Ta thấy từ câu 2 đến câu 7 đều thất niêm bởi chúng có lối ngắt nhịp
khác nhau và đoạn nhịp cuối của từng cặp dòng phải niêm đều đối nhau về
thanh, tức là tiếng thứ 6 trong câu thất ngôn luôn luôn kết hợp với tiếng trước
nó để tạo thành một đoạn nhịp, còn câu 6 tiếng, tiếng thứ 5 riêng nó không
thành một đoạn nhịp, nó cũng không thể kết hợp với tiếng đi trước nó mà chỉ
có thể đi với tiếng thứ 6 với tư cách là phần đầu đoạn nhịp cuối.
Tất cả những bài tứ tuyệt thể thất ngôn xen lục ngôn dù câu 6 tiếng ở
bất kì vị trí nào thì bài thơ cũng có hiện tượng thất niêm. Loại bài bát cú có từ
2 đến 6 câu trở lên có 161 bài , trong đó có 12 bài câu 6 tiếng được xếp ở vị trí
dòng 1 và dòng 8, còn lại 149 bài câu 6 tiếng ở vào những vị trí khác gây nên
hiện tượng thất niêm
Như vậy, hiện tượng thất niêm là hiện tượng khó tránh khỏi khi xây
dựng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn.
59 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 7763 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành nam / lều một gian
No nước uống / thiếu cơm ăn
Con đòi trốn / dường ai quyến
Bà ngựa gầy / thiếu kẻ chăn
(Thủ vĩ ngâm)
Nhịp 2/2/2 (105 câu):
Đêm thanh / hớp nguyệt / nghiêng chén
Ngày vắng / xem hoa / bợ cây
(Ngôn chí 10).
Nhịp 1/3/2 (8 câu):
Dành / còn để trợ / dân này
(Tùng 3).
Nhịp 1/2/1/2 (12 câu):
Đen / gần mực / đỏ / gần son
(Bảo kính cảnh giới 21).
Nhịp 1/2/3 (20 câu):
Trẻ / dầu chơi / con tạo hoá
Già / lọ phục / thuốc trường sinh
(Tự thán 8).
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 31
Nhịp 2/4 (67 câu):
Gió nhặt / đưa qua trúc ở
Mưa tuôn / phủ rợp thư phòng
(Thuật hứng 6).
Nhịp 4/2 (37 câu):
Giũ bao nhiêu bụi, / bụi lầm
(Ngôn chí 4).
Nhịp 2/1/3 (5 câu):
Quân tử / ai / chẳng mảng danh
(Trúc 1).
Với cường độ xuất hiện khá nhiều (179/433), cách ngắt nhịp 3/3 là một
trong những cách ngắt nhịp chủ đạo của câu lục ngôn trong Quốc âm thi tập.
Cách ngắt nhịp này tạo nên một giọng điệu ngắn gọn, khoẻ khắn. Nhịp 2/2/2
và nhịp 2/4 là hai nhịp có tần số xuất hiện cao thứ hai và thứ ba sau nhịp 3/3.
Ở đây ta thấy cách ngắt nhịp này khá quen thuộc với dân tộc ta bởi nó là cách
ngắt nhịp chủ đạo trong thể thơ lục bát và song thất lục bát, tức nhịp cuối là
nhịp chẵn. Chính sự xuất hiện của câu sáu chữ và cách ngắt nhịp đa dạng của
nó đã kéo theo hiện tượng ngắt nhịp 3/4 trong hầu hết các bài thơ có chứa câu
thơ sáu chữ. Chúng ta đều biết nhịp 3/ 4 là nhịp của hai câu bảy trong bài thơ
song thất lục bát còn nhịp 4/3 mới là nhịp chủ đạo của câu thất ngôn Đường
luật. Về vấn đề này, chúng tôi sẽ tiếp tục bàn ở phần sau.
Đến Hồng Đức quốc âm thi tập, cách ngắt nhịp phổ biến là 3/3 và 2/4.
Bạch Vân quốc ngữ thi tập ta thấy cách ngắt nhịp 2/2/2 hầu như ít xuất hiện.
Tới thơ Hồ Xuân Hương thì chỉ còn một cách ngắt nhịp 3/3. [Lã Nhâm Thìn.
1997. 208]
Như vậy, ta thấy Nguyễn Trãi là tác giả đi tiên phong trong việc phá vỡ
cấu trúc câu thơ, tức là thay đổi kết cấu vốn có của thơ Đường luật. Từ một bài
thơ Đường luật khuôn mẫu, tác giả đưa vào những câu thơ sáu chữ mới lạ
cùng với các vị trí khác nhau, các cách ngắt nhịp đa dạng dẫn kéo theo sự thay
đổi tiết tấu của các câu thơ còn lại tạo nên sự cách tân, mới lạ và độc đáo cho
tập thơ.
IV. Cách xây dựng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn
1. Cách xây dựng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có 186 bài trên tổng số 254 bài được
xây dựng trên cơ sở dùng xen giữa câu lục ngôn và câu thất ngôn (ta gọi thể
thơ này là thể thất ngôn xen lục ngôn). Như vậy, Nguyễn Trãi làm thơ theo thể
này chiếm hơn 1/3 số bài trong tập thơ.
Nếu so sánh với thể thất ngôn Đường luật, ta thấy giữa chúng có điểm
tương đồng về các mặt:
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 32
- Tương đồng về số câu trong một bài (tám câu hoặc bốn
câu).
- Tương đồng về vị trí hiệp vần.
- Tương đồng về các câu phải đối (câu 3-4, câu 5-6)
Điều này có nghĩa là thể thất ngôn xen lục ngôn chỉ khác thể luật
Đường ở chỗ là thể thơ thất ngôn xen lục ngôn có sử dụng câu sáu tiếng xen
lẫn câu bảy tiếng. Còn thể luật Đường thì số tiếng của các câu trong cùng một
bài phải bằng nhau (thể ngũ ngôn luật thì tất cả đều năm tiếng, thất ngôn luật
thì bảy tiếng). Trong Quốc âm thi tập, số câu lục trong các bài thơ lại không
đều nhau. Phần lớn các bài có từ 1 đến 2 câu (120 bài), riêng ở loại tứ tuyệt,
câu lục xuất hiện tối đa cũng chỉ là hai câu. Toàn tập thơ chỉ có ba bài xuất
hiện bảy câu lục.
Số lượng câu lục không nhất định mà lại được sử dụng ở những vị trí
khác nhau. Chính vì thế những bài thơ được Nguyễn Trãi xây dựng không có
sự lặp lại tạo nên sự phong phú, đa dạng cho cả tập thơ Quốc âm .
Dùng câu lục với số lượng khá lớn như vậy, có lẽ Nguyễn Trãi phải
hình thành cho mình một cách cấu tạo riêng cho phù hợp với từng kiểu bài,
từng nội dung muốn chuyển tải.
1.1. Giảm một chữ từ câu thất ngôn
Nếu xét từng câu thất ngôn trong mỗi bài thơ thì những câu này được
làm đúng theo thể luật Đường. Còn câu lục ngôn thì ta thấy những câu này
không phải Nguyễn Trãi sử sụng câu lục của thơ ca dân gian Việt Nam (nhưng
không loại trừ trường hợp có sự học tập và ảnh hưởng, vấn đề này sẽ được bàn
tiếp ở phần sau). Qua việc tìm hiểu, chúng tôi đi đến kết luận: Câu lục ngôn
được hình thành từ chính câu thất ngôn luật. Mỗi câu lục ngôn được tạo ra
bằng cách là giảm đi một chữ ở câu thất ngôn Đường luật. Chữ giảm ở câu
thất ngôn tuỳ từng bài, có thể là một trong các chữ thứ nhất, thứ ba, thứ tư, thứ
năm, thứ sáu. Duy chỉ có chữ thứ hai và chữ thứ bảy của câu thất ngôn thì
không thể giảm.
Để chứng minh cho nhận xét này, trước hết xin được nhắc qua về cách
thức bằng - trắc của thể thất ngôn luật Đường trong cấu tạo các kiểu câu và
sắp đặt các kiểu câu đó.
Trong bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật chỉ có bốn kiểu câu được
luân phiên sử dụng:
Kiểu X: TT BB TTB
Kiểu X’: TT BB BTT
Hai kiểu này đều bắt đầu bằng thanh trắc, nhưng kết thúc lại có sự khác
nhau: kiểu X kết thúc là thanh bằng, kiểu X’ kết thúc là thanh trắc.
Kiểu Y: BB TT TBB
Kiểu Y’: BB TT BBT
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 33
Hai kiểu này đều bắt đầu bằng thanh bằng, kiểu Y kết thúc bằng thanh
bằng, kiểu Y’ kết thúc bằng thanh trắc.
Các kiểu câu này phải sắp đặt làm sao để đảm bảo luật “đối” và “niêm”
trong mỗi bài.
Luật bằng, trắc phải sử dụng “nhị tứ lục phân minh” và “nhất tam ngũ
bất luận”
Bài thất ngôn bát cú luật Đường, câu một nhập vận, nếu khởi đầu bằng
tiếng thanh bằng (lấy tiếng thứ hai làm căn cứ), chẳng hạn như bài Ngôn chí 1
Thương / Chu / bạn / cũ / các / chưa / đôi
B / B / T / T / T / B / B
thì cả bài phải có dạng thức:
Dạng thức 1
Câu 1 2 3 4 5 6 7 8
Dạng Y X X’ Y Y’ X X’ Y
Nếu khởi đầu bằng thanh trắc, chẳnh hạn như bài Mạn thuật 2
Ngẫm / ngọt / sơn / lâm / liễn / thị / triều
T / T / B / B / T / T / B
thì cả bài sẽ có dạng:
Dạng thức 2
Câu 1 2 3 4 5 6 7 8
Dạng X Y Y’ X X’ Y Y’ X
Vận dụng hai dạng trên, ta thử tìm hiểu xem câu lục ngôn trong Quốc
âm thi tập của Nguyễn Trãi được tạo ra bằng cách nào?
Trường hợp 1:
- Xét bài Ngôn chí 18
Thang lang mấy khóm một thuyền câu
Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu
Nguyệt mọc đầu non kình dội tiếng
Khói tan mặt nước, thẫn không lầu
Giang sơn dạm được đồ hai bức
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Ta ắt lòng bằng Văn chính nữa
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 34
Vui xưa chẳng quản đeo âu.
Bài thơ khởi đầu bằng tiếng thanh bằng, từ câu một đến câu bảy hoàn
toàn đúng luật Đường. Dạng thức bảy câu đó có thể viết như sau:
Câu 1 2 3 4 5 6 7 (8)
Dạng Y X X’ Y Y’ X X’ (?)
Câu tám là câu lục ngôn có kiểu:
Vui / xưa / chẳng / quản / đeo / âu
B / B / T / T / B / B
Nếu ta thêm vào trước hai thanh bằng ở cuối (tức là chữ thứ năm) một
thanh trắc thì nó sẽ thành câu thất ngôn kiểu Y:
Vui / xưa / ắt / quản / ( ) / đeo / âu
B / B / T / T / (T) / B / B
Toàn bài sẽ hoàn toàn đúng với dạng thức 1- dạng thức bằng trắc của
thơ luật Đường. Như thế chứng tỏ câu tám (lục ngôn) trong bài Ngôn chí 18
được tạo ra bằng cách giảm ở câu thất ngôn Đường luật một chữ, đó là chữ thứ
năm thanh trắc.
Trường hợp 2:
- Xét bài Thuật hứng số 43
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch hựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương
Bài thơ có hai câu lục ngôn là câu một và câu tám. Từ câu hai đến câu
bảy làm theo thể luật Đường có thể viết dưới dạng thức :
Câu (1) 2 3 4 5 6 7 (8)
Dạng (?) X X’ Y Y’ X X’ (?)
Câu thứ nhất là câu lục ngôn có kiểu:
Rồi / hóng / mát / thuở / ngày / trường
B / T / T / T / B / B
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 35
Nếu thêm vào trước thanh bằng đầu câu một thanh bằng thì nó sẽ trở
thành câu thất ngôn kiểu Y:
( ) / Rồi / hóng / má t / thuở / ngày / trường
(B) / B / T / T / T / B / B
Tương tự với câu tám, nếu thêm vào trước hai thanh bằng ở cuối một
thanh trắc thì nó sẽ là câu thất ngôn kiểu B:
Dân / giàu / đủ / khắp / ( ) / đòi / phương
B / B / T / T / (T) / B / B
Dạng thức cả bài sẽ là:
Câu 1 2 3 4 5 6 7 8
Dạng Y X X’ Y Y’ X X’ Y
Như vậy cả bài sẽ trở về kết cấu của một bài thơ luật Đường. Chứng tỏ
câu thứ nhất lục ngôn được tạo ra bằng cách giảm ở câu thất ngôn luật Đường
một chữ, đó là chữ thứ nhất thanh trắc. Câu tám lục ngôn được tạo ra bằng
cách giảm chữ thứ năm thanh bằng.
Trường hợp 3:
- Xét bài Thuật hứng số 6
Phú quý bao nhiêu người thế gian
Mơ mơ bằng thuở giấc Hoè an
Danh thơm một áng mây nổi
Bạn cũ ba thu, lá tàn
Lòng tiện soi, dầu nhật nguyệt
Thề xưa hổ, có giang san
Ấy còn cậy cục làm chi nữa
Nếu cốt chưa mòng, chẫm chửa toan
Bài thơ được xây dựng gồm bốn câu thất ngôn xen lẫn bốn câu lục
ngôn
- Câu 1: Phú / quý / bao / nhiêu / người / thế / gian
T / T / B / B / B / T / B
đây là câu thất ngôn kiểu X
- Câu 2: Mơ / mơ / bằng / thuở / giấc / Hoè / an
B / B / B / T / T / B / B
đây là câu thất ngôn kiểu Y.
- Câu 3: Dưới dạng câu lục ngôn, chữ đầu thanh bằng, chữ cuối thanh
trắc. Nó là câu thất ngôn dạng Y’ giảm chữ thứ năm thanh bằng :
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 36
Danh / thơm / một / áng / ( ) / mây / nổi
B / B / T / T / (B) / B / T
- Câu 4: Là câu lục ngôn chữ đầu thanh trắc, chữ cuối thanh bằng. Nó
là câu thất ngôn kiểu X giảm chữ thứ năm thanh trắc:
Bạn / cũ / ba / thu,/ ( ) / lá / tàn
T / T / B / B / (T) / T / B
- Câu 5: là câu lục ngôn, chữ cuối thanh trắc. Nó là câu thất ngôn kiểu
X’, giảm chữ thứ năm thanh bằng
Lòng / tiện / soi, / dầu / ( ) / nhật / nguyệt
B / T / B / B / ( B) / T / T
- Câu 6: Câu lục ngôn, chữ cuối thanh bằng. Nguyên dạng là câu thất
ngôn kiểu Y giảm chữ thứ tư thanh trắc
Thề / xưa / hổ / ( ) / có / giang / san
B / B / T / (T ) / T / B / B
- Câu 7 và câu 8:
Ấy / còn / cậy / cục / làm / chi / nữa
T / B / T / T / B / B / T
Nếu / cốt / chưa / mòng, / chẫm / chửa / toan
T / T / B / B / T / T / B
là câu thất ngôn kiểu Y’ và X
Như vậy, toàn bài sẽ quay trở về đúng với dạng thức 2. Đây là cấu trúc
của một bài thơ luật Đường.
Tương tự với các câu lục ngôn trong các bài khác của tập thơ Quốc âm
thi tập, ta có thể xác định được cách xây dựng các câu thơ này như sau:
- ( ) / Nghỉ / chờ / thu / cực / lạ / dường
( T) / T / B / B / T / T / B
(Cúc)
Nguyên thể câu này thuộc kiểu X bớt đi chữ thứ nhất âm trắc
- ( ) / Nợ / quân / thân / chưa / báo / được
(T) / T / B / B / B / T / T
(Ngôn chí 11)
Nguyên thể kiểu X’, bớt đi chữ thứ nhất âm trắc.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 37
- Say / mùi / đạo / chè , / ( ) / ba / chén
B / B / T / B / ( T ) / B / T
(Thuật hứng 13)
Nguyên thể kiểu X’, bớt đi chữ thứ năm âm trắc.
Nam / chi / nở / ( ) / cực ,/ thanh / tân
B / B / T / ( T) / T / B / B
(Thơ mai)
Nguyên thể kiểu Y, bớt đi chữ thứ tư âm trắc.
Như vậy, các câu lục ngôn trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi đều
được tạo ra từ câu thất ngôn luật bằng cách bỏ đi một chữ trong câu ấy. Chữ bị
bỏ là các chữ 1, 3, 4, 5, 6. Qua khảo sát 433 câu lục ngôn thì tỉ lệ các chữ bị bỏ
có tần số xuất hiện như sau:
Vị trí tiếng
1 3 4 5 6
Số lượng 121 37 31 162 82
Phần trăm(%) 28 8.5 7.1 37.4 19
Từ đó có thể đi đến kết luận: Để xây dựng câu lục ngôn thì Nguyễn
Trãi đã bỏ đi một chữ trong câu thất ngôn Đường luật. Chữ thứ năm của câu
thất ngôn bị Nguyễn Trãi bỏ đi nhiều nhất 162 lần, chiếm tỉ lệ 37.4%. Chữ thứ
nhất đứng vị trí thứ hai với 121 lần bị bỏ chiếm 28%. Chữ thứ tư ít nhất với 31
lần chiếm 7,1%. Riêng chữ thứ hai và chữ thứ bảy không thể giảm (do quy
định của luật bằng trắc). Nhưng ta có thể khẳng định, câu lục ngôn trong tập
Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi không phải là câu lục trong thơ lục bát dân
gian Việt Nam. Bởi câu lục trong thơ ca dân gian đa số các tiếng cuối là thanh
bằng:
- Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa ( B)
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương
- Trèo lên cây bưởi hái hoa (B)
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
- Bầu ơi thương lấy bí cùng (B)
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
- .....
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 38
Còn các tiếng cuối là thanh trắc như các câu:
- Tò vò mà nuôi con nhện (T)
Đến khi nó lớn nó quyện nhau đi.
- Có tiền thì tiên hay múa (T)
Không tiền thì ông táo chúa ra sân.
- Em thương, không thương nỏ biết (T)
Em thốt nhiều lời thảm thiết hơn thương.
thì rất ít. Hơn nữa, chúng có xu hướng là hai câu thất bị biến thể trong câu thơ
theo thể song thất lục bát hơn là hai câu lục bát trong thể lục bát. Còn ở thơ
thất ngôn xen lục ngôn của Nguyễn Trãi, câu lục ngôn có tiếng cuối là thanh
trắc lại rất phổ biến:
- Xa hoa ở rộng nên khó (T)
(Bảo kính cảnh giới 47)
- Chẳng ngừa nhỏ âu nên lớn (T)
(Bảo kính cảnh giới 9)
- Chốn ở trần gian lều lá (T)
(Tự sức 2)
1.2. Xử lí hiện tượng thất niêm từ việc sử dụng câu lục
ngôn xen thất ngôn
Tuy nhiên, câu lục ngôn trong Quốc âm thi tập cũng không phải do
Nguyễn Trãi mượn từ thể lục ngôn luật Đường của Trung Quốc. Bởi vì câu lục
ngôn viết theo thể này phải đúng quy cách niêm luật thơ Đường. Trong thơ
Nôm của Nguyễn Trãi, nếu câu lục đặt trước hoặc sau liền với câu thất ngôn
thì sẽ gây hiện tượng thất đối và thất niêm. Điều này thật dễ hiểu khi số chữ
khác nhau và cách ngắt nhịp khác nhau. Trường hợp bài có 6, 7 câu lục ngôn
viết liền nhau, tuy về số chữ bằng nhau, nhưng có thể do lối ngắt nhịp khác
nhau (như đã trình bày ở phần III.3, câu lục ngôn trong Quốc âm thi tập có
rất nhiều cách ngắt nhịp) mà gây ra hiện tượng thất niêm hoặc thất đối.
Như đã trình bày ở phần III.2, thể thất ngôn xen lục ngôn trong thơ
Nguyễn Trãi đã giữ nguyên phép đối của thể luật Đường, điều đó có nghĩa là
việc sử dụng câu sáu ở vị trí nào là do chủ ý của tác giả. Duy chỉ có bài Mạn
thuật 4 trong tổng số 186 bài thất ngôn xen lục ngôn xảy ra hiện tượng thất đối
ở câu 1 và câu 2 do lối ngắt nhịp khác nhau:
Đủng đỉnh / chiều hôm / dắt tay
Trông thế giới / phút chim bay
Đó gần như là trường hợp thất đối duy nhất nhưng chúng ta cần bàn
qua việc sử dụng câu lục ngôn liệu có dẫn đến hiện tượng thất niêm hay
không?
Việc sử dụng câu lục ngôn với câu thất ngôn đã dẫn đến hiện tượng
chênh lệch âm giữa các câu trong cùng một bài. Điều này sẽ không có tránh
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 39
khỏi việc thất niêm. Nếu xét ở thể luật Đường, để hai câu có thể niêm với nhau
cần thoả mãn hai điều kiện:
- Số âm của hai câu đó phải bằng nhau, số âm của những
đoạn nhịp tương ứng phải bằng nhau.
- Trừ âm cuối dòng, âm ở đỉnh các đoạn nhịp tương ứng
(cụ thể là tiếng thứ 2, 4, 6 mỗi câu) phải giống nhau về
thanh bằng, trắc .
Đối sánh trong Quốc âm thi tập, có rất nhiều bài Nguyễn Trãi không
theo niêm thể luật Đường. Lấy ví dụ bài Trần tình 2:
Vàng bạc nhà chẳng có mấy phần
Lành thay cơm cám được no ăn
Lọn thuở đông hằng nhờ bếp
Suốt mùa hè kẻo đắp chăn
Ác thỏ tựa thoi xem lặn mọc
Cuốc cày là thứ những chen chăn
Cây trời còn có bây nhiêu nữa
Chi tuổi chăng hiềm kẻ khó khăn.
Thể luật Đường để niêm được thì bài thơ phải đáp ứng luật bằng trắc
như sau:
- Dòng 3 phải là: BB TT BBT
- Dòng 4 phải là: TT BB TTB
nhưng tác giả lại viết: Dòng 3: Lọn / thuở / đông / hằng / nhờ / bếp
T T / B / B / B / T
Dòng 4: Suốt /mùa / hè / kẻo / đắp / chăn
T / B / B / T / T / B
đã gây nên hiện tượng thất niêm. Vậy việc dùng câu lục ngôn đã có tác động
như thế nào đối với hiện tượng thất niêm?
Chúng tôi tiến hành khảo sát những câu sáu tiếng trong bài là những
dòng lẻ (1, 3, 5, 7) thì bài thơ sẽ dẫn đến thất niêm. Quốc âm thi tập có 112
bài có số câu 6 tiếng là số lẻ trong tổng số 186 bài thể thất ngôn xen lục ngôn.
Bài có từ hai câu 6 tiếng trở lên thì chỉ trừ trường hợp hai câu 6 tiếng ấy ở vào
vị trí dòng 1 và dòng 8 (niêm được với nhau với điều kiện hai câu ấy cùng một
lối ngắt nhịp), ngoài ra ở những vị trí khác sẽ gây hiện tượng thất niêm.
Ví dụ bài Tự thán 28:
Non tây bóng ác đã mằng tằng
Nhìn đỉnh tùng thu vẳng chừng
Thư nhạn lạc lài khi gió
Tiếng quyên khắc khoải thuở trăng
Gia san cũ còn mường tượng
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 40
Thân sự già biếng nói năng
Khó ngặt qua ngày xin sống
Xin làm đời trị mấy đời bằng.
Ta thấy từ câu 2 đến câu 7 đều thất niêm bởi chúng có lối ngắt nhịp
khác nhau và đoạn nhịp cuối của từng cặp dòng phải niêm đều đối nhau về
thanh, tức là tiếng thứ 6 trong câu thất ngôn luôn luôn kết hợp với tiếng trước
nó để tạo thành một đoạn nhịp, còn câu 6 tiếng, tiếng thứ 5 riêng nó không
thành một đoạn nhịp, nó cũng không thể kết hợp với tiếng đi trước nó mà chỉ
có thể đi với tiếng thứ 6 với tư cách là phần đầu đoạn nhịp cuối.
Tất cả những bài tứ tuyệt thể thất ngôn xen lục ngôn dù câu 6 tiếng ở
bất kì vị trí nào thì bài thơ cũng có hiện tượng thất niêm. Loại bài bát cú có từ
2 đến 6 câu trở lên có 161 bài , trong đó có 12 bài câu 6 tiếng được xếp ở vị trí
dòng 1 và dòng 8, còn lại 149 bài câu 6 tiếng ở vào những vị trí khác gây nên
hiện tượng thất niêm
Như vậy, hiện tượng thất niêm là hiện tượng khó tránh khỏi khi xây
dựng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn.
Tóm lại, sử dụng thể thất ngôn xen lục ngôn, Nguyễn Trãi đã phá vỡ
tính quy phạm của thơ luật Đường, mở ra một hướng đi mới cho thơ ca Quốc
âm nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung. Qua trình bày trên, ta thấy trong
quá trình sáng tác tập thơ Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã tiếp thu sâu sắc
thi pháp thơ luật Đường. Nhưng bên cạnh đó, trên cơ sở giai đoạn chữ Nôm
đang hình thành và phát triển, Nguyễn Trãi đã “cố gắng xây dựng một lối thơ
Việt Nam” (Đặng Thai Mai). Như phân tích ở trên thì câu lục ngôn trong thể
thất ngôn xen lục ngôn được tạo ra từ câu thất ngôn Đường luật. Nhưng chúng
ta cũng không thể loại trừ khả năng Nguyễn Trãi đã học tập và vận dụng thơ
ca dân gian để sáng tạo nên một hình thức nghệ thuật độc đáo.
1.3. Cách gieo vần
Tìm hiểu về vần trong những câu thơ sáu chữ của Quốc âm thi tập,
chúng tôi thấy có sự ảnh hưởng qua lại từ văn học dân gian đến câu câu thơ
lục ngôn của Nguyễn Trãi.
Những câu tục ngữ loại 6 chữ thường có 2 nhịp, giữa hai vần có thể có
vần hoặc không có vần. Nhưng hiện tượng những câu 6 có gieo vần cho ta
thấy sự ảnh hưởng qua lại giữa tục ngữ và câu lục ngôn trong thơ Nguyễn
Trãi.
Khảo sát tục ngữ và câu lục ngôn của Nguyễn Trãi, ta thấy:
- Những câu tục ngữ chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ đầu nhịp sau:
- Nắng chóng trưa, mưa chóng tối
- Được mùa lúa, úa mùa cau
- Ăn chắc, mặc bền.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 41
Những câu thơ lục ngôn trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi cũng
có cách bắt vần tương tự:
- Tính ắt trần, trần nẻo sinh
(Tự thuật 2)
- Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
(Ngôn chí 4)
- Nhật nguyệt soi, đòi chốn hiện
(Tự thán 34)
- Vần cách một từ trong một câu tục ngữ như:
- Hay ăn thì lăn vào bếp
- Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ sai
- Con có cha như nhà có nóc.
Quốc âm thi tập cũng có cách bắt vần này:
- Thân nhàn dầu tới dầu lui
(Ngôn chí 12)
- Dầu phải dầu chăng mặc thế
(Bảo kính cảnh giới 38)
- Non cao non thấp mây buộc
(Mạn thuật 4)
Câu lục ngôn của Quốc âm thi tập còn có cách bắt vần mà ta thấy khá
phổ biến trong tục ngữ. Ví dụ: Chữ cuối nhịp đầu bắt vần với chữ cuối nhịp
sau;
Tục ngữ:
- Sông có khúc, người có lúc
- Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống
- Giàu con út, khó con út
Trong thơ Nguyễn Trãi:
- Danh chăng chác, lộc chăng cầu
( Tự thuật 10)
- Tham nhàn lánh đến giang san
(Ngôn chí 10)
- Thích lều ta, dưỡng tính ta
(Ngôn chí 17)
Qua so sánh ở trên, có thể thấy câu sáu chữ trong Quốc âm thi tập đã
chịu ảnh hưởng nhiều từ tục ngữ trong việc sử dụng vần.
Đó là trường hợp đối với tục ngữ, còn vần trong câu lục ngôn của
Nguyễn Trãi với thơ lục bát và song thất lục bát thì sao? Trong Quốc âm thi
tập, tác giả đã sử dụng khá nhiều vần lưng ở những vị trí khác nhau
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 42
Trường hợp vần lưng ở chữ thứ 2.
- Bền tiết ngọc kể chi sương
Danh thương thượng uyển còn phen kịp
( Cúc đỏ)
- Lời chăng phải vuỗn khôn nghe
Co que thay bấy ruột ốc
(Trần tình 8)
Trường hợp vần lưng ở chữ thứ 3
- Củi hái mây dầu trúc bó
Cầm đưa gió mặc thông đàn
(Tự thán 35)
Trường hợp vần lưng ở chữ thứ 4
- Giậu cúc thu vàng nảy lác
Sân mai tuyết bạc che lều
(Bảo kính cảnh giới 37)
- Gạch quẳnh nào bày mấy ngọc
Sừng hằng những mọc qua tai
(Tự thán 2)
- Trong ẩn dật có cơ mầu
Đạo quân thân đầu ai lỗi
(Bảo kính cảnh giới 32)
Trường hợp vần lưng ở chữ thứ 5
- Sống bao lâu đáo để màng
La ỷ đạp dìu làng chợ họp
(Thuật hứng 10)
- Đầu kết lăng căng những hổ
Thân nhàn lục cục mỗ già
(Tự thán 24)
- Rày mừng thiên hạ hai của
Tể tướng hiền tài chúa thánh minh
(Thuật hứng 20)
Trường hợp vần lưng ở chữ thứ 6:
- Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay
Trông thế giới phút chim bay
(Mạn thuật 4)
- Mười hai tháng lọn mười hai
Hết tấc đông trường sáng mai
(Đêm trừ tịch)
Qua khảo sát hiện tượng gieo vần trong Quốc âm thi tập của Nguyễn
Trãi, ta thấy: Vần được gieo ở hầu hết ở các chữ của câu dưới từ chữ thứ hai
đến chữ thứ sáu. Vần gieo vào các chữ thứ hai, thứ ba và chữ thứ sáu tỉ lệ
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 43
không nhiều. Sử dụng cách gieo vần lưng nhiều nhất là vần cuối của câu trên
hiệp và với chữ thứ tư và chữ thứ năm của câu dưới. Nhưng theo chúng tôi, có
lẽ đây là những từ ngữ bắt vần một cách ngẫu nhiên chứ chưa có chủ ý của tác
giả. Bởi nếu nói Nguyễn Trãi học tập cách gieo vần lưng của thể thơ lục bát
dân tộc thì điều đó chưa đúng. Vì ở thể thơ lục bát của dân tộc, vần lưng có
một vị trí khá ổn định. Đó là chữ thứ sáu của câu lục bắt vần với chữ thứ 6 của
câu bát (có trường hợp bắt vần với chữ thứ tư của câu bát) tạo ra sự hài hoà,
cân đối về nhịp và vần trong câu thơ. Đối với Nguyễn Trãi, cách bắt nhịp chữ
cuối của câu sáu với chữ thứ 2, 3, 4, 5, 6 của câu dưới rõ ràng thể hiện sự tìm
kiếm, chọn lựa một sự gieo vần cho phù hợp cho câu thơ của mình. Có lẽ đây
là điều Nguyễn Trãi chưa học tập được sự bắt vần trong thơ ca dân tộc. Mà
phải tới đại thi hào Nguyễn Du mới sử dụng thành công trong truyện Kiều.
Tóm lại, hiện tượng gieo vần trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi
cho thấy vần lưng trong thơ của ông chưa ổn định. Dường như tác giả đang
trong quá trình thử nghiệm, tìm cho mình một lối gieo vần riêng. Nhưng
chúng ta cũng không thể phủ nhận một điều, cách bắt vần này trong những câu
thơ của Nguyễn Trãi đã tạo ra một sự nhịp nhàng và hài hoà về âm và nhịp cho
bài thơ.
1.4. Cách ngắt nhịp của câu thất ngôn
Đó là về vần trong câu lục ngôn của Nguyễn Trãi. Bây giờ chúng ta
quay trở lại vấn đề nhịp trong thể thất ngôn xen lục ngôn mà Nguyễn Trãi sử
dụng trong tập Quốc âm thi tập.
Như ta đã biết thể luật Đường chỉ có một lối ngắt nhịp duy nhất trong
bài thơ dẫn đến sự trùng lặp về nhịp trong toàn bài. Quốc âm thi tập nhờ sử
dụng câu lục ngôn với cách ngắt nhịp đa dạng kéo theo sự thay đổi nhịp trong
câu thất ngôn và nhịp điệu trong toàn bài phong phú hơn. Ở đây chúng tôi
không nói về nhịp của câu lục ngôn mà chúng tôi sẽ đề cập đến sự thay đổi
nhịp của câu thất ngôn do sự ảnh hưởng của câu lục ngôn.
Theo thống kê của ông Phạm Luận: “Quốc âm thi tập có 26 bài thất
ngôn, trong đó có kiểu tiết tấu 3- 4 dùng xen với câu có kiểu tiết tấu thất ngôn
luật Đường. Tỉ lệ trung bình giữa chúng là 1/5”[Nguyễn Hữu Sơn. 2003. 853]
Trong Quốc âm thi tập, ta bắt gặp những câu bảy tiếng có lối ngắt
nhịp 3/4 ( nhịp cuối là nhịp chẵn), khác với lối ngắt nhịp 4/3 của thơ Đường
luật. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là hiện tượng hai câu bảy chữ đi liền
với nhau cùng một lối ngắt nhịp 3/4 :
- Tóc nên bạc, / bởi lòng ưu ái
Tật được tiêu, / nhờ thuốc đắng cay
(Tự thuật 1)
- Đất thiên tử / dưỡng tôi thiên tử
Dưỡng người cho, / kẻo nhọc chân tay
(Bảo kính cảnh giới 19)
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 44
- Thoi nhật nguyệt / đưa qua mấy phút
Áng phồn hoa / họp mấy trăm đời
(Tự thán 15)
- Yên phận cũ / chăng mừng phận khác
Cả lòng đi / mặc nhủ lòng về
( Bảo kính cảnh giới 14)
- Rượu đối cầm / đâm thơ một thủ
Ta cùng bóng / liễn nguyệt ba người
(Tự thán 6)
Cách ngắt nhịp 3/4 như trên chứng tỏ nhiều câu thơ thất ngôn đã không
làm theo tiết tấu của câu thơ luật Đường. Cũng cần phải nói thêm, một câu thơ
có thể có nhiều cách ngắt nhịp khác nhau để tạo ra những ý nghĩa mới nhất là
thơ văn cổ. Nhưng những câu dẫn ra ở trên đều có chung cách ngắt nhịp là
nhịp 3/4 (không tính các biến thể của nó. Ví dụ: Cũng câu thơ: Rượu đối cầm
đâm thơ một thủ - Ta cùng bóng liễn nguyệt ba người, cũng có thể được ngắt
thành nhịp 1/ 2/ 2/ 2, nhưng nhịp cuối vẫn là nhịp chẵn)
Phạm Luận đã coi nhịp lẻ trước, nhịp chẵn sau là tiết tấu của thơ Việt
Nam, còn nhịp chẵn trước, nhịp lẻ sau là tiết tấu thơ ngoại lai “Lối kiến tạo tiết
tấu là căn cứ để phân biệt đâu là câu thơ Việt Nam, đâu là câu thơ ngoại lai
[Nguyễn Hữu Sơn. 2003. 857]. Ta có thể nói, tiết tấu 3/4 là tiết tấu riêng của
thơ Việt Nam. Để khẳng định điều này, trước tiên phải kể đến sự có mặt của
nó trong hệ thống thơ ca dân gian Việt Nam. Tục ngữ Việt Nam có rất nhiều
câu được ngắt theo kiểu 3/4 . Ví dụ:
- Đêm tháng năm / chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười / chưa cười đã tối.
- Bói ra ma / quét nhà ra rác.
- Giặc đến nhà / đàn bà cũng đánh.
- Miệng âm mô / bụng bồ dao găm
- Măng không uốn / uốn tre sao đành
- Một mặt người / bằng mười mặt của
Trong ca dao, dân ca cũng có nhiều câu ngắt nhịp 3/4:
- Đêm trăng thanh / anh mới hỏi nàng
- Khóc làm chi / hài nhi con hỡi
Cha con rày / bạc ngỡi thì thôi
- Em đố anh / từ nam chí bắc
Sông nào là sông sâu nhất
- Bắc kim thang / cà lang bí rợ
Cột bên kèo / là kèo bên cột
Chú bán dầu / qua cầu mà té
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 45
Chú bán ếch / ở lại làm chi
Con le le / đánh trống thổi kèn
Thứ hai, hầu hết những câu thất ngôn có nhịp 3/4 đều có thể được tạo ra
từ những câu lục ngôn. Có nghĩa là những câu lục ngôn có nhịp chẵn 2/ 2/ 2,
2/ 4 rất dễ tạo thành những câu bảy chữ có nhịp 3/ 4 bằng cách “thêm vào một
âm tiết ở đầu câu, âm này có thể tự làm thành một bước thơ” [Nguyễn Hữu
Sơn. 2003. 857]
Ví dụ:
- ( Bát ) cơm xoàng / nhờ ơn xã tắc
( Gian ) lều cỏ / đội đức Đường Ngu
(Ngôn chí 14)
- ( Lòng ) làm lành / đổi lòng làm dữ
( Tính ) ở nhu / hơn tính ở cương
(Bảo kính cảnh giới 20)
- ( Ắt ) đã tròn / bằng nước ở bầu
(Trần tình 4)
Thứ ba, nhiều người cho rằng từ một câu thơ ngũ ngôn luật, nếu thêm
vào đằng trước nó hai âm tiết thì nó sẽ trở thành một câu thất ngôn ngắt nhịp
4/3 tức nhịp chẵn trước, lẻ sau:
Ví dụ:
- ( Ta nếu) ở đâu / vui thú đó
( Ngày xưa) ẩn cả / lọ lâm tuyền
( Tự thán 33)
- (Ngày xem) hoa rụng / chăng cài cửa
(Tối rước) chim về / mựa lạc ngàn
(Tự thán 25)
Điều đáng nói ở đây là nhiều câu lục ngôn khi khôi phục lại vị trí được
lược bớt để trở thành câu thất ngôn thì chúng vẫn có nhịp lẻ trước, chẵn sau.
Ví dụ:
Lòng tiện soi / dầu (còn) nhật nguyệt
Thề xưa hổ / (mới) có giang san
(Thuật hứng 18)
Mựa cậy sang / (với) / mựa cậy tài
(Tự thán 21)
Góc thành nam / (có) lều một gian
No nước uống / (lại) thiếu cơm ăn
Con đòi trốn / (bởi) dường ai quyến
Bà ngựa gầy / (do) thiếu kẻ chăn
(Thủ vị ngâm)
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 46
Mai chăng bẻ, (lại) thương cành ngọc
Trúc nhặt vun, (còn) tiếc cháu rồng
(Thuật hứng 5)
Như vậy, cách ngắt nhịp 3/4 trong tập Quốc âm thi tập phải chăng là
Nguyễn Trãi đã học tập và đổi mới theo hướng dân tộc hoá? Có thể nói,
Nguyễn Trãi đã học tập và tiếp thu những tinh hoa của dân tộc để làm giàu cho
thơ ca của mình, tạo nên một diện mạo khá mới mẻ trong chặng đường phát
triển thơ Nôm Đường luật.
Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong tập
Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã xây dựng một hệ thống kết cấu mới khác
hẳn hệ thống kết cấu vốn có của thơ Đường luật. Sự thay đổi này được thể
hiện ở sự thay đổi hình thức kết cấu bài thơ mà chủ yếu là tập trung vào các
câu thơ. Tức là thay đổi số chữ trong một dòng (cụ thể là 6 chữ), thay đổi tiết
tấu của toàn bài (khắc phục lối tiết tấu đơn nhất 4/3 của thể luật Đường) tạo ra
sự phong phú, đa dạng về cách ngắt nhịp cho cả tập thơ. Với Quốc âm thi
tập, Nguyễn Trãi đã khẳng định vị thế của thơ Nôm Đường luật trong tiến
trình phát triển của văn học Việt Nam. Đồng thời cũng đánh dấu sự trưởng
thành về mặt ý thức của dân tộc. Người Việt Nam không chỉ tiếp thu những
thành tựu văn học đặc sắc của Trung Hoa mà bên cạnh đó còn có sự cách tân,
sáng tạo làm nên một nét riêng cho diện mạo văn học dân tộc.
2. Hiệu quả của câu lục trong thể thơ thất ngôn xen lục ngôn
Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm duy nhất của Nguyễn Trãi. Làm thơ
bằng Tiếng Việt khi chữ Hán vẫn còn đang ở địa vị quan phương chính thống,
khi văn học chữ Nôm chưa hình thành được lối thơ riêng, Nguyễn Trãi vẫn
dùng thể luật Đường để sáng tác các tác phẩm của mình. Thơ Nôm Nguyễn
Trãi có những bài rất đúng quy cách của thơ Đường. Tuy nhiên, trong Quốc
âm thi tập, Nguyễn Trãi đã có sự phá cách, cách tân tìm cho mình một thể thơ
riêng - một thể thơ có khả năng diễn đạt những tư tưởng, tình cảm của mình
vừa đầy cá tính vừa hoà hợp theo nếp nghĩ của nhân dân.
Thể thất ngôn xen lục ngôn là một thể loại mới, nó chỉ được sử dụng
rộng rãi bắt đầu từ tập Quốc âm thi tập. Đây cũng là tập thơ đầu tiên được
viết với số lượng khá lớn bằng tiếng nói của dân tộc. Do được viết bằng Tiếng
Việt, ngôn ngữ “nôm na” của đời sống hàng ngày nên những câu thơ trong
Quốc âm thi tập rất gần gũi, thân quen với người dân Việt Nam. Bởi ta bắt
gặp trong đó là những hình ảnh mà văn học bác học cụ thể là những bài thơ
chữ Hán chưa nhắc tới. Nguyễn Trãi đã xác định cho mình một hướng đi
riêng bởi bản thân ông từng làm rất nhiều thơ văn bằng chữ Hán, ông đã nhận
ra sự bó buộc của thể thơ luật Đường? Phải chăng thể thơ ấy không còn đủ khả
năng để diễn tả tình ý và cảm xúc của một con người có quan niệm “lấy dân
làm gốc”, thiên nhiên là bạn bè, là thầy trò, có khi là con cái. Phải chăng
Nguyễn Trãi hiểu được hình thức của thơ Đường luật đã quá đơn điệu với nội
dung trên nên buộc ông phải tìm đến một hình thức mới? Như chúng ta đã
biết, mỗi thể thơ nói riêng và từng loại thể văn học nói chung đều chứa đựng
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 47
trong nó những khả năng diễn đạt riêng mà thể loại khác không có. Có người
nhận xét: “So với câu bảy tiếng, câu 6 -8 của ta “động” hơn, thích hợp với lối
kể chuyện, nó gợi một cái gì đang trôi, đang đi. Trái lại, câu thơ bảy tiếng
thích hợp hơn với những trạng thái ngưng đọng tâm tình, nó gợi một cái gì
dừng lại. Nếu không làm cho mọi quy định trở thành máy móc, tuyệt đối thì có
thể nói thơ thất ngôn luật Đường thích hợp với lối diễn tả những khoảnh khắc
trầm tư và nội dung suy tư dù có những mâu thuẫn, xung đột thì những mâu
thuẫn, xung đột ấy vẫn có thể hoà giải” [Nguyễn Hữu Sơn. 2003. 847]. Như
vậy nếu theo nhận xét này thì làm thơ theo thể luật Đường phải chấp nhận một
hình thức cố định với những quy định nghiêm ngặt mà thể thơ đó đề ra. Còn
làm thơ theo thể thơ của dân tộc ta thì nhẹ nhàng hơn, bất kì lúc nào cũng có
thể xuất khẩu thành thơ. Ví dụ: Người dân Việt Nam quanh năm “bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời”, trong thời tiết nóng nực của trưa hè, một câu hò vang
lên cũng đủ để xua tan mệt nhọc. Một chàng trai cũng có thể gửi lời tâm tình
kín đáo của mình cho cô gái qua một câu ca dao....Nói như vậy không có
nghĩa là thơ luật Đường không làm được điều đó. Nhưng cũng phải nhắc lại ở
đây về đề tài mà thơ luật Đường hướng tới là những đề tài mang quan niệm
phạm trù Nho, Đạo giáo nên ít nhiều nó hạn chế sự phong phú như trong thơ
Nôm.
Đối sánh vào tập thơ Quốc âm thi tập, ta cũng biết tập thơ này được
Nguyễn Trãi viết phần lớn vào quãng thời gian ông quy ẩn tại Côn Sơn – “thời
kì cuối đời của thi sĩ” (Đặng Thai Mai) có lẽ thời kì này Nguyễn Trãi có nhiều
tâm sự nhất. Nỗi lòng ông chằng chịt những suy tư mà chưa tìm được cách
tháo gỡ. Ông tìm đến thơ ca để ghi lại những trạng thái, tâm trạng đó. Phải
chăng thể thất ngôn xen lục ngôn hứa hẹn sẽ diễn đạt lại đầy đủ nỗi lòng của
ông?
Việc Nguyễn Trãi đưa nhiều câu thơ sáu chữ vào bài thơ thất ngôn
Đường luật tạo ra cấu trúc mới với cách ngắt nhịp đa dạng, tự do hơn. Nguyễn
Trãi là tác giả sử dụng nhiều câu sáu nhất và cũng là người sử dụng thành
công nhất thể loại này. Với Ức Trai, câu thơ sáu chữ mà ông sử dụng thường
là những câu dồn nén cảm xúc, chứa ý và tình trong cả bài thơ.
Để chứng minh điều này, trước hết chúng ta cùng xem xét bài Bảo kính
cảnh giới số 43 - một bài thơ tả cảnh, tình mùa hè, một bức tranh thiên nhiên
và cuộc sống sinh động, gần gũi, được kết lại bằng hai câu:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương.
Sáu câu thơ trên là bức tranh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống sinh
động của ngày hè được tác giả đón nhận bằng tất cả giác quan và sự say mê
của một người có tâm hồn rộng mở với thiên nhiên và cuộc sống. Nhưng đến
câu cuối ta lại bắt gặp cấu trúc khác thường giống như câu mở đầu: Sử dụng
câu lục ngôn. “Dân giàu đủ khắp đòi phương”. Thì ra tâm tình của Nguyễn
Trãi gửi cả vào một câu sáu ngắn gọn này đây. Điểm kết lại của Nguyễn Trãi
trong bài thơ không phải là thiên nhiên tươi đẹp và sinh động kia mà nó lại là
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 48
con người. Những người dân mà cả cuộc đời cầm bút và chiến đấu của ông
đều mong muốn họ được ấm no hạnh phúc thì cái tư tưởng ấy được thể hiện
trọn vẹn trong câu sáu này. Nguyễn Trãi mong muốn cho tát cả nhân dân được
ấm no, hạnh phúc nhưng đó phải là cái hạnh phúc cho tất cả mọi người, mọi
nơi “khắp đòi phương”.
Còn đối với bài “Tùng”, những phẩm chất cơ bản của cây Tùng cũng là
những phẩm chất của người quân tử đều được thể hiện ở các câu sáu:
- Một mình lạt thuở ba đông
- Cội rễ bền dời chẳng động
- Dành còn để trợ dân này
Bài Tùng được tác giả viết theo kiểu tuyệt cú liên hoàn (câu đầu của bài
thứ hai lặp lại câu cuối của bài thứ nhất). Ba bài - mỗi bài tác giả dùng một
câu sáu chữ được sắp xếp theo thứ tự từ trên xuống dưới của mỗi bài. Để rồi
câu cuối cùng rơi vào câu kết của bài và toát lên nội dung, ý tứ của toàn bài
thơ. Cả cuộc đời người quân tử miệt mài phấn đấu vì mục đích thiêng liêng và
cao cả “trợ dân”- dùng hết “sức hèn tài mọn” của mình để giúp dân cứu nước.
Làm sao để cuộc sống của người dân nơi đâu cũng được hưởng sự yên vui,
đầm ấm. Đó là niềm thao thức “đêm đêm thức trắng nẻo sơ chung” của biết
bao kẻ sĩ quân tử.
Thời gian Nguyễn Trãi về Côn Sơn là quãng thời gian ông thảnh thơi
nhất Nguyễn Trãi đến với thiên nhiên bởi chính thiên nhiên đã làm cho tâm
hồn nhà thơ trở nên thoải mái hơn. Thi sĩ thưởng thức thiên nhiên như một
món ăn tinh thần đầy sự hấp dẫn:
Đêm thanh / hớp nguyệt / nghiêng chén
Ngày vắng/ xem hoa / bợ cây
(Ngôn chí 10)
Với nhịp 2/2/2 nhẹ nhàng không khác gì một câu thơ dân gian nhưng
cũng tràn đầy thi vị của thơ Đường, Nguyễn Trãi mở ra một thế giới mới cho
người đọc. Người đọc như được cùng thưởng thức chén rượu in bóng trăng mà
ngỡ như mình đang “hớp trăng” chứ không còn là chén rượu suông nữa.
Khi đã hoà mình vào thiên nhiên, thi nhân không còn chút bận bịu, lo
lắng gì nữa. Chính lúc này, thiên nhiên đã trở nên gần gũi hơn, thân mật hơn:
Củi hái mây, dầu bó cúc
Cầm đưa gió, mặc thông đàn
Ngày xem hoa rụng chăng cài cửa
Tối rước chim về mựa lạc ngàn
(Tự thán 25)
Sự gần gũi thân mật đó đã tạo ra những vần thơ hết sức nhẹ nhàng,
uyển chuyển. Nhịp điệu tác giả sử dụng rất có hồn. Nó gợi lên một phong thái
rất mực ung dung và đĩnh đạc đường hoàng:
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 49
- Láng giềng / một áng / mây bạc
Khách khứa / hai ngàn / núi xanh
Có thuở / biếng / thăm bạn cũ
Lòng thơ / ngàn dặm /nguyệt / ba canh
(Bảo kính cảnh giới 42)
Thi nhân ngắm hoa nở, nghe chim hót bằng tất cả tình cảm của mình:
Dấu đường đi là đá mòn
Đường hoa vắng vẻ trúc luồn
Cửa song dài, xâm hơi nắng
Tiếng vượn kêu, vang cách non
(Ngôn chí 20)
Nhất là cảnh ở Côn Sơn – nơi ông về ở ẩn bao giờ cũng toát lên vẻ
thanh tịnh:
Quét trúc bước qua làn suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng
( Ngôn chí 15)
Việc kết hợp giữa câu sáu và câu bảy đã tạo cho thơ Nôm của Nguyễn
Trãi một âm hưởng riêng:
Góc thành nam, / lều một gian
No nước uống, / thiếu cơn ăn
Con đòi trốn, / dường ai quyến
Bà ngựa gầy, / thiếu kẻ chăn
Ao / bởi hẹp hòi / khôn / thả cá
Nhà / quen xú xứa / ngại / nuôi vằn
Triều quan/ chẳng phải, / ẩn / chẳng phải
Góc thành nam, / lều một gian
(Thủ vĩ Ngâm)
Ngoại trừ ba câu bảy( câu 5, 6, 7) ở giữa bài ra, bài thơ được ngắt theo
cùng một nhịp 3/3 một nhịp khá quen thuộc trong tập thơ Quốc âm thi tập.
Chính cách ngắt nhịp của câu sáu này đã chi phối cách ngắt nhịp của ba câu
bảy còn lại tạo ra nhịp điệu phong phú cho bài thơ.
Xen kẽ những câu sáu tiếng và câu bảy tiếng như vậy thường tạo ra
những cảm giác khác nhau trong một bài thơ. Những câu sáu được sắp xếp
giữa các câu bảy thường là tác giả dùng để nhấn mạnh vào cái ý mà mình
muốn đề cập tới trong bài:
- Hiểm hóc cửa quyền chăng lọt lẫn
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai
Dễ hay ruột bể sâu cạn
Khôn biết lòng người vắn dài
(Ngôn chí 5)
- Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa
Vui sơ chẳng quản đeo âu
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 50
(Ngôn chí 18)
- Mắt hoà xanh, đầu dễ bạc
Lưng khôn uốn, lộc nên từ
Ai ai đều đã bằng câu hết
Nước chẳng còn có Sử Ngư
( Mạn thuật 14)
Nhiều khi việc mở đầu hoặc kết thúc bằng những câu sáu tiếng lại
phù hợp với sự khoẻ khoắn, sinh động của câu thơ:
- Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm
Xăn tay áo đến tùng lâm
(Ngôn chí 14)
- Ngủ thì nằm, đói lại ăn
Việc vàn ai hỏi áo bô cằn
(Bảo kính cảnh giới 17)
- Giữ thuở phong lưu pha thuở khó
Lấy khi phú quý đắp khi hàn
Cho hay bĩ thái là lề cũ
Nếu có nguy thời có an
( Bảo kính cảnh giới 17)
- Tai thường phỏng dạng câu ai đọc
Rất nhân sinh bẩy tám mươi
(Tự thán 6)
Mặt khác, do cách sắp đặt trật tự giữa câu sáu và câu bẩy trong một bài
thơ cũng tạo nên một điểm mới trong thơ Nguyễn Trãi:
Non Phú Xuân cao, nước Vị thanh
Mây quen, nguyệt khách, vô tình
Đất thiên tử, dưỡng tôi thiên tử
Đời thái bình, ca khúc thái bình
Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị
Tóc tơ chưa báo cha mẹ sinh
Rày mừng thiên hạ hai của
Tể tướng hiền tài chúa thánh minh
(Thuật hứng 20)
Đọc bài thơ lên, ta thấy có nhiều cảm xúc xen kẽ nhau do những câu sáu
và câu bảy đảm nhiệm. Ở đó ta thấy có cái vui khi được thảnh thơi, được sống
một cuộc sống thanh bình không có mưu cầu của danh lợi, có những nỗi xót
xa không thực hiện được cái khát vọng mà cả cuộc đời mình ôm ấp, có cả
những cái bực tức cất lên thành giọng mỉa mai những con người đang ngự trị
xã hội mà không làm nên trò trống gì cho thiên hạ...Chính hiện tượng xen kẽ
giữa các câu đã tạo nên những cách ngắt nhịp khác nhau, làn cho bài thơ thêm
phong phú, đa dạng:
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 51
Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triệu hư không gió thâu
Thuyền mạn còn chèo chăng khứng đỗ
Trời ban ước tối về đâu?
(Ngôn chí 13)
Cả bài thơ đọc lên ta bắt gặp một âm điệu trầm buồn đến khó tả. Tuổi
đã già, địa vị đã hết vậy mà lòng hăng hái đem tài mọn của mình ra giúp dân
giúp nước vẫn không ngừng theo thời gian, theo tuổi tác. Nhưng bốn bề đều
mờ mịt, biết đi về đâu đây? Bài thơ kết lại bằng một câu câu sáu “trời ban ước
tối về đâu?”, một câu hỏi mà chưa tìm ra được lời giải đáp. Chính câu sáu này
tự nó đã nói lên các nỗi băn khoăn của tâm hồn thi nhân.
Cũng tuỳ vào từng tâm trạng mà Nguyễn Trãi viết lên những vần thơ có
những câu buồn, bài buồn, có những bài vui tươi dí dỏm:
- Thế nhưng cười ta rằng đánh thơ
Dại hoà vụng nết lừ khừ
(Tự thán 20)
- Loàn đoan ướm hỏi khách lầu hồng
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng
(Thơ tiếc cảnh)
- Ngủ thì nằm, đói lại ăn
Việc vàn ai hỏi áo bô cằn
(Tự thán 40)
Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu chính cái quê hương
của những con người mộc mạc giản dị. Đi vào thơ Nôm của ông, không còn
phải câu nệ những hình ảnh ước lệ tượng trưng mang tính chất quy phạm của
văn học trung đại nữa mà ông đã chuyển tải vào thơ của mình cái phong vị
hữu tình, thô sơ, mà đậm đà ấy. Đó là cả một bức tranh đời thường dân dã. Có
lẽ thể thất ngôn xen lục ngôn đã đảm nhiệm được điều đó. Chính vì thế mà
phần lớn những câu sáu trong bài đều miêu tả thiên nhiên thôn quê hiền hoà:
- Tả lòng thanh, vị núc nác
Vun đất ải, lảnh mồng tơi
(Ngôn chí 9)
- Vầu làm chèo, trúc làm nhà
Được thú vui, ngày tháng qua
(Trần tình 3)
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 52
- Cơm ăn dầu có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm thêu
(Ngôn chí 3)
- Ao cạn vớt bèo cấy muống
Đìa thanh phát cỏ ương sen
(Thuật hứng 24)
Phải hoà mình vào cuộc sống ở nông thôn và phải yêu quý cuộc sống ấy
thì mới có thể nói về các sản vật và phong vị quê hương một cách thân thiết
như thế. Quả núc nác, lảnh mùng tơi, củ khoai, rau muống, dọc mùng, bụi tre,
....là những thứ vốn rất quen thuộc với nhân dân nhưng lại khá xa lạ với văn
chương bác học. Những thứ ấy được Nguyễn Trãi đưa vào thơ Nôm một cách
hết sức tự nhiên. Phải chăng chính thể thất ngôn xen lục ngôn đã giúp ông làm
điều đó.
Tóm lại, trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã sử dụng với một số
lượng khá lớn thể thất ngôn xen lục ngôn. Trong các bài thơ thất ngôn xen lục
ngôn, từ số câu lục ở mỗi bài đến vị trí của câu lục được sắp xếp như thế nào
đều không có một quy định nào bắt buộc mà là do chủ ý của tác giả. Những
câu lục ngôn thường được dùng ở những chỗ mà tác giả cho là trọng tâm,
những chỗ mà tác giả muốn bày tỏ tình cảm, cảm xúc của mình một cách nhấn
mạnh, khắc sâu. Bởi như đã phân tích ở trên thì mọi câu thất ngôn đều có khả
năng biến đổi để trở thành câu lục ngôn để đảm nhiệm vai trò của câu thất
ngôn không đảm trách được. Việc dùng xen giữa câu lục ngôn và câu thất
ngôn kéo theo sự phong phú, đa dạng về nhịp điệu cho toàn bài. Có thể nói,
chính thể thất ngôn xen lục ngôn đã góp phần lớn vào việc đưa Nguyễn Trãi
đến thành công.
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 53
PHẦN KẾT LUẬN
Tìm hiểu về đặc trưng nghệ thuật của một tập thơ là một công việc khó
khăn và càng khó khăn hơn nữa khi tập thơ này thuộc hệ thống thơ văn cổ.
Khi đi vào nghiên cứu đề tài này, chúng tôi mong muốn mang tất cả công sức
và tâm huyết của mình bước đầu khám phá một số vấn đề về nghệ thuật trong
tập thơ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi.
Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm duy nhất của Nguyễn Trãi. Tác phẩm
đạt được nhiều thành tựu trên cả hai lĩnh vực nội dung và nghệ thuật. Những
vấn đề được khảo sát ở phần nội dung khoá luận chỉ là một trong những đặc
điểm tiêu biểu về nghệ thuật trong tập Quốc âm thi tập. Tuy nhiên, những
vấn đề được khảo sát đó đã góp phần xây dựng một cách hệ thống về cách tiếp
cận thể thơ thất ngôn xen lục ngôn - một thể loại khá mới mẻ và chỉ tồn tại
trong văn học trung đại Việt Nam.
Đây là một đề tài khá mới cho nên bước đầu nghiên cứu, chúng tôi đã
cố gắng thực hiện những công việc sau:
1. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi có đề cập đến quá trình
hình thành và phát triển của thơ Nôm Đường luật phần nào giúp người đọc có
cái nhìn toàn diện về thơ Nôm Đường luật “một thể loại không có tuổi già”
[Lã Nhâm Thìn. 1997. 39]. Đồng thời xác định được vị trí của tập thơ Quốc
âm thi tập của Nguyễn Trãi trong mối quan hệ toàn diện đó.
2. Khoá luận đã vạch ra một cái nhìn khá hoàn chỉnh về thể thơ thất
ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập. Ngoài việc phân chia một cách có
hệ thống các tiêu chí đánh giá trong thể thất ngôn xen lục ngôn (có thể là chưa
được tối ưu), chúng tôi còn chú ý tới một số mối liên hệ giữa thể thất ngôn xen
lục ngôn với thể thơ dân gian Việt Nam và thể Đường thi Trung Quốc. Nhưng
trong quá trình tìm hiểu chắc chắn ít nhiều còn có sự thiếu sót và trùng lặp về
nội dung. Do đó, đối với người tìm hiểu thơ Nôm Đường luật nói chung và tập
thơ Nôm Quốc âm thi tập nói riêng có thể xuất phát từ thành tựu nghiên cứu
nêu trên để tiếp cận và chiếm lĩnh các bài thơ từ nhiều góc độ đặc biệt là từ
góc độ thể loại.
3. Được tiếp cận và nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rất vui mừng khi
đã đóng góp một phần công sức của mình trong việc khám phá cái hay cái đẹp
của thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
các bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi nói riêng và các bài thơ Nôm được viết theo
thể thất ngôn xen lục ngôn trong Hồng Đức quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc
ngữ thi tập....nói chung. Đặc biệt có thể cung cấp thêm nguồn tư liệu cần thiết
cho những ai tìm hiểu, nghiên cứu... các vấn đề liên quan đến đề tài. Nói như
Tìm hiểu thể thơ thất ngôn xen lục ngôn trong Quốc âm thi tập...
Lê Thị Giang DH5C1 Trang 54
vậy không có nghĩa là khoá luận không mắc phải những thiếu sót, sơ xuất và
những kiến giải chủ quan. Vì thế chúng tôi mong nhận được ý kiến đánh giá
và phát hiện sai sót, góp ý chân thành của thầy cô và bạn đọc để khoá luận
hoàn chỉnh hơn. Nếu có điều kiện, chúng tôi xin được phép trở lại đề tài này ở
mức độ khám phá sâu hơn và toàn diện hơn. Chẳng hạn như tiếp tục khảo sát
thể thơ này trong Hồng Đức quốc âm thi tập, thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm,
thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Đó cũng là ước muốn tiếp tục khẳng định tầm vóc
vai trò và vị trí của thơ Nôm trong nền văn học trung đại Việt Nam nói riêng
và nền văn học Việt Nam nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chương Thâu. 1980. Trên đường tìm hiểu thơ văn Nguyễn Trãi.
NxbVăn học.
2. Bùi Duy Tân. 2001. Khảo và luận một số thể loại tác giả, tác
phẩm văn học Trung đại Việt Nam, tập 2. Nxb quốc gia Hà Nội.
3. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức. 2000. Thơ ca Việt Nam hình
thức và thể loại. Nxb khoa học xã hội.
4. Đặng Thai Mai toàn tập. 1998.tập 3. Nxb Văn học.
5. Đinh Gia Khánh. 1976. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X-
XVII. Nxb văn học.
6. Đoàn Thị Thu Vân. 2001. Tiếp cận thơ văn Nguyễn Trãi. Nxb trẻ.
7. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên). 2004. Từ điển văn học Việt Nam (bộ
mới). Nxb thế giới.
8. Dương Quảng Hàm.1993. Việt Nam văn học sử yếu. Nxb tổng
hợp Đồng Tháp.
9. Hữu Mai (chủ biên). 1968. Bạch vân quốc ngữ thi tập. Nxb Văn
học.
10. Nguyễn Văn Hồng (chủ biên). 1974. Hồng Đức quốc âm thi tập.
Nxb văn học.
11. Lã Nhâm Thìn. 1997. Thơ Nôm Đường luật. Nxb GD.
12. Lã Nhâm Thìn. 2002. Bình giảng thơ Nôm Đường luật. Nxb GD.
13. Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2. 1977. Nxb khoa học xã hội.
14. Lê Thu Yến (chủ biên). 2003. Văn học trung đại những công trình
nghiên cứu. Nxb GD.
15. Ngô Sĩ Liên.1967. Đại Việt sử kí toàn thư. Nxb Khoa học xã hội.
16. Ngô Văn Phú. 1980. Sáu trăm năm Nguyễn Trãi. Nxb tác phẩm
mới hội nhà văn.
17. Nguyễn Đăng Na (chủ biên). 2005. Văn học trung đại Việt Nam,
tập 1. Nxb đại học sư phạm.
18. Nguyễn Hữu Sơn. 2003. Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm. Nxb
GD.
19. Nguyễn Hữu Sơn. 2002. Về vấn đề thể thơ thất ngôn xen lục
ngôn xen lục ngôn. Tạp chí văn học tháng 1- 2002.
20. Nguyễn Phạm Hùng. 1999. Văn học Việt Nam từ thế kỉ X- XX.
Nxb đại học quốc gia Hà Nội.
21. Nguyễn Phạm Hùng. 2001. Trở lại vấn đề xác định vị trí của thể
thơ thất ngôn xen lục ngôn trong văn học thời trung đại. Tạp chí
văn học tháng 12 – 2001.
22. Nguyễn Trãi toàn tập. 1956. Nxb Văn sử địa.
23. Nguyễn Xuân Đức. 2004. Đi tìm nguồn gốc thể loại lục bát Việt
Nam. Tạp chí văn học tháng 6- 2004.
24. Nguyễn Xuân Đức. 2002. Về thể loại lục bát trong ca dao. Tạp
chí văn học tháng 2 – 2002.
25. Trần Đình Sử. 2005. Thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nxb
đại học quốc gia.
26. Trần Ngọc Hưởng. 2003. Luận đề về Nguyễn Trãi. Nxb thanh
niên.
27. Trần Tùng Chinh. 2002. Tài liệu giảng dạy, lưu hành nội bộ,.
28. Trương Chính . 1979. Hương hoa đất nước. Nxb văn học.
29. Tuấn Thành, Nguyễn Vũ. 2007. Nguyễn Trãi tác phẩm và lời
bình. Nxb văn học.
30. Xuân Diệu. 2001.Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam. Nxb
trẻ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1277.pdf