Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với nhiều rủi ro tiềm ẩn như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro mất khả năng thanh toán Vì vậy việc đổ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng hoạt động yếu kém là điều khó tránh khỏi. Đối với nền kinh tế, việc xử lý những hậu quả do quá trình kinh doanh không thành công của các tổ chức tín dụng không đơn giản chỉ là tuyên bố phá sản tổ chức này hay tổ chức kia mà trước hết nó làm tổn thương đến niềm tin của dân chúng. Nếu không có những biện pháp thích hợp sẽ còn gây ra những bất ổn khôn lường về kinh tế chính trị, xã hội, gây hoang mang giao động trong dân chúng và tạo ra tâm lý bất lợi cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, bên cạnh sự ổn định về chính trị xã hội thì việc bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển an toàn, lành mạnh luôn là một mục tiêu và là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi quốc gia. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao giữ được lòng tin của dân chúng? làm sao giữ được ổn định cho hoạt động tín dụng?
Nhận thức rõ được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách cũng như ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo ra một môi trường lành mạnh, an toàn cho hoạt động tài chính – tiền tệ. Riêng đối với ngành ngân hàng, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, Chính phủ cũng đã ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh một nghiệp vụ mới ở Việt Nam, đó là nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Qua việc học hỏi kinh nghiệm về mô hình, tổ chức quản lý về bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia trên thế giới, lần đầu tiên tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng chính phủ. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo hiểm trên cơ sở pháp lý là Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, cùng các văn bản hướng dẫn. Trong thời gian qua, cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã thể hiện được nhiều ưu điểm. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang ngày càng có sự liên kết, hội nhập, kinh tế đất nước đang ngày càng phát trển, đời sống nhân dân được nâng cao thì Nghị định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn vẫn còn những điểm cần được sửa đổi bổ sung để hoàn thiện hơn trong thời gian tới. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì riêng đối với ngành ngân hàng, yêu cầu an toàn, phát triển lành mạnh, ổn định lại càng cần phải được đặt ra. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý của hoạt động bảo hiểm tiền gửi mang một ý nghĩa thời sự nóng bỏng. Bởi lý do trên mà tôi quyết định chọn vấn đề “ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hang thương mại "và những đánh giá, nhận xét của tác giả về vấn đề nêu trên.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1614 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI …………………. 3
1. Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi………………………………… 3
2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi ………………………………. 4
3. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi ………………………………. 6
4. Mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi ……………………… 7
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ……………………………………8
1. Trên phương diện về tổ chức mạng lưới và …………………….. 8
2. Trên phương diện cấp và thu hồi giấy chứng ……………………9
3. Về công tác theo dõi, kiểm tra và giám sát việc ………………. 10
4. Trong hoạt động hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG ………… 12
5. Đối với việc thu phí BHTG và quản lý, đầu tư ………………...12
6. Đối với việc chi trả và tham gia thanh lý …………………….. 13
7. Đối với hoạt động thông tin tuyên truyền ……………………..14
8. Đối với việc phát triển công tác ………………………………..14
III. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ………………15
1.Về đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi………………………16
2.Về người được bảo hiểm và khoản tiền gửi ………………….. 18
3. Về mức phí bảo hiểm tiền gửi ……………………………… 20
KẾT LUẬN …... ……………………………………………………… 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………………… 23
BÀI LÀM
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với nhiều rủi ro tiềm ẩn như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro mất khả năng thanh toán… Vì vậy việc đổ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng hoạt động yếu kém là điều khó tránh khỏi. Đối với nền kinh tế, việc xử lý những hậu quả do quá trình kinh doanh không thành công của các tổ chức tín dụng không đơn giản chỉ là tuyên bố phá sản tổ chức này hay tổ chức kia mà trước hết nó làm tổn thương đến niềm tin của dân chúng. Nếu không có những biện pháp thích hợp sẽ còn gây ra những bất ổn khôn lường về kinh tế chính trị, xã hội, gây hoang mang giao động trong dân chúng và tạo ra tâm lý bất lợi cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, bên cạnh sự ổn định về chính trị xã hội thì việc bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển an toàn, lành mạnh luôn là một mục tiêu và là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi quốc gia. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao giữ được lòng tin của dân chúng? làm sao giữ được ổn định cho hoạt động tín dụng?
Nhận thức rõ được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách cũng như ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo ra một môi trường lành mạnh, an toàn cho hoạt động tài chính – tiền tệ. Riêng đối với ngành ngân hàng, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, Chính phủ cũng đã ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh một nghiệp vụ mới ở Việt Nam, đó là nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Qua việc học hỏi kinh nghiệm về mô hình, tổ chức quản lý về bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia trên thế giới, lần đầu tiên tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng chính phủ. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo hiểm trên cơ sở pháp lý là Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, cùng các văn bản hướng dẫn. Trong thời gian qua, cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã thể hiện được nhiều ưu điểm. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang ngày càng có sự liên kết, hội nhập, kinh tế đất nước đang ngày càng phát trển, đời sống nhân dân được nâng cao…thì Nghị định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn vẫn còn những điểm cần được sửa đổi bổ sung để hoàn thiện hơn trong thời gian tới. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì riêng đối với ngành ngân hàng, yêu cầu an toàn, phát triển lành mạnh, ổn định lại càng cần phải được đặt ra. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý của hoạt động bảo hiểm tiền gửi mang một ý nghĩa thời sự nóng bỏng. Bởi lý do trên mà tôi quyết định chọn vấn đề “ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hang thương mại và những đánh giá, nhận xét của tác giả về vấn đề nêu trên.
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. Khái niệm về bảo hiểm tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi ( BHTG ) là một nghiệp vụ bảo hiểm đã xuất hiện từ lâu trên thế giới, đặc biệt là ở các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, khái niệm BHTG còn khá mới mẻ ở nước ta.
Vậy BHTG là gì ? Tại sao lại có BHTG ? Đặc điểm của nó ra sao ? Tầm quan trọng và bản chất pháp lý của nó ? Trước khi làm rõ được vấn đề đó cần thiết phải làm rõ khái niệm tiền gửi - đối tượng của hoạt động bảo hiểm này.
Xét về mặt thuật ngữ, đơn thuần BHTG là một loại hình bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm chính là “tiền gửi”.
Tại khoản 9, Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng ( TCTD) có đưa ra định nghĩa về tiền gửi như sau : “ Tiền gửi là số tiền của khách hang gửi tại TCTD dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không được hưởng lãi và phải hoàn trả cho người gửi tiền”
Như vậy BHTG chính là bảo hiểm cho số tiền mà khách hang đang gửi tiền tại các TCTD và tổ chức khác có hoạt động ngân hang.
Trên phương diện pháp lý thì “ tiền gửi” là quan hệ kinh tế phát sinh giữa một bên tổ chức, cá nhân gửi tiền với bên kia là các tổ chức được phép nhận tiền gửi. Theo đó các bên thoả thuận, bên gửi tiền chuyển giao cho bên kia nhận tiền gửi một số tiền nhất định, bên nhận tiền gửi có trách nhiệm quản lý và được quyền sử dụng số tiền gửi này để cấp tín dụng và làm các dịch vụ ngân hang khác có trách nhiệm hoàn trả một phần hoặc toàn bộ số tiền gửi này cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc khi người gửi tiền yêu cầu. Ngoài ra, các bên còn có thể cam kết thoả thuận việc cung cấp dịch vụ thanh toán hoặc trả lãi cho số tiền gửi đó.
Xét về bản chất, quan hệ gửi tiền là một quan hệ hợp đồng vay nợ. Bởi vì quan hệ này được thiết lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tự do thoả thuận giữa các chủ thể trong quan hệ. Người gửi tiền chuyển giao một lượng tiền cho tổ chức nhận tiền để tổ chức này quản lý, sử dụng và sau đó tổ chức nhận tiền gửi có nghĩa vụ phải hoàn trả cho người gửi tiền khi đến hạn hoặc khi người gửi tiền có yêu cầu.Quan hệ tiền gửi được phát sinh trên cơ sở có sự tín nhiệm giữa các bên.
2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
Tuy quan hệ tiền gửi là quan hệ vay nợ nhưng bên cạnh đó nó cũng có những đặc điểm riêng biệt cụ thể :
Thứ nhất, chủ thể trong quan hệ tiền gửi bao gồm hai loại chủ thể là người gửi tiền và tổ chức nhận tiền gửi.
- Người gửi tiền là các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp trong xã hội có nhu cầu gửi tiền và có tiền để gửi, họ luôn đóng vai trò là chủ thể cho vay.
- Tổ chức nhận tiền gửi là các TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hang được Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi của công chúng.
Thứ hai, về hình thức quan hệ tiền gửi được xác lập giữa các chủ thể theo một cách thức riêng, mang tính kỹ thuật nghiệp vụ chuyên biệt nhằm bảo đảm tính tiện lợi, đơn giản, nhanh chóng mà vẫn đầy đủ các nội dung cần thiết của một hợp đồng vay nợ. Mặc dù các bên xác lập quan hệ tiền gửi không bằng một văn bản hợp đồng cụ thể, đầy đủ, nhưng nội dung cam kết của các bên được ghi nhận trong các văn bản, tài liệu giao dịch do tổ chức nhận tiền gửi cung ứng theo mẫu định sẵn.
Thứ ba, về mục đích : Trong quan hệ tiền gửi các bên đều hưởng việc thu được những lợi ích nhất định cho mình. Tuy nhiên, mục đích cụ thể của mỗi bên có khác nhau, thậm chí trong mỗi loại tiền gửi khác nhau thì mục đích của người gửi tiền cũng khác nhau.
- Đối với tổ chức nhận tiền gửi, mục đích của việc nhận tiền gửi là nhằm huy động vốn để sử dụng cho mục đích kinh doanh của mình là cấp tín dụng, hoặc thực hiện các dịch vụ ngân hang cho khách hang. Chính vì điều này , tổ chức nhận tiền gửi được gọi là trung gian tài chính, hoạt động kinh doanh theo phương thức “đi vay để cho vay”, thực hiện vai trò là cầu nối giữa cung và cầu nối.
- Đối với người gửi tiền thì việc tham gia quan hệ tiền gửi là nhằm mục đích để bảo đảm an toàn cho tiền vốn hoặc để đồng vốn sinh lợi khi chưa có nhu cầu sử dụng hoặc để nhằm vào việc hưởng những dịch vụ tiện ích do tổ chức nhận tiền gửi cung ứng như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền ..
Người gửi tiền có thể hưởng tới một hoặc cả ba mục đích trên. Tuy nhiên, họ vẫn có một mục đích chính, điều đó thể hiện thông qua việc người gửi tiền lựa chọn hình thức gửi tiền hay loại tiền gửi. Chẳng hạn, một cá nhân gửi tiền tiết kiệm không kỳ hạn thì mục đích chính của họ không phải để hưởng lãi hay hưởng dịch vụ thanh toán do ngân hang cung cấp mà mục đích của họ là để bảo đảm an toàn số tiền của mình, khi cần có thể rút được ngay để sử dụng. Nếu họ gửi tiết kiệm có kỳ hạn tương đói dài hạn thì mục đích chính của họ là để hưởng lãi.
3. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi.
BHTG là một hoạt động ra đời như một yêu cầu tất yếu khách quan, đảm bảo lợi ích chung cho toàn xã hội. Người gửi tiền có được sự yên tâm khi tham gia giao dịch với các ngân hang, khi họ biết chắc chắn số tiền số tiền mình gửi sẽ được hoàn trả một khi rủi ro xảy ra dẫn đến đổ vỡ ngân hang. Các tổ chức huy động tiền gửi được đảm bảo an toàn một cách hữu hiệu khi tham gia BHTG, đồng thời huy động được nhiều hơn nữa lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội, qua đó phát huy vị thế của mình trong hoạt động tài chính - tiền tệ nói riêng và trong cả nền kinh tế nói chung, BHTG ra đời còn là một biện pháp quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động ngân hang trong chiến lược ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội. Trên cơ sở các quy định pháp luật Nhà nước xây dựng và triển khai mô hình BHTG để đáp ứng các đòi hởi khách quan của nền kinh tế, một mặt đảm bào an toàn trong hệ thống ngân hang, mặt khác hướng tới một mục tiêu cao hơn, sự ổn định nền kinh tế của cả một quốc gia.
Như vậy, ở góc độ khái quát, có thể hiểu : “ BHTG là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hang, theo đó tất cả các tổ chức có huy động tiền gửi của cá nhân phải tham giá đóng phí bảo hiểm cho tổ chức BHTG theo quy định. Khi xảy ra sự kiện, tổ chức BHTG có trách nhiệm thay cho các tổ chức huy động tiền gửi chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của các cá nhân gửi tiền tại các tổ chức đó.
4. Mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi
Trong thực tế, mục đích cụ thể của mỗi hệ thống BHTG có khác nhau nhưng tựu chung lại đều nhằm đạt được 4 mục tiêu.
Thứ nhất, BHTG bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, đối tượng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận thông tin điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức tài chính.
Thứ hai, BHTG góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính ổn định và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng tránh đổ vỡ ngân hang.
Thứ ba, BHTG góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh và đảm bảo cho các tổ chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau.
Thứ tư, BHTG góp phần đảm bảo cho sự phát triển an toàn, lành mạnh, để từ đó hướng tới một mục tiêu cao hơn duy trì tính ổn định và phát triển kinh tế xã hội quốc gia.
Vai trò nổi bật của BHTG là có tác dụng thúc đẩy sự kết hợp hài hoà giữa nỗ lực nâng cao chất lượng hoạt động ngân hang, hướng tới thu hút được nguồn vốn tối đa tạm thời nhàn rỗi trong cộng động, và sự công tác của các thành viên trong xã hội trên cơ sở các bên cùng có lợi. Như vậy, vai trò của BHTG được thể hiện trong mối quan hệ giữa người gửi tiền, tổ chức huy động tiền gửi và nền kinh tế quốc gia.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Có mặt trên thị trường Tài chính không lâu, tổ chức BHTG ở nước ta được biết đến với tư cách là một tổ chức tài chính thay mặt Chính phủ bảo vệ người gửi tiền và duy trì sự an toàn của các TCTD . Tầm vóc của BHTG cũng lớn lên nhiều, quy mô hoạt động ngày càng được mở rộng với các bước đi và tầm nhìn dài hạn DIV cũng luôn chủ động nghiên cứu triển khai các nghiệp vụ mới trên cơ sở đón đầu các xu hướng tiên tiến và thông lệ quốc tế phù hợp với Việt Nam để có thể đảm nhiệm tốt nhất sứ mệnh của một tổ chức tài chính vì sự ổn định kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập. Hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam đã đi vào cuộc sống với nhiều thành tích đáng kể, song vẫn còn tồn tại những khó khăn hạn chế, cụ thể trên những phương diện sau :
1. Trên phương diện về tổ chức mạng lưới và cơ sở pháp lý cho hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam.
BHTG Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, là định chế tài chính quan trọng và duy nhất trong lĩnh vực BHTG được Chính phủ thành lập, nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, an toàn cho hoạt động ngân hang. Tuy mới đi vào hoạt động không lâu, DIV đã hình thành một mạng lưới các chi nhánh, hoạt động trên phạm vi các nước, với bộ máy tổ chức ngày càng hoàn thiện, gồm trụ sở tài chính tại Hà Nội và 6 chi nhánh tại các khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước : Chi nhánh khu vực Hà Nội - trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh ( tháng 12/2000), Chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ - trụ sở tại Thành phố Hải Phòng ( tháng 12/2001), Chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ - trụ sở tại Thành phố Vinh - Nghệ An ( tháng 09/2002), Chi nhánh đồng bằng song Cửu Long - trụ sở tại Thành phố Cần Thơ ( tháng 06/2001), Chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên - trụ sở tại Thành phố Nha Trang tháng 09/2001. Trên cơ sở chiến lược phát triển của mình, BHTG Việt Nam đang triển khai thực hiện kế hoạch tái cấu trúc bộ máy theo định hướng lấy khách hang làm tâm điểm, quản lý tập trung từ trụ sở chính đến các chi nhánh, tập trung nguồn nhân lực cho các hoạt động nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của BHTG Việt Nam. Năm 2007, BHTG Việt Nam đã hoàn thành tái cấu trúc bộ máy chi nhánh khu vực. Từ tháng 2 năm 2003, DIV trở thành thành viên của Hiệp hội HHTG quốc tế; DIV đã giữ vị trí phó chủ tịch khu vực Châu Á nhiệm kỳ 2006 – 2007; DIV cũng là thành viên Hiệp hội ngân hang Việt Nam, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
Các chi nhánh của BHTG Việt Nam được đặt ở các địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nước, nơi có hoạt động tài chính – ngân hang diễn ra sôi nổi. Với việc mở rộng chi nhánh trên cả nước, BHTG Việt Nam đã thực sự dễ dàng hơn trong việc kiểm tra giám sát hệ thống ngân hang trên phạm vi cả nước, từ đó thực hiện có hiệu quả hơn hoạt động của mình, góp phần đảm bảo sự an toàn cho cả hệ thống tín dụng.
Cơ sở pháp lý cho tổ chức hoạt động BHTG Việt Nam đã bước đầu được hoàn thiện, tuy nhiên văn bản quy phạn pháp luật về BHTG cao nhất đang ở mức Nghi định của Chính phủ, chưa có Luật về BHTG tương xứng với các Luật điều chỉnh hoạt động tài chính - tiền tệ ở nước ta như : Luật ngân hang Nhà nước Việt Nam, Luật của các TCTD.
2. Trên phương diện cấp và thu hồi giấy chứng nhận BHTG cho các tổ chức tham gia BHTG Việt Nam.
Thực hiện cấp giấy chứng nhận BHTG để các tổ chức tham gia BHTG công khai niêm yết tại trụ sở và các điểm giao dịch có nhận tiền gửi của khách hang, giúp khách hang nhận biết được sự đảm bảo quyền lợi của mình và yên tâm gửi tiền tại các TCTD; khẳng định vai trò của BHTG Việt Nam trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính – ngân hang của quốc gia.
Sau một thời gian ngắn, BHTG Việt Nam đã hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận BHTG cho các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đủ điều kiện theo quy định của Luật các TCTD. Đến cuối năm 2006, đã cấp cho 1114 tổ chức nhận tiền gửi. Tuy nhiên, do trong quá trình hoạt động, một số tổ chức tham gia BHTG mất khả năng thanh toán và bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt động, BHTG Việt Nam đã chấm dứt bảo hiểm và tu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm của 120 tổ chức nhận tiền gửi. Cùng với việc cấp giấy chứng nhận cho các tổ chức tham gia BHTG; tháng 11/2006, BHTG Việt Nam đã hoàn thành việc cấp đổi giấy chứng nhận BHTG, phù hợp với quy định tại Nghị định 109/2005/NĐ – CP của Chính phủ và chiến lược phát triển của BHTG Việt Nam trong thời gian tới.
3. Về công tác theo dõi, kiểm tra và giám sát việc chấp hành các quy định của Chính phủ về BHTG đối với các tổ chức tham gia BHTG.
Xuất phát từ mục tiêu hoạt động của tổ chức BHTG là bảo vệ quyền lợi người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn, lành mạnh hoạt động của tổ chức ngân hang. Hoạt động giám sát của BHTG Việt Nam hiện nay được thực hiện thông qua hai hình thức là giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Giám sát từ xa là thông qua các báo cáo của tổ chức tham gia BHTG nộp, các nguồn thông tin mà BHTG Việt Nam có được từ ngân hang nhà nước và các cơ quan giám sát khác để phân tích, đánh giá việc tuân thủ các quy định về BHTG, quy định về an toàn hoạt động ngân sách ; từ đó đưa ra các kién nghị yêu cầu tổ chức tham gia BHTG chỉnh sửa cũng như cảnh báo về rủi ro để tổ chức tham gia BHTG phòng ngừa. Kiểm tra tại chỗ là căn cứ vào kết quả của hoạt động giám sát từ xa để tiến hành kiểm tra nhằm xác định mức độ vi phạm, nguyên nhân của các vi phạm để yêu cầu tổ chức tham gia BHTG chỉnh sửa.
Từ khi thành lập và đi vào hoạt động đến nay, tính đến ngày 31/12/2007 BHTG Việt Nam đã thực hiện giám sát từ xa 100% tổ chức tham gia BHTG; bao gồm 76 ngân hang thương mại, 10 TCTD phi ngân hang, 992 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và quỹ tín dụng nhân dân TW. Cùng với hoạt động giám sát từ xa đã thực hiện nhiều cuộc kiểm tra tại chỗ, trong 8 năm hoạt động, DIV đã thực hiện trên 2000 cuộc kiểm tra tại chỗ đối với các tổ chức tham gia BHTG; trong đó tập trung chủ yếu vào kiểm tra các tổ chức tham gia BHTG là quỹ tín dụng nhân dân cơ cở, các ngân hang thương mại Nhà nước và các ngân hang thương mại cổ phần mới chỉ kiểm tra việc chấp hành quy định về BHTG. Qua đó hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ không chỉ đưa ra những kiến nghị và cảnh báo giúp tổ chức tham gia BHTG chỉnh sửa và phòng ngừa mà còn tư vấn để tổ chức BHTG hoạt động hiệu quả hơn. Những kết quả giám sát, kiểm tra mà BHTG Việt Nam đạt được trong thời gian qua có thể khái quát trên một số mặt sau đây :
- Hoạt động giám sát ngày càng được nâng cao về chất lượng bằng việc áp dụng các chỉ tiêu theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế về phân tích rủi ro. Báo cáo giám sát của DIV đã thực sự giúp cho các cơ quan hữu quan trong việc quản lý rủi ro đối với hoạt động của hệ thống tài chính – ngân hang.
- Đã xây dựng được quy trình giám sát từ xa và hệ thống thông tin khách hang phục vụ cho hoạt động giám sát. Đến nay BHTG Việt Nam đã triển khai việc truyền chỉ tiêu báo cáo điện tử và quy trình thư nhận thông tin báo cáo nội bộ theo quy định về thông tin báo cáo giũa các tổ chức tham gia BHTG và BHTG Việt Nam. Qua đó đã xây dựng hệ thống thông tin khách hang một cách chủ động đảm bảo nguyên tắc bảo mật thông tin, thuận lợi cho khách hang.
- Phương pháp giám sát đã được cải tiến trên cơ sở nghiên cứu các phương pháp giám sát theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, hiện BHTG Việt Nam đang hướng tới thực hiện giám sát rủi ro là chủ yếu để đưa ra các cảnh báo sớm giúp các tổ chức tham gia BHTG có biện pháp phòng ngừa một cách có hiệu quả.
4. Trong hoạt động hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Với mục tiêu góp phần ổn định hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia và hỗ trợ những tổ chức trong trường hợp khó khăn về vốn, thực hiện vai trò của BHTG và phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, từ tháng 08 năm 2005, BHTG Việt Nam đã triển khai nghiệp vụ hỗ trợ tài chính trên địa bàn 3 chi nhánh : BHTG khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Trung Bộ, Đông Bắc Bộ. Kết quả BHTG Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý trên 32 bộ hồ sơ đề nghị vay vốn. Tuy nhiên, chỉ có một đơn vị là quỹ tín dụng Lộc Sơn – Lâm Đồng đủ điều kiện hỗ trợ và đã được BHTG Việt Nam chấp thuận cho vay 3 tỷ đồng.Với định hướng bảo hiểm tích cực, DIV xây dựng phương án mở rộng đối tượng được hỗ trợ tài chính đồng thời vẫn đảm bảo quy định quản lý và sử dụng vốn của Nhà nước.
5. Đối với việc thu phí BHTG và quản lý, đầu tư nguồn vốn.
a) Đối với việc thu phí :
BHTG Việt Nam luôn chú trọng công tác thu phí bảo hiểm đối với tổ chức tham gia BHTG, thường xuyên theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị tính và nộp phí theo quy định của Nhà nước. Số phí BHTG Việt Nam thu được từ các tổ chức tham gia BHTG tăng năm sau so với năm trước ở mức 20% - 25 %/ năm. Tính đến cuối năm 2005, tổng số phí BHTG Việt Nam thu được của 981 đơn vị tham gia BHTG đang hoạt động là 278 tỷ đồng, tăng 85 tỷ đồng so với năm 2004. Nhìn chung, các tổ chức tham gia bảo hiểm chấp hành tương đối tốt quy định về tính và nộp phí. Đối với đơn vị chưa nộp hoặc nộp phí chậm, xác định sai tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm dẫn đến thừa, thiếu phí đã được BHTG Việt Nam nhắc nhở, gửi văn bản yêu cầu đơn vị khắc phục hoặc xử lý theo quy định.
b) Trong việc quản lý và đầu tư nguồn vốn :
BHTG Việt Nam thực hiện quản lý và đầu tư vốn theo đúng quy định của Nhà nước và của BHTG Việt Nam về đối tác, lượng vốn, kỳ hạn đầu tư, đồng thời đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu thanh toán của BHTG Việt Nam. Tổng lượng vốn đầu tư của BHTG Việt Nam đến cuối năm 2005 đạt 1.855,8 tỷ đồng, tăng 265 tỷ đồng so với năm 2004. Tổng vốn đầu tư đến hạn thanh toán trong năm là 1642 tỷ đồng, tổng lãi thu được là 112 tỷ đồng, tăng 13 tỷ đồng so với năm 2004. Số vốn đầu tư của BHTG Việt Nam không ngừng được tăng lên đến 31/12/2007 nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi là 2.903 tỷ đồng đã được đầu tư dưới nhiều hình thức phù hợp, đồng thời nâng cao hiệu quả tích luỹ quỹ nghiệp vụ.
6. Đối với việc chi trả và tham gia thanh lý tài sản của tổ chức nhận tiền gửi.
Khi tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó bị mất khả năng thanh toán, BHTG Việt Nam đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG theo đúng quy định. Tính đến nay, DIV đã thực hiện chi trả tiền gửi bảo hiểm cho 1.519 người gửi tiền tại 37 quỹ tín dụng nhân dân trong phạn vi cả nước với tổng số tiền được chỉ trả gần 19 tỷ đồng, trong đó tại khu vực Đồng bằng song Cửu long là 8 quỹ với số tiền hơn 9 tỷ đồng của 400 người gửi tiền. Và gần đây nhất phải kể đến việc BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi cho người gửi tiền tại Quỹ tín dụng nhân dân An Thành - Quảng Ngãi với số tiền là 705.497.200 đồng.Và Quỹ tín dụng nhân dân Vĩnh Phong – Kiên Giang với số tiền chi trả bảo hiểm cả gốc và lãi là 372.333.400 đồng cho 10 khách hang gửi tiền.
7. Đối với hoạt động thông tin tuyên truyền
BHTG là lĩnh vực hoạt động còn mới mẻ vì vậy công tác thông tin tuyên truyền có vị trí rất quan trọng. Hoạt động thông tin tuyên truyền ngày càng phong phú và đa dạng cả về nội dụng và hình thức phù hợp với các đối tượng, đặc biệt là người gửi tiền. Để đưa hoạt động của BHTG đi vào cuộc sống, nhằm mục tiêu bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền, BHVN đã xây dựng một mạng lưới cộng tác viên trong các nhóm truyền thông cơ bản : Đài truyền hình TW, Đài tiếng nói Việt Nam, các báo có đông đảo bạn đọc lien quan đến hoạt động tài chính, ngân hang, chứng khoán, các báo điện tử thực hiện tuyên truyền các chủ trương, chính sách về BHTG định kỳ hang tháng với nhiều hình thức tuyên truyền : tổ chức phát tờ rơi giới thiệu về BHTG và giới thiệu về quyền lợi của người gửi tiền, xây dựng nhiều phóng sự, tổ chức họp báo nhằm tuyên truyền chủ trương chính sách mới về BHTG.
8. Đối với việc phát triển công tác đối ngoại và công tác quốc tế
BHTG là một hoạt động mới mẻ ở Việt Nam do đó học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này là đặc biệt quan trọng. Sau một thời gian hoạt động, BHTG Việt Nam đã thực hiện tốt quy định của pháp luật về BHTG, hoạt động theo đúng mô hình và các tiêu chí cơ bản như các nước tiên tiến khác đã làm trong lĩnh vực BHTG. Do vậy, sau khi nghiên cứu tình hình hoạt động của BHTG Việt Nam, hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) đã chính thức công nhận và kết nạp BHTG Việt Nam là thành viên của Hiệp hội BHTG quốc tế vào tháng 02 năm 2003, Phó Chủ Tịch khu vực Châu Á nhiệm kỳ 2006- 2007. Tại diễn đàn này là cơ hội quan trọng để Việt Nam cũng với các nước thành viên khác chịa sẻ những kết quả và kinh nghiệm trong lĩnh vực BHTG nhằm đóng góp vào sự ổn định của hệ thống ngân hang và hệ thống tài chính nói chung.
Ngoài ra BHTG Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội tin học Hà Nội, Hiệp hội ngân hang Việt Nam, hội viên của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, hội viên nghề nghiệp của Hiệp hội ngân hang Châu Á. BHTG Việt Nam đã chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế như : Ngân hang phát triển Châu Á ( ADB ), ngân hàng Thế giới (WB ) về các hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trỡ tài chính mang tính chất dài hạn
III. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Hiện nay, các qui định về bảo hiểm tiền gửi được ghi nhận chủ yếu tại Nghị định số 89/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi, Nghị định của Chính phủ số 109/2005/NĐ – CP ngày 24/8/2005 sửa đổi bổ sung một số điều Nghị định số 89/1999/NĐ- CP … Nội dung của các văn bản này cho thấy chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đang được xây dựng theo hướng phù hợp với điều kiện Việt Nam vừa đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu hội nhập trong lĩnh vực ngân hang. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định trên trong quá trình hoạt động của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã bộc lộ một số vấn đề pháp lí, đòi hỏi cần được xem xét, đánh giá hoàn thiện.
Trong phần II đã trình bày khá chi tiết về thực tiễn áp dụng về pháp luật bảo hiểm tiền gửi, cho nên trong phần này chỉ đánh giá một số vấn đề chính, cụ thể là :
1.Về đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi
Điều 2 Nghị định của chính phủ số 89/1999/NĐ – CP ngày 1/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi và điều 1 nghị định của chính phủ số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 quy định “Các TCTD và tổ chức không phải là TCTD được phép ….” tham gia BHTG bắt buộc” Quy định này phần nào cho thấy phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi là khá rộng. Mỗi TCTD, không phân biệt TCTD là ngân hàng hay TCTD phi ngân hàng, TCTD trong nước hay TCTD có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các TC không phải là TCTD có nhận tiền gửi đều trở thành đối tượng tham gia BHTD. Trên thực tế, đa số những quốc gia có hệ thống bảo hiểm tiền gửi đều quy định các TCTD và các tổ chức có huy động tiền gửi tự nguyện của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc. Có thể thấy quy định của pháp luật ở VN đã tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện sự bình đẳng trong nghĩa vụ bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền ở những tổ chức có nhận tiền gửi. Là nghĩa vụ bắt buộc. Có thể thấy quy định của pháp luật Việt Nam đã tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện sự bình đẳng trong nghĩa vụ đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền ở những tổ chức có nhận tiền gửi. Là nghĩa vụ bắt buộc nên về mặt nguyên tắc không 1 tổ chức nào có nhận tiền gửi của cá nhân mà không phải tham gia BHTG. Tuy nhiên, hiện nay đối tượng tham gia BHTG chủ yếu là các ngân hàng, công ty, tổ chức, các quỹ tín dụng nhân dân, do vậy cơ quan BHTG cũng chỉ thực hiện việc chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức này. Trong khi đó, 1 số tổ chức có thể thực hiện hoạt động huy động vốn rộng rãi bằng nhận tiền gửi song pháp luật lại không quy định nghĩa vụ tham gia BHTG(Như tiết kiệm bưu điện, ngân hàng chính sách xã hội,...) và người gửi tiền tại các tổ chức này sẽ không được đảm bảo quyền lợi 1 cách bình đẳng như các tổ chức, cá nhân gửi tiền tại các tổ chức phải tham gia BHTG. Mặc dù việc sử dụng nguồn vốn huy động bằng nhận tiền gửi tại các tổ chức không phải tham gia BHTG chủ yếu không nhằm mục đích kinh doanh nhưng điều này không đồng nghĩa với việc hoạt động của các tổ chức đó sẽ không có rủi ro xảy ra. Nên chăng cần cân nhắc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi tới tất cả các tổ chức có nhận tiền gửi bằng Việt Nam đồng của tổ chức, cá nhân để vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời tránh được những mâu thuẫn trong quy định của pháp luật về BHTG
Những rủi ro đạo đức, tránh tình trạng 1 số đối tượng có vai trò trực tiếp hoặc gián tiếp trong việc quản lý điều hành tổ chức tham gia BHTG lạm dụng quy định về BHTG dẫn tới những rủi ro cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Mặc dù vậy, việc xác định loại bảo hiểm tiền gửi nào được bảo hiểm còn chưa cụ thể. Trước đây thông tư của NHNN số 03/2000/TT-NHNN ngày 16/3/2000 hướng dẫn thi hành nghị định số 89/1999/NĐ – CP quy định rõ loại tiền gửi được bảo hiểm (Là tiền gửi của cá nhân- đồng Việt Nam bao gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, bao gồm cả tiền gửi trên tài khoản cá nhân, tiền mua các chứng chỉ tiền gửi và các trái phiếu ghi danh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phát hành. Song thông tư số 03/2006/TT-NHNN ngày 25/4/2006 thay thế thông tư 03/2000/TT-NHNN lại không đề cập rõ vấn đề này. Trong khi đó, xét về khía cạnh đảm bảo quyền lợi của người gủi tiền, việc xác định rõ loại tiền gửi nào được bảo hiểm là rất quan trọng vì sẽ giúp người gủi tiền có thể tự nhận biết 1 cách chính xác loại tiền gửi, hình thức gửi tiền của mình có được bảo hiểm không. Hầu hết các quốc gia đều quy định cụ thể loại tiền gửi nào được bảo hiểm và loại tiền gửi nào không được bảo hiểm được thực hiện mục tiêu chính của bảo hiểm tiền gửi. Về nguyên tắc, xác định loại tiền gửi được bảo hiểm cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng ở mỗi quốc gia và cần nhất quán với quy định về tiền gửi được quy định tại luật các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, hiện nay, khái niệm tiền gửi quy định tại khoản 9 điều 20 luật các tổ chức tín dụng là “số tiền của...... hình thức khác” trong khi đó, loại tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi không chỉ giới hạn ở loại tiền gửi tại cá tổ chức không phải là tổ chức tín dụng mà còn bao gồm tiền gửi tại các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng.
2. Về người được bảo hiểm và khoản tiền gửi được bảo hiểm
Theo qui định tại Điều 3 Nghị định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ – CP thì “tiền gửi” được bảo hiểm là đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Sự không rõ ràng của qui định trên đã dẫn tới những cách hiểu và cách áp dụng không thống nhất về khoản tiền gửi được bảo hiểm cũng như những đối tượng nào được coi là “cá nhân gửi tiền” tại các tổ chức tín dụng, làm nảy sinh những ý kiến về việc nên hiểu “cá nhân ở đây với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hay là “cá nhân” trong mối quan hệ sở hữu tài sản.
Áp dụng Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ – CP, các tổ chức tín dụng thường xử lí vấn đề này theo cách liệu phạn trù “cá nhân” tách bạch với phạm trù “tổ chức” và do vậy, khoản tiền gửi doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, tổ hợp tác không được coi là tiền gửi của cá nhân và không được bảo hiểm. Từ đó đã phát sinh thực tế là người đại diện các tổ chức trên đã gửi tiền với danh nghĩa cá nhân để được bảo hiểm tiền gửi.
Để đảm bảo việc áp dụng thống nhất khi các tổ chức tín dụng và các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng nhận tiền gửi của khách hang, Nghị định của Chính phủ số 89/1999/ NĐ – CP đã sửa đổi qui định tại Nghị định của Chính phủ số 89/ 1999/NĐ – CP bằng việc qui định rõ tại khoản 2 Điều 1 “ Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình”.
Như vậy, khi qui định rõ nội hàm khái niệm “người gửi tiền” nhà làm luật đã giải quyết được khúc mắc xoay quanh khái niệm “cá nhân gửi tiền” tại Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ-CP và mở rộng hơn phạm vi người gửi tiền được bảo hiểm. Tuy nhiên, tiêu chí cụ thể để gửi tiền gửi của những người gửi tiền” trên được bảo hiểm còn chưa rõ rang.Nếu tiền gửi của tổ chức là công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân ( DNTN ), được bảo hiểm thì số tiền gửi của các tổ chức khác như công ty TNHH, công ty Cổ Phần… có nằm trong phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm tiền gửi hay không? Mặt khác, nếu coi khoản tiền gửi được bảo hiểm chỉ bao gồm tiền gửi của cá nhân và các tổ chức không có tư cách pháp nhân thì sẽ lý giải thế nào về “người gửi tiền”là cty hợp danh- đối tượng mà theo qui định của Luật Doanh nghiệp là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Với qui định hiện tại, dường như nhà làm luật đang sử dụng tiêu chí sở hữu để xác định loại tiền gửi được bảo hiểm, theo đó, tiền gửi của công ty hợp danh, DNTN thường được hạch toán vào tài khoản tiền gửi của cá nhân (thành viên hợp danh, chủ DNTN ) và nằm trong diện tiền gửi được bảo hiểm, tương tự như tiền gửi của cá nhân, hộ gia đình. Tuy nhiên một khi đã mở rộng diện “người gửi tiền” được bảo hiểm bao gồm cả tổ hợp tác, DNTN, công ty hợp danh thì trong tương lai cũng cần cân nhắc tới việc chấp nhận bảo hiểm cho tiền gửi của các loại hình doanh nghiệp khác, điều này vừa đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi của các tổ chức, cá nhân gửi tiền, tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đồng thời sẽ phù hợp với vai trò của bảo hiểm tiền gửi - một thiết chế vừa bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền vừa góp phần phòng ngừa rủi ro, duy trì sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hang.
Về loại tiền gửi được bảo hiểm, Nghị định của Chính phủ số 109/2005/NĐ – CP đã bổ sung thêm một số trường hợp tiền gửi không được bảo hiểm so với Nghị định của Chính phủ số 89/199/NĐ – CP. Quy định này, theo thông lệ quốc tế nhằm phòng ngừa những rủi ro đạo đức, tránh tình trạng một số đối tượng có vai trò ( trực tiếp hoặc gián tiếp) trong việc quản lí, điều hành tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lạm dụng quy định về bảo hiểm tiền gửi dẫn tới những rủi ro cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi .
3. Về mức phí bảo hiểm tiền gửi
Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ phải nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để được bảo hiểm tiền gửi cho khách hang tại phần lớn các quốc gia có hệ thống bảo hiểm tiền gửi, phí bảo hiểm tiền gửi là nguồn tài chính quan trọng để đảm bao cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi thực hiện hoạt động của mình. Tỉ lệ phí bảo hiểm có thể được áp dụng theo hai loại là đồng hạng hoặc không đồng hạng. Một quốc gia khi xây dựng và áp dụng chính sách bảo hiểm tiền gửi thường căn cứ vào mức độ phát triển của hệ thống ngân hang, sự minh bạch của thị trường tài chính, tiền tệ …để quyết định áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng hay không đồng hạng. Thông thường, xây dựng phí bảo hiểm tiền gửi phải đáp ứng một số yêu cầu như :
- Phí bảo hiểm tiền gửi được thu từ các tổ chức có hoạt động kinh doanh ngân hang nhằm đáp ứng chi phí trả tiền bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi giải thể, phá sản;
- Khuyến khích việc huy động tiền gửi tại tổ chức tín dụng;
- Cân đối giữa trách nhiệm đóng góp tài chính và quyền lợi mà tổ chức tham gia bảo hiểm nhận được;
- Tiện lợi, khả thi và giảm thiểu những tổn hại cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi thực hiện nghĩa vụ đống góp tài chính này.
Tuy nhiên, việc áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi đồng hạng chỉ phù hợp khi hoạt động ngân hàngcòn chưa thật sự phát triển và khoảng cách về rủi ro trong kinh doanh của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là không lớn. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, hệ thống ngân hang phát triển mạnh, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng và sự phát triển các hoạt động ngân hang cho thấy rõ khác biệt về năng lực tài chính và mức độ rủi ro của các tổ chức này, do vậy, mức phí bảo hiểm tiền gửi phải thể hiện rõ sự chênh lệch dựa trên mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tăng cường năng lực quản trị rủi ro để được hưởng mức phí bảo hiểm tiền gửi thấp; tăng cường sự ổn định, an toàn tài chính cũng như tránh được những rủi ro đạo đức.
KẾT LUẬN
Sau gần 11 năm đi vào hoạt động, mặc dù vẫn còn thiếu sót nhưng bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã khẳng định vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngành ngân hang nói riêng. BHTG Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định phát triển lành mạnh của các TCTD. Hơn thế nữa nghiệp vụ BHTG cũng đã bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đó là minh chứng khẳng định vị trí, vai trò sự cần thiết của một biện pháp bảo đảm quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và mạng lưới an toàn tài chính quốc gia nói chung và mạng lưới an toàn tài chính quốc gia nói riêng. Với các chi nhánh được thành lập ở các vùng trong cả nước, BHTG Việt Nam đã thể hiện tốt vai trò và mục đích của mình.
Theo dự báo, thị trường tài chính thế giới năm 2009 tiếp tục diễn biến xấu đi và gia tăng mức độ ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam, hệ thống tài chính tiếp tực phải đối mặt với những khó khăn trầm trọng hơn. Với vai trò và trách nhiệm là tổ chức tài chính Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ ngưòi gửi tiền, giữ vững niềm tin của công chúng góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính – ngân hang, BHTG Việt Nam cần thực hiện tốt nhiệm vụ, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính – ngân hang trên cơ sở xây dựng nền tảng cơ chế chính sách tốt, năng lực tài chính đủ mạnh và một bộ máy hoạt độnghiệu quả. Đó cũmg là nhiệm vụ quan trọng đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đưa Việt Nam hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân hang Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.
2. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật ngân hang Việt Nam, Hà Nội, 2007.
3. Luật Ngân hang Nhà nước Việt Nam số 06/1997/QHX đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003.
4. Luật Các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004.
5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 112/2006/QĐ – TTg ngày 24 tháng 5 năm 2006 về việc phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hang Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2010.
6. Phạm Nguyệt Thảo, Một số vấn đề pháp lí về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, Tạo chí Luật học, số 12/2007.
7. Nguyễn thị Thuỳ Linh, Chế độ BHTG ở Việt Nam thực trạng và hướng hoàn thiện, Khoá luận tốt nghiệp, Hà Nội 2009.
8. - Google.com.vn
- Choluanvan.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai tap hoc ki ngan hang.doc