máy vi tính. Các hoạt động của công ty Nhật Quang không chỉ tập trung vào lĩnh vực dịch vụ thương mại mà còn đầu tư lớn vào việc phát triển phần mềm ở Việt nam. Trong đó: Các hoạt động của công ty được chia làm 5 lĩnh vực chính : - Phân phối sản phẩm tin học viễn thông - Phát triển phần mềm ứng dụng - Cung cấp giải pháp tin học - Cung cấp thiết bị công nghệ cao và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực tin học. - Kinh doanh bán lẻ các sản phẩm tin học và thiết bị văn phòng * Thị trường tiêu thụ sản phẩm Do sản phẩm kinh doanh của công ty là các loại máy tính, máy in, máy chiếu và các loại thiết bị khác ở Nhật Bản, nên thị trường tiêu thụ chủ yếu là đô thị, nhất là các thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh. ở 2 thành phố này không những dân cư đông mà nhu cầu sử dụng máy tính, máy in, máy chiếu cũng tập trung ở các thành phố, từ đó tạo điều kiện cho sản phẩm của công ty có thể đến với người tiêu dùng một cách dễ dàng.Họ có điều kiện để tiêu thụ sản phẩm của công ty được nhanh hơn. Hơn thế nữa, họ có sự hiểu biết về công nghệ thông tin và cách sử dụng các loại thiết bị mới này. Chính vì có được sự cọ sát với thị trường nên cán bộ trong công ty đã mạnh dạn đưa sản phẩm của công ty xâm nhập vào những thị trường nóng bỏng này. Kết quả là sản phẩm của công ty đã có chỗ đứng trên thị trường trong nước cạnh tranh được với nhiều hãng máy tính khác trên thế giới. II. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm ở công ty Nhật quang 1. Công tác lập kế hoạch tiêu thụ phẩm Để quá trình kinh doanh của doanh nghiệp hàng năm mang lại hiệu quả cao, phát triển kịp với xu thế thời đại, theo kịp với những biến động của thị trường thì việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề không thể thiếu đối với mỗi doanh nghệp hiện nay. Viêc lập kế hoạch phải dựa trên khả năng thực tế của doanh nghiệp, phải căn cứ vào thị trường thông qua việc xử lý các thông tin về kinh tế, khoa học, kỹ thuật... kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thực chất là dự đoán trước số lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ trong kỳ kế hoạch, đơn giá bán sản phẩm kỳ kế hoạch , doanh thu sẽ đạt được trong kỳ để có thể chủ động tổ chức tiêu thụ sản phẩm. a) Phương pháp lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của công ty được lập cho cả năm và theo từng quý. Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cả năm có dự kiến số lượng sản phẩm cho từng quý, trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm từng quý lại dự kiến số lượng sản phẩm cho từng tháng. Việc lập kế hoạch tiêu thụ phẩm cả năm của công ty căn cứ vào các hợp đồng của các đơn vị, cá nhân... được ký kết trong năm kế hoạch, căn cứ vào tình hình tiêu thụ sản phẩm năm trước, nhu cầu thị trường trong năm kế hoạch. *Thời điểm lập kế hoạch. Thời điểm cônng ty Nhật Quang tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm thường vào tháng 10 năm báo cáo, đây cũng là thời điểm mà công ty tiến hành lập các kế hoạch tài chính. b) Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty Nhật Quang. Sản phẩm tiêu thụ của công ty bao gồm rất nhiều chủng loại, mặt hàng chẳng hạn như máy tính, máy in, máy chiếu, máy huỷ tài liệu... nhưng ở đây em chỉ đi sâu vào nghiên cứu 3 mặt hàng chính của công ty đó là máy tính, máy in và máy chiếu. Trong năm 2000 kế hoạch tiêu thụ sản phẩm các loại của công ty được lập như biểu số 1 trang bên . Các chỉ tiêu của kế hoạch tiêu thụ năm 2000 được xác định như sau: “Tên sản phẩm ” được lập cho mặt hàng mát tính, máy in và máy chiếu. “Tồn đầu kỳ” được lập từ số lượng sản phẩm tồn năm trước. “Nhập trong kỳ” được căn cứ vào tình hình tiêu thụ sản phẩm năm 1999 và dự đoán nhu cầu năm kế hoạch. “Xuất trong kỳ ” được căn cứ vào hoá đơn đặt hàng của khách hàng, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm đã ký kết. “Tồn cuối kỳ” được xác định bằng cách cộng số sản phẩm ở cột ”dư đầu kỳ” với số liệu tương ứng ở cột “nhập trong kỳ” rồi trừ đi cột “ xuất trong kỳ”. “Doanh thu dự kiến” được xác định bằng cách nhân số sản phẩm ở cột ”kế hoạch 2000” với số liệu tương ứng ở cột “đơn giá kế hoạch” Ngoài kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được lập chung cho cả năm , công ty còn tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho từng quí, tháng để cụ thể hoá hơn nữa hoạt động tiêu thụ ở công ty nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vì thế kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng quí được lập khá chi tiết, chẳng hạn như kế hoạch tiêu thụ sản phẩm quí IV năm 2000 được biểu hiện ở biểu số 2 (trang bên). Qua công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và chi tiết cho các tháng để thấy rằng việc lập kế hoạch ở công ty Nhật Quang cụ thể, chi tiết và có cơ sở phù hợp với đặc điểm kinh doanh của công ty. Đây cũng là cơ sở để công ty đưa ra những phương hướng, mục tiêu giúp cho công ty tìm ra những phương hướng, biện pháp hữu hiệu để thực hiện tốt kế hoạch đề ra. Trong kế hoạch tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty. Doanh thu tiêu thụ dự kiến của máy tính, máy in và máy chiếu đạt 58.617.280 ngìn đồng tăng 14.283.101 ngìn đồng so với năm 1999, tỷ lệ tăng là 32,22%.Cụ thể là: Doanh thu dự kiến của máy tính năm 2000 là 28.017.500 nghìn đồng tăng Doanh thu dự kiến của máy in năm 2000 là 25.352.280 nghìn đồng tăng Doanh thu dự kiến của máy chiếu năm 2000 là 5.247.500 nghìn đồng tăng Nguyên nhân của kết quả trên: - Đơn đặt hàng tăng, số lượng sản phẩm dự kiến tiêu thụ tăng dẫn đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm dự kiến cũng tăng. Máy tính lượng số lượng tiêu thụ năm 1999 là 3000 chiếc, dự kiến tiêu thụ năm 2000 là 3461 chiếc, tăng 461 chiếc, tỷ lệ tăng là 15,36%. Máy in số lượng tiêu thụ năm 1999 là 3190 chiếc, dự kiến tiêu thụ năm 2000 là 3648 chiếc, tăng 458 chiếc, tỷ lệ tăng là 14,36%. Máy chiếu số lượng tiêu thụ năm 1999 là 820 chiếc, dự kiến tiêu thụ năm 2000 là 925 chiếc, tăng 105 chiếc, tỷ lệ tăng là 11,35%. - Về giá tính cho một chiếc máy tiêu thụ được biểu hiện ở biểu số 3. Nhìn chung giá cả đối các loại với sản phẩm năm 2000 đều tăng lên so với năm 1999. Sở dĩ có được giá kế hoạch năm 2000 tăng lên như vậy là do sự biến động tỷ giá hối đoái và nhu cầu của người tiêu dùng tăng lên. Dưới sự tác động của 2 nhân tố trên: số lượng, giá cả sản phẩm kỳ kế hoạch năm 2000 so với thực tế năm 1999 đã dẫn đến kết quả doanh thu dự kiến tiêu thụ sản phẩm năm 2000 tăng lên. Công tác lập kế hoạch của công ty nhìn chung mang tính khả thi cao tuy nhiên vẫn còn một số nhược điểm sau: Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm mới chỉ dựa vàocác hợp đồng được ký kết, mà ở đây công ty chủ yếu tiêu thụ theo phương thức bán lẻ là chủ yếu, công ty chưa quan tâm đến việc mở rộng thị trường tiêu thụ nên mặc dù kế hoạch tiêu thụ rất sát nhưng công ty dường như chỉ bán tại siêu thị, sản phẩm của công ty chưa mở rộng ra thị trường và người tiêu dùng ở các vùng lân cận. Đó là một vài điểm yếu trong công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm ở công ty nói chung và công tác lập kế hoạch ở công ty nới riêng. Muốn đi vào tìm hiểu rõ hơn về công tác thực hiện kế hoạch tiêu thụ sản phẩm như thế nào cần nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty trong năm 2000. 2. Tình hình tổ chức thực hiện kế hoach tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty Nhật Quang. a) Phương thức tổ chức giao hàng của công ty. Để đáp ứng nhu cầu thị trường và ký kết hợp đồng một cách thuận lợi với khách hàng, công ty đã có phương thức bán hàng cho riêng mình phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường. Để có thể bán hàng cho khách hàng với số lượng sản phẩm lớn công ty cần phải có các hợp đồng ký kết trước khi có đơn đặt hàng. Công ty luôn có khách hàng thường xuyên nên hàng năm công ty đều có thời điểm thoả thuận công việc một cách thích hợp và hợp đồng phải được ký kết theo quy định của công ty. Khách hàng đã ký kết hợp đồng với công ty để có thể nhận hàng tại kho của công ty, hay công ty giao hàng tại địa điểm thoả thuận trong hợp đồng. Khi khách hàng nhận được hàng thì việc thanh toán sẽ được thực hiện trực tiếp hay chuyển qua tài khoản sau một thời gian thoả thuận trong hợp đồng. Ngoài việc xuất giao cho hợp đồng, công ty còn sẵng sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng, xuất bán cho mọi đối tượng. Hiện nay công ty đã có một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh để giới thiệu sản phẩm của mình. Việc theo dõi tiêu thụ sản phẩm do phòng tài vụ trực tiếp làm việc. Từng loại sản phẩm hàng hoá theo dõi trên sổ chi tiết, được lập cho từng quý; kế toán căn cứ vào hoá đơn kiêm phiếu xuất kho trong quý để lập sổ và công ty cũng thực hiện việc theo dõi tổng hợp tình hình tiêu thụ sản phẩm theo từng quý, từng tháng. Cuối mỗi quý phòng tài chính kế toán lại tập hợp các kết quả tiêu thụ sản phẩm trong quý theo các chỉ tiêu số lượng, số tiền chi tiết cho từng loại hàng hoá và số thuế doanh thu trực tiếp cho từng loại sản phẩm. Về phương thức bán hàng công ty đã áp dụng hình thức bán lẻ trên mạng internet. b) Các biện pháp kinh tế đã được công ty sử dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trong năm 2000 của công ty Nhật Quang. * Chính sách giá cả linh hoạt: Như nhiều doanh nghiệp kinh doanh khác,nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, công ty đã áp dụng hình thức giảm giá 3% đối với những khách hàng mua khối lượng sản phẩm lớn. Do đó số lượng khách hàng mua buôn cũng như khách hàng mua lẻ chiếm tỷ trọng rất cao, đây là nguồn tiêu thụ quan trọng giúp công ty đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm * Đa dạng hoá phương thức bán hàng. Nhằm hoàn thiện và đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm cũng như đáp ứng được tối đa nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường cho mọi khách hàng thuộc mọi đối tượng với số lượng không hạn chế, công ty tiến hành mở rộng và đa dạng hoá các phương thức bán hàng. Để mua được hàng với số lượng lớn, khách hàng phải ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với công ty. Tiêu thụ hàng hoá ở công ty được tiến hành theo hai phương thức bán buôn và bán lẻ. Nghiệp vụ bán lẻ được thực hiện tại siêu thị của công ty, đối với hàng hoá bán buôn công ty chỉ thực hiện phương thức bán buôn qua kho với hoá đơn GTGT kiêm phiếu xuất kho: đây là chứng từ duy nhất có giá trị làm căn cứ cho việc thanh toán. Công tác bán buôn do phòng nghiệp vụ đảm nhận, cuối tháng gửi chứng từ nên phòng tài vụ của công ty để phòng tài vụ ghi vào nhật ký chứng từ. Về cơ bản phương thức bán hàng của công ty: tạo điều kiện cho khách hàng hiểu được giá trị của mặt hàng mà họ sắp mua qua hệ thống internet và báo Hà nội mới. Tuy vậy công ty còn thụ động trong việc tìm kiếm bạn hàng lớn và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Sản phẩm của công ty được trưng bày và bán tại siêu thị Blue sky với nhiều mặt hàng như: máy tính, máy chiếu, máy in, máy huỷ tài liệu Tiêu thụ sản phẩm của công ty phụ thuộc rất lớn vào tiêu thụ sản phẩm sản phẩm ở siêu thị, nếu siêu thị tiêu thụ nhanh công ty mới có điều kiện để nhập máy tính thế hệ mới phù hợp với nhu cầu thị trường, còn nếu siêu thị tiêu thụ chậm sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tiêu thụ khi đó công ty không thể nhập được những loại máy tính có thế hệ mới. * Đa dạng hoá các hình thức thanh toán: Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, công ty vận dụng nhiều hình thức thanh toán khác nhau như: thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc, uỷ nhiệm chi, tiêu thụ chuyển khoản, hàng đổi hàng...Hiện nay việc thanh toán của công ty chủ yếu bằng hình thức chuyển khoản, theo phương thức trả tiền ngay hoặc thanh toán sau một thời gian tuỳ theo sự thoả thuận giữa hai bên. Nếu khách hàng thanh toán ngay bằng tiền mặt thì kế toán lập chứng từ ban đầu là phiếu thu tiền, phiếu thu tiền còn là chứng từ chứng minh cho việc thanh toán bằng ngân phiếu. Phiếu thu tiền được lập thành 3 liên: 1 liên giao cho khách hàng, 1 liên lưu, 1 liên dùng cho kế toán thanh toán. Nếu khách hàng thanh toán bằng séc thì số séc đó được phòng tài vụ nộp vào tài khoản của công ty ở ngân hàng Vietcombank. Hàng tháng, hàng quý phòng kế toán đối chiếu công nợ, gửi giấy báo đòi nợ đến khách hàng, nếu quá hạn mọi số nợ đều phải chịu lãi suất theo lãi suất vốn vay của ngân hàng. Những quy định trên của công ty không những đảm bảo cho tài sản, tiền vốn của công ty được an toàn, mà còn giúp công ty thu hồi vốn nhanh. Trên đây là một số biện pháp tài chính công ty đã áp dụng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. 3. Kết quả đạt được trong công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty trong năm 2000. Năm 2000 công ty Nhật Quan g đã đạt được kết quả rất khả quan trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhờ có việc tăng cường giới thiệu sản phẩm, chào bán hàng ra thị trường mà số lượng trong đơn đặt hàng và số lượng hàng bán lẻ tăng lên đáng kể so với năm 1999, điều này được thể hiện ở biểu số 4 trang b ên. Nhìn vào biểu số 4, ta thấy: Năm 2000, doanh thu tiêu thụ các sản phẩm của công ty đạt 58.798.391 nghìn đồng, tăng 16.032.621 nghìn đồng so với năm 1999, tỉ lệ tăng này tăng 27,18%. Số lượng tiêu thụ kế hoạch của máy tính là 3461 chiếc nhưng thực tế công ty chỉ tiêu thụ được 3457 chiếc, bằng 99,88%. Cụ thể là: - Máy tính CMSPIII550 tăng 01 chiếc so với kế hoạch, đạt 100,12% - Máy tính CMSPIII500 giảm 01 chiếc so với kế hoạch, chỉ đạt 99,87% - Máy tính CMSPIII400 giảm 05 chiếc so với kế hoạch, chỉ đạt 99,5% - Máy tính CMSPIII600 tăng 01 chiếc so với kế hoạch, đạt 100,12% Số lượng tiêu thụ kế hoạch của máy in là 3648 chiếc. Thực tế công ty tiêu thụ được 100%. Cụ thể là: -Máy in HL1240 tiêu thụ tăng 03 chiếc so với kế hoạch, đạt 100,4% -Máy in HP Laser tiêu thụ giảm 03 chiếc so với kế hoạch, chỉ đạt 99,77% -Máy in HP670 tiêu thụ giảm 02 chiếc so với kế hoạch, chỉ đạt 99,8% -Máy in HP2180 tiêu thụ tăng 01 chiếc so với kế hoạch, đạt 100,1% Số lượng tiêu thụ kế hoạch của máy chiếu là 925 chiếc. Thực tế công ty tiêu thụ 928 chiếc, đạt 100,32%.Cụ thể là: - Máy chiếu 9080 tiêu thụ đạt 100% - Máy chiếu 400 tiêu thụ tăng 03 chiếc, đạt 100,71% Giá bán bình quân 01 chiếc máy tính CMS550 thực tế đạt 100,03% Giá bán bình quân 01 chiếc máy tính CMS500 thực tế chỉ đạt 97,76% Giá bán bình quân 01 chiếc máy tính CMS400 thực tế chỉ đạt 99,27%% Giá bán bình quân 01 chiếc máy tính CMS600 thực tế đạt 100,7% Giá bán bình quân 01 chiếc máy in 1240 thực tế đạt 100,35% Giá bán bình quân 01 chiếc máy in 1100 thực tế đạt 100,77% Giá bán bình quân 01 chiếc máy in 670 thực tế đạt 100,22% Giá bán bình quân 01 chiếc máy in 2180 thực tế đạt 100,5% Giá bán bình quân 01 chiếc máy chiếu 9080 thực tế đạt 104,16% Giá bán bình quân 01 chiếc máy chiếu 400 thực tế đạt 100,18% Doanh thu tiêu thụ của máy tính chỉ đạt 99,84% so với kế hoạch, giảm 44.051 nghìn đồng. Doanh thu tiêu thụ của máy in đạt 100,4% so với kế hoạch, tăng 99.768 nghìn đồng. Doanh thu tiêu thụ của máy chiếu đạt 102,4% so với kế hoạch, tăng125.394 nghìn đồng. Qua xem xét tình hình của công ty ta rút ra nhận xét sau: - Số lượng sản phẩm nhập vào và số lượng sản phẩm tiêu thụ có sự chênh lệch, cụ thể: Tổng số máy tính nhập vào là 3449 chiếc, kế hoạch tiêu thụ 3461 chiếc thực tế 3457 chiếc. Tổng số máy in nhập vào là 3640 chiếc, kế hoạch tiêu thụ 3648 chiếc thực tế 3648 chiếc. Tổng số máy chiếu nhập vào là 925 chiếc, kế hoạch tiêu thụ 928 chiếc thực tế 928 chiếc. Nguyên nhân dẫn đến sự chêch lệch này là: Sau khi công ty và khách hàng đã thoả thuận và ký kết hợp đồng kết hợp với dự kiến bán lẻ sản phẩm công ty đã nhập kho sản phẩm. Nhưmng thực tế khi sản phẩm đã nhập kho chỉ đợi đến hạn giao hàng thì khách hàng thông báo có một vài đơn đặt hàng chưa thực hiện được nên sẽ đình chỉ việc giao hàng theo thời hạn. Để đạt được kế hoạch công ty phải tìm cách tháo gỡ bừng cách đưa ra thị trường và tìm cách tiêu thụ phù hợp để bù đắp chi phí hoặc đợi phía khách hàng xử lý đối với toàn bộ số sản phẩm đó. Số lượng tồn kho cuối năm nhỏ hơn đầu năm, chẳng hạn như máy tính tồn kho đầu năm là 21 chiếc nhưng cuối năm chỉ còn 13 chiếc, máy in đầu năm là 14 chiếc và cuối năm là 6 chiếc, máy chiếu tồn kho đầu năm là 5 chiếc cuối năm còn 3 chiếc. Điều đó cho ta thấy số lượng tồn kho năm 2000 thấp hơn so với năm 1999. Vì thế ta có thế kết luận được việc công ty lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm không chỉ tính đến số dư đầu kỳ và cuối kỳ mà phải xem xét lại và phải tính đến các khả năng có thể xảy ra trong khâu tiêu thụ sản phẩm . Ta có thể thấy rằng doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty chịu ảnh hưởng của 2 yếu tố, đó là số lượng sản phẩm tiêu thụ và giá bán sản phẩm. (a). Số lưọng sản phẩm tiêu thụ Trong năm 2000 công ty dự kiến tiêu thụ 3461 chiếc máy tính nhưng thực tế công ty tiêu thụ được 3457 chiếc, đạt 99,88%; máy in dự kiến là 3648 chiếc thực tế được 3648 chiếc, đạt 100%; máy chiếu dự kiến là 925 chiếc thực tế là 928 chiếc đạt 100,32%. Như vậy đối với loại máy in công ty đã hoàn thành kế hoạch, máy chiếu công ty đã vượt mức kế hoạch đặt ra (0,32%). Cụ thể xem biểu số 5 trang bên ta thấy kế hoạch tiêu thụ ở các quý như sau: -- Kế hoạch tiêu thụ máy tính ở quý I là 850 nhưng trong thực tế ta thấy quý I công ty chỉ tiêu thụ được 846 chiếc bằng 99,53% -- Kế hoạch tiêu thụ máy in ở quý I là 898 chiếc nhưng trong thực tế ta thấy quý I công ty tiêu thụ được 900 chiếc đạt 100,22% -- Kế hoạch tiêu thụ máy chiếu ở quý I là 220 nhưng trong thực tế ta thấy quý I công ty tiêu thụ được 223 chiếc đạt 101,36% -- Kế hoạch tiêu thụ máy tính ở quý II là 860 trong thực tế ta thấy quý II công ty tiêu thụ được 860 chiếc đạt 100% -- Kế hoạch tiêu thụ máy in ở quý II là 901 chiếc nhưng trong thực tế ta thấy quý II công ty chỉ tiêu thụ được 890 chiếc bằng 99,78% -- Kế hoạch tiêu thụ máy chiếu ở quý II là 230 trong thực tế ta thấy quý II công ty tiêu thụ được 230 chiếc đạt 100% -- Kế hoạch tiêu thụ máy tính ở quý III là 866 trong thực tế ta thấy quý III công ty tiêu thụ được 866 chiếc đạt 100% -- Kế hoạch tiêu thụ máy in ở quý III là 912 trong thực tế ta thấy quý III công ty tiêu thụ được 912 chiếc đạt 100% -- Kế hoạch tiêu thụ máy chiếu ở quý III là 234 trong thực tế ta thấy quý III công ty tiêu thụ được 234 chiếc đạt 100% -- Kế hoạch tiêu thụ máy tính ở quý IV là 885 trong thực tế ta thấy quý IV công ty tiêu thụ được 885 chiếc đạt 100% -- Kế hoạch tiêu thụ máy in ở quý IV là 937 trong thực tế ta thấy quý IV công ty tiêu thụ được 937 chiếc đạt 100% -- Kế hoạch tiêu thụ máy chiếu ở quý IV là 241 trong thực tế ta thấy quý IV công ty tiêu thụ được 241 chiếc đạt 100% Như vậy ta thấy chỉ trong quý I đối với máy tính và quý II đối với máy in là công ty không hoàn thành kế hoạch đặt ra, còn lại các sản phẩm khác ở các quý đều bằng thậm chí còn vợt mức kế hoạch. Thực tế trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau: + Khi lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho cả năm và chi tiết cho các quý công ty đã bám sát nhu cầu thi trường và nhờ dựa vào các hợp đồng tiêu thụ sản phẩm đã được ký kết nên dự đoán khả năng tiêu thụ khá chính xác. + Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của công ty có tính thời vụ nên trong quý III và quý IV các doanh nghiệp, trường học...mua máy về sử dụng cho việc quuết toán sổ sách, nhiên cứu về giảng dạy và học tập... Việc không hoàn thành số lượng tiêu thụ máy tính ở quý I và máy in ở quý II sản phẩm là do việc lập kế hoạch và khi thực hiện thì bị ảnh hưởng bởi các đơn vị cá nhân nào đó không thực hiện việc trao đổi hàng hoá. Tóm lại về cơ bản các mặt hàng thuộc lĩnh vực hoạt động chính của công ty ở quý III và quý IV đều thực hiện bằng kế hoạch đặt ra. Tuy vậy, công ty vẫn phải duy trì tiến độ hoạt động, không ngừng đầu tư, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên trong công ty để củng cố hơn nữa hoạt động tiêu thụ sản phẩm của mình. (b). Giá bán sản phẩm. Đây là nhân tố chủ yếu tác động làm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Trong năm 2000 chúng ta thấy giá bán máy in và máy chiếu của công ty đều tăng lên so với dự kiến ban đầu, duy chỉ còn lại 2 loại máy tính là giảm so với kế hoạch đặt ra. Cụ thể là: Máy tính CMSPIII 550 tỷ lệ tăng là 0,3% Máy tính CMSPIII 500 tỷ lệ giảm là 0,23% Máy tính CMSPIII 400 tỷ lệ giảm là 0,73% Máy tính CMSPIII 600 tỷ lệ tăng là 0,7% Máy in HL 1240 tỷ lệ tăng là 0,35% Máy in HP1100 tỷ lệ tăng là 0,77% Máy in HP 670 tỷ lệ tăng là 0,22% Máy in HPLQ 2180 tỷ lệ tăng là 0,3% Máy chiếu 9080 tỷ lệ tăng là 4% Máy chiếu A+K 400 tỷ lệ tăng là 0,28% Qua con số cụ thể trên cho chúng ta thấy giá bán sản phẩm của công ty thống nhất chung cho từng loại sản phẩm và cho cả năm (công ty không có giá bán cho từng quý ).Vì thế doanh thu tăng lên hay giảm đi chỉ dựa trên tình hình tiêu thụ sản phẩm có thực hiện đúng kế hoạch hay không, giá bán sản phẩm so với giá mua như thế nào. Bên cạnh đó giá bán kế hoạch của công ty thường được xác định vào cuối năm trước và nhu cầu thực tế của người tiêu dùng năm kế hoạch. Ngày nay do trình độ dân trí phát triển công việc đòi hỏi phải nhanh hơn, chính xác hơn nên các loại máy tính, máy in và máy chiếu là điều không thể thiếu đối với mỗi công ty, doanh nghiệp..Hơn nữa, nhờ có sự phát triển của công nghệ thông tin nên hàng năm có rất nhiều loại thế hệ máy mới ra đơi. Những loại máy này tiện dụng hơn, hiện đại hơn và nhiều chức năng hơn nên giá bán bao giờ cũng cao hơn các loại máy thế hệ trước. Ngoài hai nhân tố chủ yếu trên có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty còn có các loại phí khác cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiêu thụ sản phẩm của công ty. Chẳng hạn như: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước... Nhờ những tác động của một số biện pháp kinh tế tài chính mà tình hình lợi nhuận của công ty đã tăng nên đáng kể, điều này được thấy qua biểu số 6. Biểu số 6: Tình thực hiện lợi nhuận năm 2000 so với năm 1999. Năm Năm 1999 Năm 2000 So sánh 2000 Ô1999 Chỉ tiêu Chênh lệch Tỷ lệ 1. Doanh thu 44334179160 64423150748 20889715882 45,31 2. Giá thành toàn bộ 42019165030 63326413050 2130730802 50,7 - Giá mua sản phẩm 38525249831 58614221400 20088971569 52,14 - Chi phí bán hàng 1328675926 15358709645 207195039 15,6 - Chi phí quản lý 2165239273 2276320680 111081407 5,13 3. VAT 188377719 207670500 19292781 10,24 4. Lợi nhuận 400302653 556898325 156595672 39,12 Như vậy nhìn chung công ty đã cố gắng sử dụng và phát huy hiệu quả của các biện pháp kinh tế tài chính để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Có thể thấy qua “Biểu số 6 Tình hình thực hiện lợi nhuận năm 2000 so với năm 1999”. Tác dụng của những biện pháp trên đã làm cho doanh thu của công ty trong năm 2000 tăng lên 20.088.971.582 đồng so với năm 1999, tỷ lệ tăng là 45,31%, bên cạnh đó lợi nhuận tăng lên 156.595.672 đồng tỷ lệ tăng là 39,12%. Tóm lại: Trong năm 2000 công ty Nhật Quang đã có rất nhiều cố gắng trong công tác tiêu thụ sản phẩm, hoàn thành tốt kế hoạch đã đề ra. Công ty đã tạo cho mình hệ thống khách hàng lâu dài và có khả năng phát huy trong tương lai. Sản phẩm của công ty đưa ra thị trường tiêu thụ đạt chất lượng cao, thế hệ mới phù hợp với nhu cầu thị trường trong nước, công ty đã có nhiều khách hàng biết đến và muốn mua sản phẩm của công ty để phục vụ nhu cầu mình. Mặc dù có những ưu điểm trên nhưng công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty còn một số những vấn đề tồn tại đang nổi cộm cần phải được giải quyết: - Các khoản phải thu của khách hàng trong năm 2000 còn cao (5.274.767.946đ). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty. - Tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty còn hạn hẹp mới chỉ thực hiện ở siêu thị và chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. - Công ty chưa sử dụng linh hoạt các đòn bẩy tài chính để đẩy mạnh công tác tiêu thụ và thu tiền hàng. - Công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm công ty chưa chú trọng lắm, chỉ trong phạm vi báo Hà nội mới, mạng Internet nên hầu như các tỉnh, thành phố chưa biết đến sản phẩm của công ty. - Sản phẩm của công ty phải nhập từ nước ngoài nhưng công ty chưa có chiến lược lâu dài về tiêu thụ sản phẩm. Hàng năm khi nhu cầu của thị trường cần sản phẩm nào thì lúc đó công ty mới có kế hoạch nhập mặt hàng đó dẫn đến tình trạng khi nhập sản phẩm về tới nơi thì thị trường không cần nữa, dẫn đến sản phẩm khó có thể bán được. Vì những lý do trên mà công tác tiêu thụ sản phẩm của công Nhật Quang còn nhiều hạn chế. Để có thể phát huy hơn nữa thế mạnh của mình thì vấn đề đặt ra là công ty phải làm sao đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao lợi nhuận. Muốn vậy công ty phải nghiên cứu tìm ra những giải pháp tối ưu bao gồm tổng hợp nhiều mặt kinh tế, tài chính, quản lý và vận dụng sao cho có hiệu quả trong công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. Chương III: Phương hướng biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty Nhật Quang Qua quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang ta thấy: Từ khi thành lập đến nay tuy là một công ty trách nhiệm hữu hạn còn non trẻ nhưng về quản kinh doanh không ngừng lớn mạnh về mọi mặt kết qủa kinh doanh tốt nâng cao đời sống người lao động, tạo uy tín trên thương trường và có những thành công bước đầu rất đáng kể. Công tác quản lý nói chung và công tác kế toán nói riêng đã không ngừng củng cố và hoàn thiện, thực sự trở thành công cụ đắc lực trong quản lý kinh tế và kế toán kinh doanh của công ty, đặc biệt góp phần không nhỏ vào việc khẳng định vị trí của công ty trong nền kinh tế. Định hướng trong tương lai của công ty là tiếp tục phát triển và đổi mới cơ chế quản lý, chú trọng đầu tư chiều sâu, tổ chức lại một số bộ phận quản lý, phát huy những ưu điểm mà công ty đã đạt được. Trong quá trình thực tập tại công ty Nhật Quang em đã phần nào hiểu được tình hình tổ chức công tác tiêu thụ của công ty. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty, em xin được đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. 1. Phấn đấu hạ giá bán để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay đã có nhiều công ty tham giá vào lĩnh vực kinh doanh máy tính , điều này chứng tỏ nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng lên. Tuy nhiên công ty gặp phải rất nhiều đối thủ cạnh tranh trong nước như CMC, FPT ...Đó là chưa kể đến sự cạnh tranh ngay gắt từ các công ty máy tính nước ngoài như IBM, COMPAC..Đây là những công ty máy tính lâu năm có uy tín trên thị trường nên giá bán của họ bao giờ cũng thấp hơn giá bán của công ty. Vì vậy để có thể đứng vững trên thị trường, nhiệm vụ trứớc mắt đặt ra cho công ty hiện nay là làm sao để có thể hạ thấp giá bán. Để có thể hạ thấp giá bán sản phẩm công ty có thể sử dụng một số biện pháp như: giảm chi phí bán hàng, giảm chi phí quản lý doanh nghiệp. Giảm chi phí bán hàng: Hiện nay chi phí cho đội ngũ nhân viên bán hàng tại siêu là tương đối lớn, bởi công ty kinh doanh nhiều mặt hàng mà mỗi mặt hàng lại có đến 4, 5 nhân viên bán hàng, với số lượng nhân viên này tương đối nhiều dẫn đến chi phí bán trong năm 2000 lên tới 1.535.870.905 VNĐ. Là một công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh máy tính, quy mô kinh doanh gọn nhẹ chỉ ở siêu thị, công ty nên áp dụng phương thức bán hàng tiên tiến đó là khách hàng đến mua hàng sau khi xem xét hàng kỹ và có sự hướng dẫn của 1 nhân viên về mặt hàng đó thì khách hàng mang hàng hoá đến quầy thu tiền để viết hoá đơn thanh toán. Như thế sẽ giảm được phần nào số nhân viên phục vụ trong khâu bán hàng mà lại rất nhanh gọn giúp cho kế toán tại siêu thị thuận lợi và tập trung. Giảm chi phí quản lý doanh nghiệp: Trong năm 1999 công ty đã bỏ ra 262069800 đồng cho việc quản lý công ty, nhưng đến năm 2000 số chi phí quản lý này lại tăng lên 435077590 đồng chiếm 5,9% giá bán toàn bộ. Sở dĩ chi phí quản lý doanh nghiệp tăng lên, đó là do công ty đã tuyển thêm nhân viên quản lý siêu thị. Trong khi hoạt động kinh doanh của công ty ở siêu thị thì bộ phận quản lý lại ở địa điểm khác. Vì vậy thiết nghĩ rằng công ty nên sát nhập lại làm một vừa giảm được số lượng nhân viên trông giữ, vừa giảm được đội ngũ quản lý, nói một cách khác nếu sát nhập thì đội ngũ quản lý sẽ làm việc có hiệu quả hơn, giám sát được những công việc một cách tốt hơn. 2. Sử dụng đa dạng hoá các đòn bẩy kinh tế tài chính. - Chiết khấu thanh toán: Chiết khấu thanh toán là số tiền công ty giảm trừ cho khách hàng do khách hàng thanh toán tiền mua sản phẩm hàng hoá trứớc thời hạn thanh toán, số tiền này thường được công ty quy định rõ trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Việc áp dụng hình thức này sẽ hạn chế việc thanh toán chậm, nợ nần dây dưa , tỷ lệ chiết khấu đó phải được quy định sao cho thích hợp và phát huy hiệu quả của nó, nếu không áp dụng hình thức này thì sẽ còn tồn tại những khách hàng trả chậm, trong thời gian chờ đợi khách trả tiền công ty sẽ phải đi vay vốn để tiếp tục kinh doanh. Vì thế, công ty đưa ra các mức chiết khấu cho khách hàng để có thể thu được tiền hàng ngay vẫn còn có lợi hơn đợi khách hàng trả nợ số tiền hàng này. Tỷ lệ chiết khấu công ty có thể quyết định rõ ràng các mức như sau: Nếu khách hàng thanh toán tiền hàng ngay thì sẽ được hưởng chiết khấu là 3%. Nếu khách hàng thanh toán trong vòng 1 tháng sẽ được hưởng tỷ lệ chiết khấu là 2%. Nếu khách hàng thanh toán trong vòng từ 1 đến 3 tháng sẽ được hưởng khoản chiết khấu là 1%. Nếu sau 3 tháng khách hàng mới thanh toán thì không những không được hưởng chiết khấu mà còn phải chịu một khoản lãi tương đương với lãi suất ngân hàng trên số tiền chậm trả. Giảm giá bán hàng: Hiện nay nhiều công ty đã áp dụng hình thức giảm giá bán hàng cho khách hàng tiêu thụ số lượng sản phẩm lớn. Công ty cũng đã áp dụng hình thức này nhưng chưa đạt hiệu quả. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần thực hiện đối với từng khách hàng vào từng thời điểm cụ thể. Như đã nghiên cứu ở phần trước sản phẩm chủ yếu của công ty là máy in, máy tính, và máy chiếu... Những sản phẩm này tiêu thụ chủ yếu ở quý III và quý IV. Vì vậy trong quý I và quý II công ty muốn đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của mình thì công ty nên giảm giá bán xuống thấp hơn giá bán ở quý III và quý IV. Điều này sẽ giúp công ty tiêu thụ được hàng hoá mặc dù không đúng thời điểm tiêu thụ. Trong trường hợp giảm giá bán đối với khách hàng mua số lượng sản phẩm lớn công ty phải tính toán xem cần tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm để bù đắp các khoản chi phí. Muốn vậy công ty phải làm tốt công tác điều tra thăm dò thị trưòng, nắm chắc nhu cầu và sức mua của người tiêu dùng. Hiện nay việc áp dụng giảm giá bán hàng cho khách hàng tiêu thụ khối lượng sản phẩm lớn công ty chưa có mức chuẩn nhất định. Vì vậy công ty cần đặt ra mức tối thiểu sản phẩm tiêu thụ được hưởng giảm giá để thuận tiện cho việc sử dụng tránh tạo khe hở gian lận thương mại gây ra tình trạng lãng phí, thấy thoát tiêu cực trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Ngoài việc trích giảm một tỷ lệ nhất định tính trên tông rsố tiền thu được giá bán hàng công ty có thể áp dụng hình thức giảm giá bán thông qua việc vận chuyển hàng miễn phí hoặc thấp hơn so với các công ty vận chuyển khác hay công ty có thể hướng dẫn khách hàng sử dụng trương trình kế toán máy, truy cập Internet. Đây có thể là giải pháp hữu hiệu giúp công ty đẩy nhanh công tác tiêu thụ sản phẩm. - Hồi khấu cho khách hàng làm tôt công tác thanh toán: Quy mô kinh doanh của công ty không lớn nhưng muốn đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm thì đây được coi là một giải pháp mang tính khả thi đem lại hiệu quả cao. Để làm tốt công tác này thì hàng quý công ty lập bảng theo dõi tình hình thanh toán công nợ cho từng khách hàng qua đó vừa giám sát chặt chẽ quy trình thu tiền hàng, sử lý kịp thời những trường hợp nợ đến hạn trả, đồng thời đối chiếu lựa chọn ra những khách hàng làm tốt công tác tiêu thụ, những khách hàng tiêu thụ nhiều sản phẩm cho công ty thì được hưởng một khoản giảm trừ nhất định trên tổng số tiền khách hàng đã thanh toán trong kỳ áp dụng hồi khấu, sau đó nếu có điều kiện thuận lợi công ty tổ chức hội nghị khách hàng trong đó tuyên bố những khách hàng được hồi khấu nhằm động viên khách hàng thanh toán nhanh, nếu không công ty có thể chỉ gửi thông điệp báo trực tiếp đến khách hàng hay nhân dịp các ngày lễ, tết công ty nên áp dụng hình thức khuyến mại, quà tặng, tham gia trúng thưởng. ở một số công ty khác còn tiến hành quay thưởng có giá trị lớn, nhưng công ty Nhật Quang là một công ty còn mới mẻ nên quà tặng tuy nhỏ và gía trị thực chất không cao nhưng qua đó có thể quảng cáo sản phẩm cho công ty. Đây là một giải pháp hoàn toàn nằm trong tầm tay của công ty. 3. Quan tâm củng cố, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Mở rộng thị trường bao gồm mở rộng theo chiều sâu và chiều rộng. Mở rộng thị trường theo chiều rộng tức là công ty tạo ra những kế hoạch mới theo vùng địa lý. Mở rộng thị trường theo chiều sâu tức là thông qua việc phân đoạn, cắt lớp thị trường mà công ty thoả mãn nhu cầu của các tầng lớp dân cư. Làm tốt 2 công tác trên thì sản phẩm của công ty không chỉ tiêu thụ được ở thành phố Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, mà còn ở các tỉnh, thành phố khác. Trước khi tiến hành mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm công ty cần tiến hành công tác kiểm tra nghiên cứu thị trường và hoạt động của các đối thủ cạnh tranh... qua đó công ty có thể tổ chức tiêu thụ theo phương châm bán những gì thị trường cần chứ không bán những gì mà công ty có. Trong thời gian qua ở công ty Nhật Quang, công tác điều tra thì trường đã có nhưng chưa được mở rộng. Điều đó cũng là lời lý giải cho nguyên nhân tiêu thụ sản phẩm của công ty tuy tăng nhưng chưa cao. Điều kiện kinh doanh ngày càng đòi hỏi phải cạnh tranh gay gắt trong cùng ngành kinh doanh máy tính , do vậy trong thời gian tới công ty Nhật Quang cần có hướng điều tra và mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trước hết công ty phải xác định đây là một hoạt động cần thiết và thông qua đó để lắm bắt được chính xác sức tiêu thụ, thị hiếu người tiêu dùng và sự thay đổi thế hệ máy ... bước đầu cồg ty xây dựng một đội ngũ cán bộ với số lượng không cần quá đông nhưng yêu cầu phải năng động, sáng tạo, làm nhiệm vụ marketing giỏi, thu nhập phân tích, tổng hợp thị trường. Muốn vậy công ty cần trang bị cho các phòng ban nhất là bộ phận kinh doanh những phương tiện thông tin liên lạc như điện thoại, fax, máy tính... Công ty mới hoạt động trong thời gian ngắn, trong lĩnh vực máy tính, máy in và máy chiếu... cho nên công ty cần thăm dò thị trường trước khi đưa ra sản phẩm mới. Do vậy khi làm công tác điều tra nghiên cứu thị trường là việc rất cần thiết vì còn có các đối thủ cạnh tranh, trong thực tế những sản phẩm máy tính có uy tín bao giờ cũng chiếm lĩnh được những khu vực thị trường nhất định. Với lĩnh vực kinh doanh này đòi hỏi công ty phải có một thị trường kinh doanh rộng lớn có như vậy mới phát huy một cách hợp lý, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. 4. Hoàn thiện công tác tài chính bán hàng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cần phải nhận thấy rằng không phải bất cứ trường hợp nào mua bán trực tiếp giữa người bán và khách hàng đều có hiệu quả kinh tế cao, các phần tử trung gian trong kênh phân phối bao gồm: người môi giới, người mua buôn, mua lẻ có ý nghĩa rất quan trọng, làm giảm bớt các quan hệ đầu mối, đẩy nhanh lưu thông hàng hoá của công ty, tham gia phân chia chuyện rủi ro trên thị trường. Hiện nay, thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty đặt tại 2 thành phố lớn là thành phố Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh nhưng mới chỉ tập trung chủ yếu trên địa bàn thành phố Hà nội, trong thời gian tới công ty có thể mở thêm các đại lý ở những khu vực phụ cận và xây dựng đội ngũ cán bộ bán hàng có nghiệp vụ. Ngoài các đại lý, công ty còn tiến hành bán hàng cho những người chuyên mua buôn và mua lẻ sản phẩm của công ty. Với đối tuợng mua buôn thông thường công ty áp dụng hình thức khi nào tiêu thụ được thì mới trả tiền, đây là hình thức khuyến khích khách tiêu thụ sản phẩm, tuy nhiên với những đối tượng mua buôn thường xảy ra hiện tượng chậm thanh toán, dây dưa công nợ để chiếm dụng vốn của công ty. Vì vậy công ty cần đặt ra kỷ luật thanh toán chặt chẽ bằng cách hàng tháng yêu cầu khách hàng đến đối chiếu công nợ, lập biên bản xác nhận công nợ và yêu cầu thanh toán ngay số nợ quá hạn thì mới tiếp tục giao hàng mới. với những khách hàng nợ nần dây dưa không có lý do chính đáng hoặc nợ quá lâu có thể cắt bỏ hợp đồng tiếp theo hoặc phạt tiền và thu hồi lại sản phẩm của công ty. Do vậy muốn đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, công ty cần liên kết công tác kinh doanh với các đại lý kinh doanh nhằm tăng khối lượng hợp đồng tiêu thụ và góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản của công ty. 5. Xây dựng chiến lược quảng cáo tiết kiệm, hiệu quả. Quảng cáo là bộ phận truyền tin thương mại nhằm truyền đạt đến khách hàng những hiểu biết về hàng hoá, dịch vụ nhằm lôi cuốn sự chú ý, ý muốn thoả mãn nhu cầu dẫn đến quyết định mua hàng. Do vậy quảng cáo gới thiệu sản phẩm là biện pháp hữu hiệu đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, nhưng quảng cáo có rất nhiều cách đôi khi đòi hởi chi phí rất lớn. Vì vậy quảng cáo sao cho hiệu quả , tiết kiệm chi phí và mục đích cuối cùng là tạo ra nhiều lợi nhuận. Công ty Nhật Quang- Siêu thị máy tính Blue Sky là một công ty còn mới mẻ, công ty đã áp dụng hình thức quảng cáo trên báo Hà nội mới và trên mạng Internet. Đối với 2 hình thức quảng cáo này công ty đã chi ra một khoản tiền tương đối lớn, hơn thế nữa, ở nước ta chỉ là một nước đang phát triển nên hệ thống internet chưa được sử dụng rộng rãi, các tỉnh, thành phố lân cận biết đến sản phẩm của công ty. Để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, trong thời gian tới ngoài những biện pháp quảng cáo trên, công ty nên áp dụng hình thức quảng cáo trên vô tuyến, các tấm áp phích, tham gia hội trợ triển lãm trong nước hay phát các tờ rơi. Bên cạnh đó công ty nên quảng cáo mỗi khi có thế hệ máy mới ra đời, nhấn mạnh vào những chi tiết đổi mới để thu hút sự chú ý của khách hàng. Có thể nói việc phân tích đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang là rất cần thiết, qua đó công ty có thể đánh giá những mặt đạt được để tiếp tục phát huy và chỉ ra những mặt tồn tại, tìm nguyên nhân do đâu để rút ra những bài học kinh nghiệm và tìm kiếm những giải pháp tối ưu để nhanh chóng khắc phục những tồn tại đó. Nếu công ty làm tốt những việc này thì công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty sẽ đạt hiệu quả cao. Kết luận Trong quá trình kinh doanh của mỗi công ty thương mại thì tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng và là khâu quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty.Thực tế cho thấy đối với các công ty thương mại thì bên cạnh việc tổ chức tốt quá trình nhập sản phẩm thì phải tổ chức tốt cả công tác tiêu thụ sản phẩm, có như vậy thì quá trình hoạt động kinh doanh của công ty mới diễn ra nhịp nhàng, tạo điều kiện thuận lợi và đem lại hiệu quả cao. Để thực hiện tốt được công tác tiêu thụ sản phẩm, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay thì vấn đề đặt ra cho mỗi công ty là phải vận dụng đúng và kịp thời các biện pháp kinh tế tài chính nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Trong cuốn luận văn này, vận dụng những kiến thức đã học được trong nhà trường và thời gian thực tập tại công ty Nhật Quang en đã trình bày quan điểm tài chính doanh nghiệp về những vấn đề cơ bản trong công tác tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thương mại nói riêng . Em đã cố gắng tìm hiểu, phân tích đáng giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang trong năm qua, từ đó mạnh dạn đề xuất một số ý kiến về các giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang. Tuy còn nhiều hạn chế, xong em hy vọng rằng sự đóng góp nhỏ bé này sẽ giúp ích phần nào để công ty đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ngày càng có hiệu quả hơn. Cuối cùng em xin chân thành các thầy cô giáo trong bộ môn và trong nhà trường đã đóng góp công sức dậy dỗ em trong suất quá trình học tập tại nhà trường. Với lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng Văn Quỳnh đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành cuốn luận văn này. Em cũng xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo công ty Nhật Quang cùng toàn thể các anh chị trong phòng tài vụ, phòng kinh doanh, phòng dự án, xin cảm ơn các ban đồng học đã trao đổi, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đề tài này. Hà nội 03 - 2001 Mục lục Chương I: Tiêu thụ sản phẩm và sự cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp. I. Những vấn đề cơ bản về tiêu thụ sản phẩm . 1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm 2. Nội dung của doanh thu tiêu thụ sản phẩm. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm II. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và vai trò của tài chính trong việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. I. Sự cần thiết phải đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. 2. Vai trò của tài chính trong công việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Chương II:Tình hình tiêu thụ sản phẩm, phương hướng và biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty Nhật Quang I. Tình hình và đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty Nhật Quang 1.Sự ra đời và phát triển 2.Đặc điểm tổ chức quản lý kinh doanh ở công ty Nhật Quang II. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm của công ty Nhật Quang trong năm 2000 1.Công tác lập kế hoạch tiêu thụ phẩm 2.Tình hình tổ chức thực hiện kế hoach tiêu thụ sản phẩm năm 2000 của công ty Nhật Quang. 3. Kết quả đạt được trong công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2000 Chương III: Phương hướng biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm ở công ty Nhật Quang. 1.Phấn đấu hạ giá bán để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm 2.Sử dụng đa dạng hoá các đòn bẩy kinh tế tài chính. 3. Quan tâm củng cố mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. 4. Hoàn thiện công tác bán hàng. 5.Xây dựng chiến lược quảng cáo tiết kiệm, hiệu quả. Tài liệu tham khảo 1. Tài chính doanh nghiệp. Trường đại học quản lý kinh doanh Hà nội – 1998. 2. Phân tích hoạt động kinh tế. Trường đại học tài chính kế toán Hà nội – 1999 3. Quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp . Nguyễn pháp. NXB Nông nghiệp 1993. 4. Marketing: Chìa khoá vàng trong kinh doanh. Trần Xuân Kiên. NXB Thanh niên 1995. 5. Quản lý điều hành các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tập thể tác giả. NXB Thống kê 1994. 6. Những sai lầm trong quản lý kinh doanh Biên soạn PTS Trần Tất Hợp. NXB Thống kê 1994. 7. Quản trị kinh doanh. Trường đại học quản lý kinh doanh Hà nội - 1998

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4628.doc
Tài liệu liên quan