Nếu giá trị tài sản thế chấp không dư để thanh toán số nợ của chủ nợ có bảo đảm thì chủ nợ được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản còn lại của xí nghiệp các chủ nợ không có bảo đảm khác. Nếu giá trị tài sản thế chấp lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của xí nghiệp. Tài sản còn lại, phương án phân chia được thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau:
Các khoản tiền được chia đủ, lệ phí giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là 1.000.000đ các khoản chi phí theo quy định của pháp luật cho việc giải quyết phá sản. Chi phí tổ chức bán đấu giá tài sản và phân chia giá trị tài sản của xí nghiệp, tiền nợ lương và các khoản nợ khác cán bộ công nhân viên 9.110.851đ; tiền trợ cấp thôi việc 7.390.000đ, bảo hiểm xã hội (Nộp cơ quan bảo hiểm tỉnh Quảng Nam - Đã Nẵng) 9.050.460đ. Nợ thuế: 21.598.750đ các khoản nợ được phân chia theo tỷ lệ tương ứng.
Các khoản nợ không có bảo đảm với tổng số nợ là: 11.116.493đ. Mỗi chủ nợ được thanh toán mọi khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng khi bán đấu giá tài sản còn lại của xí nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản tiền được chia đủ. Cụ thể là: Nếu trị giá tài sản còn lại của xí nghiệp đủ thanh toán các khoản nợ không có bảo đảm thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình. Còn nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán đủ số nợ mà vẫn còn thừa thì phần này thuộc về ngân sách Nhà nước. Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chánh án toà án nhân dân tỉnh là quyết định cuối cùng.
Đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng toà án chỉ thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản sau khi đã nhận được văn bản của Thủ tướng chính phủ hoặc của Thủ trưởng cơ quan nhà nước đã quyết định thành lập doanh nghiệp về việc không áp dụng biện pháp cần thiết phục hồi khả năng thanh toán nợ cuả doanh nghiệp đó.
5. Mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 15 luật phá sản doanh nghiệp thì:"Trong thời hạn 30 ngày (kể từ ngày thụ lý đơn) hoặc sau 7 ngày kể từ ngày chánh án toà án nhân dân tỉnh ra theo khoản 2 Điều 13 luật phá sản nếu xét thấy đủ căn cứ chánh án toà án kinh tế cấp tỉnh ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Xung quanh vấn đề này chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Về lý do mở thủ tục đó là:"Doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Tuy nhiên, riêng đối với các doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và dịch vụ công cộng quan trọng thì chánh toà án kinh tế cấp tỉnh chỉ được mở thủ tục, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với những doanh nghiệp này sau khi đã nhận được văn bản trả lời của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc không áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm phục vụ tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai: Về vấn đề ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ. Khi ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ trong quyết định mở thủ tục chánh toà kinh tế cần phải ấn định vào ngày đương sự (doanh nghiệp mắc nợ) nhận được quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Có như vậy mới phù hợp với tinh thần quy định tại Điều 18 luật phá sản doanh nghiệp.
Thứ ba: Về vấn đề chỉ định thẩm phán:
Tuy tính chất của từng vụ việc đơn giản hay phức tạp mà chánh toà kinh tế cấp tỉnh có thể chỉ định 1 thẩm phán hay 3 thẩm phán phục trách việc giải quyết pháp luật cho phép lúc đầu chánh án chỉ định 1 thẩm phán sau đó lại được tiếp tục chỉ định thêm 2 thẩm phán nữa để có 1 tập thể gồm 3 thẩm phán giải quyết vụ việc và ngược lại.
Thẩm phán khi được chỉ định giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp không thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước chánh án toà án nhân dân tỉnh. Nhiệm vụ và quyền hạn đó là:
- Thu thập tài liệu chứng cứ để lập hồ sơ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Giám sát và kiểm kê hoạt động của tổ quản lý tài sản.
-Ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
- Tổ chức và chủ trì hội nghị chủ nợ.
- Ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Thứ tư: Vấn đề chỉ định nhân viên tổ quản lý tài sản gồm:
- Một cán bộ của toà kinh tế (do toà kinh tế chỉ định) làm tổ trưởng.
- Một chấp hành viên (do trưởng phòng thi hành án thuộc sở tư pháp cử).
- Một đại diện chủ nợ (chủ nợ nào có số nợ lớn nhất; nếu có nhiều chủ nợ có số nợ lớn bằng nhau thì chánh án toà kinh tế cử 1 trong những chủ nợ đó đéen khi nào Hội nghị chủ nợ thay thế người khác).
- Một đại diện của doanh nghiệp mắc nợ.
- Một đại diện của ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh.
- Một đại diện của sở tài chính.
Ngoài những số thành viên trên mà pháp luật quy định ra, chánh toà kinh tế căn cứ vào từng vụ việc mà cử một số thành viên tham gia các thành viên đó phải là người độc lập về kinh tế với chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và phải có trình độ năng lực. Một người chỉ được phép tham gia tối đa một lúc 3 tổ quản lý tài sản khác nhau của 3 vụ việc khác nhau, nhiệm vụ gồm:
+ Tập hợp bảng kê tài sản của doanh nghiệp
+ Giám sát kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp và có quyền yêu cầu thẩm phán có biện pháp cần thiết
+ Lập bảng danh sách chủ nợ.
Tổ quản lý tài sản đứng đầu là tổ trưởng chịu trách nhiệm đối với những hoạt động của mình.
Thứ năm: Kể từ thời điểm ngừng thanh toán nợ, doanh nghiệp không phải trả lãi các khoản nợ, các khoản nợ chưa đến hạn được coi là đến hạn nhưng không được tính lãi đối với thời hạn chưa đến hạn.
Như vậy bằng thủ tục yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp của chánh toà kinh tế cấp tỉnh đã bắt đầu mở ra một thủ tục đòi nợ, các khoản nợ chưa đến hạn được coi là đến hạn nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn (thủ tục tư pháp). Toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp phải được đặt dưới sự giám sát của thẩm phán và tổ quản lý tài sản, cụ thể là pháp luật nghiêm cấm doanh nghiệp mắc nợ thực hiện các hành vi sau đây kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (Điều 18 luật phá sản).
Những hành vi không được làm đó là:
- Cất giấu, tẩu tán tài sản của doanh nghiệp.
- Cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán tài sản của doanh nghiệp hoặc thanh toán nợ có bảo đảm của doanh nghiệp mà không có sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán.
- Thanh toán bất kỳ khoản nợ không có bảo đảm nàoc ho bất kỳ chủ nợ nào.
- Các khoản nợ mới phát sinh chỉ được thanh toán dưới sự giám sát của thẩm phán.
- Từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ của mình.
- Tạo ra nguồn đảm bảo cho các chủ nợ truớc đây không có bảo đảm.
- Bán chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu doanh nghiệp.
Với quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu cầu tuyên bố phá sản; doanh nghiệp mất đi quyền định đoạt đối với tài sản của mình. Đây chính là hậu quả pháp lý của quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Các chủ nợ khi thực hiện quyền đòi nợ của mình thì phải gửi giấy đòi nợ cùng các tài liệu chứng minh cho các khoản nợ đến toà án trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày đầu tiên đăng báo quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Ngay sau khi ra quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, thẩm phán phải yêu cầu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp xây dựng phương án hoà giải, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh. Phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh phải được gửi đến thẩm phán trong thời hạn 60 kể (từ ngày thẩm phán yêu cầu).
Hết thời hạn này nếu không có phương án hoà giải thì thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản và tổ chức hội nghị chủ nợ bàn phương án phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp (Điều 20 luật phá sản doanh nghiệp).
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết hạn gửi giấy đòi nợ, tổ quản lý tài sản phải lập song danh sách các loại chủ nợ (chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần). Và phải được niêm yết công khai tại trụ sở toà án tỉnh, trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp mắc nợ trong thời hạn là 10 ngày, trong thời hạn này các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ có quyền khiếu nại lên thẩm phán về danh sách chủ nợ. Thẩm phán xem xét nếu thấy đủ căn cứ thì sửa đổi bổ sung vào danh sách chủ nợ. Hết thời hạn này tổ quản lý tài sản khoá sổ danh sách chủ nợ. Các chủ nợ không gửi giấy đòi nợ sẽ mất quyền tham gia đòi nợ. Tổ quản lý tài sản do chánh án toà kinh tế chỉ định bao gồm:
+ Cán bộ của toà kinh tế.
+ Chấp hành viên của phòng thi hành án thuộc sở tư pháp.
+ Đại diện chủ nợ.
+ Đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động.
+ Chuyên viên cơ quan tài chính, ngân hàng cấp tỉnh và các chuyên ngành liên quan . Tổ quản lý tài sản do một cán bộ chủ toà án làm tổ trưởng. Tổ quản lý tài sản giữ vai trò trung gian để quản lý tài sản của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ. Nhiệm vụ và quyền hạn của tổ quản lý tài sản được xem như là người quản gia của doanh nghiệp mắc nợ, cụ thể là:
+ Lập bảng kê toàn bộ tài sản của doanh nghiệp mắc nợ.
+ Giám sát kiểm tra việc quản lý tài sản của doanh nghiệp. Trong trường hợp cần thiết có quyền đề nghị thẩm phán quyết định các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản còn lại của doanh nghiệp.
+ Tập hợp danh sách chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ.
6. Hội nghị chủ nợ:
Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ trước hết là nhằm bảo đảm cho việc giải quyết một cách bình đẳng lợi ích kinh tế của các chủ nợ trong quan hệ với doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản và giữa chính các chủ nợ với nhau. Hội nghị chủ nợ được triệu tập trong giai đoạn xem xét giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Việc tổ chức Hội nghị chủ nợ là trách nhiệm của thẩm phán phục trách phá sản. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày khoá sổ danh sách chủ nợ thẩm phán phải triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ.
Thành phần bắt buộc của Hội nghị chủ nợ gồm có:
+ Các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ.
+ Chủ doanh nghiệp hay đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.
+ Đại diện công đoàn hay đại diện người lao động (nơi chưa có tổ chức công đoàn).
+ Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp mắc nợ cũng có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và đương nhiên cũng có quyền và nghĩa vụ như chủ nợ không có bảo đảm khác.
Xung quanh vấn đề triệu tập Hội nghị chủ nợ chúng ta cần lưu lý những vấn đề sau:
- Khi không tham gia được hội nghị chủ nợ thì chủ nợ có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị chủ nợ, người được uỷ quyền có quyền và nghĩa vụ như chủ nợ
- Chỉ những chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ.
- Đại diện công đoàn hay đại diện người lao động (nơi chưa có tổ chức công đoàn) có quyền tham gia Hội nghị chủ nợ nhưng không có quyền biểu quyết (trừ trường hợp quy định tại Điều 8 luật phá sản doanh nghiệp).
- Đối với doanh nghiệp tư nhân nếu chủ doanh nghiệp chết thì người thừa kế hợp pháp được quyền tham gia Hội nghị chủ nợ.
Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của trên 50% (quá nửa) số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 số nợ không có bảo đảm.
Phương án hoà giải, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh chỉ có giá trị pháp lý khi được quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm thông qua. (Điều 29 luật phá sản doanh nghiệp).
Trong Hội nghị chủ nợ, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải có mặt để trình bày phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trả lời các vấn đề nêu ra tại Hội nghị chủ nợ.
Theo Điều 30 luật phá sản doanh nghiệp thì Hội nghị chủ nợ có thể được hoãn 1 lần nếu rơi vào 1 trong hai điều kiện sau đây.
1. Không đủ quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm tham gia.
2. Đa số chủ nợ có mặt tại Hội nghị biểu quyết hoãn Hội nghị.
Nếu Hội nghị chủ nợ không thành do không đủ số chủ nợ thì thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bộ phá sản và phải được đăng báo địa phương, báo hàng ngày của Trung ương trong 3 số liên tiếp.
Trường hợp hoãn hợp trong thời gian 30 ngày thẩm phán phải triệu tập lại Hội nghị chủ nợ và chủ trì Hội nghị. Giấy triệu tập phải được đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương. Một lần và phải được gửi cho các thành viên và những người tham dự chậm nhất 15 ngày trước ngày khai mạc Hội nghị. Hội nghị lần này chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của số chủ nợ không có bảo đảm. Phương án hoà giải, giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh có giá trị pháp lý khi có số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 số nợ khộng có bảo đảm của các chủ nợ có mặt biểu quyết thông qua (Điều 31). Mục đích tổ chức Hội nghị chủ nợ cũng chính là nhiệm vụ và quyền hạn của Hội nghị chủ nợ:
1/ Xem xét thông qua hay không thông qua phương án hoà giải, tổ chức lại sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2/ Thảo luận và kiến nghị với thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, nếu không có phương án hoà giải....(Điều 24). Nếu phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh được thông qua; thì thẩm phán ran quyết định tạm đình chỉ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Nếu phương án hoà giả và giải pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh không được thông qua thì Hội nghị chủ nợ thảo luận những vấn đề cho là cần thiết rồi kiến nghị lên thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi đã trừ các chi phí khác theo thứ tự luật định.
7. Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Trình tự giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp không phải bao giờ cũng kết thúc bằng việc giải tán một doanh nghiệp và phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp đó. Luật phá sản cũng như các quy định khác và phá sản đồng thời sử dụng cả cơ chế hoà giải, tái tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của giải pháp này là tìm cách giải đáp để duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp cũng như đưa doanh nghiệp trở lại hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường; tạo cơ hội để doanh nghiệp mắc nợ vượt qua tình trạng mất khả năng thanh toán nợ, thay vì bị tuyên bố phá sản.
Phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp quy định tại Điều 20 của luật phá sản doanh nghiệp. Việc phá sản chủ yếu được thực hiện dưới hình thức hoãn nợ, giảm nợ, xoá nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ và các biện pháp khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp, cam kết của doanh nghiệp mắc nợ về thời hạn, mức phương thức thanh toán nợ đến hạn. Trong khi đó các biện pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đòi hỏi phải được thực hiện trên cơ sở các biện pháp cụ thể về tổ chức bao gồm các biện pháp về tài chính, tổ chức lại bộ máy, sắp xếp lại lao động, cải tiến quản lý tài sản hoàn thiện đổi mới công nghệ và các biện pháp cần thiết nhằm khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp. Từng biện pháp phải có kế hoạch, thời hạn thực hiện cụ thể, khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính thì sự "vực dậy". Doanh nghiệp là rất cần thiết vì có rất nhiều yếu tố gây ảnh hưởng đến nền kinh tế và xã hội. Cơ sở tiến hành hoà giải, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là đề nghị, là sự thiết tha của doanh nghiệp mắc nợ được Hội nghị chủ nợ chấp thuận, thông qua và có sự phê chuẩn của toà án. Thời hạn tổ chức lại tổ chức lại hoạt động kinh doanh do Hội nghị chủ nợ quyết định những tối đa không quá 2 n ăm. Phương án hoà giải cũng phải có biện pháp kế hoạch cụ thể cho các chủ nợ kể cả nợ lương. Đồng thời vớiviệc chấp nhận biên bản hoà giải thành, thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Các thoả thuận trong biên bản có hiệu lực bắc buộc đội với mọi chủ nợ. Trong thời hạn tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thực hiện nghĩa vụ của mình theo thoả thuận và không có khiếu nại của chủ nợ đến toà án thì chủ doanh nghiệp có quyền đề nghị toà án đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quyết định này phải được đăng báo hàng ngày của trung ương và địa phương trong 3 số liên tiếp.
8. Tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp.
a) Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
a1) Ai có quyền ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và ra trong những trường hợp nào?
Thẩm phán toà án kinh tế cấp tỉnh nơi có trụ sở chính của doanh nghiệp được chỉ định chủ trì phiên toà có quyền ra phán quyết dưới hình thức một quyết định. Quyết định tuyên bố phá sản do thẩm phán toà án kinh tế cấp tỉnh ra trong những trường hợp sau:
- Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của chủ doanh không có phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại khi có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp của chủ nợ và toà án đã có quyết định mở thủ tục giải quyết đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
- Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của chủ doanh không có mặt ở Hội nghị chủ nợ để trình baỳ phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án hoà giải, giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp mắc nợ.
- Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn kinh doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản.
- Trong quá trình giải quyết việc phá sản doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ trốn hoặc bị chết và người thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có người thừa kế.
a2) Nội dung của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Quyết định tuyên bố phá sản có các nội dung sau đây:
1/ Tên của toà án, họ và tên của thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
2/ Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
3/ Tên và địa chỉ của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
4. Ngày tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
5/ Lý do tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
6/ Phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp được gửi cho mỗi chủ nợ của doanh nghiệp bị phá sản một bản và viện kiểm sát nhân dân cùng cấp quyết định tuyên bố phá sản của doanh nghiệp có thể bị khiếu nại và kháng nghị.
Những người có quyền khiếu nại là các chủ nợ và doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh thì có quyền kháng nghị. Thời hạn kháng nghị và khiếu nại là 30 ngày kể từ ngày có quyết định. Hết thời hạn khiếu nại kháng nghị thì quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực thi hành. Quyết định này phải được đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương trong 3 số liên tiếp. Thời hạn đăng báo chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày quyết định có hiệu lực. Sau khi quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực thẩm phán phải ra quyết định gửi cho:
a/ Phòng thi hành án thuộc Sở tư pháp
b/ Các chủ nợ của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
c/ Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan tài chính lao động cùng cấp.
d/ Cơ quan cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp.
Riêng đối với phòng thi hành án phải gửi cả những tài liệu cần thiết cho việc thi hành quyết định.
Trong trường hợp có khiếu nại, kháng nghị thì toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao sẽ xem xét giải quyết trong thời hạn 60 ngaỳ kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc phá sản do toà án kinh tế cấp tỉnh chuyển đến. Quyết định của toà án nhân dân tối cao có hiệu lực thi hành.
b) Tài sản phá sản.
Theo thông lê chung, tài sản là tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản có ở thời điểm ngừng thanh toán nợ do toà án ấn định trong quyết định thụ lý hồ sơ phá sản doanh nghiệp. Những tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản bao gồm toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu cuả doanh nghiệp hoặc thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp nếu là doanh nghiệp Nhà nước. Tài sản có thể được biểu hiện dưới bất kỳ hình thức nào như hiện vật, giá trị tài sản, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp bao gồm:
- Tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp đang có trong doanh nghiệp.
- Tiền hoặc tài sản góp vốn liên doanh liên kết với cá nhân doanh nghiệp hoặc tổ chức khác.
- Tiền hoặc tài sản của doanh nghiệp mà cá nhân, tổ chức doanh nghiệp khác đang nợ hoặc đang chiếm đoạt.
- Tài sản mà doanh nghiệp đang cho thuê hoặc đang cho mượn.
- Các quyền về tài sản.
Nếu là doanh nghiệp tư nhân còn bao gồm cả tài sản của chủ doanh nghiệp không trực tiếp đưa vào hoạt động kinh doanh tức là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp tư nhân. Quy định này cũng phù hợp với tính chất chịu trách nhiệm vô hạn của loại hình doanh nghiệp này trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên pháp luật của một số nước có quy định khác nhau về phá sản, chẳng hạn thời điểm trước khi ngừng thanh toán nợ từ 3 đến 6 tháng, ở vào thời điểm đó chủ doanh nghiệp phải biết rõ về tình trạng tài chính của doanh nghiệp mình. Do vậy những hành vi chuyển dịch trong thời gian trên được coi là rất hợp pháp và trong trường hợp phá sản được thu hồi để nhập vào khối tài sản phá sản. Chính vì vậy mà Điều 4 luật doanh nghiệp phá sản của nước ta quy định toà án có quyền ra quyết định thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp nếu trong 6 tháng trước ngaỳ thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp dưới mọi hình thức như:
1/ Tẩu tán tài sản của doanh nghiệp dưới mọi hình thức.
2/ Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn
3/ Từ bỏ quyền đòi nợ đối với các khoản nợ
4/ Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm.
5/ Bán tài sản của doanh nghiệp thấp hơn thực giá.
Những tài sản được thu hồi đó sẽ nhập vào khối tài sản chung của doanh nghiệp để chi cho việc phá sản và chi cho các chủ nợ.
c) Phân chia giá trị tài sản:
Khi có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì việc phân chia giá trị tài sản là đương nhiên, việc phân chia giá trị tài sản được tiến hành sau khi đã bóc tách và phân tích làm rõ giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị phá sản.
Về nguyên tắc phương án phân chia giá trị tài sản do Hội nghị chủ nợ đề nghị được toà án phê chuẩn và do tổ thanh toán tài sản thực hiện. Tuy nhiên phương án phân chia giá trị còn lại của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản phải được căn cứ vào thứ tự ưu tiên được quy định tại Điều 39 luật phá sản doanh nghiệp nước ta là:
1/ Các khoản lệ phí, các khoản chi phí theo quy định của pháp luật cho việc giải quyết việc phá sản doanh nghiệp.
2/ Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động thể và hợp đồng lao động đã ký kết.
3/ Các khoản nợ thuế.
4/ Các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ.
Trong quá trình phân chia giá trị tài sản, nếu tài sản của doanh nghiệp không đủ hoặc thừa thì giải quyết như thế nào?
Pháp luật đã quy định việc thanh toán giá trị tài sản phá sản theo thứ tự ưu tiên. Do đó phải thanh toán hàng thứ nhất mới đến hàng thứ hai, thứ ba...
Các khoản nợ cho các chủ nợ là hàng cuối cùng sau khi đã thanh toán hết các khoản trên sẽ được thanh toán nếu tài sản của doanh nghiệp vẫn còn.
Trong quá trình phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản sẽ xảy ra 3 trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Nếu giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản đủ thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình.
Trường hợp thứ hai: Nếu giá trị tài sản của doanh nghiệp không đủ để hạch toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
Trường hợp thứ ba: Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán đủ số nợ của các chủ nợ mà vẫn còn thừa thì phần này thuộc về:
- Chủ doanh nghiệp nếu là doanh nghiệp tư nhân.
- Các thành viên của công ty nếu là công ty.
- Ngân sách Nhà nước nếu là doanh nghiệp nhà nước.
9. Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp là giai đoạn cuối cùng của trình tự giải quyết phá sản. Khi toà án đã quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, quyết định này có giá trị bắt buộc đối với doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và các chủ nợ.
Theo quy định của luật phá sản doanh nghiệp ở nước ta, việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của phòng thi hành án thuộc sở tư pháp, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Trưởng phòng thi hành án chỉ định chấp hành viên phụ trách việc thi hành quyết định này.
Để tổ chức thực hiện vi thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, luật quy định trưởng phòng thi hành án có thẩm quyền thành lập tổ thanh toán tài sản. Thành phần tổ thanh toán tài sản ngoài chấp hành viên, cán bộ phòng thi hành án, đại diện chủ nợ, đại diện công đoàn hay đại diện người lao động (nơi chưa có tổ chức công đoàn) còn có đại diên các cơ quan tài chính, ngân hàng và đại diện của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Thành phần tổ quản lý tài sản có thể được chỉ định tiếp tục tham gia tổ chức thanh toán tài sản, tổ thanh toán tài sản do chấp hành viên làm tổ trưởng. Trưởng phòng thi hành án có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra công việc của tổ thanh toán tài sản.
Theo Điều 43 luật phá sản doanh nghiệp thì chấp hành viên phụ trách việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có nhiệm vụ và quyền hạn như sau:
1/ Ra quyết định thu hồi và bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
2/ Thực hiện phương án phân chia giá trị tài sản theo quyết định tuyên bố phá sản của thẩm phán.
3/ Ra quyết định phong toả các tài khoản của doanh nghiệp phá sản có ở các ngân hàng; mở tài khoản mới ở ngân hàng để gửi các khoản tiền thu được từ việc thu hồi các khoản tiền cho vay của doanh nghiệp phá sản và từ việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp phá sản.
Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm trước trưởng phòng thi hành án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Ngoài nhiệm vụ và quyền hạn mà pháp luật quy định cho chấp hành viên phụ trách việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp tổ thanh toán tài sản còn có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Nhận bàn giao tài sản và các giấy tờ, tài liệu có liên quan từ tổ quản lý tài sản .
- Thu hồi và quản lý tất cả tài sản, giấy tờ, sổ sách kế toán và con dấu của doanh nghiệp phá sản.
- Phát hiện và yêu cầu chấp hành viên cho thu hồi lại tài sản của doanh nghiệp hoặc giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp theo quy định tại Điều 45 của luật này. Tổ thanh toán tài sản thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản và phần chênh lệch đó theo quyết định của chấp hành viên.
- Tổ chức việc bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp. Việc bán đấu giá phải theo đúng quy định của pháp lệnh thi hành án dân sự. ít nhất là 15 ngày trước khi tổ chức bán đấu giá phải đăng trên báo hàng ngày của trung ương và địa phương trong 3 số liên tiếp. Nếu tài sản đem bán đấu giá là thiết bị đồng bộ thì phải bán đồng bộ, trừ khi không bán được đồng bộ mới bán thiết bị lẻ. Việc tổ chức bán đấu giá tài sản và giải quyết quyền sử dụng đất đai phải theo đúng quy định của pháp luật.
- Gửi tất cả các khoản tiền thu được của doanh nghiệp vào tài khoản mới tại ngân hàng. (Tài khoản này do tổ trưởng tổ thanh toán tài sản mởi chậm nhất là sau 5 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập tổ thanh toán tài sản, và làm chủ tài khoản phá sản).
- Thực hiện thanh toán theo phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp đã được thẩm phán quyết định.
Chậm nhất là 7 ngày kể từ ngày thanh toán hết tài sản phá sản, tổ trưởng tổ thanh toán tài sản phải làm báo cáo gửi về việc thi hành quyết định phá sản, báo cáo này phải gửi cho trưởng phòng thi hành án và niêm yết công khai tại trụ sở phòng thi hanhf án. Sau khi niêm yết 15 ngày mà không có chủ nợ nào khiếu nại, trưởng phòng thi hành án ra quyết định chất dứt việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản đã được thi hành xong. Trường hợp phòng thi hành án gửi quyết định tuyên bố phá sản và báo cáo kết thúc việc thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản phá sản cho toà án để giải quyết vụ phá sản, cục quản lý thi hành án dân dự thuộc Bộ tư pháp và cơ quan đã cấp đăng ký kinh doanh. Nếu doanh nghiệp phá sản là doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội thì các báo cáo đó còn phải được gửi cho cơ quan ra quyết định thành lập doanh nghiệp.
Mục III. Kết luận
I/ Thực tiễn phá sản doanh nghiệp ở nước ta:
Sau nhiều năm hoạt động của toà án nhân dân trong việc giải quyết các yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiêpị (Từ 1 - 7 - 1994) thực tiễn phá sản đã được giải quyết theo nguồn của toà án nhân dân tối cao như sau:
- Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp từ 1 - 7 - 1999 đến 11 - 9 - 1995 là :
+ Của toà án nhân dân các địa phương:
Đã nhận đơn của chủ nợ nhưng không thụ lý: 7 vụ.
Lý do chủ yếu là giữa các bên có thoả thuận trước khi toà án mở thủ tục, chủ nợ rút đơn.
Đã thụ lý (mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp) là 15 vụ.
Đã giải quyết ( ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp) là 2 vụ (toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh 1: Một doanh nghiệp tư nhân Hiệp Thành; Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng: 1 vụ).
Ra quyết định đình chỉ thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp: 1 vụ (toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh: vụ VIM Sài Gòn đang giải quyết: 12 vụ.
+ Của toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao:
Thụ lý: 1 vụ
Đã giải quyết: 1 vụ (doanh nghiệp tư nhân Hiệp Thành).
- Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong năm 1996 được thể hiện
Tổng kết bảng sau:
+ Tổng kết thụ lý giải quyết các yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp của toà án nhân dân các địa phương 1996. ( giải quyết ở thủ tục sơ thẩm).
Số vụ việc đã mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Loại hình doanh nghiệp
DNNN
DNTN
Cty TNHH
HTX
22
04
10
03
05
Số vụ đã giải quyết bằng hoà giải, quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Loại hình doanh nghiệp
Đạt tỉ lệ
DNNN
DNTN
CTTNHH
HTX
11
02
07
02
0
50%
Thụ lý giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp năm 1996 của các toà án phúc thẩm toà án nhân dân tối cao là:
Đơn vị
Số việc phải thụ lý
Số việc đã giải quyết
Còn lại
Đạt tỷ lệ
Kết quả giải quyết
Giữ nguyên QĐ sơ thẩm
Cải nửa một phần
Hủy
Toà phúc thẩm tại HN
01
01
0
100%
0
0
Không thuộc thẩm quyền
Toà phúc thẩm tại ĐN
0
0
0
0
0
0
0
Toà phúc thẩm tại TPHCM
03
03
0
100%
0
01
Không thuộc thẩm quyền
Theo thống kê chưa đầy đủ của toà án nhân dân tối cao từ năm 1997 đến quý 3 năm 1998 các toà án nhân dân địa phương đã thụ lý giải quyết như sau: (sở thẩm).
Số vụ việc đã mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Loại hình doanh nghiệp
DNNN
DNTN
Cty TNHH
HTX
63
13
28
15
7
Trong số những doanh nghiệp này đã mở thủ tục tuyên bố phá sản chỉ có 17 vụ là đã giải quyết được bằng con đường hoà giải, quyết định tuyên bố phá sản (chiếm khoảng 24% vụ việc). Số còn lại đều được giải quyết bằng việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Có thể thấy số vụ phá sản hàng năm là tăng nhưng so với các nước khác có nền kinh tế phát triển trên thế giới thì số vụ phá sản của ta là rất nhỏ như ở pháp năm 1990 có trên 47.000 doanh nghiệp bị phá sản, năm 1991 là trên 53.000 năm 1992 là 57.000. ở Miền Đông nước Đức năm 1992 có trên 1000 doanh nghiệp bị phá sản. Năm 1991 doanh nghiệp bị phá sản ở Mỹ là 87.200. ở Anh năm 1992 số doanh nghiệp bị tuyến bố phá sản là 60.000 tăng trên 30% so với năm 1991. Tại Hà Lan số doanh nghiệp phá sản năm 1992 là trên 8.100. ở Trung Quốc hiện tại có trên 2/3 doanh nghiệp quốc doanh đang trong tình trạng khó khăn về tài chính mà có thể lâm vào tình trạng phá sản.
Những con số trên cho ta thấy tình trạng phá sản của các nước là khá phổ biến, điều này cũng có nghĩa là phá sản là hệ quả tất yếu của nền kinh tế thị trường. Bởi vậy không thể coi phá sản là đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà quy luật chung cuả nền kinh tế là, ở đâu cạnh tranh càng trở nên gay gắt thì ở đó phá sản ngày càng phổ biến và nghiêm trọng hơn. Nguyên nhân dân đến phá sản rất đa dạng. Có thể do sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh, cũng có thể do các biến động khách quan của từ nền kinh tế làm mất khả năng thanh toán cho các doanh nghiệp dẫn đến phá sản.
Để làm rõ thực tiễn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp chúng ta có thể xem xét qua ví dụ cụ thể sau đây. Đồng thời đó cũng là thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của một doanh nghiệp được minh chứng một cách rõ ràng:
Nội dung cụ thể như sau:
Xí nghiệp chế biến dịch vụ thủy sản (XNCBDVTS) huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng là một doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được thành lập theo Nghị định 388/HĐBT ngày 20.11.1991 tại QĐ số 52/AĐ - UB ngày 15.01.1993 của UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 104090 ngày 23.02.1993 của trọng tài kinh tế tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cấp với ngành kinh doanh chủ yếu là:
- Chế biến nước mắm.
- Chế biến bột cá.
- Dịch vụ vật tư thủy sản.
- Khai thác thủy sản.
Vốn kinh doanh của xí nghiệp tại thời điểm thành lập là: 323.000.000đồng. Trong đó, vốn cố định là: 154.000.000đồng, vốn lưu động là: 165.000.000đồng vốn khác là 4.000.000đồng. Quá trình kinh doanh từ vốn vay, vốn kinh doanh không hoàn lại 232.525.000đ, XNCBDVTS Thăng Bình đã tạo ra giá trị tài sản tính đến ngày 30.12.1994 là 674.176.629 đồng. Tuy nhiên tăng trưởng về vốn không tạo ra hiệu quả kinh doanh tương xứng.
Vào năm 1993 XNCBDVTS Thăng Bình lãi 3.710.147 đồng, sau đó năm 1994 hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bắt đầu sa sút đình trệ và ngừng hẳn vào cuối năm 1994. Trong báo cáo quyết toán tài chính hàng năm của xí nghiệp xác định năm 1994 xí nghiệp lỗ 140.883.549 đồng và trong 6 tháng đầu năm 1995 lỗ 17.526.690 đồng. Đứng trước những khó khăn trên xí nghiệp nhận thấy không có khả năng khôi phục lại các hoạt động kinh doanh để thanh toán nợ đến hạn và trả lương cho công nhân trong 3 tháng liên tiếp.
Ngày 1. 5. 1995 giám đốc XNCBDVTS đã gửi đơn đề nghị toà án kinh tế TAND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, đồng thời công đoàn xí nghiệp cũng có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Do vậy toà án kinh tế nhận thấy xí nghiệp có những dấu hiệu đang lâm vào tình trạng phá sản nên đã có quyết định số 01/QN Toà án ngày 4/7/1995 về việc mở thủ tục yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản đối với XNCBDVTS Thăng Bình. Qua quá trình thu thập đánh giá các hồ sơ tài liệu có liên quan đến hoạt động kinh doanh của xí nghiệp từ năm 1993 đến tháng 6.1994 nhận thấy nguyên nhân của sự thua lỗ như sau: Do không tính toán chặt chẽ chi phí đầu vào (lãi vay ngân hàng, chi phí sản xuất, quản lý...) nên giá thành sản phẩm tăng, sản phẩm sản xuất ra không tiêu thụ được, càng tiêu thụ càng bị lỗ. Xí nghiệp quản lý sử dụng vốn không có hiệu quả. Việc xí nghiệp vay vốn với lãi suất cao để đầu tư xây dựng tài sản cố định là vượt quá khả năng kinh doanh của xí nghiệp. Năng lực quản lý của đội ngũ xí nghiệp còn hạn chế chưa đáp ứng được kinh doanh thua lỗ chưa đến 2 năm liên tiếp theo như bảng thống kê tổng hết tài sản của xí nghiệp ngày 30 - 6 - 1995 thể hiện.
Tổng giá trị tài sản của xí nghiệp: 598.206.981đ
Trong đó - Tài sản cố định: 515. 517.107đ
- Tài sản lưu thông: 48.220.268đ
- Tài sản khác: 34.490.618đ
Tổng nợ đến phải trả là: 196.595.658đ
Qua phân tích tình hình tài chính của xí nghiệp cho thấy xí nghiệp đã mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn vì: khả năng thanh toán của xí nghiệp quá thấp bao gồm vốn bằng tiền mặt, các loại tài sản để chuyển thành tiền khoảng 10.000.000đ. Chiếm tỷ lệ 3,3%. Nợ đến hạn phải trả là 296.595.658đ. Tỷ lệ này quá thấp cho thấy xí nghiệp đang gặp khó khăn trong thanh toán nợ đến hạn. Xí nghiệp không bán nhà xưởng thiết bị để trả nợ đến hạn vì tài sản này có vai trò sống còn đối với xí nghiệp và vì xí nghiệp kinh doanh thua lỗ cho nên ngân hàng đã từ trối không cho xí nghiệp tiếp tục vay và yêu cầu xí nghiệp trả nợ vay đến hạn.
UBND tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và sở thuỷ sản sau khi đã xem xét tình hình kinh doanh của xí nghiệp và đã quyết định không áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết là cấp vốn cho vay ưu đãi.... để phục hồi khả năng thanh toán nợ đến hạn của xí nghiệp và đồng ý chấm dức hoạt động của XNCBDVTS dưới hình thức phá sản.
Như vậy không có bất kỳ nguồn tài chính có thể cứu vãn xí nghiệp thoát khỏi tình trạng thua lỗ và trả các khoản nợ.
Tại hội nghị chủ nợ ngày 17 - 10 - 1995 giám đốc xí nghiệp không đưa ra phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh. Do vậy Hội nghị chủ nợ chỉ thảo luận và bàn phương pháp phân chia tài sản của xí nghiệp. Bảng tổng kết tài sản do tổ quản lý tài sản lập ngày 12 - 9 - 1995 đã xác định tổng giá trị tài sản là: 565.,209.227 đ
Trong đó:
- Tài sản cố định 151.433.304đ
- Tài sản lưu thông 6.680.077đ
- Tài sản xí nghiệp mà các tổ chức, cá nhân khác nợ xí nghiệp
Là: 43.085.846đ
- Tổng các khoản nợ mà xí nghiệp phải trả: 463.630.161đ
Tính đến ngày 30 - 10 - 1995. Do vậy toàn án nhân lên tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng đã áp dụng khoản 1 điều 36 luật phá sản doanh nghiệp đã quyết định.
+ Tuyên bố phá sản XNCBDVTS Thăng Bình kể từ ngày 15 - 11 - 1995.
+ Lý do: Xí nghiệp thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
+ Phương án phân chia tài sản của xí nghiệp được giải quyết như sau: tài sản thế chấp cho 2 chủ nợ có bảo đảm 1 phần là ngân hàng ngoại thương Đà Nẵng và ngân hàng nông nghiệp Thăng Bình.
Nếu giá trị tài sản thế chấp không dư để thanh toán số nợ của chủ nợ có bảo đảm thì chủ nợ được tham gia vào việc phân chia giá trị tài sản còn lại của xí nghiệp các chủ nợ không có bảo đảm khác. Nếu giá trị tài sản thế chấp lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của xí nghiệp. Tài sản còn lại, phương án phân chia được thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau:
Các khoản tiền được chia đủ, lệ phí giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là 1.000.000đ các khoản chi phí theo quy định của pháp luật cho việc giải quyết phá sản. Chi phí tổ chức bán đấu giá tài sản và phân chia giá trị tài sản của xí nghiệp, tiền nợ lương và các khoản nợ khác cán bộ công nhân viên 9.110.851đ; tiền trợ cấp thôi việc 7.390.000đ, bảo hiểm xã hội (Nộp cơ quan bảo hiểm tỉnh Quảng Nam - Đã Nẵng) 9.050.460đ. Nợ thuế: 21.598.750đ các khoản nợ được phân chia theo tỷ lệ tương ứng.
Các khoản nợ không có bảo đảm với tổng số nợ là: 11.116.493đ. Mỗi chủ nợ được thanh toán mọi khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng khi bán đấu giá tài sản còn lại của xí nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản tiền được chia đủ. Cụ thể là: Nếu trị giá tài sản còn lại của xí nghiệp đủ thanh toán các khoản nợ không có bảo đảm thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình. Còn nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán đủ số nợ mà vẫn còn thừa thì phần này thuộc về ngân sách Nhà nước. Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp đủ thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ thì mỗi chủ nợ được thanh toán một phần khoản nợ của mình theo tỷ lệ tương ứng.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các chủ nợ và XNVDTS Thăng Bình có quyền gửi đơn khiếu nại, việc kiểm sát nhân dân Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có quyền kháng nghị thì quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiêpẹ này có hiệu lực thi hành.
Trên đây là một ví dụ cụ thể mà tôi nêu ra để chúng ta thấy rằng thực tế giải quyết phá sản doanh nghiệp là vấn đề rất phức tạp, rất đa dạng và cũng còn mới mẻ đối với các doanh nghiệp và các cơ quan giải quyết phá sản. Nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Bởi vậy trong thực tế giải quyết các toà án địa phương đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ việc. Vì vậy để hướng dẫn rõ ràng cụ thể các quy định trong luật này là một vấn đề cấp bách hiện nay mà các nhà làm luật cần quan tâm tới.
II/ Một số kiến nghị của bản thân góp phần hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp:
Qua nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật về phá sản doanh nghiệ cũng như thực tiễn giải quyết phá sản doanh nghiệp ở nươc ta trong thời gian qua. Tôi xin có một số ý kiến đóng góp xin hy vọng rằng sẽ góp được ít nhiều trong quá trình thực hiện pháp luật phá sản.
1. Hiện nay, theo luật phá sản doanh nghiệp ngày 30 - 12 năm 1993 thì đối tượng áp dụng luật phá sản doanh nghiệp là mọi doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam; khi lâm vào tình trạng phá sản (Điều 1 luật phá sản doanh nghiệp). Tuy nhiên theo hướng dẫn tại Nghị định 189CP thì cá nhân nhóm kinh doanh không phải là đối tượng áp dụng luật phá sản. Nghiên cứu vấn đề này tôi thấy rằng:
Thứ nhất:
Nếu xét về tiêu chí của một doanh nghiệp đã được đưa ra trong khái niệm doanh nghiệp (Được quy định tại luật DNTN) thì cá nhân, nhóm kinh doanh thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của một doanh nghiệp.
Thứ hai:
Khi cá nhân, nhóm kinh doanh thua lỗ trong hoạt động kinh doanh đến mức mất khả năng thanh toán nợ (đến hạn và nợ chưa đến hạn). Mà để cho các chủ nợ đòi nợ theo điều kiện dân sự hay điều kiện kinh tế thông thường thì rất rễ xảy ra tình trạng mạnh ai người ấy đòi, thanh toán nợ theo tình cảm riêng tự cho một số chủ nợ.... Mặc khác, các khoản nợ này cũng phát sinh từ hoạt động kinh doanh như các doanh nghiệp khác nên cách giải quyết quan hệ nợ nần cũng rất cần thiết phải đối xử bình đẳng như các doanh nghiệp mắc nợ khác trên thương trường như doanh nghiệp tư nhân, công ty...
Vì lý do trên tôi mạnh dạn kiến nghị và xin được góp ý: Cần bổ xung trong nghị định 189 /CP thêm các nhân, nhóm kinh doanh cũng là đối tượng được áp dụng luật phá sản khi các cá nhân nhóm kinh doanh lâm vào tình trạng phá sản. Quy định thêm vào Nghị định 189CP như vậy vẫn phù hợp với Điều 1 luật phá sản, đồng thời bảo vệ được lợi ích của các chủ nợ cũng như bản thân chính các cá nhân, nhóm kinh doanh không may bị phá sản.
2. Theo quy định của pháp luật hiện hành: khi giải quyết việc doanh nghiệp bị phá sản, nếu phát hiện doanh nghiệp có hiệu phạm tội thì thẩm phán cung cấp tài liệu cho viện kiểm soát nhân dân cùng cấp xem xét để khởi tố về hình sự (Điều 16 luật phá sản). Khi đó toà án vẫn tiến hành giải quyết việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (ý kiến của toà án nhân dân tối cao trả lời một số toà án địa phương). Tuy nhiên trong quá trình giải quyết đó nếu người có trách nhiệm của doanh nghiệp (chủ doanh nghiệp hay đại diện hợp pháp của doanh nghiệp) bị tạm giam hay bị kết án tù thì vấn đề này sẽ gặp khó khăn trong giải quyết. Vì vậy pháp luật cần phải có quy định cụ thể về vấn đề này để toà án các địa phương có cơ sở pháp lý để vận dụng, giải quyết.
3. Cần phải bổ sung quy định về giải quyết các tranh chấp còn tồn tại giữa các doanh nghiệp với các cá nhân tổ chức khác, các chủ nợ khác khi có đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trong thực tiễn giải quyết phá sản đã nảy sinh một vấn đề là: Khi toà án mở thủ tục giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ đến toà án (trong 60 ngày kể từ ngày đầu tiên đăng báo). Sau đó tổ quản lý tài sản tập hợp danh sách chủ nợ (trong 15 ngày) trong quá trình tập hợp số nợ của doanh nghiệp lại nảy sinh một vấn đề có tranh chấp về số nợ giữa chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ (có thể là đã nảy sinh từ trước chưa giải quyết song hoặc mới nảy sinh). Vậy trong khi tổ quản lý phải lập song danh sách chủ nợ trong thời hạn (60 ngày nói trên) thì tranh chấp này sẽ được xử lý như thế nào?
Theo pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì trong quá trình giải quyết các vụ án kinh tế, nếu đã có toà án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đó là đương sự của vụ án thì toà án ra quyết định đình chỉ vụ án (Điều 39 luật phá sản). Vậy phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp này cho thích hợp để vừa đảm bảo quyền lợi của các bên, vừa đảm bảo được thời hiệu giải quyết các vấn đề khác có liên quan của tổ quản lý tài sản cũng như của thẩm phán trong qúa trình giải quyết vụ việc phá sản.
4. Về kinh phí sử dụng chi cho các hoạt động giải quyết của tổ quản lý tài sản, giám định, hội đồng định giá tổ chức hội nghị chủ nợ, những người tham gia cưỡng chế thi hành quyết, bản án của toà án, chi cho đăng báo...
Hiện nay luật phá sản đã quy định về nguồn để chi cho các hoạt động nói trên là lấy từ giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Tuy nhiên các nguồn đó chỉ được giải quyết ở giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản. Tuy nhiên các nguồn đó chỉ được giải quyết ở giai đoạn thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp (do tổ thanh toán tài sản thực hiện). Bởi vậy, trên thực tế giải quyết đã gặp không ít khó khăn trong vấn đề này. Thời gian qua các toà án địa phương thường tự vận dụng mỗi nơi mỗi khác không theo một trật tự nào. Vì vậy, vấn đề này cũng cần phải được các văn bản pháp luật quy định cụ thể đảm bảo tính thống nhất trong phạm vi cả nước.
Bên cạnh vấn đề trên cũng còn vấn đề nữa là khi các chủ nợ đưa đơn yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì phải nộp một khoản tiền tạm ứng lệ phí phá sản. Toà án xem xét mở thủ tục sau đó các chủ nợ khác (không có đơn) cũng được đưa vào danh sách chủ nợ thì lại không phải nộp tiền tạm ứng lệ phí. Từ vấn đề nêu trên tôi thấy rằng, nên chăng quy định cho các chủ nợ khi giấy đòi nợ đến toà án cũng phải nộp một khoản tiền tạm ứng lệ phí (theo tỷ lệ số nợ) những khoản tiền này thu được sẽ tạm sử dụng cho các hoạt động nói trên để giải quyết vụ việc phá sản.
5. Về quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Theo quy định của luật phá sản doanh nghiệp thẩm phán phải ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp khi xảy ra một trong hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Khi một hội nghị chủ nợ tổ chức không được (do không đủ số lượng chủ nợ đại diện cho phần nợ không có bảo đảm theo quy định của pháp luật).
Trường hợp thứ hai: khi ở giai đoạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp mắc nợ đã hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thực hiện được các thoả thuận tại Hội nghị chủ nợ và các chủ nợ hoặc doanh nghiệp mắc nợ yêu câù đình chỉ.
Trong hai trường hợp trên tôi cho rằng ở trường hợp thứ hai, quyết định đình chỉ là thoả đáng, còn trường hợp thứ nhất vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý vì:
Hội nghị chủ nợ triệu tập lần thứ nhất không được phải hoãn và thẩm phán triệu tập tại lần hai nhưng tại đây các chủ nợ tham dự vẫn không đủ đại diện cho 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm và thẩm phán ra quyết định đình chỉ. Như vậy bằng quyết định này đã trả lại tình trạng độc lập ban đầu cho các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ. Trong khi đó, bản thân doanh nghiệp mắc nợ đã thật sự không còn khả năng thanh toán nợ. Các chủ nợ lại mạnh ai người ấy đòi nợ theo thủ tục riêng. Vậy lại nảy sinh tình trạng có chủ nợ đã nhận được nợ, có chủ nợ lại không nhận được khoản nợ nào hoặc thua thiệt hơn (do doanh nghiệp đã hết tài sản để trả nợ) và bản thân doanh nghiệp lại chịu sức ép bởi các chủ nợ.
Người các vấn đề nêu trên, chúng ta thấy rằng còn nhiều vấn đề khác cần phải được giải quyết như tuyên truyền giải thích pháp luật sâu rộng để các nhà kinh doanh nắm được các quy định của luật kinh tế nói chung và pháp luật phá sản nói riêng, mở các lớp tập huấn cho các thẩm phán để tránh những sai lầm đáng tiếc trong giải quyết việc phá sản doanh nghiệp.
Trên đây là những nhận thức của tôi qua tìm hiểu thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, tôi mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng các bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài lớp để nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ hơn về vấn đề mới mẻ, phức tạp này. Mặt khác hy vọng rằng trong cơ chế thị trường này các doanh nghiệp cũng hoàn toàn yên tâm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, góp phần đẩy mạnh nền kinh tế của nước ta bắt kịp với thương trường của thế giới.
III/ Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và vấn đề xử lý vi phạm:
a. Hậu quả pháp lý quyết định tuyên bố phá sản. doanh nghiệp.
Vấn đề "Nhân - Quả" trong khi giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản cũng được xem xét. Một doanh nghiệp khi làm ăn không có hiệu quả, sản xuất đình trệ, kinh doanh sa sút đó chính là nguyên nhân dẫn đến không trả được các khoản nợ đến hạn rồi bị tuyên bố phá sản. Những trường hợp như thế chúng ta dễ thấy trong con đường phát triển nền kinh tế thị trường mà sự cạnh tranh của các doanh nghiệp với nhau là rất quyết liệt.
Cho nên quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp đó chính là hậu quả của doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, sản xuất đình trệ, kinh doanh sa sút và cũng xem như bản án "tử hình" đối với doanh nghiệp đó. Khi quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp luật, doanh nghiệp phải giao toàn bộ tài sản của mình cho tổ thanh toán tài sản để chi trả cho lệ phí phá sản và trả nợ cho các chủ nợ. Với quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, doanh nghiệp bị xoá tên trong sổ đăng ký kinh doanh nhưng đồng thời doanh nghiệp cũng được giải thoát khỏi các khoản nợ.
Giám đốc, chủ tịch và các thành viên trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản doanh nghiệp không được đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ một đến ba năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Giám đốc, chủ tịch và các thành viên hội đồng quản trị doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản sẽ không bị truất quyền đảm đương các chức vụ đó nếu doanh nghiệp bị phá sản trong ba trường hợp sau đây:
1/ Doanh nghiệp bị phá sản vì lý do bất khả kháng do Chính phủ quy định (tức là doanh nghiệp bị phá sản do thiên tai, địch hoạ, hoả hoạn không do mình gây ra hoặc do ảnh hưởng trực tiếp của việc phá sản doanh nghiệp khác mà chủ doanh nghiệp hoặc người điều hành doanh nghiệp không thể lường trước được hoặc tuy đã biết trước và đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết mà không khắc phục được).
2/ Giám đốc, chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị không được trực tiếp chịu trách nhiệm về lý do doanh nghiệp bị phá sản.
3/ Giám đốc, chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị đã tự nguyện đệ đơn xin tuyên bố phá sản doanh nghiệp đúng pháp luật và đã trả đủ nợ cho các chủ nợ
b.Xử lý vi phạm
Khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì có thể những hành vi "không đẹp" mang tính tư lợi riêng cả người chủ doanh nghiệp hoặc ở cả các chủ nợ. Cho nên pháp luật phá sản doanh nghiệp ra đời đồng thời đặt ra vấn đề xử lý vi phạm đối với những hành vi. Tại Điều 49 luật phá sản doanh nghiệp quy định.
1/ Người nào có những hành vi vi phạm dưới đây tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử phạt hành chính, bồi thường thiệt hại hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật:
- Thực hiện các hành vi bị nghiêm cấm qui định tại Điều 18 của luật phá sản doanh nghiệp hoặc có những hành vi gian trá khác trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp.
- Đe doạ hoặc có hành vi khác để ép buộc doanh nghiệp phải nộp đơn xin tuyên bố phá sản.
- Cố tình làm hư hại hoặc huỷ hoại tài sản của doanh nghiệp.
2/ Thẩm phán, thành viên Tổ quản lý tài sản chấp hành viên, thành viên Tổ thanh toán tài sản trong qúa trình giải quyết việc phá sản doanh nghiệp, nếu có hành vi vi phạm những quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật, thì tuỳ theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0022.doc