MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Lý luận
2. Thực tế
II. ĐỐI TƯỢNG
III NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1.Yêu cầu của một giáo án theo tinh thần đổi mới:
2. Các thao tác soạn giáo án phần đọc-hiểu văn bản.
3. Xây dựng một số giáo án mẫu
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lý thuyết.
2. Thực nghiệm.
3. Xây dựng giáo án mẫu.
V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. YÊU CẦU CỦA MỘT GIÁO ÁN THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI.
1. Giáo án cần đảm bảo các nguyên tắc:
a. Thể hiện được tính tích hợp của chương trình
b. Giáo án cần chú ý đến việc phát huy tính tích cực cao độ của chủ thể học sinh-nhân vật trung tâm trong quá trình học Ngữ văn.
2. Giáo án phải thể hiện được đề cương của nội dung bài giảng.
3. Giáo án phải thể hiện được việc tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học.
4. Giáo án phải sử dụng dễ dàng khi lên lớp.
5. Giáo án phải mang tính chất mở.
II. CÁC THAO TÁC SOẠN MỘT GIÁO ÁN.
1. Xác định nội dung bài.
2. Lập đề cương nội dung.
3. Thiết kế hoạt động của trò.
4. Thể hiện trên giáo án
III. GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM.
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3752 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu phương pháp soạn một giáo án dạy phần đọc-hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở theo tinh thần đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c sinh chán học Văn hoặc không có kiến thức văn chương. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “ Tìm hiểu phương pháp soạn một giáo án dạy phần đọc-hiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn trung học cơ sở theo tinh thần đổi mới” làm đề tài nghiên cứu.
Trước vấn đề soạn giáo án cần phải có một nhận thức đúng đắn, đầy đủ là người giáo viên nói chung và người giáo viên giảng dạy Văn học nói riêng phải rèn luyện cho mình kỹ năng soạn giáo án cũng như ý thức được trách nhiệm soạn giáo án là cần thiết cho mình cũng như cho học sinh. Soạn giáo án đạt yêu cầu chính là nhằm giúp cho người giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình trên lớp một cách tốt nhất.
II. ĐỐI TƯỢNG
“Xây dựng phương pháp soạn giáo án cho giờ đọc hiểu văn bản môn Ngữ văn trung học cơ sở theo tinh thần đổi mới, phát huy tính tích cực của học sinh”.
Việc soạn giáo án tuy đều dựa trên một nguyên tắc chung nhưng mỗi giáo viên lại có một phương pháp soạn giáo án riêng tuỳ thuộc vào trình độ, khả năng nhận thức của mỗi người.
Từ việc thay đổi chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn bắt đầu từ lớp 6 dẫn đến cần có sự thay đổi phương pháp soạn sao cho phù hợp. Tuy nhiên do sự thay đổi vừa mới tiến hành được một thời gian ngắn nên yêu cầu có được một giáo án chuẩn là rất khó. Tìm hiểu phương pháp soạn một số giáo án cho giờ đọc-hiểu văn bản là quá trình nhằm tìm ra phương pháp tối ưu nhất giúp cho người giáo viên trung học cơ sở nhất là những giáo viên trẻ mới ra trường có sự định hướng trong việc soạn giáo án.
III NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
1.Yêu cầu của một giáo án theo tinh thần đổi mới:
a.Giáo án cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
*Thể hiện được tính tích hợp của chương trình.
*Phải chú ý đến việc phát huy tính tích cực cao độ của chủ thể học sinh-nhân vật trung tâm trong quá trình dạy học.
b.Giáo án phải thể hiện được đề cương của nội dung bài giảng
c.Giáo án phải thể hiện được việc tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học.
d.Giáo án phải sử dụng dễ dàng khi lên lớp.
e. Giáo án phải mang tính chất mở
2. Các thao tác soạn giáo án phần đọc-hiểu văn bản.
a. Xác định nội dung bài
b. Lập đề cương nội dung
c. Thiết kế hoạt động của trò
e. Thể hiện trên giáo án
3. Xây dựng một số giáo án mẫu
a. Văn bản: “Thánh Gióng”
b. Văn bản: “Đêm nay Bác không ngủ”
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Nghiên cứu lý thuyết.
-Tham khảo các tài liệu
+Tập san Khoa học xã hội-nhân văn và nhà trường
+Đặc san Văn học & Tuổi trẻ
+Triết học Mac-Lenin
+Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6
+Tạp chí Giáo dục & Thời đại
2. Thực nghiệm.
-Quá trình kiến tập sư phạm:
-Quá trình thực tập tốt nghiệp
+Dự giờ Ngữ văn của giáo viên Trung học cơ sở Lý Tự Trọng
+Tham khảo giáo án của các giáo viên bộ môn Ngữ văn
3. Xây dựng giáo án mẫu.
V. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
1. Xây dựng các thao tác soạn giáo án
2. Đưa ra cấu trúc giáo án hợp lý
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. YÊU CẦU CỦA MỘT GIÁO ÁN THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI.
Trước yêu cầu phát triển mới của sự nghiệp giáo dục và những hạn chế của nội dung chương trình cũng như phương pháp dạy học của cuộc cải cách giáo dục diễn ra vào những năm đầu của thập kỷ 80. Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Bộ giáo dục và đào tạo đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, nhằm đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học.
Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng của ngành giáo dục và đào tạo là: “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục-đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thói quen, nền nếp tư duy sáng tạo của người học”.
Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học thì việc thay đổi phương pháp soạn giáo án là một điều cần thiết. Một giáo án theo tinh thần đổi mới là một giáo án đáp ứng được các yêu cầu, nguyên tắc sau:
1. Giáo án cần đảm bảo các nguyên tắc:
a. Thể hiện được tính tích hợp của chương trình
Dạy học theo hướng tích hợp là một xu thế phổ biến trong dạy học hiện đại của tất cả các nước phát triển nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu về học vấn phổ thông, khả năng tiếp thu và khối lượng tri thức khổng lồ của nhân loại đang ngày một tăng lên vùn vụt. Dạy học tích hợp khắc phục được lối giảng dạy tách rời các hiện tượng ngôn ngữ ra khỏi văn cảnh, ngữ cảnh của văn bản, đòi hỏi giảng dạy nội dung nào cũng phải dựa vào văn bản dữ liệu. Nhờ vào các kiến thức của Tiếng Việt và Tập làm văn mà việc khai thác văn bản tác phẩm sâu sắc và kỹ càng hơn…Việc tách ra 3 phân môn độc lập, dễ tạo ra cho giáo viên và học sinh thói quen dạy và học những phân môn trên một cách cứng nhắc, dung tục. Ví dụ trong việc phân tích, giảng giải tác phẩm văn chương, rất nhiều những kiến thức và kỹ năng của phân môn Tiếng Việt như: ngữ âm, nhịp điệu, từ ngữ, các loại câu, các biện pháp tu từ, các quy tắc hội thoại và những cách nói hàm ẩn, hàm ngôn…,là những cơ sở quan trọng để “giải mã” những nội dung tiềm ẩn sâu sắc trong các tác phẩm văn chương, nhưng lại ít được giáo viên và học sinh để ý khai thác. Đành rằng để hiểu tác phẩm văn chương không chỉ có mình tri thức ngôn ngữ, nhưng bỏ qua “yếu tố thứ nhất”này, tức là bỏ qua văn bản tác phẩm, cũng có nghĩa là khó tránh khỏi xu hướng rơi vào phân tích kiểu xã hội học dung tục. Tất nhiên cách dạy học các phân môn tách rời như hiện hành bảo đảm được tính độc lập của phân môn, đáp ứng và giải quyết được nhiều vấn đề do môn khoa học tương ứng đề ra. Ví dụ, với tư cách một phân môn độc lập, Tiếng Việt sẽ giải quyết được tương đối dễ dàng vấn đề hệ thống tri thức Việt ngữ và một số vấn đề lý thuyết ngôn ngữ học. Với phân môn Văn là các vấn đề như: lịch sử văn học, tác giả tác phẩm, lýluận văn học vv... Những vấn đề trên nếu dạy học theo nguyên tắc tích hợp sẽ ít nhiều bị phá vỡ, hay nói đúng hơn sẽ khó thực hiện được trọn vẹn như dạy học hiện hành. Tuy vậy chương trình của sách giáo khoa Ngữ văn đã dành các bài tổng kết và ôn tập cuối năm cho mỗi lớp ở mỗi cuốn sách để hệ thống hoá và đáp ứng các yêu cầu riêng của các phân môn. Ngoài ra nếu cần củng cố và nâng cao các vấn đề trên có thể đưa vào nội dung dạy học tự chọn đã được ghi trong chương trình dự thảo cho hai lớp cuối cấp trung học cơ sở.
Chính vì vậy người giáo viên cần soạn giáo án phù hợp với quan điểm tích hợp, bởi lẽ quan điểm này là nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức nội dung, chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn phương pháp giảng dạy.
* Việc xây dựng chương trình môn Ngữ văn theo quan điểm tích hợp được thể hiện ở 4 điểm sau:
- Môn học chương trình xây dựng được gọi là Ngữ văn
- Môn Ngữ văn đồng thời hình thành cho học sinh 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
- Ba phân môn và 4 kỹ năng được dạy học từ một văn bản
- Đảm bảo tính thống nhất cao giữa ba phân môn.
*Việc soạn giáo án theo hướng tích hợp là một vấn đề mới và rất khó. Tuy nhiên nếu tập trung quan tâm đúng mức sẽ đem lại hiệu quả cao cho giờ giảng Văn. Có thể soạn giáo án theo hai cách tích hợp dọc và tích hợp ngang.
-Tích hợp dọc là tích hợp các vấn đề gần nhau trong chính từng phân môn,hoặc các phân môn khác nhau ở các bài đã, đang và sẽ học, ở các lớp dưới và lớp trên. Chẳng hạn phép so sánh trong phân môn Tiếng Việt, hay văn miêu tả và kể chuyện trong phân môn Tập làm văn không phải đến lớp 6 mới học mà học sinh đã đượclàm quen ở Tiểu học. Theo tinh thần này khi dạy sách Ngữ văn 6, giáo viên cần tận dụng tối đa những kiến thức mà học sinh đã học ở trước đó về so sánh, một mặt củng cố, ôn luyện và vận dụng; mặt khác từ những gì đã biết hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá mở rộng và nâng cao vấn đề so sánh mà lớp dưới chưa học. Những kiến thức so sánh đã học ở Tiểu học cũng được tích hợp, vận dụng khi học văn miêu tả ở lớp 6. Tương tự như thế những kiến thức và kỹ năng về đọc hiểu ở tiểu học sẽ được huy động và vận dụng vào việc đọc-hiểu phân môn văn học trung học cơ sở với một yêu cầu cao hơn. Như thế tích hợp dọc là sự tích hợp theo vấn đề đã học và sẽ học ở nhiều thời điểm khác nhau.
-Tích hợp ngang tức là dạy 3 phân môn trên cùng một văn bản. Văn bản chính là nguồn tài liệu mà cả 3 phân môn đều phải hướng tới, từ đó mà làm rõ cho nhau. Giờ đọc-hiểu phải bám sát vào văn bản, vào các yếu tố hình thức mà trước hết là thể loại và ngôn từ nghệ thuật…để làm sáng tỏ nội dung văn học. Không chỉ Tiếng Việt mà cả kiến thức Tập làm văn cũng giúp cho việc đọc - hiểu tốt hơn. Chẳng hạn những kiến thức về ngôi kể và lời kể, thứ tự kể… trong kiểu văn bản tự sự sẽ giúp giáo viên và học sinh khai thác tốt hơn các tác phẩm tự sự được đọc-hiểu ở giờ Văn
Ví dụ:
+Văn bản “Thánh Gióng” có thể tích hợp ngang: Trong truyền thuyết Thánh Gióng có các nhân vật, các chi tiết, sự kiện, vậy nó thuộc thể loại gì? Nếu thiếu các chi tiết sự kiện ấy truyền thuyết có còn ý nghĩa không?
Tích hợp ngang còn thể hiện ở văn bản phụ ở Tiếng Việt và Tập làm văn. Những văn bản phụ này cũng góp phần làm sáng tỏ cho văn bản chung. Và đặc biệt tích hợp ngang còn thể hiện trong hệ thống câu hỏi dẫn dắt và các đề kiểm tra đánh giá. Trong một bài học, mỗi phân môn đề có câu hỏi về các kiến thức liên quan đến các phân môn còn lại; các đề kiểm tra đánh giá nhất là bài kiểm tra cuối học kỳ hoặc cuối năm được kiểm tra một cách tổng hợp theo hướng tích hợp.
Ví dụ
+ Ở văn bản “Lượm” trong khổ thơ đầu, câu thơ “ Ngày Huế đổ máu” đã sử dụng phép hoán dụ, lấy dấu hiệu “đổ máu” để nói đến sự khốc liệt của chiến tranh. Hoán dụ là gì? chúng ta sẽ được học ở phần Tiếng việt trong bài sau.
Nếu soạn giáo án theo hướng tích hợp thì trong giờ dạy sẽ giúp cho các em hiểu được vấn đề một cách sâu rộng khắc ghi được kiến thức lâu hơn, hiểu bài một cách dễ dàng hơn có thêm nhiều kiến thức trong các lĩnh vực khác cũng như làm phong phú thêm đời sống tinh thần của các em.
b. Giáo án cần chú ý đến việc phát huy tính tích cực cao độ của chủ thể học sinh-nhân vật trung tâm trong quá trình học Ngữ văn.
* Phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của người học là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của người thầy trong qua trình dạy học. Vì vậy nó luôn là trung tâm chú ý của lý luận và thực tiễn dạy học. Đến nay đây vẫn là một vấn đề quan trọng nhất của dạy học-giáo dục.
Khi nghiên cứu về vấn đề này cần coi trọng người thầy trong việc tổng kết những kinh nghiệm của quá khứ và phát triển chúng trong điều kiện hiện tại, khi mà khoa học kỹ thuật đã phát triển ở mức độ cao và bản chất con người đã có những thay đổi về tính chất, năng lực, nhu cầu và nguyện vọng.
Tính tích cực nhận thức biểu thị sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác với đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu, thể hiện ở sự nỗ lực hoạt động trí tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý như hứng thú, chú ý, ý chí…nhằm đạt được mục đích đặt ra với chất lượng cao.
* Để biết được học sinh có tính tích cực học tập hay không cần dựa vào những dấu hiệu sau đây:
- Có chú ý học tập hay không?
- Có hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập không?(thể hiện ở việc phát biểu ý kiến, ghi chép…)
- Có hoàn thành những nhiệm vụ được giao không?
- Có ghi nhớ tốt những điều đã học không?
-Có hiểu bài học không?
-Có thể trình bày lại nội dung bài học theo ngôn ngữ riêng không?...
Về mức độ tích cực của học sinh trong quá trình học tập có thể không giống nhau, chúng ta có thể phát hiện được điều đó dựa vào một số dấu hiệu sau:
+ Tự giác học tập hay bị bắt buộc bởi những tác động bên ngoài( Gia đình, bạn bè, xã hội…)
+ Thực hiện nhiệm vụ của thầy giáo theo yêu cầu tối thiểu và tối đa?
+ Tích cực nhất thời hay thường xuyên, liên tục?
+ Tích cực tăng lên hay giảm dần?
+ Có kiên trì vượt khó hay không?
*Tính tích cực của học sinh có mặt tự phát và mặt tự giác
- Mặt tự phát của tính tích cực là những yếu tố tiềm ẩn bẩm sinh thể hiện ở tính tò mò, hiếu kỳ, hiếu động, linh hoạt và sôi nổi trong hành vi mà đứa trẻ đều có ở những mức độ khác nhau.
-Tính tích cực tự giác thể hiện ở óc quan sát, tính phê phán trong tư duy, trí tò mò khoa học…
Tính tích cực nhận thức phát sinh không chỉ từ nhu cầu nhận thức mà cả từ nhu cầu sinh học, nhu cầu đạo đức, thẩm mỹ, nhu cầu giao lưu văn hoá…Hạt nhân cơ bản của tính tích cực nhận thức là hoạt động tư duy và nhận được tạo nên do sự thúc đẩy của hệ thống nhu cầu đa dạng.
Ngày nay dạy học tích cực có thể xem là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nhà trường hiện đại và có thể lấy đó phân biệt với nhà trường truyền thống.
Phát huy tính tích cực của học sinh và “ dạy học lấy học sinh làm trung tâm” đều nhấn mạnh vai trò chủ thể của người học, còn người giáo viên “ lùi vào hậu trường” chỉ là người tư vấn, hướng dẫn cho học sinh chiếm lĩnh tri thức. Để đáp ứng được yêu cầu này người giáo viên cần thay đổi cách soạn giáo án chuyển trọng tâm sang thiết kế các hoạt động của trò, tăng cường tổ chức các công tác độc lập hoặc theo nhóm bằng các phiếu hoạt động học tập, tăng cường giao tiếp thầy trò, mở rộng giao tiếp trò - trò, nâng cao chất lượng các câu hỏi, giảm số câu hỏi tái hiện sự kiện, tăng tỷ lệ các câu hỏi yêu cầu tư duy tích cực sáng tạo.
* Việc áp dụng phương pháp thể hiện tính tích cực của học sinh trong quá trình soạn giáo án đòi hỏi trình độ và kinh nghiệm của người giáo viên, phương pháp học tập của người học sinh. Đây là một quá trình đổi mới lâu dài, chính vì vậy người giáo viên không nên nóng vội, cần phải căn cứ vào tình hình thực tế để từ đó thiết kế một giáo án phù hợp sao cho những tiết học phấn đấu để học sinh được hoạt động nhiều hơn, thực hành nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn và quan trọng nhất là được suy nghĩ nhiều hơn trên con đường lĩnh hội nội dung học tập. Để phát huy tính tích cực của học sinh người giáo viên trong giờ dạy cần phải đặt hàng loạt các câu hỏi từ tái hiện đến các câu hỏi sáng tạo, đưa ra các tình huống ngược lại vấn đề trong sách để thử khả năng tư duy của học sinh.
Chẳng hạn phân tích chi tiết “trả gươm” trong bài “Sự tích hồ gươm”, người giáo viên không nên dùng phương pháp thuyết trình mà cần tổ chức hoạt động vấn đáp. Giáo viên đưa ra các câu hỏi để học sinh suy nghĩ như: Vì sao Lạc Long Quân đòi gươm báu? Vì sao địa điểm trả gươm lại ở hồ Lục Thuỷ mà không phải ở Thanh Hoá? hoặc: vì sao chỗ nhận gươm không phải là Thăng Long? ý nghĩa của chi tiết này? lập đi lập lại vấn đề từ đó học sinh sẽ tự tìm ra được câu trả lời.
2. Giáo án phải thể hiện được đề cương của nội dung bài giảng.
Đây là một yêu cầu rất cụ thể và thiết thực đối với người giáo viên. Người giáo viên cần xác định được đối tượng của mình là học sinh cấp II-đối tượng đã qua tuổi trẻ con nhưng chưa đến tuổi trưởng thành, nhất là những học sinh lớp 6 vừa mới qua tiểu học còn chưa quen với cách giảng dạy ở cấp II, chính vì vậy người giáo viên soạn giáo án bên cạnh phần Hoạt động của trò cần phải có phần Nội dung bài học giúp cho người giáo viên dễ dàng hơn trong việc ghi bảng, học sinh dễ ghi bài hơn cũng như sẽ tạo ra được một chuỗi lôgíc các kiến thức giúp học sinh nắm kiến thức bài tốt hơn.
Thực tế có nhiều giáo viên do chuẩn bị bài chưa kỹ nên việc ghi bảng gặp nhiều khó khăn, nội dung các ý lớn chưa được chính xác, gọn gàng dẫn đến việc ghi vở của học sinh cũng lộn xộn, việc ôn bài cũ rất vất vả. Thực tế giảng dạy cho ta thấy nhiều giáo viên sau khi dạy xong một tiết học thì trên bảng cũng chỉ được mấy dòng ghi đề mục, các ý ghi trên bảng lại vụn vặt chưa toát lên những ý cơ bản của bài học, điều này khiến cho nội dung bài học rất mù mờ mà nguyên nhân chính là trong giáo án người giáo viên không chú ý thể hiện rõ đề cương nội dung bài học, khiến cho học sinh chỉ cần không xem lại bài hay không còn để tâm đến những gì cô giáo giảng, một thời gian sau giở lại bài sẽ không hiểu những gì mình đã viết.
Từ đó ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc ghi bảng và hướng dẫn học sinh ghi, việc soạn giáo án là vô cùng cần thiết đối với mọi bài học.
Chẳng hạn trong bài “Sọ Dừa” ta có thể đưa ra đề cương bài giảng như sau:
Văn bản: SỌ DỪA (2 tiết)
I Giới thiệu bài
1. Truyện cổ tích
2. Thể loại của truyện Sọ Dừa
II. Đọc-hiểu từ ngữ, bố cục
1. Đọc
2. Bố cục
III Phân tích
1. Nhân vật Sọ Dừa
a. Sự ra đời và hình dạng của Sọ Dừa
b. Sọ dừa là người có nhiều tài năng
2. Các nhân vật khác
a. Nhân vật cô Út
* Cô Út lấy Sọ Dừa
* Bài học
b. Bà mẹ Sọ Dừa
c. Phú ông và hai cô chị
3. Ý nghĩa kết cục của các nhân vật
4. Kết luận
IV. Ghi nhớ, luyện tập, đọc thêm
1. Ghi nhớ ( SGK)
2. Luyện tập, đọc thêm
3. Giáo án phải thể hiện được việc tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học.
Do việc đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh nên cần quan tâm chú ý đến việc thiết kế các hoạt động của học sinh.
Việc ghi Nội dung bài học là rất cần thiết nhưng giờ dạy có đạt hiệu quả, có đi đúng hướng với sự đổi mới phương pháp dạy học hay không vào việc thiết kế các hoạt động cuả học sinh có tốt hay không. Ngược lại việc thiết kế các hoạt động, phải hướng vào những ý cơ bản của nội dung bài học. Nếu trong giờ dạy người giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình quá nhiều sẽ không phát huy được tính tích cực của học sinh trong quá trình học tập, biến học sinh thành người bị động, tiếp thu kiến thức một cách thụ động dẫn đến kiểu học vẹt vì không được tư duy trong giờ học. Chính vì vậy trong phần Hoạt động của học sinh giáo viên cần phân công nhiệm vụ cụ thể cho các em như đọc, nhận xét, thảo luận, phân tích, làm các bài tập rèn luyện kỹ năng, đưa các em vào tình huống có vấn đề cần giải quyết, tháo gỡ để tự tìm ra kết luận, các câu hỏi nêu ra cần phải phát huy cao độ tính tích cực tự giác của học sinh, buộc học sinh phải tư duy để tìm ra câu trả lời, nếu câu hỏi không vừa sức với các em có thể đưa ra các câu hỏi gợi mở. Cần chú ý rằng câu hỏi trong phần đọc-hiểu văn bản có sự khác trước. Xuất phát từ việc thay đổi cụm từ Hướng dẫn học bằng Đọc-hiểu văn bản nên câu hỏi phần đọc - hiểu văn bản cũng phải thay đổi theo. Câu hỏi phải quan tâm đến các yếu tố làm cơ sở khoa học cho việc hiểu tác phẩm chứ không phải là sự cảm nhận chung chung, chủ quan, cảm tính. Như vậy câu hỏi phải tập trung giúp học sinh tìm ra đúng và phân tích được vai trò của các yếu tố hình thức nghệ thuật (thể loại kiểu văn bản, nhân vật, cốt truyện, câu chữ, chi tiết, hình ảnh, âm hưởng,nhịp điệu và các cách diễn đạt mới lạ, độc đáo…)Biên soạn hệ thống câu hỏi theo tinh thần lấy học sinh làm trung tâm thực chất là đã đề xuất một hệ thống câu hỏi tích hợp cho giờ giảng Văn.
Thiết kế hoạt động của học sinh người giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn học sinh lĩnh hội tri thức suy nghĩ tự tìm ra khái niệm, giáo viên chỉ là người cố vấn cho các em.
Chẳng hạn khi tìm hiểu sự ra đời và hình dạng của Sọ Dừa giáo viên có thể chuẩn bị những câu hỏi cho các nhóm học sinh như:
- Nhận xét sự ra đời của Sọ Dừa?
- Sọ D`ừa thuộc nhân vật nào trong truyện cổ tích?
- ý nghĩa của kiểu nhân vật như Sọ Dừa trong truyện cổ tích ?
- Giới thiêu Sọ Dừa với những chi tiết kỳ lạ có tác dụng gì cho việc kể truyện?
- (Các nhóm học sinh sẽ thảo luận, đại diện phát biểu, giáo viên sơ kết)
4. Giáo án phải sử dụng dễ dàng khi lên lớp.
Giáo án là kịch bản, là kế hoạch cụ thểm làm chỗ dựa cho hoạt động của giáo viên trên lớp, hơn thế giáo án còn phải dễ sử dụng.
Điều đó có nghĩa là giáo án phải rõ ràng, mạch lạc, ngắn gọn nhưng cần đầy đủ các ý, có thể bổ sung, mở rộng các kiến thức còn thiếu trong giáo án cũng như cắt bỏ những kiến thức không cần thiết cho phù hợp với thời gian giảng dạy.
Bên cạnh đó muốn không bị nhầm lẫn hoặc bỏ sót ý ta nên chia đôi giáo án, một bên ghi Hoạt động của học sinh ( dưới sự hướng dẫn của giáo viên) và một bên ghi Nội dung bài học. Làm như vậy giáo án sẽ trở nên rõ ràng, giúp cho người giáo viên dễ dàng hơn trong việc ghi bảng cũng như khi giao các nhiệm vụ cho học sinh.
5. Giáo án phải mang tính chất mở.
Trước đây do bị quy định bởi phương pháp giảng dạy nên khi thiết kế giáo án người ta quan tâm nhiều đến hoạt động của thầy, giáo án mang tính chất khép là điều dễ hiểu. Hiện nay với sự thay đổi toàn bộ chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học nên giáo án cần phải mang tính chất mở. Giáo án mang tính chất mở là giáo án có thể mở rộng bổ sung hàng năm cho phù hợp với từng lớp đối tượng cho học sinh. Ngày nay học sinh được tiếp xúc với nền khoa học rất sớm, trình độ lớp sau càng phát triển hơn so với lớp trước, cũng nội dung ấy nhưng người giáo viên ấy có thể điều chỉnh cho phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh.
Bên cạnh đó giáo án mở cũng là giáo án có thể điều chỉnh cho phù hợp đối với từng đối tượng học sinh, đối với học sinh trung bình cần phải dạy đến đâu, đối với học sinh khá giỏi thì cần bổ sung, mở rộng thêm những gì? Học sinh miền núi, học sinh miền xuôi dạy học có gì cần hạn chế, bổ sung, mở rộng.
Ví dụ: Ở một bài văn bất kỳ trước khi đi vào phân tích không cần phải nêu chủ đề của bài mà để học sinh tự rút ra sau khi đã tìm hiểu, phân tích văn bản. Còn đối với học sinh miền núi cần phải nêu ngay được đại ý, chủ đề của bài văn, bài thơ để các em được dễ dàng hơn trong quá trình tìm hiểu phân tích văn bản.
Đây là một ưu điểm của phương pháp mới mà người giáo viên cần phát huy, đồng thời nó cũng đòi hỏi người giáo viên phải có độ nhanh nhạy,linh hoạt khi thực hiện yêu cầu này.
II. CÁC THAO TÁC SOẠN MỘT GIÁO ÁN.
1. Xác định nội dung bài.
Đây là bước đầu tiên và rất quan trọng, là tiêu đề, cơ sở định hướng cho các thao tác tiếp theo. Việc đầu tiên sau khi ta tiếp xúc với văn bản là phải xác định được nội dung, nghệ thuật của văn bản. Có xác định được nội dung, nghệ thuật của văn bản từ đó mới tìm ra được phương pháp dạy và thiết kế được giáo án đạt yêu cầu.
Xác định được nội dung bài thì phần đọc-hiểu văn bản sẽ giúp cho người giáo viên dễ xác định các mục của bài cũng như việc đặt ra các câu hỏi, lật lại vấn đề.
Ví dụ: Trong văn bản “Sự tích hồ gươm” cần phải xác định được nội dung của nó là: Kể về cuộc khởi nghiã Lam Sơn và người anh hùng Lê Lợi, hoàn cảnh nhận gươm và trả gươm của Lê Lợi. Truyện cũng nhằm giải thích tên gọi Hồ Hoàn Kiếm, đồng thời thể hiện khát vọng hoà bình của dân tộc.
Hay như trong văn bản “ Đêm nay Bác không ngủ” có nội dung: qua câu chuyện kể về một đêm không ngủ của Bác Hồ trên đường đi chiến dịch, bài thơ thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc rộng lớn của Bác đối với bộ đội và nhân dân, đồng thời thể hiện tình cảm yêu kính, cảm phục của người chiến sĩ đối với lãnh tụ.
Nghệ thuật của bài thơ là sử dụng thể thơ 5 chữ theo lối tự sự, sử dụng nhiều từ láy
2. Lập đề cương nội dung.
Sau khi đã xác định được nội dung văn bản thì nhiệm vụ tiếp theo của người giáo viên là lập ra đề cương của văn bản phục vụ cho việc dạy phần đọc-hiểu văn bản. Đây là công việc rất cần thiết bởi đề cương này cũng chính là đề cương bài giảng, người giáo viên cần phải biết sắp xếp các mục, các ý lớn nhỏ sao cho phù hợp và dễ dàng sử dụng khi lên lớp.
Chẳng hạn sau khi đã xác định được nội dung của văn bản “Đêm nay Bác không ngủ” công việc của người giáo viên là sắp xếp các ý đó để trở thành một đề cương hoàn chỉnh.
I.Giới thiệu tác giả-tác phẩm
1. Tác giả
2. Tác phẩm
II. Hướng dẫn đọc, tìm bố cục
1. Đọc
2. Bố cục
III Phân tích
1. Hình tượng Bác Hồ
Hình ảnh Bác được hiện lên qua các phương diện:
-Hình dáng, tư thế
-Cử chỉ, hành động
* Tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác
- Đối với bộ đội
-Đối với dân công
-Đối với dân tộc
2. Tâm trạng anh đội viên khi chứng kiến Bác không ngủ
a. Tỉnh giấc lần thứ nhất
* Chứng kiến:
* Tâm trạng:
b. Tỉnh giấc lần thứ 3
* Chứng kiến
* Tâm trạng
3. Nghệ thuật
a. Thể thơ: năm chữ
b. Thể loại: tự sự
c. Các thủ pháp nghệ thuật
- Cách gieo vần
-Từ láy
-Điệp câu
IV. Tổng kết
V. Luyện tập
3. Thiết kế hoạt động của trò.
Sau khi có được một đề cương hoàn chỉnh người giáo viên sẽ thiết kế các hoạt động của học sinh ứng với từng phần nội dung bài học, phân các nhiệm vụ cụ thể cho học sinh như đọc bài, trả lời các câu hỏi, nhận xét một chi tiết nào đó, đưa ra các tình huống để học sinh thảo luận giải quyết, cho học sinh đóng vai nhân vật. Tuy vậy đặc biệt quan trọng nhất là đưa ra nhiều câu hỏi gợi mở, sáng tạo để học sinh suy nghĩ, trả lời, phát huy cao độ tính tích cực tự giác của học sinh.
Ví dụ:
Trong văn bản “Đêm nay Bác không ngủ” ứng với phần nội dung bài học ở phần 2, ta thiết kế các hoạt động của học sinh như sau:
Để tìm hiểu hình tượng Bác Hồ giáo viên đưa ra một loạt câu hỏi như:
* Qua cái nhìn của anh đội viên hình ảnh Bác được hiện lên qua những phương diện nào?
- Tìm các từ ngữ miêu tả hình dáng, tư thế Bác? Nêu nhận xét?
- Tìm các từ ngữ bộc lộ những hành động, cử chỉ của Bác? Phân tích cử chỉ “ nhón chân nhẹ nhàng”
-Trong bài thơ Bác đã nói với anh đội viên mấy lần?
* Tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác đối với bộ đội, dân công cũng như dân tộc được thể hiện như thế nào qua bài thơ?
* Qua các chi tiết miêu tả Bác Hồ được hiện lên như thế nào?
( Học sinh thảo luận, trả lời)
4. Thể hiện trên giáo án
Tất cả các thao tác trên nhằm chuẩn bị cho việc xây dựng giáo án. Sau khi đã có được đề cương nội dung bài học, thiết kế được hoạt động của học sinh người giáo viên thể hiện tất cả những điều đó trên giáo án. Nói về việc thể hiện giáo án, trên thực tế có rất nhiều cách thể hiện, nó phụ thuộc vào trình độ, thái độ nhìn nhận của mỗi người.
Chúng tôi có thể giới thiệu một số cách thể hiện giáo án sau:
a. Văn bản: ÔNG LÃO ĐÁNH CÁ VÀ CON CÁ VÀNG ( Bài 9)
Người soạn Tiến sĩ: Nguyễn Trọng Hoàn
Vụ giáo viên. Bộ giáo dục và đào tạo
( Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ)
I. Mục tiêu bài học
II. Phương tiện thực hiện
III. Cách thức tiến hành
IV. Tiến trình giờ dạy học
- Lời dẫn
* Hoạt động 1: Giới thiệu sơ lược về tác phẩm
GV: Nêu xuất xứ và đôi nét cơ bản về tác phẩm?
HS: Ông lão đánh cá và con cá vàng do Puskin viết dựa trên mô típ truyện dân gian Nga-Đức. Tác phẩm gồm 205 câu thơ.
* Hoạt động 2: Đọc tác phẩm
* Hoạt động 3: Trả lời và thảo luận các câu hỏi đọc-hiểu văn bản
GV: Mấy lần ông lão ra biển gọi cá vàng?...
HS: Có 5 lần ông lão ra biển gọi cá vàng
GV: Việc kể lại những lần ông lão ra biển gọi cá vàng là biện pháp lặp lại của truyện cổ tích? Nêu tác dụng của biện pháp này.
HS: Tác dụng: Gợi ra các tình huống cuốn hút người đọc. Việc sử dụng biện pháp lặp lại làm cho đặc điểm tính cách nhân vật lần sau xuất hiện được tô đậm hơn lần trước.
GV: Mỗi lần ông lão ra biển gọi cá vàng cảnh biển thay đổi như thế nào?
HS: - Lần 1: Biển gợn sóng êm ả
- Lần 2: Biển xanh đã nổi sóng
- Lần 3: Biển xanh nổi sóng giữ dội
- Lần 4: Biển nổi sóng mù mịt
- Lần 5: Một cơn giông kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm.
GV: Em có nhận xét gì về lòng tham và sự bội bạc của nhân vật mụ vợ?
HS: Ngày càng tăng tiến và quá quắt.
GV: Câu truyện đã được kết thúc như thế nào?
HS: Được kết thúc bằng hình ảnh “trước mắt ông lão…cái máng lợn sứt mẻ.
GV: Kết thúc đó có ý nghĩa gì?
HS: Thể hiện ước mơ công lý của nhân dân
GV: (tổ chức thảo luận): Cá vàng trừng trị mụ vợ vì tội tham lam hay tội bội bạc?
HS: - Vì cả hai tội
- ý nghĩa tượng trưng của hình tượng cá vàng cũng chính là ý nghĩa chủ đề của truyện…
* Hoạt động 4: Ghi nhớ (SGK)
* Hoạt động 5: Luyện tập
1. Có thể đặt tên truyện là “ Mụ vợ ông lão đánh cá và con cá vàng”
2. Hãy viết một kết thúc khác cho truyện.
b. Văn bản: THÁNH GIÓNG ( 2 tiết)
Người soạn Thạc sĩ: Lê Xuân Soan
Giảng viên Khoa KHXH - ĐH Hồng Đức
( Tập san Khoa học xã hội-Nhân văn và Nhà trường)
A. Mục tiêu
B. Tiến trình lên lớp
I. Kiểm tra bài cũ
II. Tổ chức dạy học bài mới
- Giới thiệu bài
* Hoạt động 1: Tổ chức đọc văn bản
* Hoạt động 2: Tổ chức tìm hiểu phân tích văn bản
Câu hỏi 1: Truyện Thánh Gióng có những nhân vật nào? ai là nhân vật chính? Nhân vật chính này được xây dựng bằng rất nhiều chi tiết tưởng tưởng kỳ ảo và giàu ý nghĩa. Em hãy tìm và liệt kê những chi tiết đó?
+ Truyện có nhiều nhân vật: Hai vợ chồng ông lão ở làng Gióng, Thánh Gióng, sứ giả, nhà vua.
+ Nhân vật chínhlà cậu bé-Tráng sĩ- Thánh Gióng được xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng kỳ ảo và giàu ý nghĩa (…)
Câu hỏi 2:
- Tiếng nói đầu tiên của chú bé? ý nghĩa
+ Là tiếng nói của lòng yêu nước, căm thù giặc.
- Gióng đòi ngựa sắt, giáp sắt, roi sắt để đánh giặc? ý nghĩa?
+ ý nghĩa: Phải có vũ khí không thể đánh giặc bằng tay không
-Bà con làng xóm góp gạo nuôi cậu bé? ý nghĩa
+ ý nghĩa: Tinh thần đoàn kết đánh giặc, mong muốn co người ra giúp nước.
-Gióng nhổ tre bên đường để đánh giặc? ý nghĩa
+ Gióng đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí, cả cỏ cây của quê hương
-Gióng bay về trời? ý nghĩa
+ ý nghĩa: không cần danh lợi bổng lộc. Bay lên trời. Gióng là biểu tượng của non nước đất trời được bất tử hoá.
Câu hỏi 3: ý nghĩa hinh tượng Thánh Gióng?
Tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, đoàn kết đánh giặc, ước mơ về sức mạnh đánh thắng giặc vv..
Câu hỏi 4: Truyền thuyết Thánh Gióng liên quan đến sự thật lịch sử gì?
-Giặc Ân phương Bắc sang xâm lược
* Hoạt động 3. Tổ chức tổng kết văn bản-ghi nhớ
- Ý nghĩa truyện Thánh Gióng?
+ Đề cập tới vấn đề đoàn kết đấu tranh chống ngoại xâm, ước mơ về sức mạnh chiến thắng bọn xâm lược
- Ấn tượng sâu sắc nhất của em về nhân vật Thánh Gióng
-Truyện có dễ nhớ, dễ kể lại không? vì sao
* Hoạt động 4: Tổ chức luyện tập
* Hoạt động 5: Hướng dẫn học bài và làm bài tập ở nhà
c. Văn bản SỌ DỪA ( 2 tiết)
Người soạn Thạc sĩ: Lê Như Bình
Giảng viên khoa KHXH-Trường ĐH Hồng Đức
( Tập san Khoa học xã hội-Nhân văn và Nhà trường-số 12)
A. Kết quả cần đạt
B. Tiến trình lên lớp.
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
( Dưới sự hướng dẫn của Giáo viên)
NỘI DUNG BÀI HỌC
Hoạt động 1(HĐ1)
( Tìm hiểu khái niệm truyện cổ tích và thể loại truyện Sọ Dừa)
Truyện cổ tích là gì?
Sọ Dừa thuộc thể loại truyện gì?
I. Giới thiêu bài
1. Truyện cổ tích
- Một loại truyện dân gian
+ Có yếu tố hoang đường
+ Có yếu tố hoang đường
+Thể hiện ước mơ, niềm tin của nhân dân
2. Thể loại truyện Sọ Dừa
-Thuộc loại truyện cổ tích
HĐ II.
(Đọc, tìm hiểu từ ngữ khó, bố cục)
Văn bản gồm mấy phần? đặt tên cho từng phần?
II. Đọc-hiểu từ ngữ, bố cục
1. Đọc
2. Lưu ý chú thích
3. Bố cục: 3 phần
HĐ III, IV,V
( tìm hiểu nội dung, ý nghĩa truyện Sọ Dừa)
HĐIII.
(Tìm hiểu sự ra đời kỳ lạ của Sọ Dừa)
Hs thảo luận:
-Nhận xét sự ra đời của Sọ Dừa?
-Sọ dừa thuộc kiểu nhân vật nào trong truyện cổ tích?
-ý nghĩa của kiểu nhân vật Sọ Dừa trong truyện cổ tích
-Tác dụng của việc giới thiệu Sọ Dừa với những chi tiết kỳ lạ.
III. Đọc-hiểu nội dung, ý nghĩa
1. Nhân vật Sọ Dừa
a. Sự ra đời và hình dạng của Sọ Dừa
-Sự ra đời kỳ lạ khác thường
-thuộc kiểu nhân vật bất hạnh
-Nhân dân rất quan tâm đến những con người bất hạnh trong xã hội.
-Mở ra tình huống khác thường tạo điều kiện cho cốt truyện phát triển, gây hứng thú cho người đọc
HĐ IV
(Bàn về mối quan hệ giữa vẻ bên ngoài và phẩm chất bên trong của Sọ Dừa)
Hs thảo luận: Mối quan hệ giữa vẻ bên ngoài và phẩm chất bên trong của Sọ Dừa
Bài học rút ra qua nhân vật Sọ Dừa
b. Sọ Dừa là người có nhiều tài năng
c.Hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong
-Xấu xí >< thông minh, tài giỏi
-Bài học
HĐV
(Phân tích nhân vật cô Út)
Hs thảo luận: Tại sao cô Út lại yêu và đồng ý lấy Sọ Dừa
2.Nhân vật cô Út
a. Cô Út lấy Sọ Dừa
b.Bài học
HĐVI
(Bàn về những kết cục đối với nhân vật)
3. ý nghĩa kết cục của các nhân vật
HĐVII
( Đánh giá chung ý nghĩa của truyện Sọ Dừa)
4. Kết luận
HĐVIII
(ghi nhớ, luyện tập, đọc thêm)
IV. Ghi nhớ, luyện tập, đọc thêm
* Qua việc khảo sát các thiết kế giáo án trên chúng tôi nhận thấy mỗi một cách thiết kế đều có những ưu điểm đáng ghi nhận.
Ở các thiết kế giáo án như: “ Thánh Gióng” của Thạc sĩ Lê Xuân Soan; “Ông lão đánh cá và con cá vàng” của Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hoàn có một ưu điểm dễ nhận thấy đó là các hoạt động rất rõ ràng, khái quát có thể áp dụng cho các văn bản khác cùng thể loại. Các thiết kế đã phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, thể hiện được sự tích hợp trong văn bản. Tuy vậy ở phần đọc-hiểu văn bản lại có một số khó khăn cho người giáo viên khi ghi bảng và hướng dẫn cho học sinh ghi vì không có sự phân chia rõ ràng giữa các đề mục.
Ở thiết kế giáo án của Thạc sĩ Lê Như Bình, văn bản “ Sọ Dừa” một ưu điểm nổi bật mà chúng tôi rất tâm đắc là có sự phân chia mạch lạc, rõ ràng giữa hoạt động của học sinh (dưới sự hướng dẫn của giáo viên) và phần nội dung bài học. Việc chia đôi vở để ghi công việc của học sinh và giáo viên sẽ giúp cho người giáo viên trong giờ lên lớp dễ dàng hơn trong việc ghi bảng, không bị lúng túng khi tìm ra các đề mục vì đã có sự chuẩn bị cẩn thận, các hoạt động cũng rất rõ ràng cụ thể trong từng văn bản.
Đối với những sinh viên như chúng tôi, do kinh nghiệm thực tế chưa có nhiều, cũng như kiến thức lý thuyết còn hạn chế, nên việc nhận xét trên đây chỉ là thiển ý chủ quan.
Thực tế, tuỳ vào hoàn cảnh từng vùng, đặc điểm soạn giáo án của từng trường, tuỳ vào sự nhìn nhận của mỗi người mà có một mẫu giáo án cho riêng mình, cũng như phù hợp với từng văn bản thiết kế.
Nhìn nhận những ưu và khuyết điểm chúng tôi xin được nêu ra đây một số giáo án thể nghiệm, mong muốn góp một phần nhỏ bé trong việc tìm ra phương pháp soạn giáo án phù hợp với sự thay đổi của chương trình, sách giáo khoa Ngữ văn của trung học cơ sở.
III. GIÁO ÁN THỂ NGHIỆM.
1. Văn bản THÁNH GIÓNG (Bài 2)
(Truyền thuyết)
A. Yêu cầu cần đạt.
-Nắm được nội dung, ý nghĩa của truyền thuyết Thánh Gióng: Lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, sức mạnh phi thường, quan niệm và ước mơ của nhân dân ta về người anh hùng đánh giặc cứu nước.
-Nắm được nghệ thuật kể chuyện, xây dựng nhân vật chính bằng các chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo và giàu ý nghĩa.
-Kể lại được truyện này một cách hấp dẫn có sáng tạo.
B. Tiến trình lên lớp.
1. Ổn định lớp. Kiểm tra bài cũ
-Nội dung: Hãy kể tóm tắt truyền thuyết “Bánh chưng, bánh giầy”. Qua truyền thuyết ấy nhân dân ta mơ ước điều gì?
Yêu cầu: kể mạch lạc, rõ ràng.
-Hình thức: vấn đáp
2. Tổ chức dạy bài mới
-Giới thiệu bài: Hàng ngày chúng ta thường được nghe nói đến có một Hội khoẻ Phù Đổng được diễn ra hàng năm. Các em có biết Hội khoẻ bắt nguồn từ đâu không? nó được bắt nguồn chính từ truyền thuyết Thánh Gióng. Về truyền thuyết Thánh Gióng, Tố Hữu đã từng có bài thơ ca ngợi người anh hùng cứu nước:
…Ôi sức trẻ xưa trai Phù Đổng
Vươn vai lớn bổng dậy ngàn cân
Cưỡi lưng ngựa sắt bay phunlửa
Nhổ bụi tre làng đuổi giặc Ân
Truyền thuyết Thánh Gióng là một trong những truyện cổ hay, đẹp nhất, là bài ca chiến thắng ngoại xâm hào hùng của nhân dân Việt Nam xưa .Chính vì vậy hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu truyền thuyết đó.
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH (HS)
(Dưới sự hướng dẫn của giáo viên)
NỘI DUNG BÀI HỌC
Hoạt động I.
(Hướng dẫn đọc, tìm hiểu từ ngữ khó, bố cục truyện.
-Giáo viên đọc lại vài đoạn
-Học sinh đọc, nhận xét cách đọc
-Hs đọc chú thích, tìm những từ khó
-H: Văn bản có thể chia làm mấy phần? đặt tên cho từng phần?
I. Đọc-hiểu từ ngữ, bố cục
1. Đọc:
-phát âm đúng
-giọng đọc đúng, hay các câu hội thoại, đoạn Gióng ra đời, đoạn Gióng đánh giặc đoạn Gióng bay về trời
* chú ý
-Tục truyền: phổ biến, truyền miệng trong dân gian.
-Tâu: báo cáo, nói với Vua
-Tục gọi là: thường được gọi là
2. Bố cục: 4 phần
-Phần 1: Từ đầu đến: “ Cứ đặt đâu thì nằm đấy”. Sự ra đời kỳ lạ của Gióng
-Phần 2: Từ “ Bấy giờ” đến “giết giặc cứu nước”. Gióng gặp sứ giả, cả làng nuôi Gióng
-Phần 3:Từ “giặc đã đến” đến “quật vào giặc” . Gióng ra trận.
-Phần 4: còn lại. Gióng bay về trời
HĐ II.III.IV.V.VI
(tìm hiểu nội dung ý nghĩa của truyện)
HĐ II:
Tìm hiểu sự ra đời kỳ lạ của Thánh gióng
-H: Trong đoạn đầu Thánh Gióng được giới thiệu qua những chi tiết nào?
-H: Nhận xét sự ra đời của Gióng? Nó có điểm gì giống với sự ra đời của Sọ Dừa
II. Phân tích
1.Hình tượng nhân vật Thánh Gióng
a. Sự ra đời của Thánh Gióng
*Bà mẹ có mang vì ướm bàn chân lên một bàn chân lạ, quá to ở ngoài đồng.
-Sinh ra đã 3 năm mà vẫn không biết nói, biết cười, không biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.
* Thánh Gióng ra đời một cách kỳ lạ khác thường.
-Giống Sọ Dừa: Đều là sự ra đời kỳ lạ
HĐ III.
(tìm hiểu sự trưởng thành của Gióng)
-H: Câu nói đầu tiên của Gióng sau 3 năm không biết nói là câu nói nào?
-H: Gióng đã nói gì với sứ giả?
-H: ý nghĩa của câu nói đó?
-H: Câu nói đầu tiên của Gióng có gì khác với câu nói của Sọ Dừa?
-H: Việc Gióng lớn lên có gì khác thường? điều đó có ý nghĩa gì?
( GV đưa ra các câu hỏi gợi mở)
Việc bà con làng xóm góp gạo nuôi Gióng có ý nghĩa gi?
-H: Cái vươn vai kỳ diệu của Gióng lớn bổng dậy gấp trăm ngàn lần, bóng che trùm cả thôn chứng tỏ điều gì?
Hs phát biểu, giáo viên hệ thống
(GV đưa các câu hỏi gợi mở)
-H: Em có nhận xét gì về các từ “ lẫm liệt” “tráng sĩ” khi miêu tả Gióng? Những từ này được sử dụng trong những trường hợp nào?
GV chốt: Như vậy những từ “ lẫm liệt” “tráng sĩ” “oai phong” là những từ Hán Việt. Để hiểu rõ hơn về từ Hán Việt ta sẽ được học tiếp ngay sau bài văn ở phần Tiếng Việt: Từ mượn
b. Sự lớn nhanh kỳ lạ
* Câu nói đầu tiên: Là câu nói nhờ mẹ ra gọi sứ giả vào để nói chuyện
-Yêu cầu Sứ giả nói với nhà Vua chuẩn bị ngựa sắt, áo giáp sắt, nón sắt, roi sắt để Gióng đi đánh giặc.
-Là tiếng nói của lòng yêu nước căm thù giặc, lời yêu cầu cứu nước là niềm tin sẽ chiến thắng giặc ngoại xâm.
-Sự khác nhau: Câu nói đầu tiên của Sọ Dừa là lời cầu xin tội nghiệp, xin mẹ đừng vứt bỏ. Câu nói đầu tiên của Thánh Gióng là lời yêu cầu được đi đánh giặc.
*Sự lớn nhanh kỳ lạ
-Gióng lớn nhanh như thổi, ăn rất khoẻ, bao nhiêu cũng hết:
“Bảy nong cơm, ba nong cà
Uống một hơi nước cạn và khúc sông”
-Ước mơ của nhân dân có sức mạnh phi thường để đánh giặc và thắng giặc.
-Tinh thần đoàn kết đánh giặc, mong muốn có người ra giúp nước.
-Sức sống mãnh liệt, kỳ diệu của dân tộc ta mỗi khi có giặc ngoại xâm.
+Sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân.
+Chỉ có nhân vật của thể loại truyền thuyết, thần thoại mới có sự tưởng tượng kỳ vĩ như vậy.
-Đó là những từ Hán Việt
+Được sử dụng trong những trường hợp trang trọng, miêu tả người anh hùng với thái độ tôn kính.
HĐIV
( hình ảnh Gióng lúc ra trận)
Hs đọc đoạn Gióng đánh giặc
-H: Nhận xét cách kể tả của tác giả dân gian?
-H: Chi tiết roi gẫy, Gióng lập tức nhổ từng bụi tre vung lên thay gậy quật túi bụi vào giặc, có ý nghĩa gi?
-H: Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng lên trời điều đó có ý nghĩa gì?
Hs thảo luận, nêu ý kiến, giáo viên hệ thống
c. Gióng ra trận
-Giọng kể khẩn trương, mạnh mẽ, nhanh, gấp. Cách kể, tả gọn gàng, rõ ràng, nhanh gọn, cuốn hút.
-Gióng đánh giặc bằng mọi vũ khí, kể cả cỏ cây quê hương:
“ Quân Ân phải lối ngựa pha
Tan ra như nước, nát ra như bèo”
d. Gióng bay về trời.
-Gióng không cần danh lợi, bổng lộc. Gióng là con của thần, của trời thì nhất định phải về trời, trả lại cho người những gì thuộc về trần gian
-Chi tiết mẹ Gióng thụ thai và chi tiết Gióng bay về trời là những chi tiết hoang đường, kỳ ảo. Nếu thiếu sẽ không còn là truyền thuyết nữa bởi truyền thuyết chỉ dựa trên một số yếu tố có thật trong lịch sử còn hầu hết là sự tưởng tượng của tác giả dân gian.
HĐVI:
(Đánh giá chung ý nghĩa của truyện và hình tượng Thánh Gióng)
-H: Qua việc phân tích văn bản em hãy nêu ý nghĩa của truyện và ý nghĩa hình tượng nhân vật Thánh Gióng?
-H: Theo em truyền thuyết Thánh Gióng liên quan đến sự thật lịch sử gì?
(dùng cho học sinh khá giỏi)
-H: hãy nêu những chi tiết chứng tỏ dấu tích của trận đánh vẫn còn?
2. Ý nghĩa của truyện và hình tượng Thánh Gióng
-ý nghĩa truyện: Đề cập tới vấn đề đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm, ước mơ về sức mạnh chiến thắng bọn xâm lược
-ý nghĩa hình tượng Thánh Gióng: Tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, đoàn kết đánh giặc, ước mơ về sức mạnh đánh thắng giặc là quan niệm về người anh hùng, về vẻ đẹp người khổng lồ khi đất nước có ngoại xâm.
-Giặc Ân phương Bắc sang xâm lược nước ta vua Hùng thứ 6 đã cùng nhân dân đánh đuổi giặc Ân, giữ yên bờ cõi.
- Chi tiết: Những bụi tre đằng ngà vàng óng, những đầm, hồ, rải rác ở ngoại thành Hà Nội, Hà Bắc,đỉnh Sóc Sơn, làng Cháy
HĐVII:
( Rút ra bài học)
-H: Từ truyền thuyết Thánh Gióng ta có thể rút ra bài học gì?
Hs thảo luận,phát biểu. GV chốt
3. Bài học
- Thánh Gióng là thiên anh hùng ca thần thoại hết sức đẹp đẽ, hào hùng, ca ngợi tinh thần yêu nước, bất khuất chiến đấu chống giặc ngoại xâm vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam thời cổ đại.
-Người anh hùng làng Phù Đổng- Thánh Gióng là một biểu tượng tuyệt đẹp của con người Việt Nam trong chiến đấu, không màng danh lợi.
-Để chiến thắng giặc ngoại xâm cần toàn dân đoàn kết, chung sức chung lòng, chiến đấu hi sinh quên mình. Dựng nước và giữ nước là hai nhiệm vụ thường trực của dân tộc Việt Nam suốt trường kỳ lịch sử.
HĐVIII:
(Tổ chức luyện tập)
III. Luyện tập
1. Hình ảnh nào của Gióng là hình ảnh đẹp nhất trong tâ, trí em
2.Theo em, tại sao hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông lại mang tên Hội khoẻ Phù Đổng
C. Hướng dẫn học tập ở nhà
-Nắm vững ý nghĩa, bài học của truyện
-Kể lại được đúng và hay truyền thuyết Thánh Gióng
-ý nghĩa của phong trào Hội khoẻ Phù Đổng
-Soạn bài “Sơn Tinh,Thuỷ Tinh”
2.Văn bản ĐÊM NAY BÁC KHÔNG NGỦ (tiết 93-94)
(Minh Huệ)
A. Mục tiêu cần đạt
1. Học sinh cần nắm được:
“Đêm nay Bác không ngủ” là bài thơ tự sự-trữ tình giản dị, chân thực và cảm động, thể hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc, rộng lớn của Bác đối với bộ đội, dân công và nhân dân, đồng thời thể hiện tình cảm yêu kính, cảm phục của người chiến sĩ vệ quốc đối với lãnh tụ.
2.Tích hợp với phần Tiếng Việt ở khái niệm Hoán dụ, ở phần Tập làm văn ở luyện nói về văn miêu tả.
3.Rèn luyện kỹ năng đọc thơ tự sự ở thể 5 tiếng, kết hợp vừa tả vừa kể vừa nêu cảm xúc trong văn miêu tả, kể chuyện.
B. Tiến trình giờ dạy
1. ổn định lớp. Kiểm tra bài cũ.
-Nội dung: Nêu nội dung ý nghĩa và nghệ thuật xây dựng nhân vật của truyện “Buổi học cuối cùng”
-Hình thức: Vấn đáp
2. Tổ chức cho học sinh tiếp nhận kiến thức mới
-Lời dẫn: Tuổi già ít ngủ, không ngủ được cũng là chuyện bình thường. Nhưng với Bác Hồ thì sự mất ngủ của Người còn vì những lý do cao đẹp và cảm động khác.
“Cả một đời Bác có ngủ yên đâu”
(Như Hải)
Để hiểu sâu sắc hơn về điều đó ta đi vào tìm hiểu bài thơ “ Đêm nay Bác không ngủ”
-Các hoạt động dạy và học
HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
(dưới sự hướng dẫn của giáo viên)
NỘI DUNG BÀI HỌC
HOẠT ĐỘNG I:
(Hướng dẫn tìm hiểu tác giả-tác phẩm)
Hs đọc phần chú thích *
-H: Hãy nêu sơ lược về cuộc đời tác giả?
-H: Bài thơ ra đời năm nào? Hoàn cảnh ra đời của bài thơ?
I. Giới thiệu tác giả-tác phẩm
1. Tác giả:
-Tên thật: Nguyễn Thái Sơn (1927 )
-Quê quán: Tỉnh Nghệ An
-Làm thơ từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp
2. Tác phẩm:
-Được sáng tác năm 1951
-Dựa trên lịch sử có thực: trong chiến dịch biên giới cuối 1950, Bác Hồ trực tiếp ra mặt trận theo dõi và chỉ huy cuộc chiến đấu của bộ đội và nhân dân ta.
Hoạt động II: (Hướng dẫn đọc và tìm bố cục)
Hs đọc, nhận xét cách đọc. GV nhắc lại.
Hs tìm từ khó.
-H:Bài thơ có thể chia thành mấy phần? đặt tên cho mỗi phần đó?
II. Hướng dẫn đọc, tìm bố cục
1. Đọc.
-Đọc với giọng trầm nhỏ nhẹ và tràn đầy cảm xúc
-Chú ý từ khó
+Đội viên: Tên gọi của chiến sĩ quân đội Việt Nam thời chống Pháp.
+Trầm ngâm: dáng vẻ lặng lẽ, suy nghĩ về một điều gì đó.
+Giật thột:
+Đinh ninh: tin chắc vào điều đó
trước sau vẫn thế không thay đổi.
2. Bố cục: hai phần
-Phần 1: 9 khổ thơ đầu.
Anh đội viên thức dậy lần thứ nhất
-Phần 2: 7 khổ thơ sau
Anh đội viên tỉnh giấc lần thứ 3
Hoạt độngIII,IV,V( Hướng dẫn tìm hiểu bài thơ)
HĐ3
(Tìm hiểu hình ảnh Bác trong một đêm không ngủ)
-H: Qua cái nhìn của anh đội viên hình ảnh Bác được hiện lên qua những phương diện nào?
-H: Tìm các từ ngữ miêu tả hình dáng, tư thế Bác? nhận xét về tư thế đó?
-H: Tìm những từ ngữ bộc lộ cử chỉ, hành động của Bác?
-H: Trong bài thơ Bác nói với anh đội viên mấy lần?
III. Phân tích.
1. Hình tượng Bác Hồ
*Hình ảnh Bác được hiện lên qua các phương diện: Hình dáng, tư thế; cử chỉ, hành động; lời nói.
-Hình dáng, tư thế: lặng yên, trầm ngâm, đinh ninh…
+ Thể hiện chiều sâu tâm trạng
-Cử chỉ, hành động: đốt lửa, dém chăn, từng người từng người một, nhón chân nhẹ nhàng.
-Lời nói: Bác nói với anh đội viên hai lần
+Lần 1: Bác nói vắn tắt
+Lần 2: Cởi mở hết sự lo lắng của mình-lo cho toàn dân.
GV chuyển: qua hình dáng, tư thế, cử chỉ, hành động,lời nói ta thấy được tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác
HĐIV.
(Bàn về những tình cảm của Bác đối với toàn dân)
-H: Ta đã thấy được những hành động của Bác đối với các anh đội viên, vậy hành động đốt lửa, đi dém chăn cho từng người của Bác giống với ai trong gia đình?
-H:Nó thể hiện qua câu thơ nào?
-H: câu thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? tác dụng của nó?
-H:Phân tích cử chỉ “nhón chân nhẹ nhàng”?
-H: Qua cử chỉ hành động đó ta thấy tình cảm của Bác đối với các anh bộ đội như thế nào?
-H: Tình cảm của Bác đối với đoàn dân công được thể hiện như thế nào?
-H: Trên hết tình cảm của Bác đối với đất nước như thế nào?
-GV chốt: Như vậy tình cảm của Bác không chỉ dừng lại ở các anh bộ đội-những người cùng đi với Bác mà con cả với những đoàn dân công và cao cả, sâu sắc hơn là tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác luôn hướng về đất nước, lo cho vận mệnh của đất nước.
Hs đọc khổ thơ cuối
-H:Tại sao tác giả nói việc Bác không ngủ là một lẽ thường tình?
-H: ý nghĩa của khổ thơ cuối?
-H: Qua hình ảnh Bác được miêu tả trên nhiều phương diện và thấy được tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác, ta thấy Bác Hồ hiện lên trong bài thơ là người như thế nào?
(GV đưa ra các câu hỏi gợi mở.
Hs phát biểu. GV hệ thống)
* Tấm lòng yêu thương mênh mông của Bác.
-Đối với bộ đội:
giống người cha, người mẹ trong gia đình. Giữa Bác và các anh đội viên không còn khoảng cách, không còn sự phân biệt giữa lãnh tụ với đội viên
+ “Người Cha mái tóc bạc”
+Biện pháp nghệ thuật: ẩn dụ
Tác dụng: làm cho câu thơ tăng sức gợi hình, gợi cảm.
+Đi từ từ bằng mười đầu ngón chân. Thể hiện sự lo lắng, yêu thương, muốn không gian hoàn toàn tĩnh lặng để các anh ngon giấc.
ðBiểu hiện tấm lòng yêu thương sâu sắc, chu đáo, ân cần đối với bộ đội.
-Đối với dân công: Bác lo đoàn dân công ngủ ngoài rừng trong đêm mưa không chiếu chăn, không một mái lều.Sự ấm áp của mình làm Bác chạnh lòng nghĩ đến đoàn dân công.
-Đối với đất nước: canh cánh bên lòng nỗi lo lắng cho vận mệnh đất nước.
…Đêm nay Bác ngồi đó…
Bác là Hồ Chí Minh
-Bởi vì không chỉ có một mình đêm đó Bác không ngủ mà dường như cả cuộc đời Bác chưa bao giờ ngủ vì lo cho dân cho nước.
-Làm cho câu chuyện thấm thía hơn, người đọc hiểu ra được một chân lý: Bác Hồ vừa là một vị lãnh tụ của dân tộc, đồng thời vừa là một người cha thân yêu của quân đội nhân dân Việt Nam. Cả cuộc đời Bác dành trọn cho Tổ quốc.
ðBác Hồ hiện lên trong bài thơ thật giản dị, gần gũi, chân thực đồng thời cũng hết sức lớn lao với tấm lòng yêu thương mênh mông và sự chăm sóc ân cần chu đáo của Bác đối với nhân dân
HĐ V,VI
(Tìm hiểu tâm trạng anh độ viên khi chứng kiến cảnh Bác không ngủ)
HĐV.(Tìm hiểu tâm trạng anh đội viên khi tỉnh dậy lần thứ nhất)
-H: Khi tỉnh dậy lần thứ nhất anh đội viên chứng kiến Bác đang làm gì?
-H:Qua hành động của Bác tâm trạng anh đội viên như thế nào?
-H: Tìm những từ ngữ miêu tả tâm trạng anh đội viên?
-H: Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật gì trong câu thơ? Tác dụng của nó
2. Tâm trạng anh đội viên khi chứng kiến Bác không ngủ.
a. Tỉnh giấc lần thứ nhất
*Chứng kiến về Bác:
-Lặng yên bên bếp lửa
-Đốt lửa sưởi ấm cho các cháu
-Đi dém chăn cho từng người
*Tâm trạng: ngạc nhiên, xúc động, thương Bác.
-Thể hiện qua từ ngữ:càng nhìn lại càng thương, mơ màng, thổn thức, nằm lo, bồn chồn, bề bộn.
… “Bóng Bác cao lồng lộng
Ấm hơn ngọn lửa hồng”
-Biện pháp nghệ thuật: So sánh
+Tác dụng: Tăng sức gợi hình, gợi cảm cho câu thơ
HĐVI
-H:Lần thứ 3 thức dậy anh đội viên thấy Bác như thế nào?
-H: Chứng kiến điều đó tâm trạng anh đội viên như thế nào?
-H: So sánh tâm trạng của anh đội viên lần thức dậy thứ nhất với lần thức dậy thứ ba?
-H: Thể hiện điều gì ở anh đội viên?
-H: Tại sao anh lại thức luôn cùng Bác?
-H: Tại sao tác giả chỉ tả lần thức dậy thứ nhất và lần thức dậy thứ ba mà không tả lần hai?(HS thảo luận, phát biểu)
-H: Qua sự phân tích hai lần thức dậy ta thấy anh đội viên là người như thế nào?
b. Tỉnh giấc lần thứ hai
* Chứng kiến về Bác:
-Vẫn ngồi đinh ninh
-Chòm râu im phăng phắc
* Tâm trạng: hốt hoảng, anh năn nỉ mời Bác đi ngủ.
-Tâm trạng thay đổi theo thời gian
Lần 1:
+ Thời gian: đã khuya
+ Tâm trạng: ngạc nhiên xúc động
thương Bác
Lần 3:
+ Thời gian: Sắp sáng
+ Tâm trạng: Hoảng hốt, giật mình, anh hết sức năn nỉ mời Bác đi ngủ
-Sự lo lắng tột cùng cho sức khoẻ của Bác
-Vì anh đã thấy được sự hy sinh lớn lao của Bác, tình thương ấy đã làm anh rất cảm phục.
-Anh thức dậy rất nhiều lần, mỗi lần đều chứng kiến cảnh Bác không ngủ. Tác giả tả sự thức dậy lần 1 và 3 là những lần tiêu biểu nhất.
ðAnh đội viên yêu thương Bác, có trách nhiệm đối với Bác và kính trọng Bác
HĐVII.
(Tìm hiểu nghệ thuật bài thơ)
-H: Bài thơ được làm theo thể thơ nào? là thơ trữ tình hay thơ tự sự?
-H: Ngoài biện pháp nghệ thuật ẩn dụ và so sánh bài thơ còn sử dụng các biện pháp nghệ thuật nào?
-H:Tìm những từ láy có trong bài thơ?tác dụng của nó?
-H:Sử dụng biện pháp điệp câu tác giả nhằm thể hiện điều gì ở Bác?
-H: Nhận xét cách gieo vần trong bài thơ?
3. Nghệ thuật
a. Thể thơ:
-5 chữ
-Được viết theo lối tự sự, hợp với lối kể chuyện.
b. Các biện pháp nghệ thuật.
-Từ láy: trầm ngâm, nhẹ nhàng, mơ màng, lồng lộng, bồn chồn, lo lắng…
+Tác dụng: làm tăng giá trị miêu tả,biểu cảm, diễn tả cụ thể các trạng thái tình cảm, cảm xúc của anh đội viên đối với Bác và của Bác đối với nhân dân.
-Điệp câu.
“Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày mai đi đánh giặc”
+Tác dụng: Thể hiện sự lo lắng của Bác đối với sức khoẻ đội viên cũng như sự lo lắng cho trận đánh sắp tới.
-Cách gieo vần
+Vần liền: trầm ngâm-lâm thâm
+Vần cách: nhìn Bác-tóc bạc
Thể thơ, cách gieo vần rất gần với dân ca Nghệ Tĩnh.
HĐVIII
(Hướng dẫn tổng kết)
IV. Tổng kết
-Ghi nhớ (SGK)
HĐIX
(Hướng dẫn luyện tập)
V. Luyện tập
Tìm các bài thơ nói về hình ảnh Bác không ngủ vì lo lắng cho đất nước.
C. Hướng dẫn học tập ở nhà.
-1. Nắm vững phần ghi nhớ SGK
-2. Đọc thuộc lòng bài thơ
-3. Viết một bài văn ngắn kể về một đêm không ngủ của anh đội viên đối với Bác
-4. Soạn bài “Lượm”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- GD0002.doc