Đề tài Tìm hiểu công tác thanh tra, giải quyết tranh chấp đất đai của huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1993-2003

I- Kết luận. 1. Đối với nội dung đơn kiến nghị của 8 hộ dân cư khu 5 - xã Hy Cương có nêu lên việc ông Lộc bán đất vườn cho 2 hộ là ông Trung và ông Đông là có thật, việc mua bán này được pháp luật thừa nhận, tuy nhiên còn có vướng mắc nên Nhà nước chưa phê duyệt. Việc ông Lộc thu lợi bất chính chưa có cơ sở để khẳng định, tuy nhiên việc chuyển nhượng phải theo đúng qui định của pháp luật. 2. Đối với nguồn gốc đất thổ cư của ông Lộc: ông Lộc cũng như một số ông trong khu vực, do UBND xã Hy Cương và UBND huyện cấp đất trước năm 1990. Về pháp lý Nhà nước thừa nhận mỗi hộ có 300 m2 là đất ở, số diện tích còn lại là đất vườn do xã giao. Ông Lộc đã có quyết định giao đất của huyện Phong Châu. Việc sử dụng đất của ông Lộc (đất ở và đất vườn) là hợp pháp, ông lộc đã được cấp GCN quyền sử dụng đất như các hộ khác trong khu đồi này. 3. Đối với nội dung ông Lộc chặt phá thông của Nhà nước, do không có cơ sở rõ ràng nên các hộ đã xin rút không tố cáo nội dung này. II- Kiến nghị. 1. Đề nghị Nhà nước xem xét lại khu vực này, nếu có chủ trương mở rộng, làm mới các công trình phục vụ Đền Hùng, có sử dụng đến đất ở của khu vực này thì đề nghị không cho phép lập hồ sở mua bán, chuyển nhượng đất đai nhằm dễ thu hồi sau này, bao gồm hộ ông Lộc và các hộ khác trong khu vực. 2. Nếu không có chủ trương thu hồi đất khu vực này để sử dụng vào mục đích chung thì cho phép các hộ được sử dụng diện tích đất vườn, đất nông nghiệp tiếp tục đến năm 2013 thì thu hồi lại (trong phạm vi 28.300 m2). Trên đây là báo cáo của Phòng NN & PTNT để UBND huyện biết xem xét và quyết định./.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1864 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu công tác thanh tra, giải quyết tranh chấp đất đai của huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1993-2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 2 3 4 3 2 3 27 -Xã 1 2 1 3 1 2 3 2 1 16 -Chuyển cấp trên 1 1 1 1 4 3.Tranh chấp đất đai 3 2 4 3 3 3 6 4 5 5 3 41 *Đã giải quyết 3 2 4 3 3 3 6 4 5 5 3 41 -Huyện 2 1 1 2 2 1 4 1 3 2 2 21 -Xã 1 1 2 1 1 2 1 3 1 2 1 16 -Chuyển cấp trên 1 1 1 1 4 Tổng 14 18 15 14 11 11 26 29 20 17 16 191 Nhận xét chung tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai Giải quyết khiếu nại tố cáo và tranh chấp đất đai đã và đang trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội nói chung và của huyện Lâm Thao nói riêng. Đây cũng là một xu thế tất yếu hợp quy luật theo sự phát triển chung của xã hội. Ngày nay đất đai càng có giá trị cao thì tranh chấp đất đai càng trở nên phức tạp và gay gắt. Đất đai do lịch sử để lại chứa đựng mối quan hệ tổng hoà của toàn xã hội nói chung và của người sử dụng đất nói riêng. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau thì quan hệ sử dụng đất cũng có nhiều thay đổi phù hợp với từng thời kỳ. Qua bảng11 ta thấy số lượng đơn thư khiếu tố và tranh chấp đất đai qua các năm có xu hướng tăng dần, tuy nhiên từ năm 2001 lại bắt đấu giảm, cụ thể: Sau năm 1993 số lượng đơn là 18 nhưng sau Luật sửa đổi bổ sung năm 1998 thì số lượng đơn thư lại tăng lên: Năm 1999 có 26 vụ, năm 2000 có 29 vụ năm 2001 có 20 vụ đến năm 2003 giảm còn 16 vụ, bên cạnh đó số đơn tồn đọng giảm hẳn so với các năm trước. Nếu đánh giá theo 3 giai đoạn: Luật đất đai năm1993, luật sửa đổi năm 1998 và năm 2001 ta thấy: Năm 1994 có 18 vụ so với năm 2000 có 29 vụ tăng 11 vụ ứng với 61%, năm 2001 có 20 vụ tăng 2 vụ ứng với 10% so với năm 1994. Như vậy lượng đơn thư khiếu tố đạt mức cao nhất tập trung ở các năm từ 1999 đến 2003. Nguyên nhân của tình trạng trên, thứ nhất là do: - Chính sách pháp luật đất đai giai đoạn sau năm 1980 và trước năm 1993 người sử dụng đất không được mua bán, chuyển nhượng... theo đó đất đai ít có giá trị. Sau khi Luật đất đai 1993 ra đời, hệ thống pháp luật về đất đai được đầy đủ và hoàn thiện hơn, người sử dụng đất được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế...bên cạnh đó người sử dụng đất phải đóng thuế cho việc sử dụng đất của mình. Vì vậy đất đai được xác định có giá trị hơn, theo đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, tranh chấp trong sử dụng đất. Năm 1998 Luật đất đai sửa đổi bổ sung, Luật khiếu nại-Tố cáo ra đời đã phổ cập tới phần lớn các cá nhân và người sử dụng đất, qua đó sự hiểu biết pháp luật đất đai góp phần được nâng lên. Các cá, người sử dụng đất có những vướng mắc về đất đai đã gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền để được giải quyết. - Một nguyên nhân chủ quan nữa là do sự buông lỏng việc quản lý và sử dụng đất của một bộ phận những người lãnh đạo các xã, phường, thị trấn từ trước khi tách huyện ( trước năm 1999 ), đã dẫn đến nhiều vi phạm trong quản lý và sử dụng đất, ví dụ như: Việc cấp đất trái thẩm quyền, việc lấn chiếm, sử dụng sai mục đích... Từ đó dẫn đến phát sinh tranh chấp, khiếu kiện về đất đai, đặc biệt từ khi huyện tiến hành công tác cấp GCNQSD đất. Tuy nhiên mặc dù tình trạng khiếu nại- Tố cáo và tranh chấp đất đai chiếm tỷ lệ lớn trong các đơn khiếu tố ở huyện Lâm Thao nhưng cùng với sự chỉ đạo của UBND tỉnh, cùng với sự nỗ lực của ngành Địa chính huyện đã tập trung giải quyết được phần lớn các đơn thư khiếu tố về đất đai gửi đến, số đơn tồn đọng chỉ có 4 đơn. Song đến nay đã giải quyết dứt điểm những tồn đọng đó, những vụ việc mới đều được tập trung giải quyết kịp thời, đúng thời gian quy định không để dây dưa kéo dài ảnh hưởng tới đời sống của nhân dân. Hầu hết qua thanh tra đã thấy được phần lớn các xã, thị trấn đã có nơi tiếp dân riêng, sổ sách theo dõi những người đến khiếu tố, kiến nghị đều được ghi chép đầy đủ, rõ ràng. Đồng thời qua công tác tiếp dân cũng đã phát hiện được nhiều sai phạm trong quản lý và sử dụng đất và thông qua công tác tiếp dân là dịp thuận lợi để tuyên truyền thêm cho nhân dân hiểu về pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước. Đó cũng là hình thức giảm bớt khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai. Tuy nhiên bên cạnh những mặt đạt được thì công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn còn một số tồn tại sau: Cán bộ tiếp dân ở một số xã trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu, việc phân loại đơn còn có tình trạng nhầm lẫn, thiếu chính xác, chưa phản ánh đúng tình hình khiếu nại - Tố cáo. Việc xử lý, giải quyết đơn còn có việc chưa đảm bảo quy định, còn một bộ phân nhỏ công dân chưa đồng tình, vẫn có đơn tái khiếu, tái tố (nhất là việc giải quyết lần đầu ở cấp cơ sở ). Việc thực hiện một số quyết định, kết luận đơn đã có hiệu lực pháp luật còn chậm, không dứt điểm. Công tác thông tin báo cáo hai chiều giữa cấp huyện và cấp cơ sở chưa đầy đủ và kịp thời. Trên đây là những thiếu xót, tồn tại trong công tác giải quyết đơn thư khiếu tố về đất đai cần được khắc phục trong năm tới. Huyện Lâm Thao cần có các biện pháp tổ chức tuyên truyền Luật khiếu nại -Tố cáo đến các cán bộ và nhân dân ( phải bố trí thành chương trình cụ thể của cấp huyện và cơ sở ). Kết hợp với kiểm tra đối với cấp xã, thị trấn để chấn chỉnh kịp thời đối với những thiếu sót, tồn tại. Phải rà soát lại các đơn khiếu tố đang giải quyết, nhất là những đơn thư gửi vượt cấp để có biện pháp xử lý kịp thời, không để phát sinh thành điểm nóng, các vụ việc đã giải quyết phải tổ chức thực hiện nghiêm túc. Trong những năm tới cùng với sự phát triển chung của toàn xã hội, nhu cầu về đất đai ngày một tăng mà quỹ đất thì có hạn. Luật đất đai năm 2003 ra đời ngày càng hoàn thiện và đầy đủ hơn, thị trường về đất đai đã được xác nhận và tồn tại. Đất đai sẽ trở thành điểm nóng và trở thành một loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường nhưng theo đó tranh chấp đất đai sẽ càng gay gắt hơn, song giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ không còn là mối lo ngại của toàn xã hội nói chung và của huyện Lâm Thao nói riêng. Luật đất đai năm 2003 ra đời góp một phần lớn cho công tác giải quyết khiếu nại tố và tranh chấp đất đai. V. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác giải quyết Khiếu nại- Tố cáo và tranh chấp đất đai của huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu công tác Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai ở huyện, căn cứ vào điều kiện cụ thể của huyện Lâm Thao để phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại trong quản lý và sử dụng đất của huyện đặc biệt là công tác giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay thì cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản sau: Thứ nhất: Coi trọng việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nói chung, trong đó có việc giải quyết tranh chấp đất đai là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Vì huyện Lâm Thao được coi là huyện có nhiều tiềm năng về phát triển công nghiệp, nông nghiệp. Vì vây nhu cầu về đất đai sẽ ngày càng tăng theo đó phát sinh nhiều tranh chấp. Giải quyết tốt công tác này sẽ góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy nền kinh tế huyện phát triển. Thứ hai: Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành, các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan trực tiếp trong việc giải quyết tranh chấp đất đai, xử lý các vi phạm và thực hiện quyết định giải quyết của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thứ ba: Đẩy nhanh tiến độ điều tra, khảo sát đo đạc và hoàn thành bản đồ địa chính trong toàn tỉnh nói chung và huyện nói riêng. Vì công tác quản lý Nhà nước về đất đai chỉ có thể thực hiện tốt trên cơ sở có đầy đủ, chính xác các số liệu, tài liệu, bản đồ và đó cũng là cơ sở pháp lý cho giải quyết tranh chấp đất đai. Hiện nay huyện vẫn còn rất nhiều xã vẫn sử dụng bản đồ 299-TTg độ chính xác kém. So sánh giữa thực tế và bản đồ có nhiều sai lệch nên rất khó cho công tác giải quyết tranh chấp đất đai như các xã:Cao Xá, Vĩnh Lại, Bản Nguyên, Hy Cương, Chu Hóa... Thứ tư: Kiện toàn tổ chức, sắp xếp và nâng cao năng lực, ổn định đội ngũ cán bộ địa chính cấp xã. Bên cạnh đó cần tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao nghiệp vụ quản lý Nhà nước về đất đai. Đây là biện pháp chung cho huyện cũng như các địa phương khác. Thứ năm: Duy trì và thực hiện tốt công tác tiếp dân, qua đó tuyên truyền chính sách pháp luật đất đai cho nhân dân. Trong công tác giải quyết khiếu nại tố cáo và tranh chấp đất đai phải được chú trọng ngay từ khâu tiếp dân. Việc tiếp dân cần được bố trí chu đáo, thận trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, khi tiếp dân phải ghi chép đầy đủ nội dung phản ánh những sự việc liên quan để đảm bảo xử lý kịp thời, công bằng và khách quan. Thứ sáu: Xử lý kịp thời những vụ việc mới nảy sinh, xử lý kiên quyết đối với những trường hợp cố tình khiếu tố sai sự thật, lôi kéo theo đám đông gây khó khăn cho công tác giải quyết khiếu tố và tranh chấp đất đai. Vì trong những năm gần đây việc tố cáo theo đám đông có tổ chức vẫn còn xảy ra như ở xã Cao Xá, Hy Cương tố cáo cán bộ xã lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính, tố cáo các công dân khác vi phạm Luật đất đai. Thứ bảy: Đẩy mạnh công tác thanh tra, tăng cường pháp chế trong sử dụng đất Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý Nhà nước về đất đai nói riêng. Thực hiện tốt công tác thanh tra về quản lý và sử dụng đất giúp cho người lãnh đạo, quản lý ở các cấp và người sử dụng đất thấy được những mặt ưu điểm để phát huy, những mặt thiếu sót để bổ sung, sửa chữa và ngăn chặn kịp thời những vi phạm về đất đai, đồng thời cũng hạn chế được khiếu nại, tố cáo và tranh chấp về đất đai. Thực trạng hiểu biết về pháp luật đất đai ở huyện Lâm Thao nói riêng còn rất hạn chế, hệ thống pháp luật đất đai ban hành nhiều nhưng còn có sự chồng chéo bất cập. Vì vậy công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến về chính sách pháp luật đất đai phải được chú trọng và tăng cường. Kết luận và kiến nghị Kết luận Sau 5 tháng thực tập tốt nghiệp với đề tài nghiên cứu "tìm hiểu công tác thanh tra, giải quyết tranh chấp đất đai của huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1993- 2003 "tôi rút ra một số kết luận sau: Công tác thanh tra Dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh Phú Thọ phối hợp với các ngành có liên quan như: Thuế, Tài chính, Xây dựng, Thanh tra... UBND huyện Lâm Thao đã tiến hành các cuộc thanh tra thường xuyên hàng năm tại 16/16 xã, thị trấn cùng với một số cuộc thanh tra đột xuất theo các quyết định của Chính phủ và của UBND tỉnh Phú Thọ hoặc các cuộc thanh tra nhằm giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai, việc thanh tra tập trung chủ yếu vào một số vấn đề như: Việc thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của UBND xã; việc quản lý, sử dụng và thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất. Tổng hợp từ năm 1993 đến năm2003 đã có 17 cuộc thanh tra, trong đó có 5 cuộc thanh tra đột xuất. Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai phạm trong quản lý và sử dụng đất, trong đó đặc biệt là cuộc thanh tra theo quyết định 273/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về kiểm tra tình hình quản lý và sử dụng đất ở cấp cơ sở. Cuộc thanh tra này đã phát hiện có 1452 trường hợp giao đất trái thẩm quyền với diện tích là 294.960 m2 và 1126 trường hợp người sử dụng đất vi phạm Luật đất đai với tổng diện tích là 211.117 m2 chủ yếu ở một số dạng: Sử dụng sai mục đích được giao là 292 trường hợp, tổng diện tích là 72759 m2; Các trường hợp lấn chiếm đất đai có 512 trường hợp với diện tích là 57.095m2; Các trường hợp chuyển nhượng trái phép có 128 trường hợp với diện tích là: 47.702 m2; Đất không sử dụng sau 12 tháng liên tục có 194 trường hợp với diện tích là 32.417 m2 Cuộc thanh tra theo Công điện 554/CP ngày 26/6/2001 của Chính phủ về kiểm tra các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất. UBND huyện đã thành lập đoàn thanh tra kiểm tra tại 6 xã trong huyện và đã phát hiện được 1310 trường hợp giao đất đai trái thẩm quyền, ít hơn so với đợt kiểm tra theo quyết định 273/QĐ-TTg là 142 trường hợp. Sở dĩ như vậy là do đợt thanh tra theo quyết định 273/QĐ-TTg có sự tổng rà soát chặt chẽ đến tận các đội ở cấp cơ sở, thời gian tiến hành dài hơn nên đã phát hiện nhiều sai phạm trong quản lý và sử dụng đất. Song UBND huyện đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính đồng thời kiến nghị xử lý kỷ luật một số cá nhân trong đó có cả lãnh đạo chủ chốt ở cấp xã. Tuy vậy cũng không ít trường hợp để lại hậu quả rất phức tạp cho công tác giải quyết: Một số sau khi được giao đất trái thẩm quyền đã chuyển nhượng đất đó cho người khác, người nhận chuyển nhượng không có các giấy tờ, biên lai thu tiền mua đất. Vì vậy những trường hợp này đang được lập thành hồ sơ chờ ý kiến của cấp trên để được hợp thức. Những trường hợp khác hiện nay đều đã được hợp thức. Song qua đợt thanh tra này cũng là bài học cho công tác quản lý và sử dụng đất được chặt chẽ hơn. Tuy nhiên bên cạnh đó thì công tác thanh tra ở huyện Lâm Thao vẫn còn có một số hạn chế như việc thanh tra nhiều khi vẫn còn bị động, không chủ động thanh tra để ngăn chặn và xử lý kịp thời các sai phạm về quản lý và sử dụng đất. Những vi phạm về quản lý và sử dụng đất đã xảy ra nhưng việc xử lý còn nhẹ, việc thực hiện các quyết định của UBND huyện chưa được nghiêm minh, kéo dài nên chưa có hiệu lực cao. Song từ những hạn chế trên mà huyện Lâm Thao trong những năm gần đây công tác thanh tra đã dần được chú trọng và đi vào nề nếp hơn. Vì vậy trong những năm 2003 và 2004 hiện tượng vi phạm đất đai đã giảm đáng kể do người sử dụng đất đã có ý thức thực hiện tốt hơn, cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các ngành luất đai đai được chặt chẽ và nghiêm minh hơn. Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại và tranh chấp đất đai Trong 10 năm qua huyện Lâm Thao đã nhận được 191 đơn thư khiếu tố và tranh chấp đất đai, trong đó UBND huyện đã phối hợp với phòng địa chính giải quyết được 109/113 đơn thuộc thẩm quyền, cấp cơ sở giải quyết là 65 đơn, chuyển cơ quan khác là 13 đơn. Phần lớn các đơn thư khiếu tố đều được giải quyết theo đúng pháp luật và kịp thời. Song bên cạnh đó cũng không ít vụ còn kéo dài gây khó khăn cho bên nguyên đơn. Nhiều vụ qua kiểm tra về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chưa đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền ở nhiều địa phương mà điển hình ở một số xã: Chu Hóa, Hy Cương, Thạch Sơn, Xuân Huy... đã gây nên tái khiếu, tái tố kéo dài trong nhiều năm, gây khó khăn cho công tác giải quyết. Tuy nhiên từ năm 2002 trở lại đây số lượng đơn thư khiếu tố có xu hướng giảm dần: năm 2000 có 29 đơn thì năm 2003 chỉ có 16 đơn, đặc biệt số đơn thư vượt cấp cũng giảm đáng kể, từ đầu năm 2003 đến tháng 6/2004 chưa có trường hợp nào tái khiếu, tái tố. Nhìn chung các quyết định giải quyết đều được thực hiện nghiêm chỉnh. Song đất đai là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm. Cùng với sự phát triển chung của toàn xã hội thì nhu cầu về đất đai ngày càng tăng. Do đó vi phạm trong quản lý và sử dụng đất sẽ trở thành hiện tượng phổ biến gây khiếu tố và tranh chấp đất đai trong những năm tới. Chính vì vậy mà huyện Lâm Thao cần chú trọng hơn nữa trong công tác này, đồng thời cần kết hợp với công tác thanh tra để giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai được đảm bảo công bằng và khách quan. Công tác giải quyết khiếu tố và tranh chấp đất đai chỉ đảm bảo thật sự công bằng và khách quan khi làm tốt công tác thanh tra và kiểm tra về đất đai. Kiến nghị Để đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Lâm Thao tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau: - Tăng cường và duy trì công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý và sử dụng đất ở địa phương - Duy trì và thực hiện tốt công tác tiếp dân, việc tiếp dân cần đươc bố trí chu đáo, thận trọng, đồng thời biết lắng nghe ý kiến của dân - Đối với những vi phạm pháp luật đất đai theo quyết định số 273/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ cần có biện pháp xử lý nghiêm minh, dứt điểm đối với các cá nhân, đặc biệt là các lãnh đạo chủ chốt. Giải quyết nhanh hồ sơ những trường hợp cấp đất trái thẩm quyền để hợp thức đất cho các đối tượng này. Từ đó rút ra bài học cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai trong những năm tiếp theo. - Các cán bộ ngành Địa chính cũng như Thanh tra cần tăng cường học tập cũng như nghiên cứu các văn bản pháp quy, các chính sách đất đai của Nhà nước. Mỗi cán bộ Thanh tra cần phần đấu không vi phạm hoặc có những ảnh hưởng tiêu cực trong quá trình công tác. - Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai trên mọi phương tiện thông tin tới người dân và nên tổ chức thành chương trình cụ thể. - Nên ổn định bộ phận cán bộ địa chính ở cấp cơ sở, đưa người có trình độ đại học về cấp cơ sở làm công tác địa chính - Nhà nước nên sắp xếp, tổ chức bộ máy địa chính theo hướng độc lập, thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Bên cạnh đó nên có Thanh tra Địa chính riêng ở cấp huyện để có thể chủ động thanh tra trong lĩnh vực đất đai. Tài liệu tham khảo Báo cáo tổng kết công tác thanh tra từ năm 1993 đến năm 2003 của huyện Lâm Thao Chỉ thị 10/1998/CT - TTg ngày 20/2/1998 Chỉ thị18/1999/CT - TTg ngày 01/7/1999 Chỉ thị 245/CT - TTg ngày 22/4/1996 Chỉ thị 299/CT - TTg ngày 10/11/1980 Hiến pháp năm 1980 Hiến pháp năm1992 Hoàng Anh Đức – Bài giảng Quản lý Nhà nước về đất đai Luật đất đai năm 1988ra ngày 08/01/1988 Luật đất đai năm 1993 ra ngày 14/07/1993 Luật đất đai sửa đổi bổ sung năm 1998 ra ngày 02/12/1998 Luật đất đai năm 2001ra ngày 29/06/2001 Luật Khiếu nại – Tố cáo ra ngày 02/12/1998 Nghị định 04/CP ngày 10/01/1997 Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 nghị định 85/1999/NĐ - CP ngày 28/08/1999 Nghị định 88/CP ngày 17/08/1994 Nghị định 67/1999/NĐ - CP ngày 07/08/1999 Pháp lệnh thanh tra năm 1990 Quyết định 201 – QĐ/ĐKTK ngày 14/07/1989 Quyết định 201/CP ra ngày 01/07/1980 Quyết định 273/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/04/2002 Quyết định 4045/QĐ - UB ngày 15/11/2002 của UBND tỉnh Phú Thọ Tạp chí Địa chính số 7 tháng 7/2003 Tạp chí Địa chính số 8 tháng 8/2003 Tạp chí Địa chính số 11 tháng 11/2003 Thông tư số 346/1998/TT – TCĐC ngày 16/03 /1998 Thông tư số 278/TT/ĐC ngày 17/03/1997 của Tổng cục Địa chính Thông tư liên tịch số 01/2002/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - TCĐC Mục lục Trang Phụ lục Vụ 1: V/v tranh chấp bờ cõi giữa gia đình ông Nguyễn Văn Tương và ông Nguyễn Duy Nhất ở khu 9 - xã Chu Hoá - huyện Lâm Thao. Sau đây là nội dung đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tương. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Đơn khiếu nại Kính gửi: UBND huyện Lâm Thao, đồng kính gửi phòng Địa chính. Tên tôi là: Nguyễn Văn Tương, trú tại khu 9 -xã Chú Hoá- huyện Lâm Thao. Nay tôi làm đơn xin khiếu nại về việc UBND xã Chu Hoá đã giải quyết và kết luận đơn kiện gia đình tôi tranh chấp, lấn chiếm đất thổ cư của ông Nguyễn Duy Nhất không công bằng, không khách quan. Do vậy, gia đình tôi không thể tôn trọng chấp hành. Vì kết luận này không đúng như trong biên bản giao đất ngày 20/3/1993 và GCN QSDĐ cấp ngày 8/12/1998 của gia đình tôi. Hiện nay gia đình ông Nguyễn Duy Nhất vẫn tranh chấp đất của gia đình tôi, đồng thời ông Nhất còn đập phá đường thoát nước làm bằng bê tông và xây cổng chèn lên làm nước thải chảy lên mặt đường và đổ vào cổng nhà tôi. Gia đình tôi đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết kiểm tra xác định lại ranh giới giữa đất nhà tôi và ông Nhất. Kiểm tra ai dẫn đạc làm sai lệch bản đồ toạ độ so với bản đồ 299-TTg đối với thửa đất của nhà tôi trong khi thửa đất đó từ trước đến nay không có gì thay đổi. Với nội dung sự việc như trên gia đình tôi mong cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết để 2 gia đình tôi có sự thống nhất về ranh giới thửa đất. Vậy, rất mong được sự quan tâm của UBND huyện. Tôi xin chân thành cảm ơn! Chu Hoá, ngày 02 tháng 5 năm 2000 Người viết đơn Nguyễn Văn Tương UBND huyện Lâm thao Phòng NN & PTNT Số: 61/BC-NN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Lâm Thao, ngày 20 tháng 9 năm 2000 báo cáo kết quả kiểm tra và kết luận của phòng địa chính "V/v giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tương Khu 9 - xã Chu Hoá" Ngày 01/5/2000 Phòng Địa chính huyện Lâm Thao nhận được đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn Tương - khu 9 - xã Chu Hoá. Nội dung nêu: - Tháng 11/1999 ông Nguyễn Duy Nhất làm đơn khiếu nại với UBND xã Chu Hoá về việc ông Nguyễn Văn Tương xây tường rào lấn sang đất thổ cư của ông Nguyễn Duy Nhất. Đồng thời ông Nhất đập phá đường thoát nước bằng bê tông và xây cổng đè lên làm nước thải chảy lên mặt đường và đổ vào cổng nhà ông. - Ông không chấp nhận Quyết định số 19/QĐ-UB ngày 8/4/2000 của UBND xã Chu Hoá. - Đề nghị kiểm tra xác định ranh giới giữa đất ông và gia đình ông Nhất. - Kiểm tra ai dẫn đạc làm sai lệch bản đồ toạ độ so với bản đồ 299 đối với thửa đất của ông trong khi không có gì thay đổi. Sau khi kiểm tra, xác minh thực địa và làm việc với các hộ có liên quan. Phòng Địa chính báo cáo như sau: I- Kết quả kiểm tra xác minh. 1- Nguồn gốc và quá trình sử dụng thửa đất của gia đình ông Nguyễn Văn Tương: - Năm 1993 ông Nguyễn Văn Tương nhận chuyển quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Chiêm tại thửa số 12 tờ bản đồ số 3 xã Chu Hoá. - Ngày 20/3/1993 UBND xã Chu Hoá đã tiến hành giao đất cho ông Nguyễn Văn Tương tại thực địa. Biên bản giao đất thể hiện rõ: Chiều rộng thửa đất là 10,5m, chiều dài là 37,5m. Trong biên bản không ghi rõ vị trí mốc giới và diện tích. Nhưng qua xác định tại thực địa. Chiều dài thửa đất được tính từ mép ngoài rãnh dọc đường 310 (cũ) nay là quốc lộ 32C. - Năm 1998 ông Nguyễn Văn Tương được UBND huyện Phong Châu (cũ) cấp giấy CNQSD đất số 01818 ngày 8/12/1998. Diện tích cấp là 310 m2 (200 m2 đất ở, 110 m2 đất vườn) - Tháng 11/1999 ông Nguyễn Văn Tương tiến hành xây bờ tường gạch bao quanh diện tích thửa đất của ông Nguyễn Văn Tương và ông Nguyễn Duy Nhất. 2- Quá trình giải quyết của UBND xã Chu Hoá. - Trong khi ông Nguyễn Văn Tương xây dựng tường bao quanh thì ông Nguyễn Duy Nhất có đơn khiếu nại gửi UBND xã Chu Hoá. Đơn nêu ông Nguyễn Văn Tương xây dựng tường bao lấn sang đất thổ cư của ông. - UBND xã đã tiến hành hoà giải giữa 2 gia đình nhiều lần nhưng không được. UBND xã Chu Hoá đã giao cho bộ phận chuyên môn đi kiểm tra thực địa. Sau khi kiểm tra thực địa, UBND xã đã lập biên bản đình chỉ việc xây dựng tường bao vủa ông Nguyễn Văn Tương. - Tiếp sau đó UBND xã đã ra Quyết định số 19/QĐ-UB ngày 8/4/2000 của UBND xã Chu Hoá về việc thu hồi 7,9m2 đất của ông Nguyễn Văn Tương và buộc ông Tương phải tự tháo rỡ tường bao trả lại phần đất đã lấn chiếm của ông Nguyễn Duy Nhất. Ông Nguyễn Văn Tương không nhất trí với cách giải quyết của UBND xã Chu Hoá, nên đã viết đơn gửi các cơ quan có liên quan của huyện Lâm Thao đề nghị giải quyết. 3- Kết quả kiểm tra xác minh của Phòng Địa chính. - Diện tích đất của ông Nguyễn Văn Tương theo biên bản giao đất ngày 20/3/1993 của UBND xã Chu Hoá là 393,75 m2 (10,5 x 37,5) (trong đó có cả hành lang ATGT đường bộ) - Theo GCNQSD đất UBND huyện Phong Châu (cũ) đã cấp cho ông Nguyễn Văn Tương diện tích đất là 310 m2 là đã trừ 83,75 m2 đất thuộc hành lang ATGT đường tỉnh lộ 310 (nay là quốc lộ 32C). - Ngày 13/5/2000 Phòng Địa chính cùng UBND xã Chu Hoá kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của hộ Nguyễn Văn Tương thấy như sau: Hộ ông Tương đang sử dụng diện tích là 364 m2 tính từ mép ngoài rãnh dọc của quốc lộ 32C. Nếu trừ diện tích hành lang ATGT theo qui định từ mép ngoài rãnh dọc ra 2 bên là 10 m thì diện tích đất ông Tương còn sử dụng là 259m2. So sánh giữa sơ đồ trong biên bản giao đất ngày 20/3/93 với bản đồ 299 đo vẽ năm năm 1987 và bản đồ toạ độ địa chính xã Chu Hoá: Về hình thể và chiều dài thửa đất của ông Nguyễn Văn Tương kích thước chiều dài thửa đất được thể hiện như sau: - Theo biên bản giao đất là: 37,5 m - Theo bản đồ 299 là: 39 m (cạnh giáp đường xóm) - Theo bản đồ toạ độ là: 29,5 m - Thực tế kiểm tra: 35,5 m Còn chiều rộng thửa đất của ông Nguyễn Văn Tương giữa các tài liệu đều thống nhất với nhau, qua xem xét thực điạ thấy bờ tường rào theo chiều dài thửa đất ông Nguyễn Văn Tương đã xây ở đoạn cuối phần giáp với đất của ông Nguyễn Duy Nhất, ông Tương đã tự xây lùi vào đất của mình là 1,05m với chiều dài 4,05 m. Như vậy ông Tương đã tự nguyện bớt diện tích đất của mình theo biên bản giao đất là 4,25 m2. Tổng diện tích thửa đất của ông Nguyễn Văn Tương đang sử dụng là 364 m2, còn thiếu so với diện tích đất xã Chu Hoá đã giao ngày 20/3/1993 là 30 m2 (393,75 - 364 ) m. Rãnh thoát nước từ đất nhà ông Nguyễn Văn Tương chảy qua đường xóm ra rãnh công cộng đã bị ông Nguyễn Duy Nhất phá bỏ và xây 2 trụ cổng lên trên. II/ Kết luận: - Về bản đồ toạ độ địa chính xã đang sử dụng có sai sót là do lỗi của tổ công tác không chỉnh lý bản dồ khi hoàn chỉnh hồ sơ địa chính cấp giấy chứng nhận. Đề nghị UBND xã Chu Hoá cho sửa chữa lại đúng hiện trạng các thửa đất có liên quan. - UBND xã Chu Hoá ra Quyết định số 19/QĐ-UB ngày 8/4/2000 V/v giải quyết tranh chấp đất đai giữa hộ ông Nguyễn Văn Tương và Nguyễn Duy Nhất sau đó đã ra Quyết định số 20/QĐ-UB ngày 29/4/2000 thu hồi Quyết định số 19/QĐ-UB ngày 8/4/2000. Việc thu hồi và bãi bỏ hiệu lực của quyết định số 19/QĐ-UB của UBND xã Chu Hoá là việc làm đúng mức. Qua kiểm tra xác minh hộ ông Nguyễn Văn Tương đã xây bờ tường bao trong phần diện tích đất đã được UBND xã Chu Hoá giao ngày 20/3/1993 và phù hợp với giấy CNQSDĐ do UBND huyện Phong Châu cấp ngày 9/12/1998. Xét thực tế hộ ông Nguyễn Văn Tương đã có sự nhân nhượng đối với hộ ông Nguyễn Duy Nhất. Hộ ông Nguyễn Văn Tương không lấn chiếm đất của ông Nguyễn Duy Nhất. Việc hộ ông Nguyễn Duy Nhất phá rãnh thoát nước do ông Nguyễn Văn Tương xây qua đường vào xóm là có thật. Yêu cầu hộ ông Nguyễn Duy Nhất không phục lại rãnh nước cho ông Nguyễn Văn Tương. Việc tiêu thoát nước từ đường quốc lộ 32C chảy xuống, giữa các hộ cần có sự bàn bạc thống nhất và UBND xã có sự chỉ đạo để không gây ảnh hưởng đến các hộ có liên quan. Đường ranh giới giữa các thửa đất của các hộ giữ nguyên như hiện trạng kiểm tra ngày 13/5/2000. Ngày 23/6/2000 Phòng Địa chính đã thông qua bản dự thảo báo cáo với nội dung như trên tại hội nghị gồm có các đại biểu HĐND xã, cán bộ tư pháp, cán bộ địa chính xã và hộ ông Nguyễn Văn Tương, hộ ông Nguyễn Duy Nhất có giấy mời nhưng vắng mặt. Sau đó đã lấy ý kiến tham khảo của đồng chí Bí thư đảng uỷ, chủ tịch mặt trận và chủ tịch xã Chu Hoá. Mọi người đều thống nhất với nội dung bản báo cáo. Riêng ông Nguyễn Văn Tương đề nghị được công nhận đường ranh giới như biên bản giao đất ngày 20/3/1993. Kiến nghị: Phòng Địa chính đề nghị giữ nguyên hiện trạng đường ranh giới giữa các thửa đất như thực trạng ngày 13/5/2000 đã được Phòng Địa chính và UBND xã Chu Hoá kiểm tra. Phòng địa chính Lâm Thao Vụ 2: Về việc giải quyết đơn đề nghị và tố cáo của 8 hộ dân khu 5, xã Hy Cương. Nội dung như sau: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Đơn kiến nghị Kính gửi: UBND xã Hy Cương, HĐND xã, Đảng uỷ xã Hy Cương. Đồng kính gửi UBND huyện Lâm Thao, HĐND huyện Lâm Thao và Phòng NN & PTNT. Chúng tôi là dân cư khu 5, thôn Hóc Đá xã Hy Cương có tên sau đây: 1- Đào Ngọc Phương 5- Bùi Văn Tấn 2- Nguyễn Văn Long 6- Đào Văn Hùng 3- Nguyễn Văn Khắc 7- Triệu Văn Thế 4- Triệu Văn Thống 8- Nguyễn Văn Toản Và tất cả các hộ ở đồi Mả Vỹ viết đơn kiến nghị với các cấp có thẩm quyền gồm 6 nội dung sau: - Ông Đào Văn Lộc ở khu 2 xã Hy Cương được cấp có thẩm quyền cấp đất ở xứ Hóc Đá vào năm nào? - Ông Đào Văn Lộc có đúng là chủ hộ không? - Thủa đất nhà ông Lộc thuộc bản đồ qui hoạch số mấy, ô số qui hoạch bao nhiêu, cấp có thẩm quyền duyệt năm nào? - Ông Đào Văn Lộc mua với nhà nước là bao nhiêu m2 đất? - Ông Đào Văn Lộc mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất qua cấp nào? cấp nào có quyền cấp đất, chuyển nhượng và đã chuyển nhượng chưa. - Nay bố con ông Lộc đã chặt phá hàng trăm cây thông được nhà nước trồng từ 1982 để phủ xanh đất trắng khôi phục sinh thái cho Đền Hùng để làm vườn tư của gia đình, gia đình ông Lộc ngang nhiên phá hoại tài sản của công mà cả nước đã phải bỏ rất nhiều tiền của và công sức vào để xây dựng và tôn tạo. Gia đình ông Lộc đã chiếm dụng hơn 5000 m2 đất trái phép thuộc quĩ đất của nhà nước quản lý. Nay bố con ông Đào Văn Lộc bán số đất này lấy 270 triệu sử dụng riêng cho cá nhân gia đình, "1 sự làm giàu bất chính". Nếu tất cả nhân dân chúng tôi đều làm như gia đình ông Lộc "Chắc chắn Hy Cương sẽ sống toàn bộ ở nhà 4 tầng âm". Vậy tập thể dân cư thôn Hóc Đá khu 5 chúng tôi kiến nghị với cấp có thẩm quyền Nhà nước: 1- Thu hồi lại số đất hơn 5000 m2 mà gia đình ông Lộc đã lấn chiếm. 2- Có biện pháp hành chính với việc chặt phá rừng lấn chiếm đất mà nhà nước đã ban hành với gia đình ông Đào Văn Lộc nhất là ông Đào Văn Khoát là con trai sống trong cùng nhà "Là cán bộ chi hội hội cựu chiến binh khu 5, đảng viên ĐCSVN, sinh hoạt tại đội 5 xã Hy Cương" quần chúng nhân dân chúng tôi không biết có học được gì ở người đảng viên này cũng như các việc của gia đình bố con ông Đào Văn Lộc và Đào Văn Khoát để đem lại sự công bằng, văn minh, dân chủ mà Đảng, Nhà nước vẫn thường kêu gọi. Vậy chúng tôi làm đơn kiến nghị khẩn thiết giải quyết để làm gương cho các hộ khác tôn trọng pháp luật cũng như luật đất đai. Hy Cương ngày 16 tháng 3 năm 2003 Người viết đơn Nguyễn Văn Khắc UBND huyện Lâm thao Phòng NN & PTNT Số: 61/BC-NN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Lâm Thao, ngày 29 tháng 5 năm 2003 báo cáo của phòng NN & PTNT Về kết quả giải quyết đơn đề nghị, tố cáo của 8 hộ dân khu 5 xã Hy Cương UBND huyện Lâm Thao nhận được đơn khiếu nghị của 8 hộ dân khu 5 xã Hy Cương của ông Đào Ngọc Phương, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Khắc, Triệu Văn Thống, Bùi Trọng Tấn, Triệu Văn Thế, Nguyễn Văn Toản với nội dung hỏi, kiến nghị, tố cáo ông Đào Văn Lộc không có giấy tờ hợp lệ về đất thổ cư, tự ý cơi nới lấn chiếm mở rộng diện tích đất thổ cư trên 5000 m2 và tự ý chặt phá hàng trăm cây thông của Nhà nước, mua bán chuyển nhượng đất đai, thu lời bất chính. Sau khi xem xét nội dung đơn, UBND huyện Lâm Thao đã giao cho Phòng NN & PTNT xem xét, giải quyết. Căn cứ luật đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ xung một số điều của luật đất đai năm 1998 và năm 2001. - Căn cứ vào biên bản làm việc ngày 15/05/2003 giữa Phòng NN & PTNT, UBND xã Hy Cương, các ông đứng tên trong đơn kiến nghị và ông Đào Văn Lộc, Phòng NN & PTNT huyện Lâm Thao báo cáo kết quả kiểm tra, xem xét như sau: 1- Đối với nộ dung kiến nghị làm rõ nguồn gốc đất của ông Đào Văn Lộc. Ông Đào Văn Lộc đến ở tại khu đồi Mả Vỹ từ năm 1989, đến năm 1990 ông được Nhà nước cấp đất thổ cư, diện tích cấp là 300 m2. Quyết định cấp đất số: 371/QĐ-UBND ngày 11/09/1990 tại Hóc Đá do Phó chủ tịch UBND huyện Phong Châu ký. Tuy nhiên do thời điểm khi đó, về trình tự, thủ tục cấp đất chưa qui định rõ, nên về phía Nhà nước cấp xã cũng chưa có bản vẽ qui hoạch giao đất mà chỉ thể hiện bằng danh sách cấp đất, địa điểm và diện tích được cấp, UBND xã cũng không tiến hành giao đất tại thực cho ông Lộc. Sau khi ông Lộc đến ở năm 1989, năm 1990, ông Lộc có quyết định giao đất, ông Lộc đã tự khai phá, mở rộng diện tích để trồng cây cối, hoa màu và trồng bạch đàn diện tích gia đình ông đăng ký với UBND xã và kê khai nộp thuế năm 1992 có diện tích là 2.250 m2. Năm 2002 sau khi Nhà nước làm xong quốc lộ 32C và UBND xã Hy Cương đo đạc, lập bản đồ và hoàn chỉnh hồ sơ địa chính để cấp GCN quyền sử dụng đất cho nhân dân, thì khuân viên diện tích khu đất thổ cư của ông Lộc có diện tích là 5.562 m2. 2- Đối với diện tích chuyển nhượng đất đai. Năm 2002, ông Lộc đã lập hồ sơ chuyển nhượng bớt 1 phần khu đất vườn do gia đình ông quản lý cho ông Trung và ông Đông. Diện tích chuyển nhượng là: Chiều dài mặt đường là 30 m và chiều sâu vào trong là 30 m, diện tích khoảng 1.000 m2. Việc chuyển nhượng đất đai giữa ông Lộc với các ông Trung và Đông đã được UBND xã Hy Cương đồng ý, cho phép và xác nhận vào hồ sơ, tuy nhiên do còn vướng mắc về đơn kiến nghị, nên UBND huyện Lâm Thao chưa xác nhận, cho phép chuyển nhượng được. 3- Về nội dung chặt phá thông của Nhà nước. Khu đồi Mả Vỹ trước năm 1988 là đất lâm nghiệp, tổng diện tích của khu đồi này là 28.300 m2. Tuy nhiên do không rõ chủ quản lý, sử dụng giữa UBND xã Hy Cương và ban quản lý khu di tích lịch sử Đền Hùng nên một số hộ dân xã Hy Cương đã đến để làm nhà và trồng màu, nên diện tích đất lâm nghiệp không còn mà chuyển sang thành đất ở và đất vườn của một số hộ dân tại đây. Trong đó có các hộ: 1- Hộ ông Lộc có quyết định cấp đất năm 1990 - diện tích 300 m2 - diện tích hiện nay là 5.562 m2. 2- Hộ ông Phương xã tự cấp năm 1984 - diện tích 300 m2 - diện tích hiện nay là 9.420 m2. 3- Hộ ông Thống huyện cấp năm 1988 - diện tích 300 m2 - diện tích hiện nay là 5.760 m2. 4- Hộ ông Khắc huyện cấp năm 1982 - diện tích 300 m2 - diện tích hiện nay là 7.995 m2. 5- Ông Triệu Văn Thế huyện cấp năm 1982 - diện tích 300 m2 - diện tích hiện nay là 2.860 m2. Đối với các cây thông và bạch đàn có trên đồi Mả Vỹ từ trước khi các hộ đến ở do ban quản lý Đền Hùng trồng, tuy nhiên khi có các hộ đến tại đồi này thì giữa xã, Ban quản lý Đền Hùng và các hộ không có sự bàn giao thoả thuận hay hợp đồng trồng cây nào, mặt khác cho đến nay chưa có biên bản nào được lập vì việc chặt phá cây tại khu vực này, do vậy việc tố cáo ông Lộc tự ý chặt phá thông của Nhà nước là không có cơ sở. Kết luận và kiến nghị. I- Kết luận. 1. Đối với nội dung đơn kiến nghị của 8 hộ dân cư khu 5 - xã Hy Cương có nêu lên việc ông Lộc bán đất vườn cho 2 hộ là ông Trung và ông Đông là có thật, việc mua bán này được pháp luật thừa nhận, tuy nhiên còn có vướng mắc nên Nhà nước chưa phê duyệt. Việc ông Lộc thu lợi bất chính chưa có cơ sở để khẳng định, tuy nhiên việc chuyển nhượng phải theo đúng qui định của pháp luật. 2. Đối với nguồn gốc đất thổ cư của ông Lộc: ông Lộc cũng như một số ông trong khu vực, do UBND xã Hy Cương và UBND huyện cấp đất trước năm 1990. Về pháp lý Nhà nước thừa nhận mỗi hộ có 300 m2 là đất ở, số diện tích còn lại là đất vườn do xã giao. Ông Lộc đã có quyết định giao đất của huyện Phong Châu. Việc sử dụng đất của ông Lộc (đất ở và đất vườn) là hợp pháp, ông lộc đã được cấp GCN quyền sử dụng đất như các hộ khác trong khu đồi này. 3. Đối với nội dung ông Lộc chặt phá thông của Nhà nước, do không có cơ sở rõ ràng nên các hộ đã xin rút không tố cáo nội dung này. II- Kiến nghị. 1. Đề nghị Nhà nước xem xét lại khu vực này, nếu có chủ trương mở rộng, làm mới các công trình phục vụ Đền Hùng, có sử dụng đến đất ở của khu vực này thì đề nghị không cho phép lập hồ sở mua bán, chuyển nhượng đất đai nhằm dễ thu hồi sau này, bao gồm hộ ông Lộc và các hộ khác trong khu vực. 2. Nếu không có chủ trương thu hồi đất khu vực này để sử dụng vào mục đích chung thì cho phép các hộ được sử dụng diện tích đất vườn, đất nông nghiệp tiếp tục đến năm 2013 thì thu hồi lại (trong phạm vi 28.300 m2). Trên đây là báo cáo của Phòng NN & PTNT để UBND huyện biết xem xét và quyết định./. Phòng NN & PTNT huyện Lâm Thao Phó truởng phòng Phan Văn Thảo Vụ 3: Về việc giải quyết đơn đề nghị và tố cáo của bà Dương Thị Nhật khu 5, thôn Bồng Lạng, xã Hợp Hải, nội dung đơn như sau: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------- Đơn đề nghị Kính gửi: UBND huyện Lâm Thao qua UBND xã Hợp Hải. Tên tôi là: Dương Thị Nhật. Cán bộ hưu trí, cư trú tại khu 5 - xóm Bồng Lạng - xã Hợp Hải. Nay đề nghị với UBND huyện Lâm Thao 3 việc như sau: I- Năm 1983 tôi đi công tác vắng, ở nhà UBND xã Hợp Hải lúc bấy giờ ông Xiêm là Phó chủ tịch, ông Tỵ là địa chính của xã có cắt của gia đình tôi mất 144 m2 ao và 72 m2 đất thổ cư cho gia đình nhà ông Lưu Hữu Chi đến nay tôi chưa rõ số diện tích của gia đình tôi bị cắt đó đã thuộc vào diện tích bìa đỏ nhà ông Chi, hay vẫn còn ở diện tích thổ cư của gia đình tôi. Vậy, việc làm của UBND xã Hợp Hải đúng hay sai đối với chính sách đất đai của Nhà nước. Nếu đúng thì thôi mà nếu sai thì tôi đề nghị với UBND huyện Lâm Thao xem xét, giải quyết để gia đình tôi được lấy lại số diện tích nói trên. II- Từ ngày ông Lê Hữu Tri được huởng số diện tích của gia đình tôi nói trên, ông Tri trải qua nhiều năm đào khoét đến nay đất thổ cư của gia đình tôi lở xuống báo nhiêu thì ông Tri lại đào khoét đắp sang phía nhà ông Tri bấy nhiêu. Vì vậy đến bây giờ cõi mốc không còn nữa, gia đình tôi đã có đơn lên UBND xã Hợp Hải đề nghị UBND xã Hợp Hải về xác minh và chỉ ra cỏi mốc cho gia đình tôi, nhưng UBND xã Hợp Hải và ban địa chính xã về làm việc 3 lần nhưng đến nay vẫn chưa xong và UBND xã Hợp Hải đã lập hồ sơ của tôi gửi lên UBND huyện Lâm Thao đến nay vẫn chưa thấy UBND huyện Lâm Thao giải quyết. Vậy tôi đề nghị UBND huyện Lâm Thao xem xét, giải quyết để tôi được thoả đáng. III- Hiện nay gia đình tôi chưa được UBND huyện Lâm Thao cấp sổ bìa đỏ với lý do: Là tôi nhận khoán của hợp tác xã 4 thửa ruộng: 1 thửa 1 sào 9 thước cạnh bờ trục, thửa thứ 2 ngoài đồng lạc 14 thước, còn 2 thửa ở đồng cây đa với diện tích là 1 sào. Khi giao đất cơ bản cho gia đình tôi thì UBND xã Hợp Hải điều cho gia đình tôi 2 thửa ruộng đều là đất loại C 1 thửa cạnh bờ trục thì là thửa đầu trâu mỏm bò, vả lại cạnh bờ chuối chuột phá nhiều nên mỗi vụ tôi mất đất đi 1 tạ thóc. Thửa thứ 2 điều cho tôi là 1 miếng ruộng cao trên đỉnh đồng cát. Vì vậy tôi đã nhiều lần đến nhà ông trưởng khu 5 để đề nghị nhưng ông trưởng khu lại đổ cho UBND xã Hợp Hải. Đến UBND thì ban địa chính xã lại đổ cho ông trưởng khu. Do vậy, mà tôi chưa kí đơn điều chỉnh ruộng đất của UBND xã, đến nay gia đình tôi chưa có sổ bìa đỏ. Vậy tôi đề nghị UBND huyện Lâm Thao xem xét và cấp sổ bìa đỏ cho gia đình tôi. Vậy tôi làm đơn này đề nghị với UBND huyện Lâm Thao xem xét ba vấn đề tôi đã nêu ở trên, giải quyết để gia đình tôi được thoả đáng. Những lời tôi đề nghị trên, tôi xin nhận kỷ luật trước Đảng và chính quyền huyện Lâm Thao. Hợp Hải, ngày 7 tháng 5 năm 2002 Người viết đơn Dương Thị Nhật Sau đây là kết quả giải quyết của phòng NN & PTNT : UBND huyện Lâm thao Phòng NN & PTNT Số: 61/BC-NN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Lâm Thao, ngày 29 tháng 11 năm 2002 báo cáo Kết quả xác minh theo đơn đề nghị của bà Dương Thị Nhật - Công dân xã Hợp Hải ------------------ - Ngày 27/5/2002 Phòng NN & PTNT huyện Lâm Thao nhận được đơn khiếu nại về đất đai đề ngày 7/5/2002 của bà Dương Thị Nhật - Công dân xã Hợp Hải. - Căn cứ luật khiếu nại tố cáo ban hành ngày 02/12/1998. - Căn cứ luật đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ xung một số điều của luật đất đai năm 2001. - Căn cứ hồ sơ địa chính xã Hợp Hải. - Căn cứ biên bản làm việc ngày 27/11/2001 giữa phòng NN & PTNT - UBND xã Hợp Hải và các hộ có liên quan. Phòng NN & PTNT xin báo cáo kết quả kiểm tra xác minh theo đơn đề nghị của Bà Dương Thị Nhật, công dân khu 5, thôn Bồng Lạng, xã Hợp Hải như sau: Nội dung đơn: Bà Dương Thị Nhật đề nghị 3 nội dung: - Đề nghị làm rõ diện tích 216 m2 của gia đình bà bị cắt từ năm 1983 cho gia đình ông Lê Hữu Chi. - Đề nghị giải quyết việc ông lê Hữu Chi đào đất làm lở đất, mất mốc giới giữa 2 gia đình. - Đề nghị UBND huyện xem xét cấp bìa đỏ (Giấy CNQSD đất cho gia đình bà). I- Kết quả kiểm tra xác minh. 1- Nguồn gốc sử dụng đất của các hộ. a, Hộ bà Dương Thị Nhật. Theo bà Dương Thị Nhật báo cáo: Khu vực bà đang ở là đất của mẹ đẻ của bà trước kia để lại, năm 1954 Nhà nước đã cho đào đất để đắp đê sử dụng vào phần đất của mẹ bà là 12 thước. Sau khi đào đất, thành thửa đất ao, năm 1980 mẹ bà chết, đã để lại đất ở và thửa đất ao đó cho bà sử dụng. Năm 1983, cán bộ xã Hợp Hải đã cắt 1/2 diện tích thửa ao đó cho ông Lê Hữu Chi canh tác, còn 1/2 đã giao cho bà sử dụng. Năm 1999 bà Dương Thị Nhật đã lấp diện tích đất ao để định làm nhà cho con (nhưng chưa thực hiện). Phần diện tích ao của ông Lê Hữu Chi, cũng lấp dần và đến năm 2001 thì hộ ông Lê Hữu Chi cũng lấp xong toàn bộ diện tích ao. b, Chủ hộ Lê Hữu Chi: Theo báo cáo của bà Bùi Thị Thước (vợ ông Lê Hữu Chi): Gia đình ông Lê Hữu Chi cũng ở tại khu vực đó từ trước kia, năm 1983, gia đình ông được UBND xã Hợp Hải giao thêm 1 ít đất ao để làm thổ cư vì Nhà nước mở rộng đê. Khi được giao đất ao, hộ bà Dương Thị Nhật đã đắp bờ ngăn để phân ranh giới giữa 2 hộ, việc bà Dương Thị Nhật nói hộ ông Lê Hữu Chi đào đất lở của bà Dương Thị Nhật, lầm mất ranh giới giữa 2 hộ là không đúng. 2- Giải quyết của UBND xã Hợp Hải. Theo báo cáo của UBND xã Hợp Hải: Phần đất dọc theo đê Trung ương do việc lấy vật liệu đắp đê nên đã trở thành các thùng đấu, ao hồ ngập nước, ban đầu không sử dụng. Sau này có một số hộ có nhu cầu canh tác, UBND xã Hợp Hải đã tổ chức giao cho các hộ (trong đó có hộ bà Dương Thị Nhật và ông Lê Hữu Chi) sử dụng làm ao nuôi cá. Nhưng đến nay không có chứng từ hồ sơ gì về việc giao đất hồi đó để lại. UBND xã Hợp Hải đã đến làm công tác hoà giải 3 lần theo phương án giữ nguyên hiện trạng các thửa đất của 2 hộ đang sử dụng nhưng các hộ không nhất trí. Về việc cấp giấy CNQSD đất của bà Dương Thị Nhật: Khi nhận hồ sơ để đăng ký QSD đất, hộ bà Dương Thị Nhật không thắc mắc gì về đất thổ cư, chỉ thắc mắc về đất trồng lúa nên bà không ký đơn, vì vậy hội đồng đăng ký đai xã không xét duyệt để cấp giấy CNQSD đất cho bà. 3- Kết quả thẩm tra xác minh. a, Về hồ sơ địa chính. Thửa đất thổ cư số 5, diện tích ghi 632 m2 của bà Dương Thị Nhật được vẽ tại tờ bản đồ số 32, xã Hợp Hải (bản đồ toạ độ địa chính). Thửa đất thổ cư số 93, diện tích ghi 768 m2 của ông Lê Hữu Chi được thể hiện tại tờ bản đồ số 27 (bản đồ toạ độ địa chính). Qua xem xét, ghép biên giữa 2 tờ bản đồ trên đã thấy có sự sai lệch: 3 cạnh của thửa đất có liên quan giữa 2 tờ bản đồ đều bị sai lệch nhau, có cạnh chênh lệch nhau 1,3 m. Đây là sai số do việc đo vẽ bản đồ, khi chỉnh lý bản đồ, lập hồ sơ địa chính để cấp GCNQSD đất cho nhân dân, đã không phát hiện ra sai sót này nên được xét cấp GCNQSD đất. b, Về hiện trạng. Trên hiện trường, qua xem xét ngày 27/11/2002 thấy như sau: Giữa 2 thửa đất thổ cư của bà Dương Thị Nhật và ông Lê Hữu Chi có một hàng rào cây xanh, gồm các cây cúc tần, cây ổi, cây xung lá lớn, phía bên đất của ông Lê Hữu Chi có một đường thoát nước chạy dọc theo bờ rào các cạnh của thửa đất. - Toàn bộ diện tích đất ao do UBND xã Hợp Hải giao năm 1983 cho các hộ đã đã bị các hộ tự ý đổ đất, san lấp thành vườn. Ông Lê Hữu Chi đã tự ý xây bờ rào và trụ cổng với chiều dài 27 m bằng gạch xỉ, vi phạm hành lang giải toả 5 m dọc theo chân đê Trung ương (theo chủ hộ báo cao xây tháng 10/2002). II- Kết luận - Kiến nghị. 1- Kết luận: a, Việc giao đất ao của UBND xã Hợp Hải năm 1983 cho các hộ để nuôi cá là việc làm đúng đắn, nhưng có thiếu sót là không lập hồ sơ, văn bản để lưu trữ. Việc đòi hỏi về 144 m2 đất ao và 72 m2 đất thổ cư của bà Dương Thị Nhật là không có cơ sở giải quyết. b, Việc bà Dương Thị Nhật tố cáo ông Lê Hữu Chi đào đất làm mất ranh giới giữa 2 thửa đất là không có bằng chứng và không có căn cứ xác đáng. c, Việc bà Dương Thị Nhật đòi hỏi được cấp GCNQSD đất là chính đáng nhưng bà chưa ký vào đơn đăng ký quyền sử dụng đất và đề nghị cấp GCNQSD đất nên hội đồng đăng ký đất đai xã Hợp Hải không xem xét cấp GCNQSD đất cho bà là đúng luật đất đai qui định. 2- Kiến nghị: Đề nghị UBND huyện ra văn bản yêu cầu: a, Về ranh giới 2 thửa đất thổ cư của bà Dương Thị Nhật và ông Lê Hữu Chi: Vì trên hiện trạng đã thể hiện rõ ràng đường ranh giới bằng cây xanh (cả 2 hộ đều thừa nhận) nên yêu cầu giữ nguyên hàng cây xanh đã có để làm đường ranh giới giữa 2 thửa đất (gồm các cây ôỉ, cây xung đã khá lớn và hàng rào bằng cây cúc tần). - Yêu cầu UBND xã Hợp Hải tiến hành kiểm tra lại kích thước, diện tích các thửa đất theo đường ghép biên giữa 2 tờ bản đồ số 27 và 32 để chỉnh lý lại bản đồ và hồ sơ địa chính. b, Về việc các hộ tự lấy đất ao làm vườn: Đáng lẽ phải xử lý vi phạm theo Nghị định 04/CP ngày 10/01/1997 của Chính phủ. Nhưng xét thấy có thể châm trước, đề nghị UBND huyện không sử phạt vi phạm hành chính đối với 2 hộ nhưng yêu cầu 2 hộ không được tự ý xây dựng các công trình hoặc nhà ở mà phải sử dụng vào mục đích đất nông nghiệp. c, Yêu cầu UBND xã Hợp Hải kết hợp với chi cục quản lý đê điều, kiểm tra lập biên bản, xử phạt vi phạm hành chính và buộc tháo dỡ giải phóng mặt bằng đối với hộ ông Lê Hữu Chi về việc ông tự ý xây tường rào bằng gạch trong phạm vi giải toả bảo vệ đê Trung ương và báo cáo kết quả bằng văn bản về UBND huyện Lâm Thao. Phòng NN & PTNT xin báo cáo kết quả kiểm tra xác minh theo đơn đề nghị và qua kiểm tra hiện trường đề nghị UBND huyện xem xét giải quyết. Phòng NN & PTNT huyện KT/ trưởng phòng Phó Trưởng phòng Đào Hữu Thuỷ UBND huyện Lâm thao Phòng NN & PTNT Số: 61/BC-NN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa việt nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Lâm Thao, ngày 12 tháng 12 năm 2002 quyết định của chủ tịch UBND huyện Lâm Thao "V/v giải quyết đơn khiếu nại của bà bà Dương Thị Nhật công dân khu 5 Thôn Bồng Lạng - xã Hợp Hải". ----------------- Chủ tịch UBND huyện Lâm Thao - Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND ban hành ngày 21/6/1994 - Căn cứ luật khiếu nại tố cáo ban hành ngày 2/12/1998. - Căn cứ luật đất đai năm 1993 và luật sửa đổi bổ xung một số điều của luật đất đai ban hành ngày 29/6/2001. - Căn cứ báo kết quả kiểm tra xác minh của Phòng NN & PTNT. Xác định nội dung đơn khiếu nại của bà Dương Thị Nhật như sau: 1- Đơn nêu: Đề nghị làm rõ diện tích đất 216 m2 (144 đất ao và 72 m2 đất thổ cư) của gia đình bà Dương Thị Nhật bị cắt từ năm 1983 cho hộ ông Lê Hữu Chi là đúng hay sai. Từ năm 1954, nhà nước tổ chức tu bổ nâng cấp đê Sông Hồng, nên đã sử dụng đất ở gần chân đê để làm vật liệu (gồm có đất lúa, đất màu, đất vườn), trong đó có đất của gia đình bà Dương Thị Nhật và các hộ khác. Sau khi lấy đất làm vật liệu, trở thành các vùng đấu ngập nước, không canh tác được (tức đất chưa sử dụng) thường gọi là ao. Năm 1983, có một số hộ dân xin UBND xã và HTXNN Hợp Hải cho cải tạo để nuôi thả cá, trong đó có hộ ông Lê Hữu Chi và bà Dương Thị Nhật. UBND xã Hợp Hải đã nhất trí giao cho 2 hộ trên, mỗi hộ 1/2 diện tích đất của ao. Hộ bà Dương Thị Nhật đã đắp bờ ngăn đôi ao, để chăn nuôi, đồng thời cũng xác lập đường ranh giới đất được giao 2 hộ bà Nhật và ông Chi. Về việc này, chứng tổ bà Dương Thị Nhật đã nhất trí với cách giao đất của UBND xã Hợp Hải từ năm 1983. Hơn nữa việc giao đất chưa sử dụng cho các hộ canh tác, chăn nuôi là phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy việc giao đất cho ông Lê Hữu Chi và bà Dương Thị Nhật đối với thửa đất ao (thực chất là diện tích đất chưa sử dụng do việc đầo đất làm nguyên vật liệu đắp đê tạo nên) là đúng đắn. Nay bà Dương Thị Nhật khiếu nại là không có cơ sở giải quyết. 2- Đơn nêu: Đất thổ cư của hộ bà Dương Thị Nhật lở bao nhiêu thì ông Lê Hữu Chi đào khoét bấy nhiêu, làm mất mốc giới giữa 2 thửa đất của 2 hộ. Qua xem xét: Hộ bà Dương Thị Nhật và hộ ông Lê Hữu Chi đã tự ý san lấp hết diện tích đất ao được giao ban đầu, mặt bằng phần diện tích đất của hộ bà Dương Thị Nhật cao hơn phần đất của ông Lê Hữu Chi khoảng 20 - 30 cm, ranh giới giữa 2 thửa đất của 2 hộ có hàng cây xanh: Hàng cây cúc tần và có cây ổi, cây xung đã lớn giữa ranh giới do hộ bà Dương Thị Nhật trồng. Cả 2 hộ đều xác nhận hàng cây xanh đó là ranh giới đất giữa 2 hộ. - Phía đất của ông Lê Hữu Chi có một rãnh nước chạy dọc theo hàng cây xanh, sâu từ 0,3 đến 0,5. Vì vậy đất bị lở từ 2 bờ xuống là điều tự nhiên. Tuy nhiên ranh giới hai thửa đất vẫn được xác định rõ ràng nhờ hàng cây xanh cố định. Bà Dương Thị Nhật tố cáo việc hộ ông Lê Hữu Chi đào khoét đất của hộ bà Dương Thị Nhật là chưa có bằng chứng. 3- Đơn nêu: Đề nghị UBND huyện cấp bìa đỏ (giấy CNQSD đất) cho bà. Năm 1997 - 2000 UBND xã Hợp Hải tổ chức kê khai, đăng ký, để cấp GCNQSD đất cho nhân dân toàn xã. Hộ bà Dương Thị Nhật không khiếu nại gì về thửa đất thổ cư đang ở, chỉ thắc mắc về một số thửa đất lúa, nên đã không kê khai và đăng ký vào đơn đăng ký QSD đất. Vì vậy UBND xã Hợp Hải không xem xét để đề nghị cấp GCNQSD đất cho bà được. Việc bà chưa được cấp giấy CNQSD đất là do bản thân bà không đăng ký, chứ không phải do UBND xã Hợp Hải gây ra. * Về hồ sơ địa chính xã Hợp Hải: - tờ bản đồ số 27 và tờ bản đồ số 32 có sai lệch, không ghép biên được, nên kích thước và diện tích các thửa đất có liên quan bị sai lệch (trong đó có thửa đất số 5 tờ bản đồ 32 của bà Dương Thị Nhật và thửa đất số 93, tờ bản đồ 27 của ông Lê Hữu Chi), đây là thiếu sót của UBND xã Hợp Hải, cần phải điều chỉnh lại cho đúng thực tế. Qua xem xét thực địa: Hộ ông Lê Hữu Chi đã tự ý xây 27 m tường rào bằng gạch xỉ và 2 trụ cổng trong phạm vi giải toả hành lang đê (trong chỉ giới 5 m). Từ các cơ sở nêu trên. quyết định Điều 1: 1- Bác đơn, đề nghị của bà Dương Thị Nhật về việc đòi lại 144 m2 và 72 m2 đất thổ cư cử ông Lê Hữu Chi. Việc bà Dương Thị Nhật tố cáo ông Lê Hữu Chi đào đất làm mất ranh giới giữa hai thửa đất của hai hộ là không có căn cứ. 2- Giữ nguyên ranh giới hienẹ nay giữa 2 thửa đất thổ cư cử bà Dương Thị Nhật và ông Lê Hữu Chi. Đường ranh giới được xác định bằng hàng cây xanh (cây ổi, cây cúc tần, cây xung…) 3- Yêu cầu 2 hộ không được tỵ ý xây các công trình và nhà ở vào diện tích đất ao đã bị lấp để làm vườn, mà chỉ được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp. 4- Yêu cầu bà Dương Thị Nhật làm đơn đăng ký quỳen sử dụng đất với UBND xã Hợp Hải để được xem xét, cấp giấy CNQSD đất. Điều 2: 1- Giao cho UBND xã Hợp Hải tiến hành kiểm tra lại kích thước, diện tích các thửa đất theo ghép biên giữa 2 tờ bản đồ số 27 và 32 để chỉnh lý lại bản đồ và hồ sơ địa chính đồng thời xác định rõ mốc giới giữa 2 thổ cư của bà Dương Thị Nhật và ông Lê Hữu Chi thời gian xong trước ngày 30/12/2002. 2- Giao cho UBND xã Hợp Hải phối hợp với chi cục quản lý đê điều kiểm tra, lập biên bản, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi tự ý xây trụ cổng và tường rào trong phạm vi giải toả hành lang đê Trung ương. Buộc ông Lê Hữu Chi tháo rỡ toàn bộ tường rào và trụ cổng đã xây dựng trái phép. UBND xã Hợp Hải có văn bản báo cáo kết quả về UBND huyện Lâm Thao trước ngày 31/12/2002. Điều 3: Các ông Chánh văn phòng HĐND & UBND, Trưởng phòng NN & PTNT, Chủ tịch UBND xã Hợp Hải và các ông bà có tên nêu trên căn quyết định thi hành. Nơi nhận: tm/ UBND huyện Lâm Thao - Các đ/c TTUB k/t chủ tịch - UBND xã Hợp Hải Phó chủ tịch - Chi cục QL đê điều - Thanh tra Triệu Vương Hà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36203.doc
Tài liệu liên quan