A. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống với tinh thần tương thân tương ái cùng xây dựng và bảo vệ đất nước trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều mang trong mình một sắc thái văn hóa riêng tạo nên những bản sắc văn hóa cùng góp chung vào một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, cùng nhau thực hiện Nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong việc “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Một trong những nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc Tây Nguyên là Rượu Cần- một giá trị văn hóa truyền thống đã tồn tại song hành cùng mảnh đất và con người Tây Nguyên từ xưa đến nay.
Rượu cần là nét văn hóa nội sinh độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên, ra đời và tồn tại trong suốt quá trình hình thành và phát triển của vùng đất và con người trong điều kiện tự nhiên đầy thử thách cho đến ngày nay uống Rượu Cần đã trở thành nét văn hóa đẹp, một phong cách sinh hoạt văn hóa mang bản sắc riêng. Thưởng thức Rượu Cần là một nét sinh hoạt văn hóa không thể thiếu của đời sống cũng như phản ánh sinh động văn hóa vật chất và tinh thần xưa và nay.
Nghiên cứu Rượu Cần là thực hiện việc tìm hiểu một giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống với những nét đặc trưng vốn có đồng thời xem xét Rượu Cần trong mối tương quan với đời sống con người, điều kiện tự nhiên, đời sống văn hóa, xã hội từ đó chúng ta có thể thấy được các bản sắc riêng giữa các tộc người đang sinh sống giữ vai trò là chủ thể văn hóa sáng tạo nên những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Muốn có được điều đó, chúng ta phải hiểu rõ thực trạng của văn hóa Rượu Cần trong đời sống hôm nay để từ đó có những kiến nghị, đề xuất giải pháp để giữ gìn một nét văn hóa đẹp không chỉ trong cộng đồng dân tộc Tây Nguyên mà cho cả kho tàng văn hóa dân gian của 54 dân tộc Việt Nam trong tình thân cố kết, giao lưu.
Đề tài góp phần nhỏ bé tìm hiểu về một nét văn hóa sinh động mà độc đáo của con người và vùng đất Tây Nguyên thông qua cách thưởng thức Rượu Cần- mang vẻ đẹp thuần khiết đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về người Mạ nói riêng và về Rượu Cần nói chung có các tác phẩm đáng chú ý như “Miền thượng Tây Nguyên” cuả Cửu Long Giang và Toan Ánh, “Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng” Mạc Đường chủ biên, “Vài nét văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên- Lâm Đồng” do Sở văn hóa thông tin tỉnh Lâm Đồng xuất bản năm 2005 và sách “ Văn hóa và xã hội con người Tây Nguyên” do Nguyễn Tấn Đắc đươc viện KHXH & NV và viên KHXH vùng Nam bộ xuất bản năm 2005.
Ngoài ra những năm gần đây còn có một số khóa luận, đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa Lịch sử, Việt Nam học ở các trương Đại học trong cả nước nghiên cứu lịch sử văn hóa được chứa đựng trong lớp trầm tích thời gian cuả vùng đất Tây Nguyên, đặc biệt là Rượu Cần- thức uống không thể thiếu của các dân tộc, nét tinh hoa văn hóa được lưu truyền qua hàng nghìn năm. Bên cạnh những bài viết liên quan đến đời sống của người Mạ như “ lịch sử kinh tế xã hội- sinh hoạt cộng đồng” còn có các tác phẩm, bài viết, công trình khoa học: được đăng tải trên các tạp chí Dân tộc học. Những bài viết chỉ tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu văn hóa của các dân tộc Tây Nguyên nhưng chưa có một nghiên cứu nào thật sự đề cập đến Rượu Cần ở góc độ văn hóa
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài “ Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần” là đề tài mang tính khái quát cao tập trung trung chủ yếu vào văn hóa uống Rượu Cần cuả Tây Nguyên - vùng đất mang bề dày văn hóa trong quá trình hình thành các tộc người định cư, sinh sống và sáng tạo nên những giá trị văn hóa tồn tai đến ngày nay. Rượu Cần
4. Phương pháp nghiên cứu
“Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua Rượu Cần” là đề tài nghiên cứu có tính thực tế cao và cần phải có sự hệ thống, tổng hợp thông tin một cách chính xác nên trong quá trình nghiên cứu đòi hỏi nhiều phương pháp để có được kết quả đầy đủ, toàn diện nhằm làm rõ những vấn đề văn hóa của vùng đất và con người Tây Nguyên thông qua thức uống tồn tại hàng nghìn năm trong đời sống cộng đồng, một nét tinh hoa văn hóa của dân tộc- Rượu Cần.
Yêu cầu đầu tiên đối với bản thân tôi là phải có những nhận thức ban đầu về địa bàn nghiên cứu, thông tin về con người, cách thức sinh hoạt văn hóa trong lịch sử và hiên tại , các kiến thức về giao tiếp, ứng xử trong quá trình nghiên cứu. Bởi vậy, phương pháp thu thập thông tin qua các tài liệu, bài viết, công trình nghiên cứu là rất cần thiết, sau đó là quá trình điền dã khảo sát thực tế thu thập thông tin tại địa bàn nghiên cứu. Quá trình này đòi hỏi phương pháp phỏng vấn, quan sát cùng với việc hỗ trợ của các phương tiện máy chụp hình, máy ghi âm, máy quay, bản ghi chép nhanh để có được thông tin chính xác, hình ảnh chân thực và sinh động.
Ngoài phương pháp trên còn cần đến việc liên hệ chính quyền địa phương, được sự cho phép, đồng ý và sự giúp đỡ từ phía chính quyền và người dân. Sau quá trình tìm hiểu, quan sát và ghi chép cần sử dụng phương pháp liệt kê, so sánh, phân tích, tổng hợp các tư liệu có được đồng thời không thể quên 2 phương pháp cơ bản: lịch sử và logic.
Cuối cùng, sau khi có đầy đủ thông tin tư liệu cần thiết phục vụ đề tài tiến hành việc phân tích, tổng hợp đánh giá trên cơ sở đó đối chiếu so sánh nhằm thấy rõ sự thay đổi của Văn hóa uống Rượu Cần trong suốt quá trình truyền thống đến hiện đại. Trong tiến trình lịch đó, Rượu Cần đã trở thành một biểu tượng văn hóa hết sức đặc sắc của người dân Tây Nguyên. Rượu Cần là một thức uống chứa đựng tinh hoa của miền đất Tây Nguyên mang những nét đặc trưng riêng biệt. Thông qua phương pháp so sánh, tổng hợp để thấy được bản sắc văn hóa của vùng đất Tây Nguyên mang đậm nét cá tính.
MỤC LỤC
A. Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5.Bố cục 4
B. Nội dung 4
Chương I: Tổng quan sơ lược những khái niệm 4
1. Khái niệm văn hóa và bản sắc văn hóa 4
1.1.1 Khái niệm văn hóa 4
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa 4
1.2. Khái niệm ẩm thực và văn hóa ẩm thực 4
1.2.1. Khái niệm “ẩm thực” 4
1.2.2. Khái niệm văn hóa ẩm thực 5
2.1. Sơ lược về Tây Nguyên 7
2.1.1. Lich sử hình thành 7
2.1.2. Điều kiện tự nhiên 10
2.1.2.1. Điều kiện địa lý 10
2.1.2.2. Đất đai, thổ nhưỡng 11
2.1.2.3. Khí hậu 11
2.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư 11
2.1.3.1. Tình hình kinh tế - xã hội 11
2.1.3.2. Đời sống văn hóa và dân cư 12
Dân cư: 13
Chương III: Uống Rượu Cần- một nét văn hóa đặc sắc của Tây Nguyên 14
3.1. Giới thiệu về Rượu Cần 14
3.1.1. Khái niệm Rượu Cần 14
3.1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của Rượu Cần 15
3.2. Quá trình làm rượu 16
3.2.1. Nguyên liệu 16
3.2.2. Quy trình làm men 17
3.2.3. Những kiêng kị trong quá trình làm rượu 19
3.2.4. Phương thức ủ rượu và lưu giữ. 20
3.3. Uống Rượu Cần- một nét văn hóa đẹp của Tây Nguyên 22
3.3.1.2. Cách thức uống Rượu Cần 24
3.4. Rượu Cần trong đời sống văn hóa của người dân Tây Nguyên 25
3.4.1. Văn hóa uống Rượu Cần trong giao tiếp - ứng xử 25
3.4.2. Văn hóa uống Rượu Cần đối với đời sống tâm linh. 31
3.4.3. Văn hóa uống Rượu Cần đối với đời sống cộng đồng. 34
3.5.1. Những biến đổi cơ bản 38
3.5.2. Nguyên nhân và giải pháp 39
C. Kết luận 43
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2075 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu bản sắc văn hóa Tây Nguyên qua rượu cần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lâu, gắn liền với lịch sử, văn hóa của tộc người Tây Nguyên . Và nó không chỉ là một trong những nét đặc trưng nghệ thuật ẩm thực (uống) rất riêng và độc đáo của người Tây Nguyên mà Rượu Cần là một thứ đồ uống quý dùng trong các lễ tế thần linh, những ngày hội làng và những dịp tiếp khách. Rượu cần qúy bởi lẽ đây là thứ thừc uống do thần( Yàng) bày cho cách làm hơn nữa nó được làm khá công phu từ chất liệu lương thực ( cơm gạo). Thứ sản phẩm nuôi sống con người.
Đối với người Tây Nguyên , trước năm 1975, hầu như gia đình nào cũng làm Rượu Cần và nó phổ biến trong đời sống hàng ngày của đồng bào.Từ sau ngày giải phóng, cùng với những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, quá trình chuyển đổi từ lối sống du canh du cư sang lối sống định canh và phương thức canh tác lúa rẫy bị thu hẹp khiến Rượu Cần cũng có phần thu hẹp hơn trước về chế biến và sử dụng. Thay vì chế biến thường xuyên như trước đây, Rượu Cần chỉ được bà con làm vào dịp lễ hội của làng, các dịp tiếp khách quan trọng ( đoàn thăm quan, nghiên cứu tù miền xuôi lên) hoặc làm để bán khi có người đến đặt mua. Mặc dù vậy vị trí và tầm quan trọng của Rượu cần trong đời sống cộng đồng người Tây Nguyên không hề bị mai một. Những nét nguyên liệu độc đáo trong nguyên liệu, cách thức chế biến nhất, là các nghi thức uống vẫn được bà con giữ gìn đến tận ngày nay. Trong tiến trình lịch sử của cư dân Tây Nguyên, chính Rượu Cần đã tạo nên một nét văn hóa độc đáo của tộc người – văn hóa Rượu Cần – một phần tạo nên sắc thái văn hóa Việt Nam.
3.2. Quá trình làm rượu
3.2.1. Nguyên liệu
Nguyên liệu làm Rượu Cần chủ yếu là những loại ngũ cốc thông dụng như gạo nếp, gạo tẻ, ngô (bắp), sắn ( mỳ)…Tùy theo điều kiện kinh tế từng gia đình và thói quen của từng vùng miền, từng dân tộc. Mỗi loại cho một hương vị ngọt ngào riêng. Đối với người Tây Nguyên thì nguyên liệu được ưa chuộng và phổ biến nhất là gạo tẻ. Họ cho rằng làm rượu với sắn hoặc ngô thì rượu bị đắng, rất khó uống và khi uống vào dễ gây đau đầu ảnh hưởng đến sức khỏe. Nguyên liệu chính có thể tương đối giống nhau giữa các tộc người, song bí quyết chính là ở chất gây men. Chất gây men chủ yếu là rễ cây, vỏ cây và lá rừng, nhưng mỗi vùng miền, mỗi tộc người lại sử dụng loại cây không giống nhau. Nếu như nguyên liệu làm men của người Cơho, Gia Rai gồm có gạo, cùng với vỏ cây “hiam” lấy ở trong rừng cùng bột ớt, gừng, riềng…; người Êđê dùng gạo với hoa, lá, rễ cây dong rửa sạch cùng riềng gừng… Thì nguyên liệu làm men của người Mạ có phần đơn giản hơn gồm gạo và một số loại vỏ hoặc lá cây rừng. Các loại lá rừng thường dùng là lá cây Gàng (hình bên), lá cây Zung, lá cây Vlân( một loại cà của người Mạ), lá mít…Tuy nhiên loại lá phổ biến nhất là lá Gàng. Người ta cũng có thể dùng vỏ hoặc lá cây “Ktờram” nhưng loại vỏ cây này rất đắng nên ki dùng phải ủ lâu hơn( thường từ 6 tháng đến 1 năm) và thường dùng cho các loại ché lớn vào các dịp lễ hội quan trọng của buôn làng
3.2.2. Quy trình làm men
Quy trình
làm men
Chuẩn bị nguyên liệu
Sơ chế nguyên liệu
Trộn, chế biến
Phơi khô
Sấy khô
Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu: gạo + lá cây hoặc vỏ cây, người Tây Nguyên bắt đầu công việc làm men: Gạo được ngâm vào nước lạnh từ 3 – 4 tiếng đồng hồ cho nó mềm sau đó vớt ra, để ráo nước. Lấy lá cây hoặc vỏ cây rửa sạch phơi khô ( có thể làm lá tươi hoặc lá khô), bỏ vào cối giá chung với gạo thành một thứ bột mịn, trộn với nước nặn thành từng bánh. Có thể dùng chén làm khuôn, cho hỗn hợp bột men vào chén, nặn chặn sau đó lật úp chén đổ men ra, dùng que tạo thành một đường lỗ ở giữa rồi đem những những miếng bánh này ra phơi nắng . Khi các miếng bánh men này khô cứng lại, lấy dây xâu lỗ và treo trên giá bếp để sấy khô. Men có thể dùng liền và cũng có thể để giành từ từ nhưng thời gian để không được quá lâu (3 – 5 tháng), nếu thời gian quá dài men sẽ bị chua không làm rượu được nữa. Người Mạ có thói quen làm men một một lần, do đó một lần men có thể làm được nhiều ché rượu cần. Khi hết số men trên giá bếp thì lại làm tiếp đợt sau.
Nhiều người cũng đã thưởng thức rượu cần Tây Nguyên, nhưng ít ai biết đến thứ "nguyên liệu chính hiệu" để làm nên nó: Men rừng! Thứ "men" mà từ lâu như sợi chỉ dệt nên những tấm ui (phụ nữ thường làm xà rông) - tự nó lưu truyền đời này qua đời khác, gắn chặt với đời sống cộng đồng bà con bản địa và làm nên một loại "Thức uống tâm linh" của bản làng - rượu cần. Chính bởi men rượu là bí quyết để làm nên hương vị, phẩm chất của rượu, là xương cốt, hồn phách của rượu. Qua men rượu người ta có thể phân biệt được rượu của các tộc người khác nhau. Do đó công đoạn làm men có thể coi là công đoạn quan trọng nhất, những ché rượu bị hỏng (chua, đắng…) phần lớn là do men gây nên.
Chị Đường Dẫu Hà, ngụ tại Tà Nung (Đà Lạt), người có công khôi phục lại thương hiệu rượu cần của địa phương trước đây cho biết: "Để làm được một choé rượu cần phải trải qua rất nhiều công đoạn. Các loại gạo, nếp, sắn...nói chung ngũ cốc có tinh bột đều làm được rượu. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là tạo ra mùi hương". Để tạo nên mùi hương đặc trưng cho rượu cần, nhiều người sử dụng gần 30 vị thuốc như sa nhân, đinh hương, quế, thảo khấu... tạo ra hương vị cay, đắng, ngọt, thơm... Nhưng, đó vẫn mới chỉ là loại rượu cần thương phẩm. Muốn có một ché rượu cần ngon đúng nghĩa, theo đồng bào dân tộc Cil ở thôn Măngline (Đà Lạt) thì cần phải có loại men rừng. Nhưng loại men này không mấy người làm được.
Vào mùa xuân, khi cây atisô rừng bắt đầu ra hoa và cho nhựa..., những người làm rượu cần vào tận rừng sâu để tìm rễ và bông của loại cây này (đây là hương liệu chính của rượu cần) mang về phơi khô và giã thành bột để làm men (đồng bào K'Ho gọi là "dòng"). Anh Păng Til Mút cho biết: "Đây là loại men có tính độc mà đồng bào còn gọïi là "pơ ngai". Loại men này có thể gây chết người ở liều lượng cao. Tuy nhiên, ở liều lượng nhỏ, nó chỉ làm cho tâm hồn ngất ngây mà thôi. Kế đến lấy bột men trộn đều với cơm gạo, nếp hoặc bắp..., sau đó giã thành bột và tạo thành những "vú men" cỡ như cái chén đem hong trên bếp lửa và sau một thời gian ngắn sẽ hoá thành men có màu trắng đục. Đây mới chính là loại men rừng dùng để làm rượu cần đúng nghĩa.
Điều đặc biệt, việc làm rượu cần còn phụ thuộc rất nhiều vào những chiếc choé. Choé càng cổ rượu càng ngon vì ruột những chiếc choé cổ không tráng men dễ dàng để cho men rượu bám và lên men. Theo đồng bào dân tộc bản địa ở đây, để cho "ra lò" một choé rượu cần ngất ngây men rừng như vậy ít nhất phải mất 6 tháng. Khi đó, trị giá của ché rượu cần trở thành "vô giá"... Đó cũng chính là niềm vinh hạnh của người được mời thưởng thức những ché rượu này, nhưng nghịch lý của loại rượu chính hiệu này lại không "sống" được bên cạnh những ché rượu cần thương phẩm.
3.2.3. Những kiêng kị trong quá trình làm rượu
Theo quan niệm của người dân bản địa Tây Nguyên, rượu cần là nước uống của thần linh, nên ngoài giá trị vật chất đơn thuần, còn mang giá trị tinh thần tâm linh của con người. Chính vì thế mà quá trình sản xuất cũng như đưa ra sử dụng rượu cần, người ta tuân thủ rất ngiêm ngặt nhưng điều kiêng kỵ như:
+ Trong thời gian làm men và ủ rượu phải giữ cho thân thể sạch sẽ vợ chồng không được ngủ chung.
+ Không làm men rượu vào độ xoài trổ bông, lúa làm đồng.
+ Phụ nữ mang thai không được làm men hoặc đến gần nơi để ché rượu.
+ Khi giã men tất cả các thành viên trong gia đình không được lên rừng, đi đâu xa hoặc đi qua buôn khác.
+ Một người bất kỳ khi đến nhà nào đó thì phải vào giã cùng tuyệt đối không gây vỡ ché, gẫy cần trong khi làm và uống rượu. Nhà có người chết do bệnh tật( chết tốt) kiêng một tuần không được làm rượu cần. Nhà có người chết do tai nạn: chết đuối tự tử…(chết xấu) kiêng ba năm không được làm Rượu Cần. Người mang thai, người chưa mãn tang khi đến nhà mà nhà đó đang giã men thì lần làm men này bỏ đi, không làm nữa. Người ta quan niệm chưa mãn tang là chưa trong sạch, còn mang trong mình nhiều gánh nặng (chưa cúng Yàng).
Hiện nay, tuy Rượu Cần vẫn được người ở các địa phương làm thường xuyên nhưng các quy định trong việc làm rượu đã được giản ước đi rất nhiều, những điều kiêng kỵ đã hoàn toàn bị xóa bỏ. Đây là một điểm tiến bộ trong văn hoá người Tây Nguyên nói chung và văn hóa Rượu Cần nói riêng.
3.2.4. Phương thức ủ rượu và lưu giữ.
Sau khi đã có men người ta tiến hành làm rượu. Quy trình và cách thức làm rượu giữa các dân tộc Tây Nguyên tương đối giống nhau và cũng có những nét gần gũi với cách làm rượu của người Kinh.
Gạo (sắn, ngô) nấu chín, rải ra nong (nia) cho nguội; men giã nhỏ rắc lên cơm, cộng thêm ít trấu trộn đều. Sau đó cho hỗn hợp vào ché, ở đây ché có lót một lớp trấu có tác dụng ngăn bã rượu chảy vào cần khi uống, có thể hút dễ dàng. Vừa giữ nhiệt vừa là bộ lọc khi uống.
Quá trình ủ rượu được đánh dấu từ khi dồn hỗn hợp: men + gạo + trấu vào trong ché. Hỗn hợp không được dồn quá chặt, nhưng cũng không quá lỏng. Hỗn hợp chiếm 2/3 dung tích ché, bỏ một lớp trấu mỏng trên hỗn hợp. Sau đó tráng một lớp hỗn hợp tro bếp trên miệng ché rồi đặt vào nhà chỗ dâm mát hoặc chôn xuống đất. Ngày nay đồng bào dùng lá rừng hoặc ni lông đậy kín miệng ché lại.
Ché (chum, hũ, bình chóe, ghè): Được làm bằng đất, tráng men sành sứ với nhiều hình ảnh, họa tiết mang dáng vẻ của từng dân tộc. Là vật để đựng toàn bộ nghiên liệu đã ủ men. Có rất nhiều loại ché khác nhau: ché 4, ché 8, ché 20 người uống…( ché 2kg, ché 3kg ché 5kg…). Rượu Cần như là thứ tài sản quý của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, bởi thế cùng với cồng chiêng, qua số luợng ché trong nhà có thể đoán định nhà này giàu hay nghèo. Ché quý là loại ché dược chế tạo có pha đồng đen trong đất làm ché. Một cái ché có nhiều đồng đen, nhiều hoa văn được coi là loại ché quý. Tuy nhiên, đồng bào Tây Nguyên không tự chế tạo ra ché đựơc mà ngày xưa họ phải gùi lúa gạo đến Phan Thiết nơi vùng có người Chăm sinh sống để đổi lấy ché và muối; hoặc làm công lao động cho họ để đổi lấy ché. Cho nên ché còn là thứ tài sản vô giá của mỗi gia đình được cất giữ từ đời này qua đời khác, một loại lễ vật không thể thiếu của người Mạ.
Trước khi đem ra ủ rượu, ché phải được khử trùng. Người Mạ khử trùng ché bằng cách nấu nước sôi với sả hoặc lá bưởi (lá cam, quýt), rửa sạch trong và ngoài ché, dốc hết nước sau đó đem phơi nắng cho thật khô rồi mới cho hỗn hợp( cơm + trấu + men) vào ủ.
Thời gian ủ rượu có thể kéo dài, thời gian ủ càng lâu, càng ngấm thì rượu càng ngon. Người Mạ thường uống rượu sau một tháng ủ, nếu muốn rượu ngon hơn thì phải đợi 2 – 3 tháng sau khi ủ mới mang ra dùng. Khi trên miệng ché xuất hiện những con tu lú( bọ nhỏ có cánh bay), sờ vào ché thấy ấm, trên lớp đậy miệng ché có hơi nước, mở ra dậy mùi thơm là dấu hiệu chứng tỏ rượu đã có thể dùng được. Rượu gạo thì để càng lâu càng ngon; còn rượu bắp, rượu này để lâu dễ bị chua, nếu uống sớm quá rượu chưa ngấm sẽ có vị đắng, ít ngon. Do đó phải tính thời gian cho phù hợp, rượu vừa đủ ngấm là đem ra sử dụng, như thế rượu mới ngon. Những ché rượu làm bằng vỏ cây đắng( cây Ktơnam) có thể phải ủ đến sáu tháng mới dùng được.
Đặc tính: Rượu Cần không chỉ khác với các loại rượu khác ở “công đoạn hút” mà nó còn có những đặc tính riêng dễ nhận biết. Đây là thứ thức uống có độ cồn nhưng không phải chưng cất bằng nhiệt như rượu đế của người Kinh, là sản phẩm lên men rượu nhưng không có hơi ga. Nước cốt có màu vàng sánh (vàng đặc) như mật, mùi thơm dịu đặc trưng. Vị ngọt không cay không đắng và đặc biệt là nồng độ cồn không cao như các loại rượu khác
3.3. Uống Rượu Cần- một nét văn hóa đẹp của Tây Nguyên
3.3.1.Văn hóa uống Rượu Cần
Ở Tây Nguyên, dù nhà rông của làng hay là nhà sàn của từng gia đình, luôn luôn có một cây cọc uống rượu. Cọc uống rượu của gia đình thường chỉ nhô lên mặt sàn chừng 1 mét, nhưng ở nhà rông thì cao vút đến tận nóc, trên đầu cây có hoa văn trang trí, tua ren hoa lá sặc sỡ. Khi uống rượu, chủ nhà đem chóe buộc vào cọc, mở nắp bỏ lớp lá đậy trên miệng, đổ đầy nước, để chừng 1 giờ đồng hồ cho rượu ngấm. Nước múc ở những con suối trong veo, đựng trong những trái bầu khô, vỏ lên nước đen bóng, như gỗ mun. Cần uống rượu là những đoạn trúc được thông ruột, dài chừng một mét.
Uống rượu cần có những nghi lễ độc đáo. Chủ nhà mở chóe rượu và đọc lời cầu khấn Giàng đem lại sức khỏe, may mắn cho khách. Sau đó chủ nhà nếm trước một ngụm nhỏ rồi nâng cần trao cho khách. Bạn nên đỡ lấy cần bằng hai tay, tay trái đặt lên đầu cần, tay phải cầm phần thân cần, sát miệng chóe, nhẹ nhàng vuốt dọc lên rồi uống. Chủ nhà sẽ thân chinh hoặc cử một người, thường là những thiếu nữ mặc váy thổ cẩm thêu hoa văn xinh đẹp, cầm ca tiếp nước vào chóe.
Mời rượu cần theo lối bình dân như sau:
Láu càm xà pá túng mời dơ dấc...
Khát pài túng, khói son mời nưa.
Mời một tềnh - khát một khói nhăng mời
Mời sam tếnh - khát sam khói nhăng mời...
(Mời đến mười sừng là kết thúc bằng câu:
Khát...khói so háp búa
Tạm dịch nghĩa:
Rượu cần ngon gia chủ xin kính mời...
Dưới làn dưới xin mời làn trên
Mời một sừng đã dứt - xin mời lần nữa
Mời hai sừng đã dứt - xin mời lần ba
Người Tây Nguyên uống rượu rất công bằng, cách rót nước như vậy gọi là đong “kang”. Khi rót hết nước trong ca, nghĩa là khách đã uống hết phần rượu. Cách đong kang này còn biểu lộ sự quý mến và tận tình của chủ nhà dành cho khách. Cách thứ hai để công bằng về lượng rượu cho mỗi người, chủ nhà dùng một cành cây gác ngang miệng chóe, có nhánh cắm xuống mặt nước một đoạn chừng một phân. Khi người uống hút rượu, mực nước thấp xuống, đến đoạn đầu nhánh cây là đủ phần mình. Người Tây Nguyên mời rượu tinh tế lắm, dù cho bạn có tửu lượng kém đến đâu cũng không thể từ chối uống một kang, nhất là khi các cô gái Tây Nguyên đã cầm sẵn ca nước trong tay, mắt nhìn khách chân thành và tha thiết. Bạn sẽ không lo lắng sợ chủ nhà cho là bê tha và thiếu lịch sự dù có uống say đến ngã lăn quay ra sàn. Trái lại chủ nhà sẽ rất thích thú và quý bạn hơn vì cho rằng như vậy là bạn rất chân thành với họ.
Cái say của rượu cần không giống cái say của bất cứ loại rượu bia nào. Chất men thơm nồng làm cho du khách lâng lâng ngây ngất, và kỳ lạ là dẫu say nhưng vẫn cứ uống được mãi. Bởi tiếng cồng chiêng ngân vang giữa cái nắng, cái gió bao la của Tây Nguyên đại ngàn, hay ánh lửa bập bùng trong bóng đêm hoang sơ của núi rừng sẽ khiến cho du khách không làm sao say khướt.
3.3.1.2. Cách thức uống Rượu Cần
Rượu Cần uống ngay trong ché không phải chưng cất hay chắt lọc gì nữa nhưng để uống Rượu Cần phải có sự chuẩn bị. Trước khi vào cuộc người ta buộc ché (ghè) Rượu Cần vào cột nhà rửa sạch cần và chuẩn bị bầu nước sạch. Trong văn hóa các dân tộc Tây Nguyên nói chung người Mạ nói riêng, dù nhà rông của làng hay nhà sàn dài của từng gia đình, luôn có một cây cọc uống rượu nhô lên mặt sàn chừng 1,5 mét. Trong những lễ hội lớn của làng, người ta thường dựng cây cột ở một bãi đất trống bằng phẳng, trên đầu cột có hoa văn trang trí, tua sen hao lá sặc sỡ. Khi uống rượu, chủ nhà (gia đình) hoặc già làng (cộng đồng) đem ché Rượu Cần buộc xung quanh cọc hoặc theo hàng ngang tùy theo không gian rộng hay hẹp và tùy theo tính chất của buổi uống rượu. Mở miệng ché, lót vào một lớp lá khô hoặc lá tươi, có thể là lá chuối, cũng có thể là lá cà phê tươi. Mục đích của việc lót lá là để khi đổ nước vào ché không nổi lên và bã rượu không bị tràn lên miệng ché. Đồng thời tạo lên một khoảng trống từ cổ đến miệng ché, khoảng trống này là cữ cho người uống. Một cữ khoảng 1/4 lít nước, uống hết một cữ là phải tiếp thêm nước.
Sau khi lót lá, chủ nhà hoặc già làng sẽ đổ đầy nước vào ché, nước châm vào ché có thể là nước suối hoặc nước giếng, nước mưa tùy điều kiện – uống rượu là uống vào cơ thể chúng ta cái chất lên men, tạo hưng phấn do tính chất kích thích hệ thần kinh, nhưng cũng có nghĩa là uống nước. Nước có thể không sạch nhưng chính rễ, lá, vỏ… cây làm men thực chất là các vị thuốc có tính chất khử trùng, diệt khuẩn, đã trung hòa theo quy luật tự nhiên. Vì thế hiếm khi người uống Rượu Cần bị đau bụng dù nước không hoàn toàn tiệt trùng. Đổ nước trước khi uổng khoảng 30 phút đến một tiếng để rượu ngấm.
Sau khi đổ đầy nước người ta cắm cần xuyên qua lá xuống tận đáy ché, xoay nhẹ cần rượu một vài vòng (ngăn trấu không lọt vào các khe của cần rượu). Nước rượu cốt cơ bản vẫn nằm ở đáy ché, hút rượu theo cần vào để uống, nước lá từ phía trên theo lực hút của người uống mà ngấm dần xuống đáy, làm cho rượu nhạt dần cho đến khi cơ bản chỉ còn là nuớc lã. Trong cùng một ché (ghè) nhưng có chỗ ngon hoặc chua, nhạt….Vì vậy nếu không ưng ý thì có thể rút cần lên và cắm xuống chỗ khác ngon hơn. Cắm cần vào ché sao cho vừa tầm người uống và cần không bị tắc, đó cũng là cái khéo của người cắm cần.
3.4. Rượu Cần trong đời sống văn hóa của người dân Tây Nguyên
3.4.1. Văn hóa uống Rượu Cần trong giao tiếp - ứng xử
Cũng như uống rượu đế ở miền xuôi, nếu theo cung cách chính thống, nguyên tắc uống Rượu Cần cũng không kém phần độc độc đáo, mang nét văn hóa giao tiếp đặc sắc, đặc biệt là khi tiếp khách và trong lễ kết bạn.
Sau lễ rách Yàng, chủ nhà (chủ lễ) là người uống trước. Đó cũng có thể là dấu hiệu cho biết rượu không độc. Sau khi chủ nhà uống đến lựợt những người có mặt từ già đến trẻ, trai gái đều uống một cách tự nhiên. Nếu trong cuộc rượu đó có khách, thì sau khi uống chủ nhà sẽ đưa cần mời khách thể hiện lòng mến khách của gia chủ. Khi được mời rượu khách phải đón nhận cần bằng tay phải hoặc hai tay, vì đối với đồng bào Mạ cầm bằng tay trái là tỏ ý khinh họ. Lúc nhận lời uống thì phải uống thật lòng, nếu người chủ uống một đơn vị (người Mạ gọi là Cò), người được mời cũng uống như vậy. Khi uống chủ nhà thường nhìn thẳng vào mặt khách để xem thử khách có thật tình không và cũng nhằm bày tỏ sự tôn trọng, mối thiện cảm. Cho nên dù không quen uống rượu cần thì đã ngậm cần là phải uống, đến một lúc nào đó có thể xin phép chủ nhân trả lời cần.
Khi uống rượu người uống có thể vừa uống từng mụm nhỏ vừa trò chuyện ( bao lâu cũng đuợc) nhưng không đựợc rời tay khỏi cần rượu trừng nào chưa uống xong phần rượu của mình.
Khi uống xong phần rượu của mình, dùng một ngón tay bịt đầu cần và chuyển cần cho người khác (có thể là người bên cạnh, cũng có thể là người mình muốn mời). Cứ như thế trong suốt cuộc uống rượu, chiếc cần chỉ được phép chuyển từ tay này sang tay khác, mà không được để rời ra. Nếu ai đó vô tình buông cần thì đuợc coi là thất lễ với chủ nhà. Trong một số trường hợp khi cắm cần vào ché cần phải thận trọng vì nếu vô tình cắm lộn đầu dễ bị hiểu lầm là hành động khiêu khích khinh rẻ chủ nhà và có khi sảy ra xô sát giữa chủ với nguời khách đó với chủ. Từ cách nhận cần, cách cầm cần, tư thế ngồi cho đến việc vành môi vào cần cũng phải chú ý: ngồi làm sao trông hướng vừa để mọi người thưởng thức chứng kiến sự hiện diện và điệu nghệ của mình vừa tiện cho người phục vụ ( châm nước).
Người Tây Nguyên nói chung, người Mạ nói riêng qua cách uống Rượu Cần cũng thể hiện rõ quan niệm về sự bình đẳng và công bằng, mỗi phần rượu được gọi là một đơn vị. Đơn vị đo rất linh hoạt, ngày xưa là một ống bầu, một sừng trâu…Ngày nay có thể dùng ly, trai ,ca… Một đơn vị khoảng ¼ - 1/3 lít nuớc (mộ Cò). Người này uống, chủ nhà ( hoặc người được ủy nhiệm) châm nước. Người đó múc một đơn vị nước (nước suối, nuớc mưa, nước lọc….) rót vào ché. Uống đến khi trong ly ( bầu trai, ống) nuớc lã đó đổ đầy ché hoặc đỏ đến vạch quy định như lúc chưa uống là coi như người đó đã uống được một đơn vị rượu ( một cò). Cách thứ hai là để công bằng luợng rượu cho mỗi người, trước khi uống chủ nhà dùng một cành cây gác ngang miệng ché có nhánh cắm ngang lưng mặt nước chừng một chừng 1 cm (người Mạ có thang đo hình cung tên). Khi người uống hút rượu, mức nước thấp xuống đến đoạn đầu nhánh cây là đủ phần mình . Cách rót như vậy người ta gọi là đong, “Kang” hoặc gọi là một cữ. Người đồng bào mời rượu tinh tế lắm, dù cho bạn tửu lượng kém đến đâu cũng không thể từ chối uống một kang, nhất là khi các nàng sơn nữ cầm ca nước bưng sẵn trong tay nhìn khách với ánh mắt chân thành và tha thiết.
Tiếp Rượu: Thực chất là châm nước vào ché. Đây là công việc cả chủ nhà, con của chủ nhà hoặc người được ủy nhiệm. Một người khách quen, được quý trong như người trong buôn cũng có thể được mời tiếp nước cho khách và chủ. Trong nhiều cuộc vui, người tiếp rượu là các cô gái thôn nữ trong bộ trang phục truyền thống của mình, điều này làm cho du khách thêm phần hứng khởi và cuộc vui như kéo dài hơn, dư âm vang hơn. Phụ nữ cũng uống nhưng chỉ để khích lệ, động viên châm nuớc và quán xuyến những gì xảy ra trong cuộc cuộc vui buồn…Rượu Cần thường được uống từng đôi một nên người này uống người kia tiếp rượu và ngược lại. Thường thì mời nhau theo giới tính: trai tiếp trai, nữ mời nữ. Như thế vừa bình dị vừa không suồng sã. Nếu một người uống kém, hoặc uống nhiều bị say không làm chủ được mình thì hai người uống có thể uống chung một đơn vị (hay nhiều đơn vị) nếu vừa uống vùa hát thì vẫn một tay cầm cần rượu, uống hay tạm nghỉ lấy hơi thì hai tay vẫn phải giữ cần. Thông thường người Mạ ở Đạ tẻh, Lộc Bắc mỗi người uống một lượt một đơn vị, ở Lộc Lâm thì hai đơn vị một lượt vì người ta quan niệm: “người ta đi bằng hai chân mới vững” Cũng có những cuộc vui mà ở đó chủ nhà vừa là người tiếp rượu, mời rượu vừa là trọng tài trong cuộc vui. Một tay cầm chiếc sừng trâu rỗng thủng đáy để đong nước vào rượu, tay kia cầm ca (gáo) để múc nước tiếp vào sừng. Điệu hát thay lời chúc khách quý đến với buôn làng mạnh khỏe hạnh phúc; vừa hát vừa đong nuớc tịếp nước vào ché rượu. vị khách nào uống không kịp để rượu trào ra sẽ bị phạt bằng cách phải uống tiếp mấy “sừng” nữa trong tiếng vỗ tay tán thưởng của mọi người.
Ở cộng đồng người Mạ và người Cơho, chủ nhà thể hiện sự quý mến khách bằng cách ngồi trên vai, trên lưng khách theo giới, tay vồng ra phía trước bịt mũi để khách uống một hơi lượng rượu mời. Sau đó vừa uống vừa ca hát nhập vào vòng Xoang nhịp bước theo những cô thôn nữ. Rượu Cần thường được uống từng đôi nên khi nhập cuộc thường có mối giao hòa thân thiện lớn. Bạn sẽ không phãi lo lắng sợ chủ nhà cho rằng mình là bê tha và thiếu lịch sử dù có uống say ngã lăn ra sàn. Trái lại chủ nhà sẽ rất thích thú bạn và quý bạn hơn vì cho rằng như vậy bạn rất chân thành với họ.
Men Rượu Cần nhẹ, nhưng cũng tạo nên cảm giác say la đà rất dễ kích thích tâm trạng con người vui vẻ hòa đồng với nhau. Măc dù nồng độ thấp nhưng hút vài lần cho “thật bụng” thì cũng dễ ngả nghiêng. Cái say của Rượu Cần không giống cái say của bất cứ loại rượu bia nào. Chất men thơm nồng làm cho người uống lâng lâng ngây ngất. Và kỳ lạ là dẫu say nhưng vẫn cứ uống được mãi. Bởỉ tiếng cồng chiêng ngân vang giữa cái sắng đại ngàn, cái gió bao la của Tây nguyên đại ngàn, hay ánh lửa bập bùng trong bóng đêm hoang sơ của núi rừng sẽ khiến cho du khách không làm sao say khướt. Người ta thường hay nói đùa với nhau rằng: lên Tây Nguyên chưa say Rượu Cần coi như chưa đến Tây Nguyên… và quả thật đến với buôn làng Tây Nguyên, khi đã ôm cần khó mà không say được, khi cả buôn làng phiêu diêu trong tiếng cồng chiêng, rộn rã bên ánh lửa bập bùng và vòng Xoang say đắm của các thiếu nữ mời gọi. Nét văn hóa đặc sắc của Rượu Cần Tây Nguyên đã thật sự cuốn hút du khách gần xa, ai lên Tây Nguyên cũng muốn được một lần ôm cần thả hồn lâng lâng trong men lửa mang hương vị Tây Nguyên. Khi đó bạn sẽ cảm nhận được cả cảm giác lẫn vị giác tuyệt vời: Đôi mắt lung linh, đôi má ửng đỏ, tâm hồn lâng lâng cùng dư vị men Rượu Cần. Vị ngọt mát, nồng nàn rỉ ra từ vò rượu hòa vào trong nước chính là kết tinh hương vị của núi rừng, từ trong gạo và rễ (lá) Cây rừng.
Trong những cuộc vui dường như bất tận đó không chỉ có Rượu Cần, cồng chiêng và các điệu Xoang quyễn rủ mà còn có sự góp mặt của Các “thức nhắm” kèm theo Rượu Cần và cơm lam là hai thứ không thể thiếu trong các lễ hội của buôn làng. Cũng như uống Rượu Cần khách sẽ được chủ nhà mời ăn cơm lam đầu tiên . Ống cơm lam dành cho khách không phải là đoạn dài nhất, to nhất mà phải là đoạn được cô gái Tây Nguyên nướng khéo nhất, ngon nhất, nhìn vào màu trúc vẫn xanh tuơi. Dùng với Rượu Cần, cơm lam là thức nhắm, không có rượu, cơm lam thành luơng thực ăn no.
Cùng với cơm lam là đọt mây nướng. Thịt heo nướng thường là heo rừng hay thịt thú rừng đã được sấy khô trên dàn bếp và nếu trong ngày hội đâm trâu có thêm thịt trâu. Uống Rượu Cần nhiều là vào những ngày lễ hội rất ít khi người ta uống suông ( uống chay) mà ít nhất cũng phải có một ít đồ nhắm kèo theo…Bởi một cuộc rượu không chỉ diễn ra trong chốc lát mà có thể kéo dài suốt ngày suốt đêm ( thậm chí có những cuộc vui kéo dài mấy ngày liền như lễ hội mừng lúa mới 8 ngày 7 đêm) và từ trong cuộc vui ấy xung quanh ché rượu cần đã diễn ra bao điều lý thú. Những cuộc trò chuyện mang nét độc đáo của lối sinh hoạt văn hóa truyền thống, những kinh nghiệm làm ăn, những chuyện buồn vui của mỗi người đều được bày tỏ và chia sẻ, đồng cảm. Bao điệu nhạc đã nảy sinh từ cần rượu vuốt cong. Những khúc hát tập thể được ngân vang giữa núi rừng bạt ngàn xen lẫn trong đó tiếng vỗ tay tiếng nói chuyện vui tươi trong ánh lửa bập bùng và trong tiếng cồng chiêng vang vọng. Chất men của rượu hay tinh túy của núi rừng và sự thân thiện của con người đã làm cho con người cởi mở hòa đồng và tạo niềm cảm hứng để cho những lời thơ ý đẹp tuôn ra trong cảm xúc dâng trào:
“Anh ở bên này ghè rượuVít cần trúc cong cong thành một nửa bầu trờiThành một nửa trái tim mơ hồ gọiMột nửa còn bên ấyBạn tình ơi!Bên này trái tim, bên ấy trái timVòng ngực nổi cồn trên miệng chéRượu chảy về hai bên, men say còn ở giữa.Lửa phừng phừng bứt tuột áo nuk-kiar...Ơi chân trời lửa bên em sao mà xa ngái thếĐường gấp khúc trái tim sâu thăm thẳm đáy men nồng”.
Trong ánh nhìn tin tưởng, trìu mến xuyên qua ánh lửa bập bùng, bao mối tình trong sáng được ươm mầm. Khi men rượu đã thấm, tiếng cồng như vang xa hơn, tiếng chiêng dập dìu, vòng Xoang như xoẵn quyện, trai gái gần kề, anh sô khố dài, em khoe váy ngắn, những bắp chân tròn cọ xát…Đêm hội say nồng lúc này chỉ có trời và đất. Đối với những người lần đầu gặp mặt , đây là dịp để họ làm quen, tìm hiểu lẫn nhau, cuộc vui như xua đi cái khoảng cách giữa người với người làm cho họ xít lại gần nhau, trở thành những người thân thiết như đã có duyên từ kiếp trước. Đúng là “xưa kia ai biết ai đâu, vì chưng chén rựơu mở đầu làm quen” Còn đối với những người quen thân thì cuộc rượu là nơi họ thể hiện sự quan tâm chia sẻ lẫn nhau là nấc thang thăng tiến tình bằng hữu. Và để công khai hợp thức mối quan hệ họ có thể sử dụng tiệc rượu này làm lễ tổ chức lễ kết bạn. Chủ lễ có thể là già làng tộc trưởng mà cũng có thể là một trong hai ngừơi đứng ra đảm nhận. Khui ché Rượu Cần, trước đông đủ mọi người, một người đọc bài cúng thần: “Hỡi Yàng…. Tôi là… hiện nay sống ở…, đã gặp bạn tốt tên là…hiện nay sống ở…tôi và bạn muốn kết làm anh em, nguyện sống chết có nhau, coi nhau như ruột thịt. Các Yàng hãy đến chứng giám cho chúng tôi. Nếu sau này Hai người không sống tốt với nhau Yàng sẽ trị tội”. Họ cùng uống Rượu Cần và cùng nhau cất vang lời hát trong lễ kết bạn: “Tôi với bạn không cùng bố mẹ, nhưng đều muốn uống chung dòng nuớc con suối buôn tôi, ăn cùng hạt thóc trên rẫy của tôi. Chúng ta là bạn tốt của nhau như anh em một nhà giúp nhau làm rẫy, uống chung dòng nuớc, cùng sưởii ấm bên bếp lửa nhà dài”. Hai bên trao tín vật cho nhau vòng đồng, ché vỏ bầu hạt giống…” . Và như thế họ chính thức trở thành bạn bè anh em của nhau. Cuộc uống rượu vẫn tiếp diễn, vò Rượu Cần càng về cuối càng nhạt độ rượu nhưng lại càng phát triển sự hào hứng, tiếng cười, tiếng hát nhịp vỗ tay tán thưởng và tiếng hò reo phạt người uống ít. Có khi cạn nước thì thôi, nhưng cũng có khi bốc lửa, niềm vui dâng cao như cơn lũ rừng; nước lạ được tiếp thêm vào ché cho điên đảo du khách, cho nồng nàn trinh nữ, cho say sưa men người, cho tràn đầy hào hứng kỷ niệm. Về Tây Nguyên vào mùa lễ hội cùng với con trâu ,con gái buôn làng uống Rượu Cần, ăn cơm lam, thức trắng đêm với những vòng Xoang nhịp nhàng trong tiếng cồng chiêng ngân vang, nghe đưa dậy vọng về một thủa hoang sơ bài ca đi mở đất chinh phục núi rừng.
3.4.2. Văn hóa uống Rượu Cần đối với đời sống tâm linh.
Rượu Cần theo quan niệm của người Tây Nguyên là thứ nước uống do Yàng ban tặng, Yàng bày cho cách làm. Do đó đây là một lễ vật không thể thiếu trong các nghi lễ, mỗi khi cúng Yàng hoặc tế lễ thần linh phải có rượu cần thì lời cầu nguyện mới linh nghiệm. Và trước mỗi lần uống Rượu Cần ở gia đình hay cộng đồng, dù là tiếp khách hay lễ hội đều phải mời Yàng về uống cùng, đây là việc làm thể hiện nghĩa của con người đối với thần linh. Việc buộc những ché rượu xung quanh cột (cọc) khi uống ngoài mục đích để rượu không đổ còn mang một ý nghĩa thiêng liêng : đường để các Yàng uống rượu chung vui. Trước khi uống theo truyền thống bao giờ người Tây Nguyên cũng phải rách Yàng (cúng thần), xin Yàng về nhận nước rượu đầu tiên. Tùy theo từng nghi lễ cụ thể mà cách dâng rượu có phần khác nhau nhưng mục đích bao giờ cũng mong muốn đạt được ba ý chính: “thông báo dâng mời và cầu xin”. Nghi lễ rách Yàng thường do già làng (quảng bon) và chủ nhà (po hiu) đảm nhiệm, (trong đám cưới do cậu ruột hoặc người mai mối đảm nhiệm). Cùng với Rượu Cần là thứ không thể thiếu thì lễ vật để cúng còn có gà, vịt, dê, trâu (lấy máu tươi), bánh…tùy theo điều kiện kinh tế của từng gia đình, dòng họ hoặc buôn làng. Lúc ché rượu được khui ra con vật hiến tế đã cắt tiết chính là lúc người chủ tế dâng rượu mời Yàng: “Này rượu ngọt, này rượu ngon, này rượu lúa, này rượu bắp… xin các chư vị thần linh ngụ trên trời, lạy các chư vị thần linh ngụ trên cây, trên núi. Các chư vị cùng buôn làng chúng tôi uống chung Rượu Cần”. Tùy vào hoàn cảnh mỗi nghi lễ lại có những nghi lễ khác nhau.
Ngày xưa, khi tiến quân ra trận, bên cạnh ché rượu cần đã khui ra, già làng bắt đầu đọc lời khấn: “Hỡi thần núi, thần sông, hãy về đây nhận lễ phù hộ cho con trai, con gái người Tây Nguyên có cánh tay khỏe, con mắt biết nhìn xa, có cái đầu sáng để theo Bác Hồ đánh thắng giặc giữ lấy buôn làng ta, giữ cho cái khung dệt có nhiều thổ cẩm, giữ cho nhà ta luôn nhiều bắp và thóc gạo”.
“Hỡi Yàng con trai tôi đã đưa được vòng đồng vào cổ tay một cô gái trong buôn làng, cô gái ấy là con dâu tôi kể từ hôm nay. Cầu Yàng cho đôi vợ chồng nó có đôi chân, đôi tay mạnh khỏe để ngày ngày lên rẫy làm ra nhiều cái lúa cái bắp. Cầu cho vợ chồng nó có nhiều con…”. Đây là lời cúng của chủ tế trong lễ cưới của người Mạ (lúc đón dâu về).
Đặc biệt trong quá trình công tác rẫy còn gắn liền với nhiều lễ nghi nông nghiệp vơi những bài cúng khác nhau nhưng nét chung là tất cả các lễ nghi đó đều có mặt của Rượu Cần dù ít hay nhiều. Mở mở đầu bằng lễ xem đất, nhận đất (Nhô năng bri) và lễ phát rẫy (Nhô năng bar): “Hỡi Yàng, buôn làng chúng tôi cầu nguyện Yàng công nhận việc phát rẫy không gặp bất trắc,là công việc được Yàng cho phép ở kkhu đất này”. “Xin Yàng đừng trách tội chúng con, lỡ khi đốt rẫy có những thú rừng bị chết thui do không chạy kịp”. Tiếp theo là các lễ trừ sâu bệnh (Nhô ki ơp mas), lễ xin lúa chắc hạt ( Nhô bơ rơ nơm), xin lúa thu hoạch được nhiều (Nhô đồng): “Buôn làng chúng tôi, dòng họ chúng tôi, gia đình chúng tôi tạ ơn Yàng cho mưa thuận gió hòa. Xin Yàng đừng để cho kiến mối ăn hạt giống”. “Cầu Yàng cho lúa của chúng tôi không bị sâu bọ lúa phá, cầu cho lúa tốt, thóc về đầy kho”. “Cầu xin Yàng cho cái rẫy nhiều bông lúa, cho cái bông lúa thật nhiều hạt, cho buôn làng không có người nào bị đói dài cái bụng, tối cái đầu”. Nhưng nghi lễ lớn nhất trong năm là nghi lễ mừng lúa mới (Nhô Rohe), là lễ hội kết thúc chuỗi nghi lễ nông nghiệp trong một năm canh tác nương rẫy của người Mạ: “Ơi Yàng, buôn làng tôi mời Yàng về ăn lúa mừng lúa mới. Yàng hãy ăn uống, rồi cho buôn làng tôi (tộc họ tôi) thật nhiều thóc lúa, lúa không bao giời hết trong kho, lúa luôn luôn chín vàng đầy rẫy”
“Tôi cầu thần như sáp ong hết dính
Khui ché Rượu Cần mời các thần nếm thử
Rượu ngon buôn tôi mời thần uống
Nhựa hương trầm tôi mời thần đến.
Thần hãy đến cùng với bạn, anh, em, buôn làng của thần…”
Đây gọi là bài ca nghi lễ (bái cúng) để gọi mời thần linh đến chúng kiến lòng thành của dân làng, để thần linh hưởng thụ lễ vật sau đó phù hộ cho sức khỏe cộng đồng, mưa thụân gió hòa, mùa màng tươi tốt. Tay chủ tế cầm lục lạc bằng đồng liên tục lắc lên lắc xuống. Cúng xong, máu của vật hiến tế được bôi lên tay, trán một số người khách quý và các đại biểu ra đình. Quan niệm của người Tây Nguyên nói chung và người Mạ nói riêng giải thích cho việc bôi này là mang lại may mắn của Yàng cho mọi người. Nhắc nhở mọi nguời phải nhớ đến Yàng để tiếp tục chăm lo lao động, để có nhiều thóc lúa, để có cuộc sống ấm no. Gà và Rượu Cần là hai thứ không thể thiếu trong các nghi lễ của người Mạ (dù lớn hay nhỏ), máu gà (vịt) và rượu cần là thứ biểu hiện niềm giao cảm giữa con người với thế giới siêu hình, thế giới thần linh.
Khi nghi lễ rách Yàng kết thúc cũng có nghĩa là cuộc vui bắt đầu. Chủ lễ ( chủ tế) là người được uống Rượu Cần truớc, sau đó mọi người lần lượt uống từ khách - chủ, già - trẻ, gái - trai …ai cũng có thể uống Rượu Cần và uống một cách tự nhiên, uống hết mình. Và xung quanh ché rượu lại xuất hiện bao điều lý thú, nét độc đáo riêng biệt góp phần tạo nên văn hóa Rượu Cần.
3.4.3. Văn hóa uống Rượu Cần đối với đời sống cộng đồng.
Xưa nay, nhắc tơi Rượu Cần là người ta liên tưởng tới một không gian văn hóa tâm linh, văn hóa hội hè xoay quanh bếp lửa, nhà sàn cùng với tiếng cồng chiêng mênh mang, vòng Xoang uyển chuyển của các sơn nữ. Nêu ai đã từng có những lần điền dã qua các buôn làng của dân tộc Tây Nguyên sẽ có ấn tượng mãi về không gian nhà dài, bếp lửa đỏ rực, chung ché Rượu Cần nồng say mà ngất ngây trong thế giới thủa hoang sơ, ấm áp tình cảm nhiệt thành của đồng bào dân tộc nơi đây. Rượu Cần là thứ không thể thiếu trong tất cả các lễ hội của người Tây Nguyên từ nghi lễ nông nghiệp, nghi lễ vòng đời đến nghi lễ cộng đồng. Lễ hội càng lớn Rượu Cần càng nhiều, Rượu Cần càng nhiều thì lễ càng vui và chính các lễ hội là dịp để tinh thần tập thể, tinh thần cộng đồng được biểu hiện rõ nét nhất.
Sắp đến ngày lễ, công tác chụẩn bị được tiến hành rất công phu. Các chàng trai trong buôn được cử vào rừng tìm loại cây xốp, nhẹ, càng to càng tốt (thường là cât gòn) về để cùng nhau dựng cây Nêu (Nđal). Theo quan niệm, cây Nêu to, cao là thể hiện sức mạnh của buôn, của con người, thể hiện sự giàu có, mùa màng bội thu. Cây Nêu càng to, tinh xảo, đẹp thì càng vui, dân làng càng tự hào đối với khách đến dự. Đi cùng với việc chế tác cây Nêu là dựng cột trâu (nếu như có lễ đâm trâu - sarơpu). Cây cột trâu gọi là Kơmong rơpu, dây cột trâu được làm bằng dây rừng, vỏ cây rừng bện chắc chặn. Việc tiếp theo là dựng sàn lễ, thông thường thì nguời ta làm một cái nhà sàn dài tượng trưng, trong nhà sàn có cây Nêu, Rượu Cần, những tấm vải thổ cẩm, cồng chiêng…Hai cửa mở ra hai phía có cầu thang lên xuống. Trước cửa chính người ta dựng một sàn lễ nói từ cửa ra dài khoảng 1,5 – 2m. trên sàn lễ có bàn thờ (jơnao), ở giữa sàn lễ có một ché rượu cần loại lớn. Sàn lễ thường được làm bang lồ ô, đây là nơi để chủ tế tiến hành các nghi thức cúng thần “rách Yàng” những việc này được mọi người chung tay tiến hành và phải làm xong trước lễ hội 2 - 3 ngày. Các gia đình được quét dọn sạch sẽ, người phụ nữ lo váy áo, vào rừng lấy đọt mây, trai làng săn thêm thú, trẻ em lấy củi hái rau, không khí chuẩn bị rất nhộn nhịp. Buổi chiều té nước ngày diễn ra lễ chính, mọi người cho gạo nếp vào ống lồ ô rồi đốt lửa. Cả nhà, cả họ quay quần chờ bánh chín ( cơm lam).
Khi một gia đình hay cộng đồng chuẩn bị làm lễ, các gia đình trong làng mang những ché rượu cần to nhất, ngon nhất theo khả năng của mình để góp phần chung vui vừa chia sẻ, giúp đỡ, vừa tạo nên sự thân tình đầm ấm.
Khác với một số dân tộc khác, riêng Rượu Cần của người Mạ chỉ được uống với một chiếc cần duy nhất. Khi hỏi về vấn đề này các già làng ở Đạ Tẻh giải thích: “mọi nguời cùng chung sống trong một bon (làng), cùng uống chung giọt nước, cùng sống chết có nhau nên phải uống chung một cần thì mới đoàn kết thương yêu nhau”. Đây chính là biểu hiện cao nhất của tính cộng đồng, cộng cảm.ngoài ra để nâng cao tinh thần gắn bó đoàn kết thương yêu nhau, ở người Mạ còn có lễ hội “gặp mặt những người cùng một buôn” (Năng nhô). Đây là lễ hội rất lớn của cộng đồng người Mạ, 10 - 20 năm mới tổ chức một lần. Ý nghĩa cao đẹp của nó được thể hiện trong bài văn tế: “Cầu Yàng cho mọi người luôn bình an mạnh khỏe, mọi gia đình sống ấm no hạnh phúc. Cầu mong thần cho cái chân của tất cả già trẻ, trai gái trong buôn rắn chắc, vuợt qua chín con suối, chín ngọn đời để làm cho rẫy nhiều lúa nhiều bắp. Nhờ các thần làm cho buôn chúng tôi ai cũng biết làm nhà dài, tụ họp nhau xây thành một buôn làng đông vui. Nhờ thần mà chúng tôi có cối giã gạo, biết làm vợ chồng với nhau. Mong các thần chứng giám. Bao nhiêu năm qua, dân trong buôn làng tôi vẫn gắn kết với nhau, coi nhau như anh em một nhà, cùng uống chung nước con suối, cùng giúp nhau có cái thóc, cái bắp…”Mục đích gặp mặt trong lễ hội này là để mọi người nhớ đến nhau, để nhận họ hàng, bạn quen cũ; để xem từ lễ hội trước đến nay đã qua rất nhiều năm thì gia đình ấy, dòng họ ấy, bạn bè có sinh thêm ai, ai còn, những ai đã mất… Qua lễ hội này mọi người trong cộng đồng càng gắn kết với nhau hơn.
Không chỉ dừng lại ở trong một buôn, một dòng họ mà tinh thần đoàn kết, tính tập thể trong cộng đồng người còn được biểu hiện giữa dòng họ (nao) này với dòng họ kia,buôn này với buôn kia. Điều này được hợp thức hóa qua nghi lễ kết bạn (kết đa): “Hỡi thần núi thần sông. Họ tôi và họ…(hoặt buôn tôi …và buôn …ở xã…huyện…)qua đi lại tìm hiểu, chúng tôi thấy có thể coi nhau như anh em một nhà, cùng sống chết có nhau, cùng làm cùng ăn…Mong các thần nhận lễ, chứng giám. Nếu bên nào bội ước sẽ bị Yàng phạt”. Qua nghi lễ này mọi người coi nhau như anh em ruột thịt, giúp đỡ nhau làm nương làm rẫy, giúp nhau những lúc khó khăn, giúp nhau lúa, thóc, trâu, ché. Thông qua đó các thành viên gắn kết với nhau hơn, và cố kết cộng đồng là một thuộc tính cư trúc của các dân tộc Tây Nguyên. Tách khỏi cộng đồng là đồng nghĩa với cái chết, nếu không cũng bị cộng đồng xa lánh, phạt trâu, phạt ché. Trong kháng chiến giữ nước, việc kết hợp các buôn với nhau đã giúp cho việc bảo vệ và hậu thuẫn cách mạng rất nhiều. Các buôn làng che giấu cán bộ cách mạng, đào hầm, làm chông, làm bẫy giết giặc,cứu chữa quân giải phóng, ủng hộ thóc gạo, tham gia tải đạn, chuyển lương thực…Góp phân đánh thắng quân xâm lược. Sau khi các nghi lễ đã hoàn thành, mọi người quây quần xung quanh ché rượu, uống theo nhu cầu, sở thích của mình nhưng không bừa bãi mà phải tuân theo qui định của văn hóa Rượu Cần. Người ta uống hết lòng, vui hết mình, nhưng tuyệt đối không mang tính mưu cầu, lợi lộc, không tranh giành, ghen tỵ, thách đố. Người này uống xong phần rượu của mình chuyển cần mời người bên cạnh. Cứ thế họ uống trong bầu không khí trao đổi, chuyện trò, ca hát… Cùng nhau tận hưởng hượng vị ngọt ngào của ché rượu trong sự phục vụ tận tình, chu đáo của người tiếp rượu (châm nước)
3.5. Thực trạng về văn hóa Rượu Cần.
Hiện nay rượu Cần vẫn là một thức uống quan trọng, không thể thiếu của người dân Tây Nguyên trong đời sống sinh hoạt cũng như trong các dịp lễ hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng nhưng không thể phủ nhận những biến đổi trong quá trình chế biến, thưởng thức, phục vụ lợi ích thương mại.
3.5.1. Những biến đổi cơ bản
Thay vì làm men truyền thống họ thường dùng men mua ở chợ ( men Trung Quốc, men không rõ nguồn gốc). Cũng có những trường hợp họ lấy loại cây làm men truyền thống ( cây Gàng) về trồng trong vườn nhà mình, và mỗi khi làm rượu dùng lá cây đó giã chung với men mua ở chợ về (theo lời ông K’Tỏi ở buôn Con Ó xã Mỹ Đức). Điều này ít nhiều đã làm thay đổi về nồng độ cũng như đặc tính của rượu, từ đó dẫn đến việc mai một dần bản sắc độc đáo của nét văn hoá truyền thống này.
Gạo để làm rượu hiện nay phần lớn được mua ở chợ và thường là sản phẩm của nền kinh tế lúa nước vì đa số diện tích rẫy của bà con đã chuyển sang trồng các loại cây công nghiệp như điều, cà phê, ca cao..Diện tích lúa nước của người Tây Nguyên không lớn và năng suất chưa cao, sản lượng chỉ đủ phục vụ nhu cầu hàng ngày, do đó số gạo này chủ yếu mua của người Kinh. Điều này góp phần lí giải tại sao Rượu Cần có sự thu hẹp về quy mô sản xuất nhất là trong khoảng thời gian gần đây. Hiện nay hầu như như gia đình nào cũng có một đến một vài cái ché để không hoặc đựng các vật dụng khác như gạo, muối, nước…thay vì đựng rượu như trước đây.
Nếu ngày xưa làm Rượu Cần là nghĩa vụ và trách nhiệm của chị em phụ nữ, của đàn bà con gái thì bây giờ việc đó đã không còn quan trọng nữa, ai cũng có thể tham gia làm rượu nhất là vào những thời gian rảnh rỗi. Và những kiêng kỵ rất nghiêm khắc trong quá trình làm rượu ngày xưa giờ đã không còn tồn tại. Đây là điểm tiến bộ trong văn hoá nói chung, văn hoá Rượu Cần nói riêng của đồng bào Tây Nguyên nói chung.
Hiện tại một số dân tộc làm Rượu Cần không chỉ để uống, tiếp khách và phục vụ lễ hội mà còn dùng để bán nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên đây chưa phải là nguồn thu nhập chính của họ và việc buôn bán Rượu Cần chưa thật sự phổ biến. Trên địa bàn huyện chưa có một thương hiệu hay một quán bán Rượu Cần mà chủ yếu bán cho những người đến đặt mua tại nhà và thường là những người quen biết hoặc những người trong ban lãnh đạo địa phương.
Các qui định trong việc uống rượu cũng giản ước đi rất nhiều so với trước. Việc rách Yàng khi khui ché đã hoàn toàn bị lọai bỏ đối với những vùng cư dân Mạ theo tín ngưỡng mới. Hiện tại nghi lễ rách Yàng vẫn còn được duy trì trong lễ hội “mừng lúa mới” được tổ chức một năm một lần trên địa bàn toàn huyện.( tháng 3 âm lịch hàng năm). Trong khi uống rượu , có thể cắm thêm 2-3 cần nếu số lượng người uống nhiều…
3.5.2. Nguyên nhân và giải pháp
Những biến đổi trên cho thấy văn hoá Rượu Cần của các dân tộc Tây Nguyên đang dần bị mai một. Điều đó cũng có nghĩa là nét văn hoá truyền thống độc đáo này đang đứng trước nguy cơ báo động và cần phải lên tiếng bảo vệ ngay từ hôm nay. Thực trạng đó bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân :
Đất nước trong hai cuộc chiến tranh, không có thời gian để những người lớn tuổi truyền dạy cách làm rượu cho lớp trẻ. Mọi người đều tập trung cho tiền tuyến, thanh niên trai tráng ra trận, thiếu nữ lo làm nương rẫy phục vụ cách mạng. Khi đất nước thống nhất, số người biết làm Rượu Cần thì qua đời hoặc sức khỏe không bảo đảm để tiếp tục và truyền dạy cho con cháu, đã vậy Tây Nguyên những năm 1976-1983 còn bị bọn thổ phỉ, Phun rô quấy phá. Việc các buôn ở phân tán, du canh du cư rồi thì đất nước thời bao cấp gặp khó khăn, không ai nghĩ đến việc duy trì nét văn hóa truyền thống này.
Vào thời kì đổi mới, nam nữ thanh niên dân tộc Tây Nguyên đã tiếp thu rất nhanh những văn minh mà các thông tin đại chúng chuyển tải. Nhất là bắt đầu những năm 1983-1993, các buôn làng đã ở định cư, việc giao lưu, tiếp xúc giữa buôn này với buôn nọ, giữa người Việt với người đồng bào được mở rộng.Do đó, rượu đế cũng từng bước xâm nhập và được bà con tiếp nhận. Vì Rượu Đế không tốn nhiều thời gian. Nguời ta có thể mua ở bất cứ thời điểm nào.
Đồng thời với viêc ở định cư, hoạt động trồng lúa rẫy cũng ngày càng bị thu hẹp thay vào đó là những kế hoạch trống điều, trồng cà phê và một số cây công nghiệp theo chủ trương của Nhà nước. Bên cạnh đó việc sản xuất lúa nước là một hoạt động còn khá mới mẻ với bà con, trình độ canh tác chưa cao, diện tích gieo cấy không nhiều. Nên ngoài việc đáp ứng đủ nhu cầu lương thực cho gia đình thì gần như không có lúa gạo dư ra để làn Rượu Cần. Nhiều gia đình còn phải mua gạo để ăn hàng ngày, vì vậy họ không muốn làm Rượu Cần từ số gạo phải vất vả mới kiếm được đó.
Hiện nay trong cộng đồng người dân Tây Nguyên, đời sống nhiều hộ dân còn khó khăn nên việc tổ chức lễ hội, tang ma, cưới hỏi theo phong tục cũ đã không còn hoặc được tổ chức đơn giản. Rượu Cần cũng vì thế mà giảm đi sức phát triển của nó. Bên cạnh đó là sự du nhạp của các tôn giáo mới đặc biệt là Thiên chúa giáo và đạo Tin lành trong thời gian gần đây cũng là một nguyên nhân lớn.
Việc đầu tư nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên (trong đó có văn hóa Rượu Cần) chưa thỏa đáng, do vậy những công trình văn hóa Tây Nguyên chỉ mới dừng lại ở việc in ấn tài liệu chứ chưa phổ biến rộng rãi trong cộng đồng chưa thực hiện được. Do vậy, chính người Tây Nguyên cũng chưa nhận thức được hết ý nghĩa quan trọng của rượu cần và chưa dày công giữ gìn, phát huy nó (nhất là lớp trẻ hiện nay hầu như không biết làm rượu cần).
Trước thực trạng ngày càng mai một những giá trị văn hóa của dân tộc đã đặt ra vấn đề cấp thiết hiện nay là phải xây dựng được nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này đã được xác định trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (6/1991) của Đảng ta. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là xu hướng, nhu cầu chân chính của mọi dân tộc bao gồm người Tây Nguyên. Tuy nhiên không phải cứ hiện đại hóa là phủ nhận hết các giá trị truyền thống mà trước hết phải tôn trọng nó đồng thời tiếp thu cái hay, cái đẹp, cái mới và thay đổi nó cho phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc. Việc bảo tồn và phát triển vốn văn hóa phải gắn liền với sự phát triển của dân tộc đó. Điều đó cũng có nghĩa là muốn bảo tồn và phát triển văn hóa Rượu Cần của người Mạ cần có những biện pháp tích cực và đồng bộ. Từ thực trạng và những nguyên nhân trên, cá nhân tôi xin đưa ra một số đề xuất, một số kiến nghị sau đây:
Thứ nhất: Tổ chức tuyên truyền trong đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Mọi việc muốn thành công không thể bỏ qua công tác tuyên truyền. Bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ dân trí của từng vùng tập trung tuyên truyền giáo dục làm chuyển biến nhận thức của đồng bào về vai trò, ý nghĩa của Rượu Cần, văn hóa Rượu Cần trước những nhu cầu và quá trình phát triển cuả xã hội. Mà trước tiên là làm cho đồng bào hiểu được việc bảo tồn và phát triển nét văn hóa này là việc làm có ích, nhằm duy trì sắc thái riêng về văn hóa của dân tộc mình. Một điều chắc chắn rằng không ai bảo vệ tốt di sản văn hóa của họ bằng chính họ. Bên cạnh đó khuyến khích và vận động đồng bào mở rộng sản xuất để phục vụ cho đời sống kinh tế của mình, từng bước đưa Rượu Cần trở thành thứ hàng hoá phổ biến rộng rãi trên thị trường huyện và tỉnh
Thứ hai: Phát huy vai trò của các tổ chức, đoàn thể, của già làng, trưởng bản.
Hiện nay tổ chức đoàn thanh niên phụ nữ, cựu chiến binh…đã về tận thôn, buôn. Việc lấy ngay những thành viên này làm người tuyên truyền là phù hợp nhất bởi họ ở ngay trong gia đình, thôn buôn, được học tập nhiều, nhận thức cao, nhiều người có trình độ nghiệp vụ chuyên môn lí luận cao. Từ lâu đời, già làng, trưởng bản là những người có uy tín với dân, già làng nói dân làng đều nghe theo. Do vậy các tổ chức đoàn thể cần phối hợp với già làng, trưởng bản vận động buôn làng bỏ hủ tục, xây dựng nếp sống văn hóa mới, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ ba: Phát huy vai trò của ngành văn hóa thông tin, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự bảo trợ của Nhà nước.
Ngành văn hóa thô ng tin có nhiệm vụ hướng dẫn, giám sát, quản lí các hoạt động sinh hoat văn hóa trong đồng bào dân tộc. Phối hợp với các tổ chức chính trị, già làng tổ chức các lễ hội, mở các lớp dạy đánh cồng chiêng, làm rượu cần, dệt thổ cẩm…cho thế hệ trẻ, đào tạo cán bộ chuyên môn cho từng buôn, xã. Các Đảng viên phải nắm vững đường lối dân tộc của Đảng, chỉ đạo các hoạt động đúng đường lối. Nhà nước cần hỗ trợ một phần kinh phí cho việc tổ chức các lễ hội, phần còn lại huy động đóng góp từ nhân dân, sự tài trợ của các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp. Mở rộng diện tích và truyền dạy kĩ thuật canh tác lúa nước trong đồng bào Mạ. Khuyến khích tư nhân, doanh nghiệp đầu tư đưa Rượu Cần vào kinh doanh kết hợp với dịch vụ du lịch. Huyện Đạ Tẻh có hồ Đạ Tẻh được công nhận là danh lam thắng cảnh quốc gia, có 3 thác nước đẹp ở xã Triệu Hải và xã Đạ Pal, trong đó thác nước Đakala đang được các nhà đầu tư khoanh nuôi bảo vệ để xây dựng khu du lịch sinh thái. Đây là điều kiện thuận lợi để giới thiệu, quảng bá Rượu Cần của người Mạ đến du khách gần xa và qua đó từng bước thiết lập thương hiệu Ruợu Cần ngay tại địa phương mình.
C. Kết luận
Những nét đẹp của văn hóa ẩm thực bắt nguồn từ chính cuộc sống, bởi cuộc sống là mạch nguồn trong trẻo nhất cho văn hóa tồn tại và phát triển. Rượu cần, bản thân nó đã là văn hóa bởi đó là sản phẩm của con người, thông qua nét đẹp của cách uống, quy trình chế biến, cách làm ra những vò rượu cần đã làm cho nó trở thành một nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực Việt Nam nói chung và văn hóa ẩm thực Tây Nguyên nói riêng.
Rượu Cần và văn hóa Rượu Cần là một trong những vấn đề quan trọng của xã hội, thể hiện đặc trưng văn hóa riêng giữa các tộc người. Nét văn hóa đều bắt nguồn từ những quan niệm về nhân sinh quan, thế giới quan và vũ trụ quan. Từ đó nảy sinh những phong tục chứa những tri thức cuộc sống, tri thức tâm linh, đáp ứng nhu cầu của nhiều dân tộc, đặc biệt là con người Tây Nguyên. Qua đó họ có thêm điều kiện gắn bó mật thiết với thiên nhiên, với con người, với cả cộng đồng, để làm nên những bản sắc văn hóa đặc trưng của vùng đồng bào Tây Nguyên.
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về văn hóa Rượu Cần của người Tây Nguyên, tôi đã phác họa môt cách đầy đủ về: Nguồn gốc xuất xứ và vị trí của rượu cần trong đời sống của con người Tây Nguyên, những nét đẹp độc đáo qua quá trình làm cũng như nghệ thuật thưởng thức, các nghi lễ thức uống…Bên cạnh việc tái hiện lại những nét văn hóa truyền thống, tôi cũng đã đề cập tới sự phát triển chung của xã hội, chỉ ra thực trạng hiện nay, phân tích những nguyên nhân của thực trạng đó, đồng thời đưa ra một số kiến nghị, giải pháp. Để qua đó góp phần bảo tồn và phát triển văn hóa Rượu Cần của Tây Nguyên nói riêng và văn hóa ẩm thực Việt Nam nói chung.
Tài liệu tham khảo
Trần Quốc Vượng, cơ sở văn hóa việt nam, nxb Thanh niên, 1995
Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa việt nam, nxb TP. HCM, 1997
Nguyễn Thừa Hỉ, Lịch sử văn hóa việt nam, nxb ĐHQGHN, 1999
Băng Sơn- Mai Khôi, văn hóa ẩm thực việt nam, nxb thanh niên HN, 2002
Nhiều tác giả, văn hóa trà xưa và nay, nxb Tổng cty chè việt nam, 1997
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- am_thuc_cuoi_ki_cua_bi_1757.doc