Đề tài Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tên đề tài: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT” 2. Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay giáo dục luôn song hành với những bước phát triển của thời đại, mục tiêu giáo dục luôn gắn liền với mục tiêu thời đại. Trong thời đại ngày nay khi nước ta đang có những bước tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập cùng thế giới (tháng 1 năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO[1]), thì mục tiêu quan trọng cấp thiết của ngành giáo dục là đào tạo ra đội ngũ lao động có trình độ cao đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, đào tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp Nhưng cho đến nay, nền giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn tại khá nhiều vấn đề bất cập bắt đầu từ việc xây dựng chương trình học, nội dung, phương pháp giảng dạy, đội ngũ cán bộ giáo viên và hậu quả tất yếu của nền giáo dục chưa hiệu quả đó là sản phẩm của nền giáo dục (chất lượng lao động) còn có một khoảng cách khá xa so với tiêu chuẩn chung của toàn thế giới nhất là so với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chất lượng lao động của Việt Nam chỉ đạt 29,6% so với tiêu chuẩn của Quốc tế(100%) trong khi đó Philippin đạt 49,7%, Trung Quốc 52,5%, Singapo đạt 70,2% .Qua đó ta có thể thấy rằng nền giáo dục Việt Nam đang bị tụt hậu so với nền giáo dục của thế giới và khu vực. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2006 Việt Nam xếp hàng chót trong khu vực Châu Á về số người học đại học. Nếu xét trong độ tuổi từ 20-24 chỉ có 10% học đến đại học so với thế giới là 15%, Thái Lan là 41%, Hàn Quốc là 89%. Tỷ lệ 167 sinh viên/ 1 vạn dân của nước ta hiện nay là quá thấp trong khu vực. Thực trạng này của nền giáo dục đã sớm được phát hiện và nền giáo dục nước ta cũng đã và đang tiến hành nhiều lần đổi mới cải cách giáo dục để đưa chất lượng nền giáo dục tiến lên. Có nhiều biện pháp đã được đưa vào thực hiện như: cải cách chương trình SGK ở phổ thông, đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường, chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục Chương trình phân ban được triển khai đại trà ở THPT năm học 2006-2007 cũng là một trong những cố gắng của ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam, định hướng tương lai cho nền giáo dục nước nhà nhưng cho đến nay nó vẫn bộc lộ khá nhiều bất cập. Là những nhà giáo trong tương lai, chúng tôi cũng rất quan tâm và có một số những băn khoăn thắc mắc xung quanh vấn đề này. Đó là: 1. Cho đến nay ngành giáo dục nước ta đã tiến hành khá nhiều lần phân ban nhưng chưa có lần nào phát huy được hiệu quả của nó, cứ phân ban rồi lại bỏ. Điều này tác động không tốt đến nền giáo dục nước nhà. Do vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu xem chương trình phân ban hiện nay đã thực sự phù hợp với học sinh chưa? Nó có tác động như thế nào đến quá trình học tập của học sinh? 2. Khi chương trình phân ban được thực hiện đại trà có một thực trang tại hầu hết các trường Phổ thông đó là phần lớn học sinh chọn ban cơ bản và ban Tự nhiên còn ban KHXH-NV không có hoặc có rất ít học sinh lựa chọn. Theo thống kê của Bộ Giáo dục- Đào tạo với trên 1,1 triệu học sinh lớp 10 trong năm 2006- 2007 ở 64 tỉnh, thành phố thì ban KHXH- NV chiếm 6,47%, ban KH cơ bản 72.76%. ban KH Tự nhiên chiếm 19,77%. Riêng tại TP Hồ Chí Minh 1% học sinh học Ban KHXH[2]. Vậy nguyên nhân gì dẫn đến sự chênh lệch này? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến sự lựa chọn phân ban của học sinh THPT Trong đề tài này, chúng tôi không có tham vọng có thể đưa ra được những cải cách mới cho nền giáo dục Việt Nam nhưng rất mong rằng thông qua đề tài này bước đầu chúng tôi có thể tìm thấy câu trả lời cho những băn khoăn thắc mắc của mình. Thiết nghĩ nó cũng rất hữu ích cho công việc của chúng tôi sau này. Là những người giáo viên tương lai chúng tôi có thể biết được mình cần chuẩn bị những gì cho việc dạy học phân ban và xa hơn là dạy học tự chọn sau này. Ngoài ra, khi hiểu được các yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh thì chúng tôi có thể định hướng cho học sinh giúp các em có những lựa chọn đúng đắn vì việc lựa chọn ban học là một bước ngoặt khá quan trọng quyết định đến việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của các em. 3. Lịch sử nghiên cứu đề tài Giai đoạn THPT là giai đoạn quan trọng đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của các em sau này vì vậy công tác hướng nghiệp trong bậc THPT[3] đã được ngành giáo dục chú trọng từ rất lâu. Đã có rất nhiều bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học, nhiều cuốn sách viết về giáo dục Hướng nghiệp cho học sinh THPT. Từ năm học 2006-2007, khi Bộ Giáo dục Đào tạo thực hiện chủ trương phân ban trên diện rộng thì sự lựa chọn ban học của học sinh khi bước vào đầu lớp 10 cũng trở nên rất quan trọng. Nó là tiền đề cho việc lựa chọn khối thi và lựa chọn nghề nghiệp của các em sau này. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được chú trọng nghiên cứu. Mọi người mới chỉ tập trung thảo luận xem chương trình phân ban đã phù hợp chưa? Nó bất cập ở điểm nào? Các trường thực hiện phân ban ra sao? Chứ chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về tác động của một số yếu tố trong việc lựa chọn ban và chọn nghề của học sinh THPT. Trong Hội nghị khoa học sinh viên lần thứ VI (năm 2007)của Khoa Sư Phạm- Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã có một đề tài nghiên cứu về chương trình phân ban của các bạn K50 SP Hoá nhưng mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá bước đầu về chương trình phân ban chứ chưa đặt nó trong mối tương quan tác động đến tâm lý của học sinh khi chọn ban. Trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi muốn một cái nhìn sâu sắc hơn về một số yếu tố tác động đến việc chọn ban học của học sinh THPT nhưng chúng tôi cũng không bỏ qua những kiến thức tương đối sâu sắc về chương trình phân ban. 4. Đối tượng nghiên cứu Là một số yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT ngoài ra còn nghiên cứu, tìm hiểu về chương trình phân ban hiện nay. Nhưng do thời gian có hạn, chúng tôi mới chỉ tiến hành khảo sát tại một số lớp 10 và 11 trường THPT Nhân Chính – Hà Nội. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các loại sách, tạp chí có nội dung liên quan đến phân ban và tâm lý học sinh THPT sau đó tiến hành tổng hợp phân tích tài liệu. - Phương pháp điều tra thống kê: xây dựng mẫu phiếu điều tra gồm 14 câu hỏi có nội dung về : các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT ; việc có hay không thi đại học sau khi tốt nghiệp THPT; về thế mạnh của học tập của học sinh sau đó phát cho học sinh trường THPT Nhân Chính để trưng cầu ý kiến của các em. Cuối cùng, tổng hợp số liệu điều tra, rút ra nhận xét đánh giá. - Phương pháp quan sát : thu thập thông tin thông qua những quan sát nghi chép mọi yếu tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Trong báo cáo này chúng tôi quan sát một buổi học ngoại khoá của các em học sinh về lựa chọn nghề nghiệp. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tên đề tài: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT” 2.Lý do chọn đề tài 3.Lịch sử nghiên cứu đề tài 4. Đối tượng nghiên cứu 5.Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHÍNH I.Vài nét về phân ban 1. Khái quát chung về phân ban: 2. Lịch sử phân ban ở nước ta: 2.1 Trước cách mạng Tháng Tám 1945 2.2 Sau cách mạng Tháng Tám 1945 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP a.Kết luận b.Kiến nghị, Giải pháp 2.1 Về phía bản thân học sinh 2.4. Về phía giáo viên 2.5. Về phía gia đình 2.6. Về phía các nhà hoạch định giáo dục DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2321 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU Tên đề tài: “Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT” Lý do chọn đề tài Từ xưa đến nay giáo dục luôn song hành với những bước phát triển của thời đại, mục tiêu giáo dục luôn gắn liền với mục tiêu thời đại. Trong thời đại ngày nay khi nước ta đang có những bước tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập cùng thế giới (tháng 1 năm 2007 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO WTO Tổ chức thương mại quốc tế thành lập ngay 1/1/1995 hiện nay có 151 thành viên, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tố chức này ngày 11/1/2007 ), thì mục tiêu quan trọng cấp thiết của ngành giáo dục là đào tạo ra đội ngũ lao động có trình độ cao đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, đào tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp Nhưng cho đến nay, nền giáo dục Việt Nam vẫn còn tồn tại khá nhiều vấn đề bất cập bắt đầu từ việc xây dựng chương trình học, nội dung, phương pháp giảng dạy, đội ngũ cán bộ giáo viên… và hậu quả tất yếu của nền giáo dục chưa hiệu quả đó là sản phẩm của nền giáo dục (chất lượng lao động) còn có một khoảng cách khá xa so với tiêu chuẩn chung của toàn thế giới nhất là so với các nước trong khu vực. Theo đánh giá của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), chất lượng lao động của Việt Nam chỉ đạt 29,6% so với tiêu chuẩn của Quốc tế(100%) trong khi đó Philippin đạt 49,7%, Trung Quốc 52,5%, Singapo đạt 70,2% .Qua đó ta có thể thấy rằng nền giáo dục Việt Nam đang bị tụt hậu so với nền giáo dục của thế giới và khu vực. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) năm 2006 Việt Nam xếp hàng chót trong khu vực Châu Á về số người học đại học. Nếu xét trong độ tuổi từ 20-24 chỉ có 10% học đến đại học so với thế giới là 15%, Thái Lan là 41%, Hàn Quốc là 89%. Tỷ lệ 167 sinh viên/ 1 vạn dân của nước ta hiện nay là quá thấp trong khu vực. Thực trạng này của nền giáo dục đã sớm được phát hiện và nền giáo dục nước ta cũng đã và đang tiến hành nhiều lần đổi mới cải cách giáo dục để đưa chất lượng nền giáo dục tiến lên. Có nhiều biện pháp đã được đưa vào thực hiện như: cải cách chương trình SGK ở phổ thông, đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường, chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục....Chương trình phân ban được triển khai đại trà ở THPT năm học 2006-2007 cũng là một trong những cố gắng của ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Việt Nam, định hướng tương lai cho nền giáo dục nước nhà nhưng cho đến nay nó vẫn bộc lộ khá nhiều bất cập. Là những nhà giáo trong tương lai, chúng tôi cũng rất quan tâm và có một số những băn khoăn thắc mắc xung quanh vấn đề này. Đó là: 1. Cho đến nay ngành giáo dục nước ta đã tiến hành khá nhiều lần phân ban nhưng chưa có lần nào phát huy được hiệu quả của nó, cứ phân ban rồi lại bỏ. Điều này tác động không tốt đến nền giáo dục nước nhà. Do vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu xem chương trình phân ban hiện nay đã thực sự phù hợp với học sinh chưa? Nó có tác động như thế nào đến quá trình học tập của học sinh? 2. Khi chương trình phân ban được thực hiện đại trà có một thực trang tại hầu hết các trường Phổ thông đó là phần lớn học sinh chọn ban cơ bản và ban Tự nhiên còn ban KHXH-NV không có hoặc có rất ít học sinh lựa chọn. Theo thống kê của Bộ Giáo dục- Đào tạo với trên 1,1 triệu học sinh lớp 10 trong năm 2006- 2007 ở 64 tỉnh, thành phố thì ban KHXH- NV chiếm 6,47%, ban KH cơ bản 72.76%. ban KH Tự nhiên chiếm 19,77%. Riêng tại TP Hồ Chí Minh 1% học sinh học Ban KHXH Theo số liệu thống kê của Bộ GD-ĐT năm 2005-2006 . Vậy nguyên nhân gì dẫn đến sự chênh lệch này? Các yếu tố nào ảnh hưởng đến sự lựa chọn phân ban của học sinh THPT Trong đề tài này, chúng tôi không có tham vọng có thể đưa ra được những cải cách mới cho nền giáo dục Việt Nam nhưng rất mong rằng thông qua đề tài này bước đầu chúng tôi có thể tìm thấy câu trả lời cho những băn khoăn thắc mắc của mình. Thiết nghĩ nó cũng rất hữu ích cho công việc của chúng tôi sau này. Là những người giáo viên tương lai chúng tôi có thể biết được mình cần chuẩn bị những gì cho việc dạy học phân ban và xa hơn là dạy học tự chọn sau này. Ngoài ra, khi hiểu được các yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh thì chúng tôi có thể định hướng cho học sinh giúp các em có những lựa chọn đúng đắn vì việc lựa chọn ban học là một bước ngoặt khá quan trọng quyết định đến việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai của các em. Lịch sử nghiên cứu đề tài Giai đoạn THPT là giai đoạn quan trọng đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của các em sau này vì vậy công tác hướng nghiệp trong bậc THPT Công tác giáo dục hướng nghiệp bắt đầu được Đảng và NN chú trọng từ những năm 70. đã được ngành giáo dục chú trọng từ rất lâu. Đã có rất nhiều bài báo, các đề tài nghiên cứu khoa học, nhiều cuốn sách viết về giáo dục Hướng nghiệp cho học sinh THPT. Từ năm học 2006-2007, khi Bộ Giáo dục Đào tạo thực hiện chủ trương phân ban trên diện rộng thì sự lựa chọn ban học của học sinh khi bước vào đầu lớp 10 cũng trở nên rất quan trọng. Nó là tiền đề cho việc lựa chọn khối thi và lựa chọn nghề nghiệp của các em sau này. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được chú trọng nghiên cứu. Mọi người mới chỉ tập trung thảo luận xem chương trình phân ban đã phù hợp chưa? Nó bất cập ở điểm nào? Các trường thực hiện phân ban ra sao? Chứ chưa có nhiều đề tài nghiên cứu về tác động của một số yếu tố trong việc lựa chọn ban và chọn nghề của học sinh THPT. Trong Hội nghị khoa học sinh viên lần thứ VI (năm 2007) của Khoa Sư Phạm- Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã có một đề tài nghiên cứu về chương trình phân ban của các bạn K50 SP Hoá nhưng mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá bước đầu về chương trình phân ban chứ chưa đặt nó trong mối tương quan tác động đến tâm lý của học sinh khi chọn ban. Trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi muốn một cái nhìn sâu sắc hơn về một số yếu tố tác động đến việc chọn ban học của học sinh THPT nhưng chúng tôi cũng không bỏ qua những kiến thức tương đối sâu sắc về chương trình phân ban. 4. Đối tượng nghiên cứu Là một số yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT ngoài ra còn nghiên cứu, tìm hiểu về chương trình phân ban hiện nay. Nhưng do thời gian có hạn, chúng tôi mới chỉ tiến hành khảo sát tại một số lớp 10 và 11 trường THPT Nhân Chính – Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các loại sách, tạp chí có nội dung liên quan đến phân ban và tâm lý học sinh THPT sau đó tiến hành tổng hợp phân tích tài liệu. Phương pháp điều tra thống kê: xây dựng mẫu phiếu điều tra gồm 14 câu hỏi có nội dung về : các yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT ; việc có hay không thi đại học sau khi tốt nghiệp THPT; về thế mạnh của học tập của học sinh…sau đó phát cho học sinh trường THPT Nhân Chính để trưng cầu ý kiến của các em. Cuối cùng, tổng hợp số liệu điều tra, rút ra nhận xét đánh giá. Phương pháp quan sát : thu thập thông tin thông qua những quan sát nghi chép mọi yếu tố liên quan đến đối tượng nghiên cứu. Trong báo cáo này chúng tôi quan sát một buổi học ngoại khoá của các em học sinh về lựa chọn nghề nghiệp PHẦN NỘI DUNG CHÍNH Vài nét về phân ban 1. Khái quát chung về phân ban: Khái niệm phân ban: - “Phân ban” Khái niệm Phân ban được một nhà giáo dục học người Pháp đưa ra lần đầu tiên ở Châu Âu. được thực hiện trong quá trình dạy học ở cấp THPT. Khi thực hiện phân ban những học sinh có năng lực, sở thích nhu cầu, điều kiện học tập tương đối giống nhau được tổ chức thành nhóm học theo cùng một chương trình. Mỗi nhóm học sinh như vậy gọi là một ban. Tuỳ theo số lượng học sinh mà mỗi ban có thể chia thành một lớp. Ví dụ những học sinh có cùng khả năng nhu cầu sở thích về lĩnh về toán và khoa học tự nhiên có thể học ở ban KHTN, những học sinh có cùng khả năng sở thích về lĩnh vực khoa học xã hội có thể tham gia ban KHXH và NV. 1.2 Phân biệt khái niệm Phân ban với các khái niệm: Phân hoá, Phân luồng và dạy học tự chọn : + Dạy học phân hoá là quan điểm dạy học đòi hỏi phải tiến hành hoạt động dạy học dựa vào những khác biệt về năng lực, sở thích, nguyện vọng, các điều kiện học tập….nhằm phát triển tốt nhất cho người học, đảm bảo công bằng giáo dục. + Phân luồng được thực hiện sau cấp THCS và THPT nhằm tạo ra những cơ hội cho học sinh tiếp tục học tập hoặc làm việc sau cấp THCS có những luồng như: tiếp tục học THPT, học trung cấp chuyên nghiệp, học nghề, tham gia làm việc tại các cơ sở lao động sản xuất…. + Dạy học tự chọn được thực hiện trong quá trình dạy học ở các cấp học. Nếu Phân ban hướng đến các nhóm học sinh với khả năng, sở thích, nhu cầu điều kiện học tập tương đối giống nhau thì Dạy học tự chọn hướng đến từng cá nhân học sinh. Dạy học tự chọn cho phép mỗi học sinh, ngoài việc học theo chương trình chung còn có thể học một chuơng trình học với các môn học khác nhau, hoặc có thể học các chủ đề khác nhau trong một môn học. Như vậy, ta thấy rằng: các hình thức học tập này đều là những hình thức học tập tiên tiến phát huy tối đa khả năng của người học, tạo cho người học điều kiện học tập tốt nhất. Hiện nay, các hình thức dạy học này đã và đang được các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng để nâng cao chất lượng giáo dục nhưng nó đòi hỏi điều kiện cơ sở vật chất cao và đội ngũ giáo viên trình độ cao mà những điều kiện này hiện nay chúng ta chưa thể đáp ứng ngay được. 2. Lịch sử phân ban ở nước ta: - Phân ban ra đời từ khoảng Thế kỷ XVIII ở nhiều nước Châu Âu, sau đó hình thức này càng được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu và các nước thuộc địa chịu ảnh hưởng của nền giáo dục Pháp. 2.1 Trước cách mạng Tháng Tám 1945 Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, phân ban THPT đã có từ thời Pháp thuộc. Năm 1906, với cải cách của Toàn quyền Paul Beau Paul Beau - người Pháp giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1902-1907 bậc trung học được chia làm hai: trung học đệ nhất cấp và trung học đệ nhị cấp, trong đó trung học đệ nhị cấp được phân làm hai ban là Ban văn học và Ban khoa học. Hình thức phân ban này nhằm đào tạo ra những nhân viên phục vụ cho nền thông trị của Pháp. Năm 1917, Toàn quyền Albert Saurraut 6 Albert Saurraut – Toàn quyền Đông dương từ 1912-1919 lại tiến hành cải cách giáo dục lần hai, vẫn chia giáo dục trung học làm hai ban Cao đẳng Tiểu học và Trung học nhưng không phân ban. 2.2 Sau cách mạng Tháng Tám 1945 Sau cách mạng Tháng Tám 1945, ta tiếp quản nền giáo dục của Pháp. Hệ thống giáo dục Phổ thông được sửa đổi thành hệ 11 năm trong đó bậc Trung học được chia làm 3 ban: ban Toán- Lý-Hoá, ban Lý- Hoá- Sinh, ban Văn-Sử-Địa. Năm 1950, ta tiến hành cải cách giáo dục lần thứ nhất chia làm 3 cấp học: Cấp I, CấpII, Cấp III không phân ban. Từ 1954 đến 1975, khi đất nước bị chia cắt, ở miền Nam vẫn duy trì chương trình phân ban gồm 4 ban: mỗi ban có 3 môn chính: ban khoa học thực nghiệm- Ban A gồm Sinh-Hoá-Lý, ban toán- ban B gồm Toán-Lý-Hoá, ban Ngôn ngữ hiện đại- ban C gồm Văn-Sử-Địa-Ngoại ngữ và ban Cổ ngữ gồm Hán Nôm-Văn-Ngoại ngữ. Đến năm 1981-1982, Bộ Giáo dục bỏ chương trình phân ban cũ và cả nước thống nhất chương trình Phổ thông 12 năm không phân ban. Năm 1993- 1994, phân ban lại tiếp tục được thực hiện, lần này Bộ Giáo dục Đào tạo chỉ chia thành 3 ban: Ban A(KHTN), Ban B (KHTN-KT), Ban C (KHXH) thực hiện ở 214 trường với gần 2000 học sinh (chiếm gần 20% tổng số trường toàn quốc) Nhưng trong quá trình thực hiện rất ít học sinh chọn ban B lại thêm nhiều rắc rối trong thi cử năm 1998 nên Bộ quyết định dừng tuyển sinh lớp 10 chuyên ban. Thủ tướng đã có chỉ thị số 30 về việc điều chỉnh chủ trương phân ban ở PTTH và đào tạo 2 giai đoạn ở đại học. Năm 2003-2004, một chương trình phân ban THPT mới lại được thí điểm tại 48 trường THPT thuộc 11 tỉnh, thành phố với 2 ban KHTN (ban A) và KHXH(ban C) và dự kiến 2005-2006 sẽ triển khai đại trà chương trình này. Nhưng sau 2 năm thí điểm chương trình phân ban đã bộc lộ nhiều khuyết điểm. Cụ thể là số học sinh vào ban KHXH rất thấp(23,3%) nhiều trường chỉ có 10% học sinh học ban C và có tới 60% học sinh không đủ trình độ học ban A lẫn ban C nhưng không biết chọn chương trình nào khác để học. Trước tình hình đó, tại hội nghị giao ban giám đốc Sở giáo dục-đào tạo năm 2005 diễn ra tại Hà Nội từ ngày 23- 24/3/2005, Ban chỉ đạo về chuơng trình phân ban đã đưa ra 3 phương án: + Phương án 1: thực hiện phân thành hai ban từ lớp 10 gồm 2 ban (KHTN, KHXH-NV) như hiện nay và có điều chỉnh kế hoạch giảng dạy của 2 ban, điều chỉnh số tiết học tự chọn. + Phương án 2: thực hiện phân 4 ban ở lớp 12. Theo đó, học sinh lớp 10 và 11 cùng học theo chương trình chuẩn gồm 12 môn và các hoạt động giáo dục kết hợp với chủ đề tự chọn. Đến lớp 12, học sinh được chọn 1 trong 4 ban: KHTN I- ban A với các môn nâng cao Toán, Lý, Hoá; KHTN II- ban B với các môn nâng cao Toán, Hoá, Sinh; KHXH-NV- ban C với các môn nâng cao Văn, Sử, Địa; ban Tổng hợp- ban D với các môn nâng cao Toán, Ngoại ngữ, Văn + Phương án 3: phân ban sớm và sâu dần ở cuối cấp. Theo đó, học sinh lớp 11 và 12 được phân thành 2 ban như đang thí điểm (KHTN, KHXH). Lớp 12 phân thành 4 ban (KHTN I, KHTN II, KHXH I, KHXH II). Mức độ phân hoá ở một số môn lớp 12 sâu hơn nhiều so với phân ban thí điểm, so với phương án 1,2 được đề xuất ở trên. Mỗi phương án trên đều có những ưu điểm, thuận lợi cũng như những hạn chế khó khăn khi thực hiện trong đó phương án 3 phân ban sớm và sâu dần ở cuối cấp được nhiều người lựa chọn vì phương án này bắt đầu từ lớp 10 sâu dần ở lớp cuối cấp vừa tránh đột ngột cho học sinh, chuẩn bị tốt hơn cho thi CĐ, ĐH đồng thời nó đảm bảo sự ổn định và kế thừa được những gì đã chuẩn bị cho thí điểm ở lớp 10,11. Năm học 2006-2007, chương trình phân ban được đưa vào thực hiện đại trà với nội dung phân ban như sau: học sinh học phân ban ngay từ lớp 10 với 3 ban: KHTN học theo chương trình nâng cao của 4 môn Toán, Lý, Hoá, Sinh và chương trình chuẩn của các môn còn lại; KHXH học theo chương trình nâng cao của 4 môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ và chương trình chuẩn của các môn còn lại; KH Cơ bản học sinh sử dụng thời lượng dạy học tự chọn 4 tiết/ tuần để học theo chương trình và sách giáo khoa nâng cao của một số môn có nội dung nâng cao Toán, Lý, Hoá, Sinh, Văn, Sử, Địa, Ngoại ngữ và học chủ đề tự chọn thuộc một số môn học. Các môn còn lại học SGK biên soạn theo chương trình chuẩn. Thực trạng lựa chọn ban học hiện nay Khi chương trình phân ban được đưa vào thực hiện đại trà thì có một thực tế đang diễn ra ở nhiều trường phổ thông trong toàn quốc đó là số học sinh chọn ban KHXH rất ít thậm chí không có, còn số học sinh chọn ban KH Cơ bản là khá cao. Có thể dẫn ra đây một vài số liệu thống kê như sau: Đơn vị % KHTN KHXH KHCB KHTN KHXH KHCB Cả nước 19,77 6,47 73,76 Cả nước Hà Nội 29 10 51 Hà Nội 30 8 62 Tp HCM 21,9 4,51 75 Tp HCM 23,2 3 73,8 Hà Nam 24 11 65 Hà Nam 20 4 85,9 Bảng 1: Tỷ lệ tham gia ban học của học sinh năm học 2006-2007 Cà Mau 9,5 4,51 85,99 Bảng 2:Tỷ lệ tham gia ban học của học sinh năm học 2007-2008(chưa thống kê đ ược số liệu của cả nước) Cà Mau 11 7,3 81,7 Trên đây là số liệu về sự lựa chọn ban học của học sinh THPT qua 2 năm thực hiện phân ban đại trà. Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể thấy tỷ lệ lựa chọn giữa các ban rất chênh lệch nhau. Ban cơ bản được lựa chọn nhiều hơn cả (chiếm tỷ lệ cao nhất) còn ban KHXH có ít sự lựa chọn nhất. Điều đáng chú ý là tỷ lệ chênh lệch nhau giữa hai ban này rất lớn 73,76/6,7(năm 2006-2007). Trên địa bàn Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh hầu hết các trường THPT đều không có ban KHXH vì số học sinh lựa chọn không đủ để thành lập một lớp. Đây là một bất cập mà hiện nay chúng ta chưa giải quyết được. Hiện nay đang có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề phân ban nhưng hầu hết đều chưa đánh giá cao chương trình phân ban hiện nay (từ ban học chưa hợp lý, chưa phong phú đến chương trình học quá nặng, phương pháp giảng dạy chưa hiệu quả, cơ sở vật chất không đáp ứng được nhu cầu của học sinh và giáo viên….) Nhìn chung, đây là một vấn đề đang được xã hội quan tâm và là một vấn đề còn gây nên nhiều tranh cãi. Khái quát chung về tâm lý học sinh THPT Yếu tố tâm lý lứa tuổi cũng có tác động rất lớn đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT. Để thấy được sự tác động này trước hết ta đi tìm hiểu một số đặc điểm tâm lý lứa tuổi THPT. Học sinh THPT là học sinh lứa tuổi từ 15-18. Đặc điểm nổi bật nhất của thời kỳ này là các em đã đạt đến sự trưởng thành về mặt cơ thể, có sức lực dồi dào và hệ thần kinh khoẻ mạnh. Chính sự phát triển khá hoàn thiện về mặt thể chất ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tâm lý giai đoạn này. Đặc điểm về nhận thức và sự hình thành thế giới quan7 Thế giới quan của các em đã được hình thành từ rất sớm tuy nhiên đến giai đoạn này mới có tính hệ thống, quy tắc và chuẩn mực. Nhận thức của các em đã khác về chất so với tuổi thiếu niên, ví dụ như khi nhìn nhận một sự vật hiện tượng các em không chỉ dừng lại ở đánh giá bề ngoài mà đã có những nhận xét về bản chất bên trong của sự vật hiện tượng. Ở giai đoạn này cảm giác và tri giác đã đạt đến mức độ tinh nhạy, tư duy logic, tư duy lý luận phát triển cao, các em đã biết xâu chuỗi các sự kiện để đưa ra kết luận cuối cùng. Giai đoạn này là giai đoạn quyết định sự hình thành thế giới quan, do sự phát triển tương đối cao về mặt nhân cách những nguyên tắc chuẩn mực đã có từ trước được đưa vào hệ thống toàn vẹn. Sự hình thành thế giới quan trong giai đoạn này quy định tính tích cực về nhận thức. Hoạt động chủ đạo của các em vẫn là hoạt động học tập, sự phát triển về mặt nhận thức giúp cho quá trình lĩnh hội tri thức tốt hơn, các em chủ động hơn trong việc tìm tòi khám phá tri thức mới. Học sinh THPT đã có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan vận động: mắt nhìn- tai nghe- tay viết- óc suy nghĩ; khả năng quan sát tốt theo một kế hoạch chung. Ngoài ra, các em đã có những khám phá hiểu biết về thế giới xung quanh và từ đó có thể xây dựng lên quan điểm của riêng mình, các em muốn sống tích cực vì xã hội. Về tính cách và đời sống tình cảm Các em ở giai đoạn này luôn có xu hướng thoát khỏi những sự ràng buộc, muốn hoà nhập vào cuộc sống tập thể, luôn muốn tìm hiểu khám phá cái mới và muốn khẳng định “cái tôi” của bản thân, khẳng định vị trí xã hội của mình với các bạn cùng trang lứa. Đời sống tình cảm của các em cũng phong phú hơn trước rất nhiều bao gồm cả tình bạn và tình yêu……các quan hệ xã hội được mở rộng, kỹ năng giao tiếp xã hội của các em ngày càng được hoàn thiện thông qua các mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp. Các em có nhiều bạn hơn không chỉ bạn cùng học trên lớp mà còn nhiều bạn khác lớp và chịu ảnh hưởng rất lớn từ bạn bè. Hầu hết các em thích trò chuyện tâm sự với bạn bè hơn là đối với cha mẹ và người thân trong gia đình. Lứa tuổi này ngoài tình bạn đã xuất hiện tình yêu , đây hầu hết là những rung động đầu đời trong sáng vô tư. Tình yêu ở lứa tuổi này là một hiện tượng hoàn toàn khách quan và thể hiện sự hoàn thiện về mặt tâm sinh lý của cá em. Tuy nhiên, các em còn nông nổi và thiếu hiểu biết chưa xác định được đó đã là tình yêu đích thực chưa? Vì vậy cần có sự quan tâm giúp đỡ của cha mẹ, thầy cô… 3. Vấn đề định hướng nghề nghiệp Các em học sinh lứa tuổi này rất quan tâm đến việc lựa chọn cho mình một nghề nào đó phù hợp với điều kiện và khả năng của bản thân. Việc chọn nghề đối với học sinh THPT có ý nghĩa nghiêm túc, trực tiếp và cấp bách. Như Mác đã nói “ Cân nhắc cẩn thận vấn đề này là trách nhiệm đầu tiên của một thanh niên bước vào đời mà không muốn coi việc quan trọng nhất của mình là ngẫu nhiên”. Học sinh THPT đã bắt đầu hiểu rõ ràng rằng cuộc sống tương lai của bản thân phụ thuộc vào chỗ các em có biết lựa chọn nghề nghiệp một cách đúng đắn không? “ dù chàng thanh niên là người nhẹ dạ và vô tư thì thì việc lựa chọn nghề nghiệp vẫn là mối quan tâm chính và thường xuyên của anh ta” Tâm lý học sư phạm và lứa tuổi-Petrovoski-Nxb GD năm 1982. Trang 42 Và để lựa chọn được một nghề phù hợp cho bản thân thì trước hết các em phải lựa chọn được thế mạnh của mình trong học tập, có thái độ học tập đúng đắn lĩnh hội được tri thức nhân loại vì trong bất kỳ lĩnh vực nào tri thức hiểu biết và kỹ năng cũng là những tiêu chí hàng đầu. Nhưng thực tế học sinh THPT hiện nay vẫn còn rất thiếu hiểu biết về các nghề nghiệp trong tương lai, thiếu hiểu biết về những thuộc tính của nghề và những yêu cầu mà nghề đưa ra để có những lựa chọn hợp lý về môn học cách học trong quá trình học tập nên dễ mắc phải những sai lầm trong việc lựa chọn môn học có thể phát huy tối đa khả năng của bản thân. Vì vậy, chúng ta phải có sự định hướng cho học sinh trong việc lựa chọn môn học ban học ngay từ đầu khi các em mới bước vào lớp 10. Như vậy, ta thấy rằng lứa tuổi THPT là lứa tuổi tâm sinh lý phát triển rất phức tạp nên chúng ta cần tôn trọng và vận dụng hợp lý những quy tắc quy luật phát triển tâm lý của trẻ để có những định hướng phương pháp giáo dục phù hợp. Cần phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường-xã hội để giúp các em phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tâm hồn, có những định hướng đúng đắn cho tương lai. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Vì thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp nên chúng tôi đã tiến hành khảo sát thực tế ở khối lớp 10 và 11 Trường THPT Nhân Chính - Hà Nội để bước đầu đưa ra những yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh. Vài nét về địa bàn nghiên cứu Trường THPT Nhân Chính là một ngôi trường trẻ mới thành lập cách đây 5 năm. Được thành lập khá muộn nên Trường THPT Nhân Chính có những lợi thế về cơ sở vật chất, hệ thống cơ sở vật chất của nhà truờng khá rộng và hiện đại. Trong những năm học gần đây số lượng học sinh của nhà trường ngày càng tăng lên và điểm tuyển sinh đầu vào lớp 10 khá cao. Trong năm học 2006-2007, tỷ lệ học sinh đạt khá giỏi chiếm 59,4% trường nằm trong tốp 20 trường có tỷ lệ tốt nghiệp cao nhất thành phố. Đây là sự nỗ lực cố gắng hết mình của cả thầy và trò nhà trường. Khi Bộ GD-ĐT tiến hành chủ trương phân ban đại trà thì nhà trường đã có những biện pháp cụ thể và tích cực để hướng dẫn cho học sinh và phụ huynh trong việc lựa chọn ban học phù hợp với khả năng và điều kiện của các em đồng thời tổ chức những buổi tập huấn chuyên môn nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên để có thể đáp ứng được yêu cầu mới của chuơng trình phân ban. Kết quả nghiên cứu - Số phiếu phát ra: 180 - Số phiếu thu về : 171 Sau khi phân tích, tổng hợp số phiếu khảo sát thực tế chúng tôi đưa ra những yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT như sau: Về tỷ lệ học sinh tham gia các ban học Trong số 171 em được điều tra thì có 101 em học ban KHCB chiếm 59,06%; 64 em học ban KHTN chiếm 37,42%; 6 em học ban KHXH chiếm 3,52%. Như vậy cũng giống như tình hình chung của các trường THPT trên cả nước số học sinh theo học ban CB tại trường Nhân Chính chiếm tỷ lệ cao nhất và số học sinh theo học ban KHXH chiếm tỷ lệ thấp nhất. Tại sao lại có sự lựa chọn chênh lệch như vậy? Chúng tôi có thể đưa ra những lý do sau: So với hai ban KHTN và KHXH, học sinh ban CB sẽ được học chương trình chuẩn nhẹ nhàng hơn. Thêm vào đó ban CB vẫn có các môn học tự chọn dành cho học sinh học nâng cao trong suốt 3 năm học ở bậc THPT. Khi phỏng vấn cô giáo Hiệu phó nhà trường chúng tôi được biết rằng : trong đơn nhập học của học sinh hầu hết các em hầu hết các em lựa chọn ban CB vì có thể học được các môn tự chọn theo khối thi ĐH. Chẳng hạn, học sinh có thể học 3 môn tự chọn là Toán-Lý-Hoá nều thi khối A, học 3 môn Văn-Toán-Ngoại ngữ nếu thi khối D… Học sinh học ban CB sau đó nâng cao ở các môn học tự chọn để thi vào ĐH-CĐ thuận lợi hơn. Rõ ràng động cơ chọn ban CB của học sinh là để thi ĐH. Hơn nữa nhiều học sinh ngại học ban A vì phải học nâng cao 4 môn trong khi thi ĐH chỉ có 3 môn từ đó học sinh e ngại ban A qúa nặng học sẽ vất vả và nhiều áp lực. Những học sinh thật sự có khả năng và yêu thích những môn học này thì mới ưu tiên lựa chọn nó. Còn ban C có rất ít lựa chọn vì đường vào ĐH quá hẹp, phải học thuộc nhiều vất vả (mà hầu hết học sinh đều ngại việc học thuộc) việc chọn ngành nghề hạn chế lại không được xã hội ưa chuộng. Chỉ những học sinh thật sự đam mê những môn học thuộc lĩnh vực KHXH mới theo học. Như thực trạng các trường THPT hiện nay thì các em muốn học ban KHXH cũng rất khó khăn vì số lượng lựa chọn quá ít không đủ điều kiện để nhà trường thành lập lớp. Vì vậy tỷ lệ lựa chọn thấp nhất cũng là điều có thể lý giải được. Những vấn đề liên quan khác Ở phần này chúng tôi đưa ra các câu hỏi như sau: Đơn vị % Tiêu chí có không 1. Bạn có thích ban mình đang học không? 25.73 74.27 2. Nếu được lựa chọn bạn có chọn lại ban học không? Nếu chọn lại thì bạn sẽ chọn ban nào? 87.71 12.29 3. Sau khi tốt nghiệp THPT bạn có thi ĐH- CĐ không? 91.2 8.8 4. Nếu thi ĐH bạn có thi đúng ban mình đang học không? 72.06 27,94 5. Khi học THCS bạn có được nhà trường hướng dẫn chọn ban không? 75,1 24,9 6. Chương trình Giáo dục hướng nghiệp có giúp bạn trong việc lựa chọn ban học không? 69,94 30,06 7 .Chương trình phân ban có nặng không? 35,03 64,97 8. SGK phân ban có hay, phù hợp không? 60,3 39,7 9. Theo bạn có nên phân ban ngay từ đầu không? 59.73 40,27 2.2.1 Nhóm câu hỏi 1,2 cho ta thấy một sự mâu thuẫn, không phải tất cả các em đều thích ban mình học(27,53%) nhưng khi cho lựa chọn lại thì chỉ có 12,29% đồng ý còn 87,71% vẫn chọn ban mình đang học. Chứng tỏ rằng khi đã chọn ban các em đều không muốn thay đổi ban học của mình. Đối với câu hỏi phụ của câu hỏi số 2 : chọn ban khác là ban nào? Chúng tôi đã nhận được những ý kiến phản hồi rất đa dạng, có em thích chuyển từ Ban D sang Ban A, có em thích ngược lại, đáng chú ý là có nhiều em muốn học những môn như: Toán-Tin-Anh, Văn-Anh-Sử,…. những môn học này không biết nên xếp vào ban nào. Điều này cho thấy phân ban của chúng ta hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu của học sinh. Tại Pháp có tới 16 ban cho học sinh lựa chọn. Một câu hỏi đặt ra là thực hiện 3 ban như chúng ta hiện nay có quá gò bó và hạn chế lựa chọn của học sinh không? Nhóm câu hỏi 3,4 cho thấy mục tiêu trước mắt của các em đều là cổng trường ĐẠI HỌC có 91,2% số em được hỏi cho biết sẽ thi Đại học sau khi tốt nghiệp THPT. Mặc dù ai cũng biết xã hội ngày nay đang thừa thầy thiếu thợ nhưng bậc phụ huynh nào cũng muốn con em mình có một nghề nghiệp nhàn nhã, hơn nữa do tâm lý trọng danh của người Việt, việc con cái đỗ Đại học là một niềm vinh dự tự hào lớn đối với cả gia đình và dòng họ. Ngoài ra, trong suy nghĩ của một học sinh cấp III thì hình ảnh một sinh viên rất đẹp và các em đều muốn hướng tới. Khi phỏng vấn sâu một học sinh lớp 10 em cho biết “ học ban nào cũng được miễn là đỗ được Đại học” như vậy có một số lượng không nhỏ sinh gắn chặt ban ban học của mình với mục tiêu Đại học. Đây là một điều dễ hiểu vì sự lựa chọn này sẽ làm cho khả năng thành công của các em khi thi ĐH cao hơn nhiều. 2.2.3 Nhóm câu hỏi 5,6 cho thấy hầu hết các em học sinh đã được hướng dẫn chọn ban từ bậc THCS. Đây là một điều đáng mừng mà các nhà trường THCS đã làm được và cần phải phát huy tốt hơn nữa trong thời gian tiếp theo. Nhóm câu hỏi 7,8,9: ở các đối tượng điều tra hầu hết các em đều có những đánh giá khá tốt về chương trình phân ban. Điều này chứng tỏ Trường THPT Nhân Chính đã làm khá tốt trong việc phân loại học sinh, tổ chức dạy học phân ban dựa trên nguyện vọng của học sinh và đặc trưng của nhà trường mang lại hiệu quả khá tốt. Như vậy, nhìn một cách khách quan nếu nhà trường đưa ra được những biện pháp tổ chức dạy học phân ban hợp lý thì hiệu quả mang lại sẽ khả quan. Các yếu tố tác động đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT Đây là vấn đề quan trọng nhất . Chúng ta có thể thấy được qua bảng số liệu và biểu đồ sau: Các yếu tố tác động Gia đình Sở thích GD hướng nghiệp Bạn bè rủ rê Năng lực bản thân Phương tiện TT đại chúng Lý do khác Tỷ lệ (%) 11,11 24,56 4,09 10,52 39,18 1,75 20,16 Bảng3: Một số yếu tố tác động đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT Biểu đồ thể hiện tỷ lệ một số yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn ban học của học sinh THPT. Dựa vào các tiêu chí ở bảng trên chúng tôi chúng tôi chia yếu tố tác động tác động đến việc chọn ban của học sinh THPT làm hai nhóm chính đó là yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Yếu tố chủ quan Yếu tố chủ quan chính là sự tự xác định và phân loại của học sinh về việc lựa chọn ban học của học sinh dựa trên một phức hợp các yếu tố như tình cảm (có hứng thú với môn học hay không), động cơ ( có thi đại học theo đúng ban mình chọn học hay không?), năng lực( có học tốt tất cả các môn đó hay không?) Ở Trường THPT Nhân Chính- Hà Nội có 39,18% số học sinh được hỏi chọn ban học dựa vào năng lực bản thân. Đây là yếu tố /chiếm tỷ lệ cao nhất trong số 7 yếu tố mà chúng tôi đưa ra. Như vậy chứng tỏ học sinh Trường Nhân Chính đã chọn ban dựa vào năng lực của bản thân. (Nhìn vào biểu đồ ta có thể dễ dàng nhận ra điều này). Yếu tố sở thích chiếm tỷ lệ khá cao 24,56%. Lựa chọn ban học dựa vào sở thích của bản thân là một điều dễ hiểu và nên khuyến khích vì khi thích thú với ban học của mình các em mới say mê học tập và học có hiệu quả được. Tuy nhiên phải có sự định hướng của thầy cô, gia đình tức là sở thích cảu các em nên đặt trong mối tương quan với những điều kiện thực tế của bản thân. Ví dụ có những học sinh thích học các môn thuộc lĩnh vực KHTN nhưng khả năng của các em trong lĩnh vực này kém thì nên có sự cân nhắc kỹ lưỡng khi chọn ban Yếu tố khách quan là các yếu tố như gia đình, bạn bè., giáo dục hướng nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng… - Về yếu tố gia đình (ông bà, cha mẹ, anh chị em…). Các quyết định liên quan đến hướng nghiệp (chọn ngành đào tạo, nghề nghiệp và việc làm) của thế hệ con cháu thường được thực hiện ở những giai đoạn khi họ còn khá trẻ chưa tích luỹ được nhiều và chưa khẳng định được mình, do đó họ có khuynh hướng lệ thuộc nhất định vào gia đình ( những người lớn) bởi trong suy nghĩ của thế hệ con cháu: Người lớn (ông bà, cha mẹ đã có một vị trí nhất định trong xã hội, đặc biệt là họ có nhiều kinh nghiệm sống hơn. Ngoài ra, giữa các thành viên trong gia đình còn có các quan hệ tâm lí, tình cảm tạo điều kiện cho việc trao đổi giữa các thế hệ về vấn đề hướng nghiệp.Các yếu tố này đứng sau uy tín và tạo sức nặng cho việc người lớn đưa ra các lời khuyên nhủ về hướng nghiệp tới các thành viên trẻ hơn trong gia đình của họ. Như vậy, truyền thống, văn hoá, các quy ước ngầm ở Việt Nam về trách nhiệm của thế hệ cha ông trong quan tâm, chăm sóc thế hệ con cháu mở đường cho việc người lớn khi có điều kiện đều có thể tác động, can thiệp sâu, nông, ít, nhiều vào các quyết định, dự định về nghề nghiệp, học hành, việc làm của con cháu. Đến lựơt mình cung cách và nội dung tác động này có thể ít nhiều chịu sự chi phối của các giá trị xã hội rộng lớn hơn như tính thực tiễn, tính thức thời…Chẳng hạn trong bối cảnh xã hội đang cần những nguồn nhân lực trong các lĩnh vực khoa học Công nghệ thông tin, Công nghệ sinh học, Tài chính, Ngân hàng, Chứng khoán… Những ngành này đem lại nguồn thu nhập cao, một cuộc sống khá giả và ổn định, còn những ngành thuộc lĩnh vực KHXH nhu cầu hiện nay ít hơn so với những ngành kể trên và thu nhập có phần thấp hơn so với các ngành trên mà cha mẹ nào cũng mong muốn con mình sau này sẽ có một cuộc sống ổn định, sung túc. Do vậy, khi các con chọn trường thi, chọn ban học đã có những định hướng cho con theo nhu cầu của xã hội . Yếu tố thứ ba tác động đến việc chọn ban của học sinh trung học phổ thông nữa là do bạn bè rủ rê (Tại Trường THPT Nhân Chính yếu tố này chiếm 10,52% đây là một tỷ lệ không nhỏ). Tình bạn thuở Trung học phổ thông rất được các em coi trọng, các em rất tin tưởng vào bạn bè. Các em thích tâm sự với bạn hơn là tâm sự với những người thân trong gia đình, thường hành động theo những sở thích giống nhau và cho đó là một cách thể hiện tình bạn thân thiết. Vì vậy chúng ta không ngạc nhiên khi những nhóm học sinh chơi thân với nhau sẽ đăng ký học cùng một ban, một lớp để được gần gũi và giúp đỡ nhau. Như vậy, có rất nhiều yếu tố tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh. Trên đây, chúng tôi mới đưa ra một số yếu tố tiêu biểu và phân tích sự tác động của nó đến sự lựa chọn ban học của học sinh. Các yếu tố này không tồn tại rời rạc mà có sự tác động qua lại lẫn nhau, một học sinh có thể lựa chọn ban học của mình dựa trên năng lực và sở thích của bản thân, định hướng của gia đình … KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP Kết luận Việc triển khai chương trình phân ban là cần thiết trong bối cảnh hiện nay khi mà nền giáo dục nước nhà cần phải nhanh chóng hội nhập cùng Thế giới. Nó cũng đã bước đầu đáp ứng được nguyện vọng và phát huy được năng lực học tập, xu hướng lựa chọn ngành nghề của học sinh. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập như: Nội dung chương trình SGK lớp 10 phân ban thực sự còn quá tải, nặng nề khiến người dạy không đủ thời gian đầu tư nghiên cứu ( có nhiều kiến thức mới được cập nhật) còn người học không kịp tiếp thu đủ lượng kiến thức trên lớp và cả thời gian làm việc ở nhà cho một môn học. Mặt khác, kiến thức trong sách của chương trình chuẩn và chương trình nâng cao còn chưa thống nhất. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng dạy học còn thiếu, chưa đáp ứng được với yêu cầu của chương trình học. Việc phân làm 3 ban như hiện nay vẫn chưa thật hợp lý và linh hoạt, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của học sinh. Ví dụ có những học sinh thích học ban KHXH nhưng vì số lượng học sinh đăng ký quá ít nhà trường không thể thành lập một lớp riêng nên đã ghép các em vào lớp học khác. Thực tế tại trường Nhân Chính một số em thích học Toán- Tin-Anh không biết học ban nào cho phù hợp… Kiến nghị, Giải pháp Qua việc tìm hiểu nghiên cứu về các yếu tố tâm lý tác động đến sự lựa chọn ban học của học sinh THPT thông qua khảo sát thực tế tại Trường THPT Nhân Chính, nhóm tác giả đưa ra những kiến nghị giải pháp sau: 2.1 Về phía bản thân học sinh Chính các em là người quyết định trực tiếp nhất đến việc lựa chọn ban học và cũng là lựa chọn ngành nghề tương lai của mình nên ngay từ bậc THCS đặc biệt là ở các lớp cuối cấp, các em phải có thái độ học tập đúng đắn, nên xác định mục tiêu phấn đấu cho mình (bao gồm cả mục tiêu trước mắt và lâu dài). Đồng thời các em nên chủ động tìm hiểu về chương trình phân ban, chủ trương của Bộ GD-ĐT về phân ban để có những lựa chon hợp lý nhất cho mình. Về phía các nhà trường Ngay từ bậc THCS nhà trường cần có những định hướng cho học sinh và phụ huynh học sinh trong việc lựa chọn ban học. Các trường THPT khi tiến hành công tác tuyển sinh cần dựa vào kết quả đầu vào, nguyện vọng của học sinh và điều kiện cụ thể của nhà trường mà đưa ra cách thức tổ chức ban học cho hợp lý. Kế hoạch phân ban của nhà trường cần được thông báo rộng rãi đến từng học sinh và phụ huynh học sinh. Có thể tiến hành tổ chức tuyền truyền về chương trình phân ban thông qua các buổi hội thảo, toạ đàm, sinh hoạt ngoại khoá, phát tài liệu, thnàh lập các trung tâm tư vấn…Cách thức tổ chức linh hoạt và đan xen các hình thức văn nghệ ,trò chơi để thu hút người tham gia. 2.4. Về phía giáo viên Người giáo viên cần trang bị cho mình những hiểu biét nhất định về chương trình phân ban và dạy học tự chọn từ đó có thể định hướng cho các em trong việc lựa chọn ban học đúng đắn nhất. Ngoài ra, ngưòi giáo viên cũng càn phải đổi mới phươnh pháp giảng dạy để phát huy được thế mạnh của các em trong quá trình học. 2.5. Về phía gia đình Các bậc phụ huynh nên tạo tâm lý thoải mái trong việc chọn ban học và lựa chọn ngành nghề của con em mình. Hãy chỉ giữ vai trò là người định hướng không nên bắt ép các em theo những ngành nghề mà mình thích ,không căn cứ vào năng lực của các em. 2.6. Về phía các nhà hoạch định giáo dục Cần điều chỉnh lại chương trình phân ban cho thật hợp lý đa dạng hơn để phù hợp với sở thích, năng lực của học sinh. Cần đầu tư tài chính, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại đặc biệt là đối với các vùng nông thôn cùng sâu, vùng xa vì những phương pháp dạy học mới trong chương trình phân ban đòi hỏi phải có cơ sở vật chất hiện đại mới đem lại hiệu quả cao. Hơn nữa cần chú trọng công tác bồi dỡng đào tạo lại đội ngũ giáo viên để đáp ứng với nhu cầu của chương trình mới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Hỏi đáp về phân ban THPT. NXB GD năm 2007. Tập bài giảng Tâm lý học Sư phạm và lứa tuổi- Khoa SP- ĐHQG Hà Nội. Vũ Thị Nho- Tâm lý học phát triển. Nxb ĐH QG Hà Nội. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Đối thoại Á- Pháp vấn đề và hướng đi cho giáo dục hướng nghiệp tại Việt Nam. Kỷ yếu hội thảo khoa học: Chương trình, sách giáo khoa và vấn đề kiểm tra đánh giá ở lớp 10 phân ban sau một năm thực hiện. Phan Trọng Báu- Giáo dục Việt Nam thời cận đại Viện sử học- Nxb Khoa học xá hội, Hà Nội 1994. TS Phạm Thị Kim Anh- Phân ban THPT những bài học kinh nghiệm trong lịch sử. Tạp chí Dạy và học ngày nay trang 24-26 số 6 năm 2005 GS.VS Nguyễn Cảnh Toàn- Không nên phân ban. - Tạp chí Dạy và học ngày nay trang 8 -9 số 4 năm 2005. PGS.TS Mạc Văn Trang- Tâm lý học nghề nghiệp- một hướng nghiên cứu cơ bản của các trường sư phạm kỹ thuật.. Tạp chí Khoa học giáo dục trang 41-45 số 1 tháng 7 năm 2006 Thầy trò đánh vật với phân ban. Chương trình phân ban không thể nói là thất bại http:// www.tuoitre.com.vn/ Phân ban THPT Không nên thí nghiện triền miên http:/www. / vietnamnet.vn. Phân ban còn khiên cưỡng PHỤ LỤC BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO –––– Số: 6812/BGD&ĐT-GDTrH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ––––––––––––––––––––––––– Hà Nội, ngày 03 tháng 8 năm 2006 V/v: Tổ chức thực hiện phân ban THPT năm học 2006-2007 Kính gửi: Các Sở Giáo dục và Đào tạo Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 25/2006/CT-TTg ngày 01/8/2006 về việc triển khai thực hiện phân ban trung học phổ thông. Tại Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo: "Chỉ đạo, hướng dẫn các cấp quản lý và các cơ sở giáo dục trung học phổ thông tổ chức phân ban phù hợp với điều kiện, năng lực của nhà trường và nhu cầu học tập của học sinh theo nội dung, kế hoạch phân ban trung học phổ thông năm học 2006-2007 và những năm tiếp theo". Để triển khai thực hiện tốt Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD&ĐT yêu cầu các Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) chỉ đạo, hướng dẫn các trường THPT khẩn trương tiến hành một số công việc sau đây để chuẩn bị cho năm học 2006-2007: 1. Tổ chức tốt việc sắp xếp học sinh lớp 10 THPT vào các ban a) Hướng dẫn học sinh chọn ban và đăng ký nguyện vọng chọn ban. Sau khi công bố kết quả tuyển sinh, các trường trung học phổ thông (THPT) triệu tập học sinh lớp 10 cùng đại diện phụ huynh học sinh đến trường để giải thích về phương án phân ban của nhà trường, hướng dẫn học sinh lựa chọn ban và cho học sinh đăng ký chọn ban (mỗi học sinh được đăng ký 2 nguyện vọng theo thứ tự mức độ quan tâm). Để làm tốt việc này, hiệu trưởng và tất cả cán bộ, giáo viên của các trường THPT cần phải nghiên cứu nắm vững chủ trương, biện pháp thực hiện phân ban để hướng dẫn, giải thích ngắn gọn, đầy đủ, dễ hiểu cho học sinh và gia đình học sinh. b) Sắp xếp học sinh vào các ban. Căn cứ phương án phân ban đã được Sở GD&ĐT phê duyệt và đăng ký nguyện vọng của học sinh, nhà trường tiến hành sắp xếp học sinh vào các ban. Căn cứ nguyện vọng, năng lực của học sinh (thể hiện qua kết quả tuyển sinh, học tập ở THCS) và điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, các trường phải cân nhắc sắp xếp học sinh vào các ban sao cho hợp lý. c) Điều chỉnh phương án phân ban. Trong quá trình sắp xếp, nếu phát hiện phương án phân ban đã được phê duyệt không phù hợp với điều kiện thực hiện, nhà trường phải kịp thời chủ động đề xuất phương án điều chỉnh để trình Sở GD&ĐT phê duyệt lại cho phù hợp. d) Công bố kết quả sắp xếp học sinh vào các ban. Các trường THPT phải công bố kết quả sắp xếp học sinh lớp 10 vào các ban trước ngày 15/8/2006 để học sinh đủ điều kiện chuẩn bị cho năm học mới (các trường THPT kỹ thuật thông báo cho học sinh biết nhà trường sẽ thực hiện Kế hoạch giáo dục của ban Cơ bản, không thực hiện dạy học tự chọn). 2. Việc sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tự chọn a) Việc sử dụng sách giáo khoa. - Ban Khoa học tự nhiên (KHTN) và ban Khoa học xã hội và Nhân văn (KHXH-NV): Thực hiện như đã hướng dẫn tại công văn số 6560/BGDĐT-GDTrH ngày 27/7/2006 của Bộ GD&ĐT. - Ban Cơ bản có 2 hình thức dạy học phân hoá sau đây: + Dùng sách giáo khoa (SGK) nâng cao của 1 đến 3 môn trong số 8 môn có nội dung nâng cao (môn phân hoá): Toán (Đại số và Hình học), Vật lí, Hoá học, Sinh học, Ngữ văn (2 tập), Lịch sử, Địa lí, Ngoại ngữ (1 trong 4 thứ tiếng: Tiếng Anh, Tiếng pháp, Tiếng Nga, Tiếng Trung Quốc), các môn học còn lại dùng SGK biên soạn theo chương trình chuẩn. Đối với các môn tự chọn sử dụng sách giáo khoa nâng cao, việc dạy học, kiểm tra, cho điểm, đánh giá phân loại học sinh tiến hành như đối với môn đó ở các ban KHTN và KHXH-NV. + Dùng SGK biên soạn theo chương trình chuẩn của tất cả các môn học. b) Việc sử dụng tài liệu tự chọn. - Ban KHTN và ban KHXH-NV: Sử dụng tài liệu tự chọn chủ đề bám sát của các môn học có trong kế hoạch giáo dục và là tài liệu dành cho giáo viên. -Ban Cơ bản: Sử dụng tài liệu tự chọn chủ đề nâng cao của một số môn trong số 8 môn phân hoá (dùng cho cả giáo viên và học sinh) và tài liệu chủ đề bám sát của các môn học có trong kế hoạch giáo dục (dùng cho giáo viên). Đối với ban này, nếu đã chọn 3 môn học theo SGK nâng cao thì không sử dụng tài liệu tự chọn chủ đề nâng cao môn đó hoặc môn nào khác. 3. Việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phân ban THPT Theo tinh thần Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các Sở GD&ĐT cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương tăng cường tuyên truyền, giải thích về phân ban THPT (có thể dựa trên cơ sở tài liệu Hỏi đáp phân ban THPT và các văn bản về phân ban do Bộ GD&ĐT ban hành). Cần chú trọng giải thích những vấn đề chưa được nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chủ trương và biện pháp thực hiện phân ban THPT. Nhận được công văn này, yêu cầu các Sở GD&ĐT khẩn trương chỉ đạo, hướng dẫn các trường THPT triển khai thực hiện. Nếu có khó khăn vướng mắc, cần kịp thời báo cáo để Bộ GD&ĐT hướng dẫn giải quyết. Nơi nhận: -Như trên; - TT Nguyễn Văn Vọng (để b/cáo); -Báo GD&TĐ (để th/báo); -Lưu: VT, Vụ GDTrH. TL. BỘ TRƯỞNG VỤ TRƯỞNG VỤ GIÁO DỤC TRUNG HỌC (Đã ký) Lê Quán Tần MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGD0005.doc
Tài liệu liên quan