MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I. Khái niệm, chức năng và các hoạt động chủ yếu của NHTW: 2
1. Khái niệm: 2
2. Chức năng của ngân hàng trung ương: 2
II. Những vấn đề chung về hoạt động tín dụng của NHTW 3
1. Khái niệm về nghiệp vụ tín dụng của NHTW: 3
2. Mục đích 4
3. Nguyên tắc cung ứng tín dụng: 4
III. Các nghiệp vụ tín dụng của NHTW: 8
1. Tái cấp vốn: 8
Chiết khấu và tái chiết khấu các chứng từ có giá: 9
Cho vay cầm cố chứng từ có giá 16
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng: 18
Cho vay thanh toán: 19
Cho vay theo đối tượng chỉ định: 21
III. Các nghiệp vụ tín dụng của NHNNVN: 21
1. Tái cấp vốn (TCV) 22
a. Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng 22
b. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác 22
c. Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác 25
d. Một số hình thức tái cấp vốn khác của Ngân hàng Nhà nước 27
* Những kết quả đạt được và những hạn chế: 29
2.Tạm ứng ngân sách nhà nước 33
3. Bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng 34
MỤC LỤC 37
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2427 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHTW công bố từng thời kì
Thời hạn chiết khấu : tính từ ngày chiết khấu cho đến ngày đáo hạn của chứng từ
Theo ví dụ trên thì thời hạn chiết khấu tính từ ngày 15/4/2006 đến ngày đáo hạn của chứng từ 15/6/2006 là 62 ngày ta có:
GTT =
=
= 107.379 triệu đồng
Như vậy số tiền Sở giao dịch NHTW thanh tóan cho NHTM A là 107.379 triệu đồn
+ Số tiền NHTW nhận được khi các chứng từ chiết khấu đến hạn thanh toán, chính là số tiền được tính theo tổng giá trị chiết khấu. Theo ví dụ trên vào ngày đáo hanh (15/6/2006) Kho bạc Nhà nước sẽ thanh tóan cho NHTW số tiền 108.200 triệu, trong đó mệnh giá (giá vốn) là 100.000 triệu và lãi trái phiếu là 8.200 triệu (100.000*8.2%)
Phương thức chiết khấu có kỳ hạn:
Trong trường hợp NHTW cần kiểm soát quá trình sử dụng vốn của các NHTM, thì NHTW thực hiện phương thức chiết khấu có kỳ hạn. Đây là hình thức chiết khấu có điều kiện. NHTW bắt buộc NHTM phải cam kết mua lại các chứng từ đã xin chiết khấu, khi NHTM mang chứng từ đến NHTW xin chiết khấu, thì Sở giao dịch của NHTW đồng ý nhận chiết khấu, đồng thời bắt buộc NHTM này ký hợp đồng mua lại các chứng từ đó với một thời hạn xác định. Ngay sau đó NHTM sẽ nhận được tiền, khi đến hạn NHTM sẽ mua lại các chứng từ chiết khấu theo giá bán lại của NHTW.
Trong phương thức chiết khấu có kỳ hạn, giá trị chiết khấu đựơc tính theo mệnh giá của chứng từ, chứ không tính cả mệnh giá và lợi tức trái phiếu như trái phiếu mua đứt. Riêng thời hạn chiết khấu, được xác định theo yêu cầu của NH xin chiết khấu, thời hạn này nhỏ hơn hoặc bằng thời hạn hiệu lực còn lại của chứng từ. Như vậy, việc tính tóan số tiền có liên quan hoàn toàn khác biệt so với chiết khấu mua đứt.
+ Số tiền thanh toán cho NHTM khi tái chiết khấu chứng từ có giá được xác định theo công thức sau:
GTT =
Trong đó:
GTT: số tiền thanh tóan cho NHTM
MG: mệnh giá chứng từ
LSCK: lãi suất chiết khấu
Tck : thời hạn chiết khấu
+ Số tiền NHTM phải thanh tóan cho NHTW khi hết hạn chiết khấu, bao gồm tòan bộ vốn và lãi . Được tính như sau:
Gbl = GTT
Trong đó:
Gbl : giá chứng từ có giá NHTW bán lại cho NHTM khi hết hạn chiết khấu
GTT: số tiền NHTW thanh toán (cho vay) khi chiết khấu chứng từ có giá
LS: lãi suất thị trường tiền tệ bình quân
Tck: thời hạn chiết khấu
* Phương thức giao dịch:
Trong nghiệp vụ chiết khấu của NHTM có thể áp dụng một trong 2 phương thức giao dịch sau đây;
Phương thức giao dịch trực tiếp :
Theo phương thức này, NHTM nào có nhu cầu xin chiết khấu, sẽ trực tiếp mang hồ sơ đến Sở giao dịch của NHTW để xin chiết khấu. Phương thức này được áp dụng trong trường hợp chứng từ có giá mà NHTM xin chiết khấu tồn tại dưới hình thức chứng chỉ.
Phương thức giao dịch gián tiếp:
Theo phương thức này, các NHTM phải trang bị và nối mạng vi tính với Sở giao dịch của NHTW, và khi có nhu cầu giao dịch sẽ thực hiện qua mạng máy tính, hoặc thực hiện qua fax. Phương thức này áp dụng cho chứng từ xin chiết khấu tồn tại dưới hình thức ghi sổ hoặc chứng chỉ. Phương thức giao dịch gián tiếp tiết kiệm được nhiều chi phí, nhanh chóng và an tòan cao.
Cho vay cầm cố chứng từ có giá
* Khái niệm:
Là hình thức tái cấp vốn của NHTW cho các NHTM, với điều kiện các NHTM phải có chúng từ có giá cầm cố tại NHTW.
Theo hình thức cho vay này, các NHTM phải chuyển giao bản gốc các chứng từ có giá cho NHTW để cầm cố cho khoản vay ngắn hạn. Khi đến hạn, các NHTM trả nợ gốc và lãi vay cho NHTW để nhận các chứng từ có giá đã cầm cố trước đây. Nếu không NHTW sẽ thực hiện truy thu theo các chứng từ có giá mà NHTM đã cầm cố trước đây.
Khi có nhu cầu vay vốn, các TCTD có thể sử dụng các chứng từ có giá để cầm cố làm đảm bảo cho khoản vay được yêu cầu tại NHTW. Khi tái cấp vốn theo hình thức này, giá trị tiền vay được xác định theo một tỷ lệ phần trăm tính trên giá trị chứng từ có giá làm đảm bảo. Tỷ lệ này thay đổi tùy thuộc vào mức độ rủi ro của chứng từ có giá theo đánh giá của NHTW.
* Điều kiện cho vay cầm cố:
Các NHTM xin cho vay cầm cố phải là ngân hàng đang hoạt động bình thường ổn định.
NHTM xin vay cầm cố là người thụ hưởng họp pháp với các chứng từ xin cầm cố.
Các chứng từ có giá xin cầm cố là những chứng từ có giá được phát hành và lưu thông hợp pháp, các yếu tố rõ rang và đảm bảo khả năng thanh toán.
Trường hợp giấy tờ có giá được phát hành theo hình thức ghi sổ phải có xác nhận và đảm bảo của tổ chức có trách nhiệm thanh toán đối với giấy tờ có giá về việc sẽ thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước khi ngân hàng xin vay có nợ đến hạn nhưng chưa thanh toán.
Yêu cầu của loại cho vay này là các TCTD phải có uy tín với NHTW, có tình hình tài chính lành mạnh, không có nợ quá hạn quá lớn, khả năng rủi ro thấp; các chứng từ được sử dụng làm đảm bảo cho khoản vay phải đạt các tiêu chuẩn: hợp pháp, hợp lệ, được phép giao dịch đảm bảo; người nhận nợ có khả năng tài chính tốt; thời hạn đáo hạn của chứng từ lớn hơn thời hạn xin vay của TCTD.
* Lãi suất cho vay:
Lãi suất hình thức cho vay cầm cố thế chấp thường được NHTW quy định cao hơn lãi suất thị trường liên ngân hàng và biến động căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ.* Quy trình, thủ tục cho vay:
NHTW thực hiện các nghiệp vụ cho vay khi tổ chức vay có nhu cầu vay và có đề nghị vay sau khi gửi NHTW các giấy tờ sau:
+ Đơn xin vay với các nội dung cơ bản như tên, địa chỉ của tổ chức vay; số tiền vay; mục đích vay; cam kết về đảm bảo tiền vay, sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác.
+ Các tài liệu liên quan đến điều kiện vay vốn của tổ chức vay.
+ Bảng kê chứng từ kèm theo các chứng từ đề nghị cầm cố đẻ vay vốn.
Trên cơ sở thủ tục nhận nợ, tổ chức vay vốn chủ động trả nợ cho NHTW.
Bước 1:
NHTM có nhu cầu làm đơn xin vay cầm cố gửi sở giao dịch NHTW (theo mẫu của sở giao dịch NHTW);
Kèm theo đơn là bảng kê chứng từ cầm cố và bản gốc các chứng từ đó (bảng kê phải liệt kê các yếu tố: loại chứng từ, ngày phát hành, ngày đáo hạn, mệnh giá, lãi suất, tổ chức phát hành)
Nếu chứng từ có giá được phát hành theo hình thức ghi sổ thì NHTM gửi cho sở giao dịch NHTW văn bản xác nhận của tổ chức phát hành về việc đảm bảo thanh toán cho NHTW trong trường hợp NHTM (người sở hữu chứng từ có giá) không trả nợ cho NHTM khi đến hạn.
Bước 2:
NHTW kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, nếu hợp lệ, hợp pháp, SGD NHTW chấp nhận cho vay:
+ NHTM chuyển giao bản gốc cho NHTW
+ SGD hạch toán cho vay, ghi nợ tài khoản cho vay, có TK TG có kỳ hạn của NHTM
Về mức cho vay: Mức cho vay tối đa bằng mệnh giá chứng từ cầm cố: đối với chứng từ do KBNN, NHNN phát hành, mức cho vay 100% mệnh giá, còn các chứng từ khác tuy theo mức độ rủi ro mà mức cho vay khác nhau nhưng tối đa 80% mệnh giá.
Về thời hạn cho vay: tối đa bằng thời hạn hiệu lực còn lại của chứng từ.
Bước 3: khi đến hạn thanh toán:
NHTM lập lệnh chi trích tiền trên tài khoản tiền gửi của mình để trả nợ cho NHTW, SGD tính toán và thu lãi từ TK tiền gửi của NHTM
NHTM chuyển trả bản gốc các chứng từ cầm cố cho NHTM.
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng:
* Khái niệm:
Là hình thức tái cấp vốn của NHTW đối với NHTM trong trường hợp các NHTM bị thiếu vốn do các khoản tín dụng dã thực hiện với khách hàng chưa đến hạn thu nợ, nhờ đó các NHTM có thể duy trì hoạt động cho vay một cách bình thường.
* Điều kiện cho vay:
NHTM phải hoạt động bình thường, có uy tín đối với NHTW
NHTM có chất lượng tín dụng tốt, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tỷ lệ cho phép không vượt quá tỷ lệ quy định
Hồ sơ tín dụng xin vay lại là hồ sơ có chất lượng, thể hiện qua khách hàng vay vốn của NHTM là những khách hàng có uy tín, hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, hiệu quả.
* Mức cho vay và thời hạn cho vay:
Mức cho vay: tối đa không quá 80% tổng dư nợ của các hồ sơ tín dụng xin vay lại.
Thời hạn cho vay: là khi cho vay theo hình thức này thì nguồn thu nợ của NHTW chính là nguồn thu nợ của NHTM đối với khách hàng của họ, do đó thời hạn cho vay phải phù hợp với thời hạn cho vay còn thể hiện trong hồ sơ tín dụng để đảm bảo cho NHTM trả nợ cho NHTW.
* Quy trình cho vay:
Bước1: NHTM làm đơn xin vay gửi cho SGD NHTW kèm hồ sơ tín dụng mà NHTM cho khách hàng vay và đang trong thời hạn chính thức đồng thời gửi bảng phân tích đánh giá khách hàng vay vốn của mình với các thông tin sau: tình hình sxkd, tài chính, mức dư nợ, tài sản đảm bảo, khả năng trả nợ,…vv.
Bước 2: NHTW tín hành thẩm định hồ sơ tín dụng vay vốn của NHTM, NHTW tái kiểm tra tất cả hồ sơ tín dụng, kiểm tra các thông tin liên quan đến khách hàng của NHTM.
Nếu hồ sơ tín dụng không có chất lượng hoặc chất lượng thấp, NHTW từ chối cho vay;
Nếu hồ sơ có chất lượng thì cho vay và căn cứ hồ sơ tín dụng để xác định mức cho vay và thời hạn cho vay.
Bước 3: SGD NHTW tiến hành giải ngân bằng chuyển khoản, ghi nợ tài khoản cho vay và ghi có tài khoản tiền gửi NHTM
Bước 4: khi đến hạn thu nợ NHTW sẽ thu nợ và lãi và trả hồ sơ tín dụng cho NHTM.
Cho vay thanh toán:
* Khái niệm:
Cho vay thanh toán không phải là hình thức tiếp vốn cho các NHTM và TCTD nhằm hỗ trợ hoạt động tín dụng cho các NHTM và TCTD mà là hình thức khôi phục khả năng thanh toán cho các NHTM và TCTD.
* Các hình thức cho vay thanh toán:
Cho vay thanh toán thường xuyên (Thanh toán bù trừ, cho vay qua đêm)
Các NHTM phải thanh toán bù trừ lẫn nhau ( bù trừ thông thường và bù trừ điện tử) do NHTW tổ chức chủ trì thanh toán. Để quá trình thanh toán bù trừ đó diễn ra thông suốt và thực hiện tuyệt đối sẽ NHTW cho các NHTM, TCTD vay vốn để đảm bảo có nguồn thanh toán nếu như tại thời điểm bù trừ các NHTM thiếu vốn (trên TK tiền gửi tại NHTW không có hoặc không đủ tiền) sau khi đã bù trừ giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả:
Nếu NHTM nào có khoản phải thu > Phải trả (thừa) thì NH được hưởng số chênh lệch thừa, NHTW sẽ hạch toán ghi có vào TK tiền gửi của NHTM tại NHTW
Nếu NHTM nào có khoản phải thu < Phải trả (thiếu) thì NH này phải trả số chênh lệch thiếu. NHTW sẽ trích TK tiền gửi của NHTM mở tại NHTW để trả tiền. Nếu tài khoản tiền gửi của NHTM không đủ số dư để trả thì sẽ được NHTW cho vay để bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ.
Phương thức cho vay thanh toán thường xuyên:
+Phương thức cho vay qua đêm
+Phương thức cho vay thấu chi
Loại cho vay này gọi là cho vay qua đêm với thời hạn rất ngắn từ 1-10 ngày, quá thời hạn sẽ chuyển quá hạn và áp dụng LS phạt, nếu tái phạm nhiều lần sẽ không được vay.
Lãi suất là lãi suất bình quân trên thị trường liên ngân hàng;
Trong thanh toán song phương giữa các NHTM và thanh toán điện tử nếu NHTM thiếu tiền thì sẽ được NHTW cho vay.
Được sử dụng thường xuyên và chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động thanh toán qua NHTW
NHTW đề ra quy định chẩn mực liên quan đến thanh toán bù trừ đồng thời là người tổ chức chủ trì thanh toán
Để tham gia vào thanh toán bù trừ, các NHTM ngoài các điều kiện về mặt kĩ thuật cần phải có TK giao dịch tại NHTW.
Các thành viên tham gia thanh toán bù trừ phải thực hiện nguyên tắc là phải thanh toán ngay, sòng phẳng số tền phải thanh toán với ngan hàng chủ trì thanh toán bù trừ.
Những NHTM nào được NHTW cho vay thấu chi, thì TK tiền gởi của NHTM đó có thể có số dư bên có cũng có thể có số dư bên nợ.
Cho vay khôi phục năng lực chi trả:
Khi NHTM mất khả năng chi trả thực sự túc khi dự trữ sơ cấp tại các NHTM được sử dụng hết thì các NHTM đó bắt buộc phải thực hiện biện pháp thiết lập cân bằng cung cấp thanh khoản.
Các NHTM và TCTD thường xuyên duy trì khả năng chi trả theo quy định của NHTW
Khả năng chi trả được thể hiện qua tỷ lệ sau:
Khả năng chi trả = Tổng tài sản “Có” rủi ro có thể thanh toán ngay/Tổng tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay.
Khi NHTM bị mất khả năng chi trả mới ở mức độ khả năng thì NH đó cần có biện pháp để duy trì khả năng chi trả trong thời gian tới, nhưng nếu khả năng chi trả thực sự xuống quá giới hạn và đã mất khả năng chi trả thực sự (dự trữ sơ cấp đã sử dụng hết) thì NHTM phải thực hiện các biện pháp để cân bằng cung cấp thanh khoản, Biện pháp này:
+ Bán dự trữ thứ cấp
+ Vay NHTW (qua đêm) hoặc vay tái chiết khấu
Khi NHTM bị mất khả năng chi trả như vậy, NHTW sẽ cho vay để khôi phục năng lực chi trả và ổn định hệ thống NHTM. Ngoài ra, những trường hợp mất khả năng chi trả đột biến (tin đồn thất thiệt) làm cho tình trạng thiếu hụt thanh toán trầm trọng xảy ra nhanh thì NHTW cho vay. Đây gọi là cho vay đặc biệt, khoản cho vay này còn áp dụng cho NHTM mất khả năng thanh toán thường xuyên và trầm trọng.
Cho vay theo đối tượng chỉ định:
Với tư cách là NH của chính phủ và là cơ quan quản lý tài chính tổng hợp của chính phủ, hoạt động tín dụng của NHTW còn góp phần thực hiện mục tiêu chính sách kinh tế - xã hội của chính phủ. Các loại cho vay theo đối tượng chỉ định được NHTW thực hiện mà không đòi hỏi các NHTM phải có đảm bảo, chỉ theo yêu cầu NHTM làm trung chuyển các khoản tín dụng này đúng đối tượng.
Các đối tượng chỉ định bao gồm:
Cho vay chỉ định với các chương trình dự án phát triển kinh tế của chính phủ
Các chương trình khắc phục hậu quả thiên tai, mất mùa, chương trình cho vay xóa đói giảm nghèo,…
NHTM nào đủ điều kiện về mạng lưới, đội ngũ cán bộ, khả năng tổ chức cho vay, giám sát đối tượng sử dụng vốn đúng mục đích, có năng lực tài chính, có ưu thế về công nghệ kỹ thuật sẽ được NHTW lựa chọn.
Mức lãi suất cho vay thường mang tính chất tượng trưng, thậm chí là bằng 0.
III. Các nghiệp vụ tín dụng của NHNNVN:
Theo chương 3 – Hoạt động của Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam số 06/1997/QHX, hoạt động tín dụng của NHNN VN bao gồm:
Tái cấp vốn
Bảo lãnh
Tạm ứng cho ngân sách nhà nước
Góp vốn, mua cổ phần
1. Tái cấp vốn (TCV)
Theo quy định tại Điều 17 Luật NHNN năm 1997 và Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN, các hình thức TCV đang được áp dụng ở Việt Nam hiện nay là:
- Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các GTCG khác
- Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các GTCG khác
a. Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng
Đây là hình thức tái cấp vốn của NHNN đối với các NHTM, dựa trên cơ sở các hồ sơ tín dụng mà NHTM đã cho vay đối với khách hàng. Theo nghiệp vụ này, NHTM phải xuất trình cho NHNN hồ sơ tín dụng đã được thẩm định và chấp nhận cho khách hàng vay mà chưa tìm được nguồn vốn cần thiết. Căn cứ vào nhu cầu điều hòa khối cung tiền tệ, chỉ số phát hành tiền bổ sung trong năm do Chính phủ quyết định, cũng như nhu cầu vay vốn của NHTM, NHNN thẩm định hồ sơ để chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong trường hợp chấp nhận, NHNN cấp một khoản tín dụng cho NHTM với nguồn vốn cho vay là vốn dự trữ phát hành, trên cơ sở đảm bảo các tài sản có của NHTM.
Cho đến nay, mặc dù Luật NHNN đã có hiệu lực gần 7 năm nhưng NHNN vẫn chưa ban hành văn bản hướng dẫn hình thức TCV này. Điều này xuất phát từ mục đích của NHNN là hạn chế việc tái cấp vốn qua hình thức này. Khi có nhu cầu vay vốn bằng hình thức này, các NHTM phải lựa chọn những hồ sơ tín dụng đảm bảo các điều kiện như khả năng thu hồi nợ tốt, khách hàng vay vốn đang sử dụng có hiệu quả vốn vay, thời hạn thu hồi ngắn, … Trên cơ sở đó, NHNN sẽ xem xét và quyết định cho các NHTM được vay vốn. Trong thời gian vay vốn tại NHNN, các hồ sơ tín dụng làm đảm bảo khoản vay cần phải được lưu giữ, quản lý và theo dõi riêng theo hướng dẫn của NHNN. Số tiền cho vay và thời hạn vay được xác định dựa vào nhu cầu vay vốn của các NHTM và tổng dư nợ các hồ sơ tín dụng làm đảm bảo tiền vay. Tuy nhiên hiện nay NHNN gần như không áp dụng hình thức TCV này.
b. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
Sau khi Luật NHNN có hiệu lực hơn 1 năm, Thống đốc đã ký Quyết định số 356/199/QĐ-NHNN14 ngày 06/10/1999 ban hành Quy chế về nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng. Quy chế này là văn bản pháp lý đầu tiên hướng dẫn nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu GTCG ngắn hạn của NHNN đối với các ngân hàng. Sự ra đời của nghiệp vụ đã hình thành thêm một hình thức TCV tuy mới đối với Việt Nam nhưng lại đang được áp dụng khá phổ biến tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên chỉ có các GTCG ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN mới được NHNN chấp nhận giao dịch. Các loại GTCG khác như GTCG dài hạn, thương phiếu chưa được giao dịch với NHNN.
Trải qua một thời gian triển khai thực hiện, trước nhu cầu đổi mới hoạt động chiết khấu và để giải quyết những vướng mắc, quy chế này đã được thay thế bởi Quyết định số 906/2002/QĐ-NHNN ngày 26/8/2002 của Thống đốc. NHNN đã cho phép chiết khấu các GTCG có thời gian còn lại tối đa 90 ngày thay cho 30 ngày như trước. Các hình thức chiết khấu đã được quy định rõ ràng gồm 2 loại là chiết khấu có kỳ hạn và chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG. NHNN cũng bổ sung thẩm quyền quyết định chiết khấu của Vụ trưởng Vụ Tín dụng là 200 tỷ đồng. Những thay đổi này đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các NHTM khi thực hiện chiết khấu GTCG tại NHNN.
Để phù hợp với các quy định tại Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN, Thống đốc đã ban hành Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 thay thế Quyết định số 906/2002/QĐ-NHNN, theo đó cho phép các GTCG dài hạn được phép chiết khấu và tái chiết khấu tại NHNN. Đồng thời vào năm 2004, NHNN đã bổ sung thêm các loại GTCG được chấp thuận chiết khấu. Các GTCG dài hạn như trái phiếu kho bạc, trái phiếu đầu tư, trái phiếu công trình trung ương và công trái xây dựng tổ quốc đã được NHNN chấp thuận chiết khấu. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã bắt đầu thực hiện phân bổ hạn mức chiết khấu hàng quý cho các NHTM. Trên cơ sở hạn mức chiết khấu đã được phân bổ, các NHTM thực hiện chiết khấu các GTCG tại NHNN mà không phải đệ trình Thống đốc phê duyệt như trước.
Tuy nhiên, mặc dù đã có Pháp lệnh về thương phiếu và một số văn bản hướng dẫn về thương phiếu nhưng do các thương phiếu chưa được sử dụng phổ biến tại Việt Nam và mức độ an toàn chưa cao nên NHNN vẫn chưa hướng dẫn việc chiết khấu và tái chiết khấu đối với các thương phiếu.
Hiện nay, hình thức chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng được thực hiện theo 2 phương thức:
Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của GTCG: NHNN mua hẳn GTCG của các ngân hàng theo giá chiết khấu.
Chiết khấu có kỳ hạn: nghĩa là NHNN chiết khấu kèm theo yêu cầu ngân hàng cam kết mua lại toàn bộ GTCG đó sau một thời gian nhất định. Kỳ hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày.
Về khái niệm và bản chất của hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu: Theo quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN với các ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 của Thống đốc NHNN đã được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 12/2008/QĐ-NHNN thì: “Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của các ngân hàng là nghiệp vụ NHNN mua ngắn hạn các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán, mà các giấy tờ có giá này đã được các ngân hàng giao dịch trên thị trường sơ cấp hoặc thứ cấp”. Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá, nếu nhìn nhận từ góc độ kinh tế học thì nó được quan niệm là một nghiệp vụ tín dụng của NHNN nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nhưng nếu xét trên góc độ pháp lý, nó lại được quan niệm là một giao dịch hợp đồng, được xác lập giữa NHNN Việt Nam (với tư cách là bên cho vay) với NHTM (với tư cách là bên vay) thông qua hình thức mua, bán thương phiếu và các giấy tờ có giá khác của NHTM. Với tính chất là một quan hệ pháp luật, hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác của NHNN đối với các NHTM có thể được hình dung với ba yếu tố cơ bản: Yếu tố chủ thể, bao gồm có người mua (NHNN) và người bán (NHTM); yếu tố đối tượng mua, bán là thương phiếu và các giấy tờ có giá; yếu tố giá cả của “hàng hóa” được mua, bán chính là số tiền mua thương phiếu, giấy tờ có giá mà NHNN phải thanh toán cho khách hàng là NHTM sau khi đã trừ đi phần lợi tức chiết khấu.
Về đối tượng chiết khấu, tái chiết khấu: Trước đây, theo quy định của Luật NHNN năm 1997 thì các giấy tờ có giá được NHNN chiết khấu, tái chiết khấu phải là các giấy tờ có giá ngắn hạn. Tuy nhiên, theo Luật NHNN sửa đổi, bổ sung ngày 16/3/2003 và theo Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 12/2008/QĐ-NHNN thì đối tượng chiết khấu, tái chiết khấu được mở rộng, bao gồm cả giấy tờ có giá ngắn hạn và dài hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, các loại giấy tờ có giá trị khác được Thống đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ. Các giấy tờ có giá nêu trên được NHNN chiết khấu khi có đủ các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 5 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá:
Trường hợp chiết khấu toàn bộ thời gian còn lại của giấy tờ có giá: Thời hạn còn lại tối đa của giấy tờ có giá là 91 ngày
Trường hợp chiết khấu có kỳ hạn: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn NHNN chiết khấu.
Các giấy tờ có giá được phát hành bằng đồng Việt Nam và có thể chuyển nhượng được.
Về trình tự, thủ tục thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu: Theo quy định hiện hành, hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN đối với các NHTM sẽ được thực hiện tại Sở giao dịch NHNN. Trường hợp cần thiết, Sở giao dịch NHNN có thể trình Thống đốc NHNN ủy quyền cho chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện nghiệp vụ chiết khấu đối với các NHTM có trụ sở chính trên địa bàn tỉnh, thành phố đó. Khi có nhu cầu vay vốn bằng hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, các NHTM (trụ sở chính) gửi giấy đề nghị chiết khấu (theo mẫu quy định) cho NHNN (Sở giao dịch NHNN hoặc các chi nhánh NHNN được ủy quyền) vào trước 15 giờ các ngày giao dịch. (Điều 10 Quy chế chiết khấu).
Căn cứ vào giấy đề nghị chiết khấu và hạn mức chiết khấu chưa sử dụng, NHNN xem xét hồ sơ xin chiết khấu, tái chiết khấu để quyết định và gửi thông báo chấp thuận (theo mẫu quy định) cho NHTM ngay sau khi nhận được giấy đề nghị chiết khấu của NHTM. Theo quy định tại Điều 11 quy chế chiết khấu, tái chiết khấu, NHNN sẽ không chấp nhận chiết khấu nếu:
Ngân hàng đã sử dụng hết hạn mức chiết khấu.
Các giấy tờ có giá không đủ điều kiện theo quy định tại Điều 5 Quy chế chiết khấu.
Giấy đề nghị chiết khấu gửi NHNN có nội dung không phù hợp với mẫu số 01 của quy chế, người ký không đúng thẩn quyền.
Như vậy, Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của NHNN đối với các ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/8/2003 được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định của NHNN số 12/2008/QĐ-NHNN đã quy định cụ thể, rõ ràng và bổ sung nhiều quy định mới hợp lý, đáp ứng yêu cầu hoạt động của ngân hàng trong tiến trình hội nhập.
c. Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
Hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG là hình thức được các NHTM sử dụng phổ biến trong quan hệ vay vốn tại NHNN. Đây là một hình thức đơn giản, dễ hiểu, dễ sử dụng, thời gian thực hiện nhanh.
Đây là hình thức cho vay của NHNN dành cho TCTD là ngân hàng xin vay trên cơ sở cầm cố các giấy tờ có giá thuộc sở hữu của các ngân hàng này như tín phiếu Kho bạc nhà nước, tín phiếu NHNN, công trái, trái phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ… Các ngân hàng được vay theo hình thức này bao gồm: NHTM; ngân hàng phát triển; ngân hàng đầu tư; ngân hàng chính sách; ngân hàng hợp tác; ngân hàng liên doanh; chi nhánh NHNN; các loại hình ngân hàng khác được thành lập và hoạt động theo Luật TCTD. Việc cho vay cầm cố của NHNN đối với các ngân hàng trung gian phải được thực hiện trên cơ sở thẩm định hồ sơ đề nghị cho vay cầm cố của ngân hàng xin vay để quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay. Mọi thủ tục cấp tín dụng bằng hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá khác được thực hiện theo Quyết định số 1425/2003/QĐ-NHNN ngày 03/11/2003 của Thống đốc NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá ngắn hạn của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng; Quyết định 94/2004/QĐ-NHNN ngày 20/01/2004 về việc sửa đổi một số điều của Quy chế cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có giá của NHNN Việt Nam với các ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 1425/2003/QĐ-NHNN ngày 03/11/2003.
Điểm khác biệt giữa hình thức tái cấp vốn này với hình thức tái cấp vốn bằng chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác là bên cho vay (NHNN) không được chuyển giao quyền sở hữu chứng từ mà chỉ nắm giữ hay quản lý chứng từ với tư cách là vật bảo đảm. Do đó, bên cho vay cũng không có quyền đòi tiền người mắc nợ theo chứng từ khi những chứng từ này đến hạn thanh toán. Trong khi đó, bên nhận chiết khấu (bên cho vay) trong nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá lại được chuyển giao quyền sở hữu chứng từ và có quyền đòi tiền của người mắc nợ theo chứng từ khi chứng từ đến hạn thanh toán.
Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG là hình thức TCV được NHNN áp dụng đầu tiên tại Việt Nam. Lúc đó, hình thức này được gọi là cho vay thế chấp chứng từ của NHNN đối với các ngân hàng theo Quyết định số 285/QĐ-NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc (gọi tắt là Quy chế 285). Theo quy định tại Quyết định này thì loại GTCG được thế chấp là các tín phiếu kho bạc và các khế ước cho vay ngắn hạn. Cuối năm 1997, NHNN đã bổ sung loại tài sản cầm cố để vay TCV là số dư tài khoản ngoại tệ USD trên tài khoản tiền gửi của TCTD tại NHNN.
Quy chế 285 đã được thay thế bởi Quy chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG ngắn hạn ban hành theo Quyết định số 251/2001/QĐ-NHNN ngày 30/3/2001 (gọi tắt là Quy chế 251). Sự ra đời của Quy chế 251 là cần thiết, nhằm mở rộng khả năng tiếp cận của các NHTM với hình thức TCV của NHNN và phù hợp với quy định về các hình thức TCV tại Luật NHNN. Theo đó các loại GTCG được chấp thuận cầm cố chỉ là GTCG ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN. Việc thế chấp bằng các khế ước cho vay được quy định là một hình thức TCV khác của NHNN và NHNN đã không chấp thuận thế chấp bằng số dư ngoại tệ.
Để phù hợp với Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN, NHNN đã ban hành Quy chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG của NHNN đối với các ngân hàng (Quyết định số 1452/2003/QĐ-NHNN ngày 03/11/2003, gọi tắt là Quy chế 1452) thay thế Quy chế 251. Theo đó NHNN mở rộng các GTCG được chấp thuận cầm cố thêm các GTCG dài hạn như trái phiếu kho bạc, trái phiếu Chính phủ do Bộ Tài chính phát hành, công trái và một số GTCG khác do Thống đốc quy định. Các GTCG này phải còn thời hạn thanh toán còn lại 2 năm. Năm 2004, NHNN tiếp tục sửa đổi Quy chế 1452 (Quyết định số 94/2004/QĐ-NHNN ngày 20/01/2004, và sau đây xin gọi chung cả 2 Quyết định này là Quy chế 1452) theo hướng bãi bỏ quy định về thời gian còn lại của GTCG và cụ thể hoá hơn các loại GTCG được chấp thuận cầm cố như tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, công trái xây dựng tổ quốc, trái phiếu ngoại tệ và một số GTCG khác do Thống đốc quy định, đồng thời sửa đổi bổ sung một số quy định về quy trình, thủ tục vay vốn và xử lý tài sản cầm cố. Hiện nay, về cơ bản, Quy chế 1452 đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các NHTM trong việc thực hiện vay TCV tại NHNN. Các quy định và quy trình thực hiện khá rõ ràng.
Bên cạnh đó, NHNN đã hướng dẫn việc cầm cố trái phiếu đặc biệt trong quan hệ vay vốn của NHTMNN tại NHNN (Quyết định số 1509/2003/QĐ-NHNN ngày 14/11/2003, xin gọi tắt là Quy chế 1509).
Như vậy, các hình thức TCV của NHNN đối với các ngân hàng ngày càng được quy định theo hướng chặt chẽ hơn, rõ ràng hơn nhằm đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế theo đúng mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ. NHNN đã bám sát vào nhu cầu vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và tổng mức tiền cung ứng được sử dụng hàng năm, hàng quý để thực hiện cho vay. Trong bối cảnh công cụ OMO chưa thực sự phát triển và trở thành một công cụ mạnh thì công cụ TCV là công cụ cơ bản, quan trọng của NHNN trong điều hành thành công CSTT trong thời gian qua.
d. Một số hình thức tái cấp vốn khác của Ngân hàng Nhà nước
Bên cạnh 3 hình thức TCV phổ biến nêu trên, hiện nay NHNN đang áp dụng một số hình thức TCV khác như cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán và cho vay qua đêm.
Cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ:
Để bù đắp sự thiết hụt tạm thời về nguồn vốn cho các TCTD trong thanh toán bù trừ (gọi tắt là TTBT), Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 173/NH-TT ngày 30/9/1991 hướng dẫn thực hiện cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong TTBT. Tổng chỉ tiêu TTBT năm 1991 là 175 tỷ đồng. Sang năm 1993, NHNN điều chỉnh tăng lên là 225 tỷ đồng. Từ năm 1994 đến nay, tổng chỉ tiêu TTBT được duy trì hàng năm là 200 tỷ đồng. Việc thực hiện chủ yếu tại NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố căn cứ vào chỉ tiêu cho vay TTBT đã được NHNN thông báo hàng năm. NHNN cũng giữ lại một tỷ lệ nhất định (20%) để thực hiện cho vay bổ sung và có thể điều hoà trong toàn hệ thống.
Khi thực hiện cho vay TTBT, sau khi kết thúc phiên TTBT tại địa phương, căn cứ vào chênh lệch thiếu giữa số tiền chuyển đi và số tiền chuyển đến, các NHTM sẽ đề nghị NHNN cho vay bù đắp để đảm bảo thanh toán thành công. Việc cho vay này không yêu cầu phải thế chấp tài sản. Thời gian cho vay tối đa đến 10 ngày. Lãi suất cho vay nhìn chung khá cao là 0,1-0,15%/ngày. Đến năm 2003, lãi suất này được điều chỉnh còn 0,03%/ngày. Từ khi NHNN đưa vào áp dụng hình thức cho vay thấu chi và qua đêm khi thực hiện thanh toán điện tử liên ngân hàng đến nay, việc cho vay bù đắp thiếu hụt trong TTBT đã giảm bớt.
Hình thức cho vay này có một số ưu nhược điểm như:
Rất đơn giản và nhanh chóng. Các ngân hàng có thể đề nghị và nhận được vốn vay ngay sau khi kết thúc phiên thanh toán. Các ngân hàng cũng không cần phải thế chấp tài sản để đảm bảo khoản vay.
Đối tượng vay vốn được mở rộng tới các chi nhánh của TCTD có tham gia TTBT trên địa bàn.
Số tiền cho vay thấp và lãi suất cho vay cao. Các chi nhánh NHNN chỉ được cho vay trong chỉ tiêu cho vay TTBT đã được thông báo. Do tổng chỉ tiêu TTBT chỉ 200 tỷ nên số tiền cho vay tại mỗi chi nhánh NHNN chỉ 3 tỷ. Khi muốn vay nhiều hơn thì các ngân hàng phải chuyển sang các hình thức vay khác. Lãi suất cho vay cao, từ 3-4,5%/tháng và mang tính trừng phạt.
Thời hạn cho vay ngắn, chỉ tối đa 10 ngày. Điều này đã tăng thêm sức ép về vốn cho bản thân các ngân hàng.
Đến nay, tuy không còn thực hiện thường xuyên nhưng NHNN vẫn chưa chính thức loại bỏ/thay thế hình thức cho vay này.
Cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng
Năm 2002, NHNN chính thức triển khai hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Để đảm bảo việc thanh toán thông suốt, nhanh chóng và hiệu quả, NHNN đã ban hành Quy chế thấu chi và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng (Quyết định số 1085/2002/QĐ-NHNN ngày 07/10/2002 của Thống đốc NHNN).
Theo đó, cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là một hình thức tái cấp vốn của NHNN đối với các ngân hàng. Theo đó, đây là một hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG. Mục đích của hình thức cho vay qua đêm là để tất toán các tài khoản thấu chi của TCTD tại thời điểm cuối ngày làm việc. Các tài sản cầm cố khi cho vay qua đêm là Tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN và các GTCG khác do Thống đốc NHNN quy định trong từng thời kỳ. Các tài sản cầm cố phải được lưu ký tại các tài khoản tại NHNN. Mức cho vay qua đêm bằng số dư thấu chi nhưng không vượt quá 95% giá trị GTCG cầm cố. Lãi suất cho vay qua đêm bằng 0,03%/ngày.
Ngày 24/02/2004, NHNN đã có Quyết định số 185/2004/QĐ-NHNN điều chỉnh bổ sung đối với hình thức cho vay qua đêm. Theo đó, các tài sản cầm cố đối với hình thức cho vay qua đêm đã được mở rộng, bao gồm cả các GTCG dài hạn, như trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình trung ương, công trái xây dựng tổ quốc và một số loại GTCG khác. Và đến nay, NHNN đã có Quyết định số 04/2007/QĐ-NHNN ngày 22/01/2007 về thấu chi và cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng, thay thế các Quyết định nêu trên.
Qua hơn 5 năm triển khai, hình thức cho vay qua đêm có một số đặc điểm như:
Thời gian giải quyết khoản vay nhanh. Ngay khi tính toán được nhu cầu vốn, các ngân hàng có thể thực hiện thấu chi trên tài khoản thanh toán. Số tiền thấu chi này sẽ được chuyển thành khoản vay nếu đến cuối ngày làm việc các ngân hàng chưa hoàn trả được.
Thời hạn cho vay rất ngắn. Các khoản cho vay tối đa chỉ 02 ngày làm việc. Sau đó nếu không hoàn trả thì NHNN sẽ thực hiện các biện pháp xử lý để thu hồi nợ.
Lãi suất cho vay cao và hiện nay 0,03%/ngày, tức 0,9%/tháng. Lãi suất này chỉ yếu mang tính chất trừng phạt đối với các ngân hàng.
Đối tượng vay vốn chỉ là các NHTM có tham gia thanh toán điện tử liên ngân hàng.
* Những kết quả đạt được và những hạn chế:
Thực trạng tái cấp vốn:
Luật NHNN sửa đổi, bổ sung năm 2003 quy định ba hình thức tái cấp vốn. Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay NHNN Việt Nam hầu như mới chỉ thực hiện được theo hai hình thức, đó là: Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác và cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá.
Trong những năm vừa qua, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các NHTM, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống NHTM. Thông thường vào thời điểm cuối năm và gần tết Nguyên Đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn thanh toán của các NHTM do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt này thường mang tính hệ thống, do vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự cố tiếp theo. Do vậy, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các TCTD đảm bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Trường hợp NHTM cổ phần Á Châu vào tháng 10/2003 và NHTM cổ phần nông thôn Ninh Bình (Nay là NHTM cổ phần dầu khí Toàn Cầu) là ví dụ điển hình. Trước những tin đồn thất thiệt, khách hàng của Ngân hàng đã ồ ạt đến rút tiền trước hạn. Bất ngờ trước phản ứng mang tính dây chuyền của khách hàng, ngân hàng rơi vào tình trạng bị động trong cân đối nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên, với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh toán cho hai ngân hàng dưới hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố giấy tờ có gi
Cụ thể như đầu tháng 7/2010, khoảng 10.000 tỷ đồng đã được dùng tái cấp vốn cho Vietinbank, giúp ngân hàng này triển khai chương trình ưu đãi xuất khẩu. Khi có tin chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 chỉ tăng 0,06%, thấp nhất hơn một năm qua, Ước tính số vốn Ngân hàng Nhà nước cung ứng để các ngân hàng cho vay nông nghiệp nông thôn sẽ vào khoảng 30.000 tỷ đồng, trong đó khoảng 10.000 tỷ đồng dành cho trung dài hạn. Như vậy có thể yên tâm dư nợ tín dụng sẽ tăng trưởng tốt. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục cung ứng tiền trung dài hạn cho Agribank để phục vụ khu vực nông thôn. Ngân hàng Nhà nước bơm khoảng 10.000 tỷ đồng, nhưng thực tế Agribank đã phân bổ chỉ tiêu về địa phương tới 12.000 tỷ, một số tiền rất quan trọng, có sức lan tỏa nhanh để kích cầu đầu tư nông thôn. Đây là lần đầu tiên trong gần 10 năm qua, Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ vốn để ngân hàng thương mại cho vay trung dài hạn.
1/ Thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như:
Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn mà nòng cốt là việc xây dựng và điều hành khung lãi suất thời gian qua đã dần hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường theo hướng lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu điều chỉnh thành lãi suất sàn. Cặp lãi suất tái cấp vốn được giữ khá ổn định và được điều chỉnh tương ứng với sự biến động của lãi suất thị trường trong từng thời kỳ.
Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại, góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại trong những năm vừa qua. Thông thường, vào các thời điểm cuối năm và gần Tết Nguyên đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn thanh toán của các ngân hàng thương mại do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt này thường mang tính hệ thống, do vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự cố tiếp theo. Do vậy, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu vào tháng 10/2003 và NHTMCP nông thôn Ninh Bình (nay là NHTMCP Dầu khí toàn cầu) là ví dụ điển hình. Trước những tin đồn thất thiệt, khách hàng của ngân hàng đã ồ ạt đến rút tiền trước hạn, bất ngờ trước phản ứng mang tính dây chuyền của khách hàng, ngân hàng rơi vào tình trạng bị động trong cân đối nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên, với vai trò là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh toán cho 2 ngân hàng dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
Thứ ba, so với trước đây, thời gian xử lý đề nghị xin vay cầm cố đã được rút ngắn chỉ còn 2 ngày (trước đây thường 3 đến 4 ngày).
Thứ tư, chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ vay vốn với NHNN ngày càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại trong quan hệ vay vốn với NHNN.
2/ Hiện thực trạng cho vay tái chấp vốn của NHNN vẫn tồn tại một số hạn chế:
Thứ nhất là tên gọi công cụ “tái cấp vốn” đã gây nhầm lẫn cho nhiều người đọc, nhất là các nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách nước ngoài thuộc các tổ chức tài chính quốc tế. Thuật ngữ “tái cấp vốn” được hiểu là NHNN cấp/bổ sung vốn hoạt động cho các NH, nhất là các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước. Trong khi thực tế, hoạt động tái cấp vốn của NHNN chỉ hỗ trợ tạm thời sự thiếu hụt về nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của các NH và quan hệ tái cấp vốn ngày là quan hệ vay trả có thời hạn. Điều này làm giảm tính minh bạch trong hoạt động tái cấp vốn của NHNN.
Thứ hai là hiệu lực can thiệp của công cụ này đến thị trường tiền tệ chưa cao và mối liên hệ giữa công cụ tái cấp vốn và tổng phương tiện thanh toán chưa rõ ràng.
Thứ ba là thời gian hoàn thành một đề nghị cho vay cầm cố giấy tờ cấp vốn (GTCG) của NHNN còn dài. Đối với đề nghị vay vốn của các NH có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá 2 ngày làm việc, nhưng đối với các NH không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc. Đây là một trong những hạn chế cơ bản của công cụ này, làm giảm tính chất hỗ trợ khẩn cấp của công cụ tái cấp vốn để bổ sung dự trữ của các NH.
Thứ tư là sự quan tâm và hiểu biết của hệ thống NHTM tới các nghiệp vụ tái cấp vốn không đồng đều và nhìn chung chưa cao. Các NH thường xuyên tiếp cận vốn nguồn vốn này với nguồn vốn này chỉ là 4 NHTM Nhà nước có trụ sở tại Hà Nội.
Ngoài ra, các cán bộ nghiệp vụ của các NHTM còn lúng túng. Tuy NHNN đã ban hành các quy chế về các công cụ tái cấp vốn và quy trình thực hiện khá rõ ràng, dễ hiểu nhưng các cán bộ này vẫn chưa nắm vững được nội dung cần thiết của bộ hồ sơ vay vốn, trình tự thực hiện nghiệp vụ.
Tổng hạn mức chiết khấu đã phân bổ cho các NH chỉ đạt 60-80% tổng hạn mức được phép sử dụng trong quý. Điều này thể hiện sự thiếu quan tâm của các NH đối với hình thực tái cấp vốn này.
Thứ năm, về cơ bản, không có nhiều khác biệt giữa hình thức chiết khấu có thời hạn và hình thức cầm cố GTCG có thời hạn. Tuy nhiên lãi suất áp dụng lại khác nhau. Mặt khác, hình thức chiết khấu GTCG của NHNN trên thị trường mở. Điều này dẫn tới sự khác biệt không cần thiết trong việc tiếp cận các công cụ của NHNN.
Thứ sáu, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phản ánh đúng cung – cầu vốn trên thị trường tiền tệ do lãi suất tái cấp vốn được quy định một cách cứng nhắc và tách xa với lãi suất thị trường, những thay đổi lãi suất tái cấp vốn chỉ nhằm làm cho nó phù hợp với lãi suất thị trường chứ không có tác động điều tiết. Mặc dù NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc thiết kế kiểm soát lãi suất thị trường theo mô hình khung lãi suất với lãi suất sàn là lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn là lãi suất trần nhưng NHNN còn chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ, do vậy, khung lãi suất chưa thực hiện được vai trò hướng dẫn sự biến động lãi suất thị trường.
Thứ bảy, hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng, các chức năng nhằm điều chỉnh các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành kinh tế, theo từng vùng lãnh thổ chưa được phát huy.
Thứ tám, quy trình thủ tục tái cấp vốn chưa đồng bộ và còn những hạn chế nhất định khiến cho nghiệp vụ tái cấp vốn chưa phát huy được hiệu quả:
Việc phân bổ hạn mức chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các ngân hàng mới chỉ dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt Nam, tổng tài sản Có và vốn tự có của ngân hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có giá mà các ngân hàng nắm giữ.
Đối với đề nghị vay vốn của các ngân hàng có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá 2 ngày làm việc, nhưng đối với các ngân hàng không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian này thường bị kéo dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc.
3/ Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Một là, điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ: Trong những năm trước mắt, với điều kiện thị trường tiền tệ ở Việt Nam như hiện nay thì lãi suất tái cấp vốn được lựa chọn là lãi suất trần và chiết khấu là lãi suất sàn trên thị trường. Cùng với khung lãi suất này, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở được NHNN sử dụng để định hướng lãi suất thị trường. NHNN sẽ quy định và công bố lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu theo mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Những điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu của NHNN cần phải linh hoạt hơn trên cơ sở bám sát diễn biến thị trường.
Hai là, mở rộng danh mục các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch tái cấp vốn. Có thể tiến tới chấp nhận trái phiếu công ty của một ngành, lĩnh vực kinh tế mũi nhọn hoặc giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng phát hành có chất lượng cao, do một tổ chức có uy tín xếp hạng, được chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của NHNN với các ngân hàng thương mại.
Ba là, hoàn thiện quy trình thủ tục tái cấp vốn:
Thống nhất đầu mối phê duyệt đề nghị NHNN tái cấp vốn đối với các ngân hàng tại NHNN về một Vụ chức năng vì hiện nay, Vụ Tín dụng đang xem xét, phê duyệt đề nghị hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, trái phiếu đặc biệt và phân bổ hạn mức chiết khấu và Sở Giao dịch NHNN là đơn vị xem xét đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu của các ngân hàng. Việc xử lý các đề nghị chiết khấu nên tập trung về Vụ Tín dụng để đảm bảo tính thống nhất, tránh phân tán.
Khi điều kiện cơ sở hạ tầng cho phép, NHNN nên tính tới việc thực hiện tái cấp vốn qua mạng thông tin nhằm giảm bớt thời gian luân chuyển chứng từ xét duyệt.
Bốn là, tăng cường áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro đối với giấy tờ có giá sử dụng trong công cụ tái cấp vốn.
2.Tạm ứng ngân sách nhà nước
Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt Nam.Nhưng NHTW không cho vay để bù đắp thiếu hụt NSNN, mà chỉ được tạm ứng trong trường hợp NSNN bị thiếu hụt. Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội chi báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là một thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào ngân sách trung ương.Chính vì vậy để bù đắp bội chi thì chính phủ phát hành trái phiếu chính phủ NHTW sẽ mua lượng trái phiếu đó, và phát hành ra cho các NHTG để mua lượng trái phiếu đó để cho nền kinh tế tăng trưởng hơn không gặp phải tình trạng mất cân bằng về kinh tế hay nói cách khác nền kinh tế không bị sụp đổ. Đây là một phần để giúp cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
3. Bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng
Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố quan trọng và luôn luôn xuất hiện trong các thương vụ dưới nhiều dạng thức khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng, rủi ro tín dụng…). Như vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế được những rủi ro và do đó bảo lãnh ngân hàng ra đời. Với vai trò là công cụ bảo đảm, công cụ tài trợ và công cụ đôn đốc các bên tham gia hoàn thành hợp đồng, sự xuất hiện của các hợp đồng bảo lãnh ngân hàng đã góp phần thúc đẩy thương mại phát triển.
Hiện nay, việc sử dụng bảo lãnh ngân hàng bùng nổ mạnh mẽ và mang lại thu nhập đáng kể cho ngân hàng. Có thể chắc chắn rằng những thương vụ lớn và có yếu tố nước ngoài tham gia hiện nay không thể nào không có một hợp đồng bảo lãnh đi kèm. Hơn nữa, bảo lãnh ngân hàng còn được sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng thương mại, xây dựng trong nước có giá trị lớn. Sự tăng trưởng này một phần là do bảo lãnh ngân hàng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho cho tất cả các dịch vụ, bao gồm cả những dịch vụ không mang tính tài chính như hợp đồng xây dựng, bảo hành sản phẩm và những dịch vụ mang tính tài chính như cam kết cung cấp thấu chi, cam kết tham gia liên doanh, tái bảo hiểm và những cam kết tài chính khác. tại Việt Nam, mặc dù bảo lãnh ngân hàng mới được Ngân hàng Nhà nước chính thức đưa vào áp dụng từ năm 1994 song đã phát huy được những vai trò quan trọng và mang lại thu nhập đáng kể cho các ngân hàng. Như vậy bảo lãnh ngân hàng là dịch vụ ngân hàng hiện đại, mang lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp và ngân hàng.
Thông tin được Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ (Ngân hàng Nhà nước) Nguyễn Ngọc Bảo đưa ra tại một hội thảo diễn ra mới đây về vấn đề nợ công, do Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội tổ chức cho thấy, tỷ lệ nợ Chính phủ bảo lãnh hiện chiếm 7% so với GDP, trong đó có 5% là vay trong nước, vay nước ngoài chiếm 2%.
Tuy nhiên, ông Bảo cho biết, nếu xét về cơ cấu dư nợ với số tuyệt đối thì vay nước ngoài đang có xu hướng tăng, trong khi vay trong nước đang có xu hướng giảm. Đây là vấn đề cần được quan tâm, bởi theo ông Bảo, liệu thực tế này có phù hợp với chủ trương vay nợ của chúng ta hay không?
Thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, trong giai đoạn 2005 - 2009, khối lượng vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh có xu hướng tăng qua hằng năm. Nếu như năm 2005 chỉ khoảng 0,9 tỷ USD, thì con số này đã tăng gấp 4 lần trong năm 2009, đạt 3,986 tỷ USD, đồng thời tỷ lệ nợ nước ngoài trong tổng dự nợ của Chính phủ cũng tăng lên mức 14,27% trong năm 2009, gấp 2 lần con số 6,4% của năm 2005.
Đáng chú ý, tỷ trọng dư nợ nước ngoài của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh cũng có xu hướng tăng, từ 6,4% năm 2005, đã tăng lên 13,3% năm 2008 và 14,27% trong năm 2009.
Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ nói, sẽ rất tốt nếu như các khoản nợ này được quản lý tốt và có hiệu quả, để có thể tái tạo được nguồn ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Song nếu ngược lại, chắc chắn gánh nặng nợ công cũng như gánh nặng cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam trong thời gian tới sẽ càng nặng hơn.
Song các cá nhân tổ chức cũng nên thận trọng với vấn đề vay vốn nước ngoài. Bộ Tài chính vừa đưa ra một số cảnh báo về hình thức hoạt động lừa đảo trong cho vay và bảo lãnh vay vốn nước ngoài mới xuất hiện tại Việt Nam trong thời gian gần đây.
Theo Bộ Tài chính, thời gian gần đây lợi dụng các chủ trương và chính sách mở cửa của Việt Nam đã có nhiều tổ chức và cá nhân (cả trong nước và ngoài nước đã tự xưng là đại diện của các đinh chế tài chính nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế) đã gặp giới doanh nghiệp Việt Nam và lãnh đạo nhiều Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư để đưa ra các bản chào các khoản tín dụng nước ngoài với số tiền khá lớn, lãi suất cực kỳ ưu đãi (thực sự là phi thị trường), thời hạn cho vay (bao gồm thời gian âm hạn) đến 15 năm, thậm chí 20 năm.
Tuy nhiên, để tiếp cận vay được các khoản tín dụng nước ngoài này các đối tượng tự xưng nêu trên đều yêu cầu nhất thiết phải có bảo lãnh của Chính phủ, cụ thể là Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Bộ Tài chính cũng nhấn mạnh khi phát hiện thấy có âm mưu lừa đảo, đề nghị báo cáo cho cơ quan an ninh của Công an tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư để có biện pháp xử lý kịp thời đối với hành vi này.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HO7840T 2727896NG TN D7908NG C7910A NGN HNG TRUNG 431416N.doc