Đề tài Tìm hiểu thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ hiện nay

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, đời sống của người dân hầu khắp các quốc gia đã được nâng lên rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó đói nghèo vẫn là vấn đề xã hội bức xúc của các quốc gia trên thế giới. Số liệu điều tra cho thấy mỗi ngày trên thế giới có đến 35000 trẻ em phải chết vì những căn bệnh có thể chữa khỏi bằng các phương pháp dinh dưỡng và sự chăm sóc y tế sơ đẳng nhất. Các quốc gia phát triển, giàu có cũng không tránh khỏi điều đó. Liên minh châu âu (EU) có 12% số hộ sống dưới mức nghèo. Tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ những năm 80 của thế kỷ 20 đã có thêm 4 triệu trẻ em rơi vào cảnh bần hàn. Nhưng nạn nghèo đói đặc biệt nghiêm trọng ở các quốc gia đang phát triển. Việt Nam cũng nằm trong bối cảnh như vậy. Trên thực tế, từ sau đại hội đại biểu lần thứ VI (T12/1986) toàn Đảng, toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới và đã đạt được thành tựu đáng kể. Cũng chính sự thay đổi đó đã khiến nhiều người Việt Nam có thể cải thiện được cuộc sống của mình hay bắt đầu sự cải thiện đó. Các cá nhân, hộ gia đình và các tổ chức kinh tế, xã hội cũng như các công ty ngày càng kiểm soát được nguồn lực phát triển. Song song với điều đó là sự có mặt ngày càng tăng của các loại hàng hóa dịch vụ. Tuy vậy ở nước ta vẫn tồn tại những yếu kém nhất định về kinh tế xã hội: một số nhóm lại không ở vị thế tốt để có thể tận dụng được các thị trường và kiểm soát nguồn lực. Sự thay đổi của nền kinh tế đã gây nên sự chênh lệch ngày càng lớn giữa các giai tầng xã hội. Vì vậy trong xã hội xuất hiện sự chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo. Nhóm giàu tập chung chủ yếu ở đô thị. Nhóm nghèo tập chung chủ yếu ở nông thôn, trung du, miền núi. Hiện nay ở Việt Nam mức nghèo vẫn chiếm tỷ lệ cao. Theo báo cáo về tình hình phát triển quốc tế của ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam vẫn đứng thứ 19 kể từ nước nghèo nhất (1999). Qua nguồn số liệu điều tra mức sống dân cư ở Việt Nam các năm 1993 và 1998, WB đã xác định ngưỡng nghèo chung theo mức chi tiêu tối thiểu 96.700đ (1993) và 149.156đ (1998) 1người/tháng. Theo cách tính này thì Việt Nam năm 1993 có58,1% và 1998 vẫn còn 37,4% dân cư nghèo đói. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với một số nước lân cận như Trung Quốc (10%), Inđônêxia (15%), Philipin (21%), Thái lan (16%). Ở Việt Nam, trong những năm gần đây Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc xóa đói giảm nghèo. Trong 10 năm qua, hầu như 1/3 tổng dân số đã thoát khỏi cảnh nghèo đói. Vậy thì để tiến tới xóa bỏ dần vấn đề này phải cần nhìn nhận thực trạng của nó đúng về bản chất và xem xét nó trong bối cảnh mới. Như Vivien Wee- Giám đốc chương trình Engender và Neoleen Heyer. Giám đốc Quỹ phát triển phụ nữ của Liên Hiệp Quốc đã viết: “Chúng ta không thể giải quyết nạn nghèo đói mà không hiểu các quá trình đã làm cho người nghèo thành nghèo và người giàu thành giàu”. Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi, ở đây không có điều kiện phát triển du dịch, thông thương buôn bán. Do điều kiện địa hình điều kiện kinh tế chưa được phát triển. Diện tích đất trống đồi núi trọc nhiều, diện tích đất quảng canh không cao. Người dân sống bằng nông nghiệp chủ yếu với phương thức tự cung tự cấp. Do vậy ở tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao. Nhiều vùng xa xôi hẻo lánh, sống xa rời đô thị, có nhiều xã sống trong cảnh nghèo. Thái Ninh là một xã như vậy. Mặc dù trong những năm gần đây, chính quyền xã đã có nhiều biện pháp và phương thức trong việc xóa đói giảm nghèo nhưng tình trạng nghèo vẫn là vấn đề bức xúc. Tất cả những vấn đề trên đã gợi nên trong tôi ý tưởng nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ hiện nay” 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 2.1.Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ hệ thống lý thuyết của xã hội học đại cương như bất bình đẳng xã hội, cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, biến đổi xã hội và các chuyên ngành xã hội học: Xã hội học kinh tế như lý thuyết tăng trưởng kinh tế, lý thuyết về phân hóa giàu nghèo. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp ta hiểu rõ thực trạng nghèo của một xã trung du miền núi. Từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về thực trạng nghèo chung của cả nước. Đề tài cũng góp phần nhỏ bé trong việc giúp nhà nước đưa ra những chính sách đưa đến những người dân ở vùng trung du miền núi. Từ đó chính quyền địa phương thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo của tốt hơn. Đề tài cũng giúp người dân hiểu rõ hơn về thực trạng của mình để họ có thể phát triển kinh tế gia đình, thoát khỏi cảnh nghèo 3. Mục tiêu nghiên cứu - Tìm hiểu thực trạng nghèo đói nghèo của xã Thái Ninh huyện thanh ba tỉnh Phú Thọ - Phân tích những nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình nghèo đói của xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ Xu hướng đề xuất và đề xuất những khuyến nghị mang tính khả thi 4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ 4.2. Khách thể nghiên cứu: Hộ gia đình xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ 4.3. Phạm vi nghiên cứu: Xã Thái Ninh huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi Tổng số bảng hỏi được phát ra là 100 bản và thu về đủ 100 bản. Bảng hỏi đề cập đến vấn đề thu nhập, chi tiêu của các hộ gia đình, các ngành nghề, trình độ học vấn và các điều kiện sinh hoạt, các phương tiện sinh hoạt trong các hộ gia đình. Ngoài ra bảng hỏi còn đề cập đến nguyên nhân của thực trạng nghèo đói, đánh giá của người dân về mức sống và kinh tế của mỗi hộ gia đình. Quá trình điều tra bằng bảng hỏi được tiến hành như sau: Trước tiên việc chọn mẫu căn cứ vào cơ cấu nghề nghiệp chính trên địa bàn, người trả lời chủ yếu là những đối tượng có khả năng đánh giá về dời sống vật chất cũng như tinh thần của gia đình. Trong quá trình phỏng vấn hầu hết các câu hỏi và câu trả lời được đưa ra một cách khách quan rõ ràng, sau đó ghi chép chính xác phương án lựa chọn của người trả lời. Vì vậy, phần lớn kết quả thu được từ bảng hỏi là ý kiến đánh giá thực tế của người dân địa phương. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu tại địa bàn, bên cạnh sự giúp đỡ của bà con nhân dân và chính quyền địa phương thì tôi vẫn gặp một số khó khăn sau: Một số người dân ngại trả lời các câu hỏi vì họ sợ liên lụy, ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân. Đồng thời về một số mặt thì do tâm lý người dân ngại nêu điều kiện khó khăn, họ lại trả lời khiêm tốn ở một số câu hỏi về đời sống, mức thu nhập Và một khó khăn khác là có một số câu hỏi không phù hợp với thực tế tại địa bàn. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 3. Mục tiêu nghiên cứu 4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Giả thuyết 7. Khung lý thuyết CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. Cơ sở lý luận 1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 1.3. Một số khái niệm liên quan CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Vài nét về địa bàn nghiên cứu 2.2. Thực trạng nghèo đói 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói của người dân 2.4. Xu hướng KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

doc48 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2391 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng nghèo đói của người dân xã Thái Ninh huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành nguồn nguyên liệu giấy, cây công nghiệp và chăn nuôi. Mặc dù mới tái lập, song kinh tế Phú Thọ thời gian qua đã có mức tăng trưởng khá. Thu nhập quốc nội tăng bình quân giai đoạn 2000-2004 đạt 9,5%. Giá trị nông nghiệp có nhịp độ tăng trưởng khoảng 4,2%/ năm. An ninh lương thực được đảm bảo. Diện tích cây ăn quả, trồng rừng, chăn nuôi gia súc, gia cầm đều có bước phát triển. Các ngành dịch vụ luôn vượt kế hoạch đề ra so với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn khoảng 12,5%. Hoạt động thương mại, tài chính, ngân hàng và các ngành dịch vụ khác đều đảm bảo và có bước nhảy vọt nhanh chóng. Cơ cấu kinh tế của Phú Thọ đang chuyển dịch đúng hướng, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn để đạt tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000-2004 là 20%/ năm. . Các thành phần kinh tế được khuyến khích, tạo điều kiện để sản xuất kinh doanh. Đặc biệt sau hơn 7 năm tái lập, Phú Thọ đã thu hút được hàng trăm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào hoạt động trên địa bàn tỉnh. Phú Thọ cũng chủ trương đẩy mạnh hợp tác với các nước trong khu vực và châu Á, ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư và tạo môi trường thông thoáng để thu hút đầu tư. Nếu như năm 1997 - năm đầu chia tách tỉnh, tỷ lệ hộ đói nghèo toàn tỉnh chiếm 17,4% thì đến năm 2004 chỉ còn 7,2%. Đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận dân cư được cải thiện đáng kể. Các chương trình văn hóa - xã hội như giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao, dân số - kế hoạch hóa gia đình được tích cực triển khai. Tỉnh đã đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng khu vực đô thị, nâng cấp một số tuyến đường giao thông, hệ thống điện và cấp thoát nước, mạng lưới thông tin liên lạc được đầu tư hiện đại, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Tuy nhiên, cho đến này Phú Thọ vẫn là một tỉnh nghèo. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn khó khăn, trình độ kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế. Mặt khác Phú Thọ có điểm xuất phát thấp, các tiềm năng chưa phát huy hết, Như vậy năm 2005 và những năm tiếp theo Đảng bộ , chính quyền nhân dân Phú Thọ sẽ phải nỗ lực nhiều hơn nữa. Từ nay đến năm 2010, Phú Thọ cần khoảng 23000 tỷ đồng vốn đầu tư, trong đó dự kiến thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước chiếm khoảng 60%. Chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn 2006-2010 là đẩy mạnh hợp tác kinh tế, xúc tiến đầu tư. Đồng thời lựa chọn những nhiệm vụ mới. Vấn đề nghèo đang được tỉnh quan tâm đầu tư và có nhiều chính sách, tuy vậy ở một số huyện thì tỷ lệ nghèo vẫn còn cao. Việc giải quyết vấn đề nghèo trong từng tỉnh là nhân tố quyết định sự thành công những kế hoạch đặt ra. Để Phú Thọ: “ Hướng tới một trung tâm vùng cấp quốc gia. Thái Ninh là một xã miền núi của huyện Thanh Ba thuộc tỉnh Phú Thọ. Về vị trí địa lý: Phía đông giáp xã Năng Yên - Quảng Nạp. Phía bắc giáp xã Đông Lĩnh, Đại An. Phía tây giáp thị trấn Thanh Ba. Phía nam giáp xã Ninh dân. Về giao thông: Có trạm đường tỉnh lộ 2 với thị trấn của huyện, tuyến đường này mới được nâng cấp 2004, sự thay đổi về chất lượng của tuyến quốc lộ này tạo điều kiện phát triển kinh tế của toàn huyện nói chung và xã Thái Ninh nói chung. Các ngành dịch vụ buôn bán phát triển, các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp có điều kiện lưu thông thuận lợi sản phẩm hàng hóa. Nhìn chung, ở huyện Thanh Ba dân cư của 12/26 xã, thị trấn sống nhờ cây chè, với tổng diện tích 2000 ha và sản lượng hàng năm có thể lên tới hàng triệu tấn. Xã Thái Ninh là nơi có diện tích trồng chè và sản lượng thu hoạch sản phẩm chè lớn cho toàn huyện. Diện tích tự nhiên của xã có 737 ha. Trong đó đất để sản xuất nông nghiệp là 308 ha. Diện tích đất lúa: 88ha. Dân số : 2.451 khẩu có 630 hộ. Người dân ở đây sống chủ yếu bằng nông nghiệp chiếm 96%. Các ngành nghề chậm phát triển, xã Thái Ninh không có nơi trao đổi buôn bán ( chợ) , ở xã không có nghề truyền thống, mức sống bình quan thấp so với huyện, bình quân thu nhập năm 2005 là 4,21 triệu đồng/ năm. Đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, theo tiêu chuẩn xác định nghèo mới nhất ( 2004) là dưới 200 ngàn đồng/ tháng thì vẫn còn 157 hộ chiếm 26,5 %. 2.2. Thực trạng nghèo đói Phú Thọ vẫn là một tỉnh nghèo so với cả nước. Tỉ lệ hộ nghèo năm 2005 là 5%. Trong đó xã Thái Ninh có tỷ lệ hộ nghèo là 26,5%. Sau đây chúng ta đi vào nghiên cứu tình hình nghèo đói của các hộ gia đình trên cơ sở thu nhập, chi tiêu, điều kiện sinh hoạt để thấy rõ hơn mức độ nghèo đói của các hộ gia đình. 2.2.1. Thu nhập Các số liệu đo lường nghèo đói ở Việt Nam cho thấy một xu hướng tích cực là tỉ lệ số hộ sống dưới mức nghèo liên tục giảm trong suốt thời gian qua, kể từ khi chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống. Tỷ lệ nghèo trong bối cảnh mới đã khác trước. Trung du miền núi cũng vậy, để thấy rõ được thực trạng nghèo hiện nay chúng ta xem xét trước tiên về thu nhập của các hộ gia đình.Qua điều tra, ta có bảng tần suất về thu nhập của các hộ gia đình. Với đơn vị tính là trđ/hộ/ năm. Biểu đồ 1: Thu nhập của các hộ gia đình Nhìn vào biểu đồ ta thấy số hộ có mức thu nhập từ 5-10 triệu/năm ,và số hộ có mức thu nhập 1-5 triệu/ năm chiếm tỷ lệ cao nhất (37%). Số hộ có mức thu nhập 10-15 chiếm tỷ lệ thấp hơn . Từ đó ta có thể thấy sự chênh lệch giữa các mức thu số hộ có thu nhập 10-15 triệu chiếm tỷ lệ thấp nhất(21%), những hộ có mức thu 5-10 triệu chiếm tỷ lệ cao(37%). Như vậy có thể thấy những hộ chiếm tỷ lệ ít đó là những hộ gia đình có mức thu nhập cao và những hộ gia đình chiếm tỷ lệ cao là những hộ có thu nhập thấp. Trong toàn xã, người dân ở đây sống chủ yếu bằng nông nghiệp, cuộc sống của họ chỉ dựa vào trồng lúa, trồng hoa màu nên mức thu nhập hàng năm của họ không cao. Nếu tính theo tháng thì có thể thấy thu nhập của họ rất thấp. Trong các hộ có mức thu nhập từ 5 triệu thì bình quân theo tháng của họ là 416 nghìn/ tháng. Để chi tiêu cho cuộc sống hàng ngày với một số tiền như thế không thể đáp ứng hết nhu cầu của họ. Qua bảng tần suất trên còn có những hộ thu nhập rất thấp từ 1-5 triệu, có những gia đình mỗi năm chỉ có 1,2 triệu như vậy là mỗi tháng các hộ đó có khoảng 100 nghìn đồng một tháng. Một mức thu nhập có thể nói là quá thấp cho chi tiêu tối thiểu trong cuộc sống. Khi phỏng vấn một người dân về thu nhập của họ: “Chị cũng chả biết nữa nhưng mỗi năm 2 vụ, trừ hoa màu đi có khoảng 1 triệu cho 2 vụ cấy. Mà vụ mùa được nhiều hơn, mỗi lần bán thóc được 600, vụ chiêm khoảng 500”. Nữ 30 tuổi, làm ruộng Như vậy là tính theo tháng khi quy đổi ra tiền chỉ có 100 nghìn gia đình ấy phải lo các khoản khác và lương thực cũng rất khó khăn. Đó là chưa kể mất mùa do thiên tai, dịch bệnh. Nếu so sánh với mức nghèo tối thiểu bình quân đầu người một tháng theo cách tính năm 2004 là 200nghìn đồng/ người một tháng thì những hộ gia đình trên thuộc vào diện nghèo đói. Hiện nay cùng với sự phát triển của cả nước thì kinh tế toàn tỉnh Phú Thọ đã phát triển hơn trước, kéo theo đó nền kinh tế xã Thái Ninh cũng dần thay đổi. Tỷ lệ hộ nghèo cũng giảm đi đáng kể. Trong bối cảnh chung của cả nước các số liệu đo lường nghèo đói ở Việt Nam cho thấy, một xu hướng tích cực là tỉ lệ số hộ sống dưới mức nghèo liên tục giảm trong suốt thời gian qua, kể từ khi có chính sách của Đảng và Nhà nước .Các tiêu chuẩn nghèo đói liên tục được thay đổi cho phù hợp với diễn biến kinh tế, tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam vẫn có xu hướng giảm rõ rệt . Xã Thái Ninh cũng vậy. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy số hộ có mức thu nhập 10-15 triệu và trên 15 triệu có tỷ lệ cũng khá cao: 18% và 21%. Tuy nhiên, xét trên bình diện chung các hộ gia đình có thu nhập từ 1-5 triệu và 5-10 triệu thì vẫn chiếm tỷ lệ cao hơn. Khi nhìn vào thực trạng thu nhập ta có kết luận là hộ này giàu, hộ này nghèo là không chính xác, danh giới rất mong manh, bởi vì để xác định được hộ nghèo ta phải dựa vào mối tương quan thu nhập của hộ đó với số người trong gia đình để có thể chia bình quân đầu người theo tiêu chuẩn nghèo đói hiện nay. Phần sau của bài sẽ phân tích rõ hơn về vấn đề này. Chúng ta đều biết, dưới khái niệm xã hội học, phân tầng được hiểu là phân chia xã hội thành các tầng lớp. Ở đây yếu tố “ tĩnh” được nhấn mạnh trong khi xã hội luôn luôn biến đổi và trong xã hội không có sự phân biệt rạch ròi giữa các tầng lớp mà thường xuyên có sự chuyển hóa lẫn nhau do tính cơ động tạo nên. Mặc dù vậy, thuật ngữ phân tầng cũng mô tả được trạng thái nhiều tầng lớp của xã hội trong điều kiện thời gian và không gian nhất định. Đề tài nghiên cứu thực trạng nghèo cũng thể hiện rõ sự phân tầng. Trong xã hội, có thể tạm chia tầng lớp giàu và tầng lớp nghèo. Tuy nhiên khi xem xét tầng lớp nghèo thì không thể xét chúng trong trật tự “ tĩnh”, tức là không có sự biến đổi. Khi xã hội phát triển đến một mức độ nào đó, tầng lớp nghèo có thể sẽ thay đổi. Họ sẽ không còn ở vị trí nghèo nữa mà có thể di chuyển đến tầng lớp giàu. Đó là sự thay đổi về thời gian. Sự biến đổi giàu nghèo cũng thể hiện ngay trong chính không gian vùng địa lý nào đó hay vùng này so với vùng khác. Có thể nói phân tầng xã hội dựa vào sự biến đổi, sự vận động của xã hội. Áp dụng vào đề tài ta thấy trong một xã có sự phân chia giàu nghèo nhưng xã hội luôn biến đổi không ngừng các tầng lớp này sẽ hoán đổi cho nhau trong quá trình phát triển. Những hộ gia đình nghèo năm nay nhưng có thể đến năm sau họ lại thoát nghèo, và ngược lại. Nhưng theo chiều tiến của xã hội thì hiện trạng nghèo của các hộ gia đình sẽ giảm đi. Như vậy là khi mà xã hội phát triển thì hiện trạng nghèo sẽ không còn nữa. Nhưng tất cả là cả một quá trình lâu dài, nó đòi hỏi không chỉ 1,2 năm mà còn kéo dài hàng thế kỷ với sự cố gắng của tất cả cá nhân trong xã hội. Để hiểu rõ hơn về mức độ nghèo đói, chúng ta đi tìm hiểu tương quan giữa thu nhập và số người hiện có trong gia đình 2.2.1.1.Tương quan thu nhập với số người hiện có trong gia đình Bảng 1: Bảng tương quan thu nhập và số người hiện có trong gia đình Số người hiện có trong gia đình Tổng 1-3 3-5 5-7 Tổng thu nhập 4 mức 1-5 21 3 0 24 5-10 19 15 3 37 10-15 8 8 2 18 >15 3 17 1 21 Tổng 51 43 6 100 Bảng tương quan cho thấy số người hiện có ở mỗi hộ gia đình chủ yếu trong khoảng 1-3 người, chiếm 51%, tiếp đến là trong khoảng 3-5 người chiếm tỷ lệ 43%, trong khoảng 5-7 người chỉ chiếm 6%. Với mức thu khoảng 1 triệu đến 5 triệu số người hiện có trong gia đình là từ 1-3 người chiếm tỷ lệ khá cao 21% trong tổng 24 hộ, bởi vì nếu chia bình quân đầu người trong khoảng này cao nhất chỉ có 138 nghìn đồng/ người/ tháng. Mức thu nhập ở khoảng này có thể nói là các hộ sống dưới mức nghèo. Bởi vì theo chuẩn nghèo hiện nay bình quân một người dưới 200 ngàn là thuộc diện nghèo đói. và trong khoảng 3-5 hiện có trong gia đình thì vẫn còn 3 hộ sống dưới mức nghèo rất thấp, chỉ có 83 ngàn/ người/ tháng. Trong khoảng thu nhập 5triệu đến 10 triệu đồng thì khoảng 1-3 người hiện có trong gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất 19%, sau đó đến khoảng 3-5 người chiếm 15%, ở đây mức chênh lệch không đáng kể. Nếu tính bình quân đầu người ở khoảng 3 nhân khẩu thì các hộ có thể thoát nghèo, nhưng nếu trong gia đình có 5 nhân khẩu thì thu nhập bình quân đầu người cao nhất chỉ có 166 ngàn đồng/ người/ tháng. Trong khoảng thu nhập 10-15 triệu/ năm chiếm tỷ lệ không nhiều. Ở khoảng thu nhập trên 15 triệu/ năm thì lại chiếm tỷ lệ cao ở những gia đình có từ 3-5 nhân khẩu và chiếm 17%. Đây là con số đáng mừng cho việc thoát nghèo ở địa phương. Nếu tính bình quân đầu người thì các hộ gia đình đều vượt qua ngưỡng nghèo. Qua phân tích tương quan ta thấy trong 4 mức thu nhập thì các khoảng thu nhập sau 1triệu đến 5 triệu và 5 triệu đến 10 triệu chiếm tỷ lệ cao trong các gia đình 1-3 nhân khẩu và 3-5 nhân khẩu. Điều đó thể hiện tỷ lệ nghèo ở xã vẫn còn khá cao. Tuy nhiên khi nhìn vào thực trạng chung thì tỷ lệ hộ >15 triệu cũng chiếm tỷ lệ khá. Như vậy là qua phân tích tương quan tổng thu nhập gia đình và số người hiện có trong gia đình phản ánh được thực trạng nghèo ở địa phương. Để hiểu rõ thêm về nguồn thu nhập của các hộ gia đình chúng ta đi vào phân tích tương quan giữa thu nhập và ngành nghề của các hộ gia đình 2.2.1.2. Tương quan giữa thu nhập và nghề nghiệp Bảng 2: Bảng tương quan thu nhập và nghề nghiệp Nghề nghiệp Tổng Trồng trọt Chăn nuôi Công chức Thủ công nghiệp Khác Tổng thu nhập 4 mức 1-5 24 0 0 0 0 24 5-10 36 1 0 0 0 37 10-15 18 0 0 0 0 18 >15 16 1 1 1 2 21 Tổng 94 2 1 1 2 100 Bảng tương quan cho thấy hầu như người dân ở đây đều làm nông nghiệp, về trồng trọt trong tổng thu nhập 4 mức chiếm tới 94%,các ngành nghề khác chiếm tỷ lệ không đáng kể, và trong khoảng thu nhập 5 triệu đến 10 triệu các hộ làm ngành trồng trọt chiếm tỷ lệ cao nhất: 36%, sau đó đến mức thu nhập từ 5 triệu đến 10 triệu chiếm 24%. Nhưng ở mức thu nhập >15 triệu lại được phân bố ở các ngành, chăn nuôi, công chức, thủ công nghiệp và các ngành nghề khác nhưng các ngành này chiếm tỷ trọng không lớn. Qua đó có thể thấy nguồn thu nhập của người dân nơi đây chủ yếu là trồng trọt, thấy được mối tương quan giữa thu nhập và ngành nghề, vì làm nông nghiệp với nền sản xuất tự cung tự cấp không đem lại thu nhập cao. Tuy vậy ta cũng thấy, người dân chủ yếu làm về trồng trọt nhưng rất nhiều hộ có thu nhập cao. Điều này phản ánh sự thay đổi nền kinh tế toàn xã. 2.2.1.3.Tương quan thu nhập với trình độ học vấn Bảng 3: Bảng tương quan thu nhập và trình độ học vấn Trình độ học vấn Tổng Mù chữ Tiểu học THCS PTTH Tổng thu nhập 4 mức 1-5 0 17 6 1 24 5-10 1 21 14 1 37 10-15 0 6 8 4 18 >15 0 5 13 3 21 1 49 41 9 100 Bảng tương quan cho thấy trong tổng thu nhập của người dân xã Thái Ninh thì trình độ học vấn ở độ tiểu học và trung học cơ sở chiếm tỷ lệ nhiều nhất , cấp tiểu học chiếm 49% và trung học cơ sở chiếm 41%. Như vậy có thể thấy trình độ học vấn của người dân chưa cao. Về tổng thu nhập trong khoảng 5 triệu đến 10 triệu thì số người ở cấp độ tiểu học chiếm tỷ lệ cao nhất: 21%, cao hơn cấp trung học cơ sở 1,5 lần. Ở khoảng thu 1 triệu đến 5 triệu cấp độ tiểu học gấp 2,8 so với cấp trung học phổ thông. Như vậy là những người ở mức thu thấp lại tập chung ở trình độ không cao. Nhưng đến mức thu nhập 10 đến 15 triệu, trình độ của người dân ở cấp trung học phổ thông gấp 1,3 lần người ở cấp tiểu học, và trên 15 triệu gấp 2,6. Như vậy là ở trình độ càng cao thì người dân có mức thu nhập càng cao. Schultz và Becker đã rất thành công trong việc vai trò đầu tư giáo dục, của vốn người đối với phát triển kinh tế. Schultz đã chỉ ra ưu thế lợi suất cao hơn hẳn vốn người ở các nước giàu so với nước nghèo và từ đó đi đến giải thích tại sao các nước giàu đầu tư nhiều và nhanh vào giáo dục hơn hẳn so với các lĩnh vực khá. Và ông rút ra kết luận là “Đầu tư vào cải thiện chất lượng dân cư có thể tăng cường đáng kể triển vọng kinh tế và phúc lợi cho người nghèo”. Áp dụng vào đề tài, ở xã vấn đề đầu tư cho học hành không cao, người dân hầu như vẫn ở trình độ thấp, trình độ học vấn không cao sẽ ảnh hưởng đến việc sản xuất và hiệu quả kinh tế và nó gián tiếp ảnh hưởng về thu nhập của gia đình. Bảng tương quan cho thấy rõ điều đó. Ở trình độ thấp người dân có mức thu nhập thấp và lại chiếm tỷ lệ cao. Còn ở trình độ cao sẽ có mức thu nhập cao nhưng lại chiếm tỷ lệ không cao. Do vậy vấn đề cần đầu tư về giáo dục để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh tế là rất quan trọng. Theo cuốn Xã hội học đại cương thì bất bình đẳng xã hội là sự phân hóa xã hội đến mức làm tăng lợi ích của tầng lớp xã hội này với cái giá của sự phương hại lợi ích của nhóm xã hội khác trong cấu trúc phân tầng xã hội nhất định. Sự phân hóa xã hội luôn dẫn đến sự khác nhau thậm chí sự phân tầng xã hội nhưng không phải là phân tầng xã hội nào cũng là bất bình đẳng xã hội. Ví dụ sự khác nhau về năng lực và trình độ học vấn và tay nghề có thể dẫn đến sự khác nhau về thu nhập giữa các nhóm người. Nhưng ở đây chưa chắc đã là sự bất bình đẳng xã hội bởi vấn đề còn nằm ở chỗ xã hội học tập và cơ hội việc làm cũng như nhiều yếu tố khác. 2.2.2. Chi tiêu hộ gia đình Ở trên ta đã nghiên cứu phần thu nhập, nó cũng phần nào đánh giá đời sống kinh tế và tình trạng nghèo đói của các hộ gia đình xã Thái Ninh. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn về thực trạng ta đi vào nghiên cứu mức chi tiêu của các hộ này. Biểu đồ 2: Mức chi tiêu của các hộ gia đình Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy số hộ có mức chi tiêu 5 trăm-1 triệu và 100-5 trăm có tỷ lệ cao nhất là 38 hộ và 35 hộ. Tiếp theo là 20 hộ số hộ có mức chi tiêu từ 1-1,5 triệu. Và thấp nhất là 7 hộ có mức chi từ 1,5-2,5 triệu. Qua đó có thể thấy mức phân hóa về chi tiêu, có sự chênh lệch khá lớn giữa các hộ gia đình. Các hộ gia đình có mức chi tiêu 500-1 triệu có tỷ lệ cao nhất (38%), các hộ gia đình có mức chi tiêu là 1500-2500 chiếm tỷ lệ ít hơn(7%). Như vậy là chi tiêu phản ánh được thu nhập của các hộ gia đình, nếu như gia đình nào có mức thu nhập thấp thì tổng chi tiêu hàng tháng của họ cũng thấp và ngược lại. Những hộ gia đình trong mức chi tiêu 1.5 triệu đến 2.5 triệu chiếm tỷ lệ ít phản ánh số hộ có đời sống cao không có nhiều, còn những gia đình chiếm tỷ lệ cao trong mức 5 trăm đến 1 triệu phản ánh đời sống của người dân vẫn còn thấp. Trong cuộc sống hiện nay khi mà đời sống của hầu hết đại bộ phận người dân đã được nâng lên, nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng lên nhiều. Nếu là ở thành phố giá cả về ăn uống rất đắt đỏ nhưng về vùng quê giá cả thấp hơn hẳn. Tuy nhiên theo cùng với mức sống chung của cả nước thì giá cả ở nông thôn đã cao lên so với trước. Ở nông thôn có điều kiện thuận lợi là họ có thể trồng trọt, chăn nuôi, nên tiền đi chợ không nhiều. Khi phỏng vấn một gia đình về mức chi ăn uống họ nói: “Ở đây cũng xa chợ, mà gia đình tôi tự trồng lấy rau ăn, chăn nuôi cũng khá nhiều. Đi chợ thì cũng thỉnh thoảng. Chỉ khi nào có khách thêm món thì đi thôi, mà thịt con gà cũng xong bữa đãi khách, gia đình tôi chi tiêu chặt chẽ lắm khi nào đi chợ chỉ mang một số tiền vừa đủ” Nam 45 tuổi, nông nghiệp Ta có thể nhận thấy với thu nhập không nhiều thì việc chi tiêu của họ là rất dễ tính. Họ có thể tính rõ ràng mức tiền đi chợ. Nhưng có thể số tiền chi tiêu ở các hộ gia đình không cao là do họ tự trồng trọt và chăn nuôi nên họ cũng không quy ra tiền, mà mức chi tiêu của họ có thể là rất lớn. Thêm nữa, khi quan sát và hỏi các hộ gia đình thì ở địa bàn xã tuy không có chợ nhưng dịch vụ bán bây giờ có nhiều và nó lưu động khắp cả xã, các mặt hàng như thịt được đem tới tận nơi. Khi hỏi về nơi mua bán họ nói: “Ở đây thì không có chợ thật, mà đi chợ xa lắm cháu ạ. Nhưng bây giờ ở làng có thiếu gì đâu, họ mang thịt đến tận nơi cho mình mua, thức ăn thì không thiếu chỉ sợ không có tiền thôi” Nữ 40 tuổi, nông nghiệp Như vậy là không phải do không có chợ mà chi tiêu ở các hộ gia đình này ít, mà do đời sống còn khó khăn, mức thu nhập ít nên việc chi tiêu vẫn còn hạn chế. Người dân ở xã Thái Ninh bên cạnh việc chi tiêu cho ăn uống họ còn nhiều khoản để chi tiêu. Ta xem trong các khoản phải chi tiêu họ chi tiêu cho khoản nào nhiều nhất. Ta xét bảng sau: Biểu đồ 3: Chi tiêu của các hộ gia đình Nhìn vào biểu đồ, ta thấy các hộ gia đình chi tiêu nhiều cho các khoản sau: ăn uống là nhiều nhất, sau đó là đến chi tiêu cho tiền điện (96%), khám chữa bệnh (93%), đi hiếu hỉ, lễ chùa ( 90%), mặc (84%), mua nguyên vật liệu cho sản xuất (81%). Trong đời sống hiện nay của các hộ gia đình thì chi tiêu nhiều nhất vẫn là ăn uống. Bên cạnh đó thì việc chi tiêu về tiền điện, chữa bệnh cũng chiếm số lượng lớn. Hiện nay khi mà mạng lưới điện đã phủ hầu khắp các vùng nông thôn thì nhu cầu dùng điện của người dân là khá cao. Khi nói về vấn đề y tế thì OXFAM Anh ( Ủy ban Oxford chống nạn đói) và Ailen nói: “Đại đa số các cơ sở y tế ở cấp xã đều tự trang trải này lại thường nhờ vào nguồn thu phí sử dụng do ngân sách, thậm chí không đủ để trả lương. Các trạm xá vì vậy chỉ mở cửa ít giờ, còn điều trị ngoài giờ đều thanh toán cho cá nhân. Không nghi ngờ gì nữa, đúng là phí sử dụng đang làm cho người nghèo không dám sử dụng dịch vụ y tế, mặc dù điều này phụ thuộc rất nhiều chính sách của từng xã”. Câu trích dẫn ở trên minh họa cho vấn đề của việc khái quát hóa cũng như tầm quan trọng của các chính sách và ưu tiên của địa phương. Về vấn đề y tế, ở nhiều xã vùng núi, dịch vụ các loại thuốc chính đều được cấp không phải trả tiền tại Trạm y tế xã. Ở một số xã khác, tình hình phổ biến là các gia đình nghèo đều được miễn phí sử dụng và đều được Ủy ban Nhân dân xã cấp giấy chứng nhận được miễn phí. Số trung tâm y tế phục vụ miễn phí do các cá nhân và các tổ chức tôn giáo, tổ chức nhằm giúp người nghèo cũng đã tăng lên. Tuy nhiên, đó chỉ là những đối phó có tính cục bộ đối với vấn đề nghèo và phí sử dụng, chứ hoàn toàn không phải là cách làm phổ biến. Và cho dù các khoản miễn phí này có thể có thể có ý nghĩa đáng kể đối với người nghèo ở một xã cụ thể thì chúng lại chẳng có tác dụng bao nhiêu khi các gia đình lại phải chi phí “thêm” hay chi phí ngoài thường đặt ra ở bệnh viện huyện trong trường hợp đau ốm nghiêm trọng. Xã Thái Ninh cũng vậy, mặc dù có những thuốc điều trị miễn phí nhưng toàn là thuốc bổ hay thuốc rẻ tiền, còn việc muốn khỏi bệnh thì họ phải có chi phí thêm cho bác sĩ và thuốc điều trị cũng rất đắt. Chi tiêu trong hiếu hỉ, lễ chùa cũng là một vấn đề đáng quan tâm, có tới 90% cho rằng chi tiêu nhiều cho khoản này. Ngày xưa khi đi đám cưới chỉ cần tặng vật phẩm nhưng ngày nay thì đi đám cưới nhất định phải có phong bì. Nhiều gia đình đến mùa cưới phải đi vay tiền để đi đám cưới. Khi được hỏi về chi tiêu, họ cho rằng: “Cháu biết đấy, cả năm chỉ sợ mỗi mùa cưới, mỗi năm vài cái phong bì như thế tốn kém lắm, nhiều lúc chẳng có tiền phải đi vay để đi, mình không đi thì xấu hổ, thôi thì không có tiền thì giật tạm hàng xóm, người quen. Rồi đâu lại vào đó cháu ạ” Nữ 55 tuổi, Nông nghiệp Đó là thực trạng chung của các gia đình, còn một số hộ nghèo hơn thì vấn đề này lại khó khăn hơn rất nhiều. May mặc cũng là khoản chi tiêu khá lớn, ngày nay vấn đề may mặc không còn khó khăn đối với các hộ gia đình nữa, việc chi tiêu cho may mặc của con cái cũng chiếm khá nhiều tiền, trong mỗi dịp khai giảng cho con cái của các gia đình cũng là vấn đề quan trọng của các gia đình. Nhìn vào bảng ta thấy có những việc mà các hộ gia đình trả lời không nhiều nhất: mua máy thiết bị phục vụ cho sản xuất, điện thoại, sửa chữa nhà cửa, thuê nhân công Trong các khoản chi tiêu mua máy thiết bị cho sản xuất có tới 98 % số hộ trả lời là không, về trả tiền điện thoại ( 97%) , về sửa chữa nhà cửa (94%), về thuê nhân công (83%). Hầu hết các hộ gia đình không sử dụng điện thoại, cũng do điều kiện gia đình nông thôn họ không có đủ tiền, và cũng không buôn bán gì để có thể liên lạc nên số hộ dùng điện thoại là rất ít. Ở nông thôn để xây dựng được một ngôi nhà là một việc “đại sự”. Theo thói quen yên ổn trong cuộc sống hàng ngày thì việc sửa sang lại nhà cửa là rất ít, họ chỉ xây dựng và làm mới khi có điều kiện. Cũng do tâm thức của người dân miền Bắc là có thể đời sống còn khó khăn nhưng cả đời cũng cố gắng làm cái nhà chỉ cần có móng và xây tường bằng gạch, và lợp bằng ngói, có thể trong nhà đồ đạc sơ sài, nhưng căn nhà thì cần phải lớn và vững chắc để các thế hệ sau sử dụng. Vì thế tuy tỷ lệ số gia đình có căn nhà kiên cố và bán kiên cố cao nhưng không đánh giá được thực chất tình trạng nghèo của họ. Nhìn vào bảng tần suất ta thấy có một vấn đề đáng lưu tâm. Đó là số người trả lời không trong việc mua máy, thiết bị cho sản xuất chiếm 98%. Một con số rất lớn thể hiện cho nền sản xuất tự cung tự cấp, hầu như đại đa số người dân làm về nông nghiệp, nếu như việc mua nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng....là rất lớn (81%) thì phương tiện để sản xuất của người dân lại ít chỉ có 2%. Khi quan sát trên địa bàn vào vụ trồng cấy, người dân chủ yếu làm bằng lao động thủ công: Dùng trâu bò để cày kéo. Và khi đi cấy hoặc gặt người dân thường giúp nhau bằng cách đổi ngày công làm hộ, điều đó thể hiện tình làng xóm, đoàn kết. Như vậy là việc thuê nhân công ở trong xã chiếm số lượng ít( 17%). Mà những số gia đình này thuê nhân công vì do thiếu lao động chính và hộ gia đình neo đơn, còn trong xã tất cả những gia đình nào có lao động chính thì việc sản suất của họ là do họ làm bằng phương thức thủ công. Tất cả những điều trên thể hiện một nền sản xuất lạc hậu, nó cũng là nguyên nhân gây ra đời sống khó khăn của các hộ gia đình. Mối quan hệ kinh tế và xã hội được bộc lộ rõ qua các nghiên cứu về mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng xã hội. Các nhà kinh tế không dừng lại ở nhận định rằng kinh tế là nhân tố quyết định của sự bất bình đẳng xã hội mà đi sâu vào tìm hiểu mối tương tác qua lại giữa hai hiện tượng này. Công trình nghiên cứu nổi tiếng của Arthur Lewis về nghèo sự nghèo đói và tăng trưởng kinh tế đã đưa ra hai mô hình giải thích mối quan hệ này trên 2 cấp. Theo ông thì một nước chậm phát triển có đa số dân cư sống bằng kinh tế nông nghiệp “tự cung tự cấp” và một bộ phận sống bằng kinh tế công nghiệp, dịch vụ hiện đại. Như vậy là tăng trưởng kinh tế ở các nước chậm phát triển gắn liền với sự nghèo đói tập chung ở nông thôn và sự bất bình đẳng xã hội gia tăng giữa thành thị và nông thôn, giữa các ngành công nghiệp dịch vụ hiện đại với ngành nông nghiệp truyền thống Theo lý thuyết kinh tế của K.Marx: Ta thấy lý thuyết này không tách biệt khỏi xã hội, trong lý luận của mình, Mark coi kinh tế là nền tảng, là huyết mạch chi phối và làm biến đổi toàn bộ xã hội. Mark chỉ ra vai trò quyết định yếu tố vật chất, của lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất đối với hành động và ý thức của cá nhân, nhóm xã hội. Áp dụng vào thực tế chi tiêu của các hộ gia đình, ta thấy kinh tế các hộ gia đình quyết định việc chi tiêu và hoạt động sản xuất kinh tế. Khi các hộ gia đình không có phương tiện sản xuất kéo theo đó là hoạt động sản xuất tự cung tự cấp, năng suất và hiệu quả kinh tế không cao. Nếu như theo học thuyết của K.Marx: kinh tế mỗi hộ gia đình sẽ là huyết mạch, là nền tảng thì nó sẽ chi phối sự biến đổi thực trạng nghèo ở địa phương. 2.2.3. Điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình 2.2.3.1.Điều kiện ở Khi điều tra về thu nhập và chi tiêu phần nào phản ánh được đời sống của người dân. Nhưng để đánh giá toàn diện thì ta phải dựa vào điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình, trước tiên ta xét vào điều kiện ở: hình thức nhà ở hiện nay của các hộ gia đình. Ta có bảng số liệu sau: Biểu đồ 4: Hình thức nhà ở Qua bảng tần suất ta thấy số hộ gia đình có nhà bán kiên cố chiếm tỷ lệ cao nhất (69%), sau đó là nhà tranh tre (19%) và thấp nhất là nhà kiên cố(12%). Nhà bán kiên cố là nhà mà móng và tường đã được xây dựng bằng gạch ( chưa có bê tông cốt thép) và mái chủ yếu lợp bằng ngói và một tầng. Đây là loại nhà chiếm tỷ lệ cao nhất. Từ đó cho thấy điều kiện ở của các hộ gia đình vẫn còn thấp. Hiện nay, hầu như những hộ có nhà tranh tre không còn nhiều như trước nhưng trong 100 hộ được hỏi còn 19% hộ vẫn phải ở trong loại nhà mà vật liệu làm ra nó lấy trực tiếp từ tự nhiên như đất, cây tre nứa, lá cọ hoặc rơm rạ. Đây là con số cần quan tâm. Như đã phân tích ở trên thì trong 69% các hộ gia đình sống trong loại nhà bán kiên cố là do tâm thức của người dân gốc nông nghiệp truyền thống Bắc bộ, ăn chắc mặc bền, nhà cao cửa rộng nên các hộ gia đình ở nông thôn chỉ cần xây nhà bằng gạch nhưng vững chãi và rộng lớn. Do vậy hầu hết ở nông thôn chiếm đa số là loại nhà này. Để xác định rõ hơn điều kiện kinh tế của các hộ gia đình chúng xem xét những trang thiết bị trong gia đình 2.1.3.2.Trang thiết bị trong gia đình Bảng 4: Trang thiết bị trong gia đình Có Không Tivi 82 18 Đài 42 58 Tủ gỗ 72 37 Quạt điện 99 1 Máy bơm 56 44 Tủ lạnh 2 98 Điện thoại 3 97 Qua bảng số liệu cho thấy mức độ chênh lệch trong việc sử dụng các thiết bị trong gia đình, số các hộ gia đình đều dùng quạt điện chiếm tỷ lệ cao nhất tới 99%, Tủ lạnh, điện thoại được sử dụng với số lượng không nhiều, chiếm tỷ lệ rất thấp 2%, 3% Bảng số liệu cho thấy về số hộ sử dụng nhiều nhất các thiết bị là: tivi, tủ gỗ, quạt điện, máy bơm. Trong đó quạt điện được sử dụng nhiều nhất (99%), đây là thiết bị chủ yếu trong cuộc sống của người dân hiện nay, so với thời kỳ trước việc mua quạt điện không còn khó khăn nữa. Hầu như các hộ gia đình nào cũng có thể mua và sử dụng, dù quạt cũ hay quạt mới nhưng trong mỗi gia đình đều có. Tivi cũng vậy, số hộ dùng ti vi hiện nay ngày càng nhiều, bất kỳ hộ gia đình nào cũng có phương tiện giải trí này. Điều này cho thấy đời sống của đại bộ phận người dân đã tăng lên, ở nông thôn tủ gỗ vẫn chiếm số lượng đáng kể trong mỗi hộ gia đình từ trước tới nay. Tuy nhiên các thiết bị như điện thoại, tủ lạnh không được sử dụng nhiều bởi vì họ không có nhu cầu. Khi được hỏi họ trả lời: “Nhà tôi không dùng điện thoại và cũng không có ý định mắc đâu. Cô bảo mỗi tháng mất mấy chục nghìn tiền thuê bao, mà dùng thì có liên lạc với ai, như nhà buôn bán họ dùng thì được, chúng tôi dùng làm gì, mà hy vọng sau này cuộc sống đỡ phải lo, con cái nó cho tiền thì dùng cô ạ, nhưng chắc lúc ấy còn lâu” Nam 50 tuổi trồng trọt 2.1.3.3 Thành phần bữa ăn và vệ sinh môi trường Hiện nay còn rất ít hộ rơi vào tình trạng thiếu đói, tức là không có gạo để ăn. Trong thành phần bữa ăn của họ có thể không có nhiều thức ăn nhưng cơm đầy đủ cho các thành viên thì không thể thiếu. Do vậy mà ở xã Thái Ninh không có gia đình nào thiếu gạo và rau trong bữa ăn. Tuy nhiên trong một bữa ăn hiện nay mà chỉ có cơm và rau thì cuộc sống của gia đình được gọi là rất khó khăn vì không đảm bảo chất lượng cuộc sống. Khi được hỏi về thịt trong thành phần bữa ăn chỉ có 49% trả lời là có, 31% thì thỉnh thoảng mới được ăn và 20% hộ không trả lời. Đây là một kết quả không cao về chất lượng cuộc sống, chưa đến một nửa số hộ trả lời là có. Đến thành phần cá, trứng cũng vậy chỉ có 49% người trả lời là có thức ăn này trong bữa ăn. Vậy là quá một nửa các hộ gia đình vẫn rơi vào tình trạng nghèo đói. Bên cạnh đó thì vấn đề về vệ sinh môi trường cũng đáng quan tâm. Môi trường ảnh hưởng gián tiếp đến sức khỏe của con người. Từ trước tới nay khi nói về nông thôn thì ta nghĩ ngay tới một môi trường trong sạch và là nơi lý thú cho việc nghỉ ngơi. Quả thực môi trường ở xã hiện nay không có nhiều vấn đề nhưng ta quan tâm tới một vấn đề: Sử dụng nhà vệ sinh, vấn đề tưởng như không quan trọng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe người dân nơi đây từ trước tới nay người dân vẫn lấy phân bắc để sử dụng cho trồng trọt. Vấn đề có hố xí hợp vệ sinh không được quan tâm nhiều. Ta có bảng tần suất sau: Biểu đồ 5: Sử dụng nhà vệ sinh của các hộ gia đình Nhìn vào bảng tần suất ta thấy số hộ sử dụng nhà vệ sinh tạm thời chiếm tỷ lệ cao nhất 63 %, hố xí 2 ngăn chỉ chiếm 37 %. Ở nông thôn việc chăn nuôi là vấn đề quan trọng, nó không chỉ phục vụ cho sản xuất, bán lấy tiền mà nó còn là nguồn cung cấp phân cho việc trồng trọt. Một nguồn phân vô cùng quý giá, cho nên nhà nào cũng có chỗ để ủ phân và họ không chú ý nhiều đến xây dựng một nhà vệ sinh cho gia đình mà sử dụng luôn chỗ để phân của gia súc làm nhà vệ sinh hay họ làm nhà vệ sinh tạm thời. Hiện nay đã có nhiều gia đình xây dựng hố xí 2 ngăn nhưng số lượng đó chiếm số lượng không nhiều. Khi quan sát các hộ gia đình, điều đáng quan tâm là có những hộ gia đình khá giả họ cũng dùng nhà vệ sinh tạm thời, điều này có thể do thói quen sinh hoạt của người dân nơi đây. 2.2.4. Tự đánh giá Bảng 5: Đánh giá về mức sống của các hộ gia đình Số hộ Tỷ lệ Khá hơn nhiều 5 5 Khá hơn 52 52 Như cũ 8 8 Kém hơn 1 1 Khó nói 34 34 Tổng 100 100 Bảng tần suất cho ta thấy số hộ đánh giá khá hơn chiếm tỷ lệ cao nhất(52%), và các hộ đánh giá là kém hơn có tỷ lệ rất thấp(1%). Như vậy là cùng với sự phát triển đi lên của xã hội, mức sống của người dân xã Thái Ninh đã có sự thay đổi, tuy không đến mức đột biến là phải khá hơn rất nhiều. Số hộ gia đình đánh giá là kém hơn rất ít. Nhưng bên cạnh đó thì mức độ khó nói cũng chiếm tỷ lệ khá cao. Đây là điều đáng quan tâm bởi vì mức độ khó nói cũng thể hiện đời sống kinh tế của các hộ gia đình không thay đổi nhiều nên họ cũng không biết trả lời thế nào. Cũng có thể do tâm lý của người dân, đời sống của họ khá hơn trước nhưng so với xã hội thì họ vẫn chưa thấy hài lòng. Nhưng nhìn chung bảng số liệu cho thấy chiều hướng tích cực về mức sống của các hộ gia đình ở xã hiện nay. Để hiểu rõ hơn về thực trạng nghèo của xã ta phải đi tìm hiểu mối tương quan giữa thu nhập với cấu trúc hộ gia đình, ngành nghề, học vấn, độ tuổi 2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến nghèo đói của người dân 2.3.1. Trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã quan tâm tới việc xóa đói giảm nghèo. Chính sách của Đảng và Nhà nước đạt được một số thành công nhất định. Với tỷ lệ chi ngân sách các dịch vụ xã hội đang tiếp tục tăng một cách vững chắc. Việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi và các dịch vụ khuyến nông là điều có ý nghĩa sống còn đối với phát triển thị trường và cơ hội cho người nghèo cải thiện cuộc sống. Những khoản đầu tư này cùng với những khoản phân bổ ngân sách cho các dịch vụ xã hội nhằm nâng cao tiềm năng y tế, giáo dục của một cộng đồng dân cư. Đặc biệt là các xã như xã Thái Ninh, sẽ có lợi ích trung hạn và dài hạn đối với cá nhân trong toàn xã. Tuy nhiên, việc phân bổ ngân sách gia tăng sẽ vô nghĩa nếu nó không nhằm đúng đối tượng hoặc không được quản lý có hiệu quả. Nó cũng cần được bổ trợ bằng những khoản ngân sách có tác động trực tiếp hơn tới cuộc sống của người nghèo, những khoản này cần nhằm bù lại bất kỳ cái giá phải trả trước mắt nào có liên quan tới việc chuyển đổi cách tài trợ cho các dịch vụ. Việc này có diễn ra hay không? Những khoản chi phúc lợi có tới được tay người nghèo hay không? Bản báo cáo của Ngân hàng thế giới lập luận rằng, cũng như các ngành giáo dục và y tế, phúc lợi xã hội dưới dạng trợ cấp hưu trí, trợ cấp thương binh, quả phụ.... và cứu trợ thiên tai, đã có lợi một cách quá đáng cho người khá giả. Theo Ngân hàng thế giới: “ Hồ sơ về những người được hưởng lợi do các khoản chi trợ cấp dịch vụ xã hội của chính phủ cho thấy rằng nhìn tổng thể việc chi đó không thuận cho người nghèo” Một số tác giả, ví dụ như Pareto lại nhấn mạnh yếu tố phân phối. Ở đây ta xét vấn đề nghèo khổ ở tầm vĩ mô. Đó là do sự phân phối không công bằng nên có nhóm người được hưởng lợi quá ít thậm chí nghèo khổ. Điều này rất giống với một nguyên tắc ứng xử ở phương đông là “ Không sợ thiếu chỉ sợ chia không đều”. Nhưng đó chỉ là một trong hai cách xem xét và giải quyết nghèo khổ và bất bình đẳng xã hội. Cách thứ 2 của Pareto là “ Chiếc bánh phúc lợi” tăng năng suất lao động để làm cho chiếc bánh phúc lợi to lên, tức là tổng sản lượng xã hội tăng lên, nhờ vậy mỗi phần chia đều lớn hơn. Từ quan niệm này có một cách định nghĩa nổi tiếng về sự phát triển tối ưu của xã hội: Đó là trạng thái khi sự tăng trưởng kinh tế làm cho lợi ích của tất cả mọi người đều tăng lên mà không làm lợi ích của người nào thiệt đi. Một số tác giả khác, ví dụ như Kuznets, Schultz, Lewis,Beker và những người khác khi tập trung nghiên cứu mối quan hệ của tăng trưởng kinh tế và sự nghèo khổ đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của chất lượng dân số, vốn người, đầu tư giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các thiết chế chính trị- xã hội ổn định, linh hoạt đối với tăng trưởng kinh tế. Các khiếm khuyết hay thiếu hụt của các nhân tố này đều có thể hạn chế sự tăng trưởng kinh tế và làm trầm trọng tình trạng nghèo khổ. 2.3.2 Vai trò của chính quyền địa phương trong mấy năm gần đây đã phát huy được tính tích cực trong xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Năng lực của các cơ cấu nhà nước trong việc quản lý các chương trình lấy người nghèo làm đối tượng còn bị hạn chế do việc phân chia trách nhiệm tài chính giữa chính phủ Trung ương với chính quyền địa phương, cũng như do thái độ đối với công tác lập kế hoạch và ra quyết định. Ở đây, di sản của một nền kế hoạch hóa tập trung có ảnh hưởng tới năng lực thực hiện của chính quyền địa phương, mà nói chung còn yếu (theo cuốn Vấn đề nghèo ở Việt Nam). Hiện tại chính quyền địa phương, dù đang chịu trách nhiệm quản lý hầu hết các khoản chi có tiềm năng tác động một cách tích cực tới người nghèo, vẫn không có mấy quyền hành trong việc phân bổ hoặc huy động nguồn thu cho phù hợp với các điều kiện của địa phương. 2.3.3. Đặc điểm hộ gia đình xuất phát từ ngành nông nghiệp lạc hậu. Phương thức sản xuất cũ cũng là nguyên nhân gây nên hiệu quả sản xuất thấp kém, với số thành viên trong gia đình khá nhiều, nhưng dưới tác động của nền kinh tế thị trường, người dân ở xã đi làm thuê ở các thành phố lớn. Với tâm lý ở nhà làm chẳng được bao nhiêu, chịu khó làm thuê đất khách cũng có thu nhập khá, và những người đi làm thuê hầu hết là thanh niên. Đây là lực lượng lao động sản xuất chủ yếu ở nông thôn. Do vậy mà việc đầu tư sản xuất ngay trên chính quê hương không có. Karx Marx nhấn mạnh nguyên nhân của sự nghèo khổ ở trong cách tổ chức đời sống sản xuất của con người. Do sự phân công lao động, ảnh hưởng của phương thức sản xuất và cấu trúc xã hội đối với nghèo đói. Vấn đề là phải biến đổi phương thức sản xuất và cấu trúc xã hội theo hướng tạo ra sự công bằng, bình đẳng và tự do cho mọi người. Nền tảng của cấu trúc xã hội được hiểu là phức hợp các lực lượng sản xuất gồm lao động, phương tiện, công cụ kỹ thuật, công nghệ, đối tượng lao động, bản thân quá trình lao động và các quan hệ sản xuất tương ứng với nó. Như vậy là chỉ khi nào công cụ kỹ thuật thay đổi và đổi mới cộng với sự cố gắng tích cực lao động của mỗi cá nhân sẽ làm thay đổi phương thức sản xuất cũ, lúc đó hiệu quả năng suất lao động cao. Tình trạng nghèo mới được cải thiện. 2.3.4. Khi điều tra nghiên cứu ảnh hưởng đến nghèo đói ta thấy có rất nhiều nguyên nhân: nguyên nhân về nhận thức của người dân, quy mô gia đình, kinh tế gia đình…và còn rất nhiều nguyên nhân khác. Nhưng xét trong bối cảnh riêng của xã thì nguyên nhân nào ảnh hưởng nhiều nhất Ta có bảng tần suất về nguyên nhân của nghèo đói. Bảng 6: Bảng tần suất về nguyên nhân của nghèo đói có không Đông con 54,8 45,2 Không biết làm ăn 98,6 1,4 Thiếu vốn, tiền mặt đầu tư 47,2 52,7 Rượu chè cờ bạc 17,6 82,5 Rủi ro, thiên tai bệnh dịch 23 77 Lười lao động 98,6 1,4 Thiếu lao động trong nhà 25,7 74,3 Thiếu đất canh tác 1 99 Không có nghề 90,5 9,4 Khác 27,0 73 Từ bảng tần suất ta thấy có rất nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng nghèo đói của xã. Nhìn chung thì những nguyên nhân sau chiếm tỷ lệ nhiều nhất: không biết làm ăn (98,6%), lười lao động (98,6%), không có nghề (90,5%). Đông con (54,8%). Còn những nguyên nhân khác chiếm tỷ lệ không nhiều. Thứ nhất, nguyên nhân không biết làm ăn. Đây là hệ quả của một lối tư duy mang đậm căn tính tiểu nông, thâm căn cố đế trong quan niệm của người nông dân Bắc Bộ là ít sáng tạo, không ham làm giàu, quen nếp sản xuất tự cung tự cấp, phụ thuộc nhiều vào những điều kiện tự nhiên, vào những thế lực siêu nhiên “Ông Trời”. Mặt khác, cũng do điều kiện địa lý ở khu vực chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, diện tích đất canh tác thường là các đồng ruộng xen đồi núi thấp, chất lượng đất không tốt, điều kiện thủy lợi không thuận tiện, bề mặt quảng canh không lớn. Vì thế, việc thu hút đầu tư kỹ thuật và vốn cho sản xuất năng suất cao và đổi mới giống cây trồng, vật nuôi gặp nhiều khó khăn. Nhà nước cũng khó có thể có định hướng về phương pháp sản xuất, phương thức làm ăn có hiệu quả cho người nông dân. Do đó, nguyên nhân này chiếm tỷ lệ chủ yếu. Khi được hỏi người dân trả lời: Việc làm ăn thì lúc được lúc không cô a. Chúng tôi tùy thuộc vào thời tiết thôi, khi nào mưa thuận gió hòa thì thóc được nhiều còn không có khi mất trắng, nhà nông chúng tôi chỉ trông vào cây lúa thôi, cùng lắm là một ít hoa màu còn thu nhập thêm thì chả có. Chúng tôi chả biết làm việc gì thêm ở cái đất này” Nam 55 tuổi- Làm ruộng Thứ hai, do lười lao động. Nguyên nhân này một phần kéo theo từ nguyên nhân đã phân tích ở trên. Xuất phát từ tâm thức ngại suy nghĩ, tìm tòi và sáng tạo, tâm lý sống theo thói quen và những tập quán lâu đời của người dân nông nghiệp truyền thống. Khi được hỏi người dân trả lời như sau “Ở đây về làm ăn thì ít ai chịu làm lắm, có gia đình nghèo kiết xác nhưng vẫn chơi suốt, mình cảm tưởng như cả ngày họ chả làm gì, tối lại đi ngủ sớm, thế thì làm sao mà không nghèo được” Nữ 45 tuổi - Cán bộ công nhân viên chức họ ít chịu thay đổi quan niệm. Họ ngại phải tìm tòi, đổi mới tư duy, cách nghĩ cũng như cách làm ăn mới trong tình hình và xu thế đổi mới của đất nước để có được một hiệu quả sản xuất, canh tác cao hơn, cải thiện đời sống của chính gia đình mình. Thứ ba, do không có nghề. Nghề ở đây có thể coi là nghề phụ (nông nghiệp được coi là nghề chính). Nguyên nhân này do những điều kiện về địa lý và đặc điểm kinh tế - xã hội vùng quy định. Vùng trung du, bán sơn địa Thanh Ba, Phú Thọ là khu vực địa lý ít chịu thiên tai, bão lũ song cũng vì thế không được hưởng những lợi thế bồi tụ của các lưu vực sông lớn. Chất lượng đất canh tác ở đây không cao. Hầu hết diện tích đất canh tác trên các đồi núi thấp chiếm phân nửa tổng số diện tích đất canh tác của các hộ gia đình. Vì thế, không thể tập trung đầu tư giống cây trồng vào một loại hình thống nhất nào được. Bên cạnh đó, do điều kiện địa lý nằm ở vùng chuyển tiếp, xa rừng và cũng xa sông nên điều kiện thông thương buôn bán và phát triển các nghề thủ công và nghề phụ bị hạn chế. Quy mô gia đình cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng nghèo đói ở xã Thái Ninh nó thể hiện trong bảng ở nguyên nhân đông con chiếm tỷ lệ khá (54,8%), khi người dân hạn chế về vốn xã hội, tức là trình độ học vấn thì kinh tế gia đình khó có thể phát triển, thêm nữa những gia đình ấy lại quá đông nhân khẩu do vậy mà đời sống của họ luôn trong tình trạng khó khăn. Malthus, người được coi là ông tổ của dân số học hiện đại, lần đầu tiên đưa ra cách giải thích tính đến nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân xã hội của sự nghèo khổ. Theo ông, nghèo khổ là do hai yếu tố chính gây ra: Một là năng suất lao động tăng chậm và hai là do dân số tăng nhanh. Ông chỉ ra quy luật của mối tương quan này là dân số tăng theo cấp số nhân, còn sản xuất tăng theo cấp số cộng, do vậy các phương tiện sống được sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân số tăng rất nhanh đó. Kết quả là sinh ra sự nghèo khổ, bệnh tật và các vấn đề nan giải khác. Theo cách giải thích này thì nguyên nhân nghèo khổ ở xã không hoàn toàn như vậy. Vì nhìn trong toàn xã. Vấn đề đông con cũng chiếm tỷ lệ khá 54,8% nhưng không phải là nguyên nhân quan trọng mà là do chính bản thân người dân: Do tâm lý của nền sản xuất nông nghiệp: Làm chỉ đủ ăn, thực sự họ không cố gắng trong việc cải thiện chính cuộc sống của họ: Không chịu học hỏi, lười lao động dẫn đến hậu quả không biết làm ăn và không có nghề. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu của nghèo đói. 2.4. Xu hướng Theo cách tiếp cận chu trình cuộc sống thì các hành vi cá nhân bị tác động bởi nhiều yếu tố mà cá nhân đó sống trong xã hội, chịu ảnh hưởng rất lớn các điều kiện kinh tế xã hội. Khi xã hội biến đổi thì nhu cầu của mỗi người sẽ biến đổi theo từng thời điểm cụ thể. Theo cách tiếp cận này thì trong toàn tỉnh Phú Thọ ỏ nhiều huyện có thực trạng nghèo khác nhau, mỗi xã cũng có thực trạng nghèo khác nhau. Nhưng theo bối cảnh kinh tế chung, thực trạng nghèo đói ở mỗi nơi sẽ thay đổi cho phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế của toàn tỉnh. Nếu tính tỷ lệ hộ nghèo trong năm 2005 thì ở xã chỉ còn 157 hộ, chiếm 26,5 %. Như vậy tỷ lệ hộ nghèo đã được cải thiện so với trước. Như trên đã nói đề tài thuộc lĩnh vực xã hội học kinh tế. Do vậy ta thử đi vào xem xét cái bẫy nghèo khổ để tìm hiểu cái nguyên nhân và xu hướng. Tính chất phức tạp của mối quan hệ nhân quả và nhất là mối liên hệ nhiều chiều giữa các nhân tố của sự nghèo khổ tạo thành cái vòng luẩn quẩn nghèo khổ hay cái bẫy nghèo khổ. Thực chất đó là cách gọi một mạng lưới gồm nhiều yếu tố, có mối tương tác chặt chẽ với nhau đến mức chỉ cần vướng vào một mối quan hệ nào đó là đủ để người ta rơi vào cảnh nghèo khổ như rơi vào một cái bẫy không thoát ra được. Có 4 yếu tố chủ yếu: Thiếu quyền lực, dễ bị tổn thương, ốm yếu, cô lập. Trên thực tế, số lượng các mắt xích có thể kéo dài, bao gồm các yếu tố như học vấn thấp, thất nghiệp, mất mùa, thiên tai, bệnh dịch và nhiều yếu tố khác nữa, tùy thuộc vào tình huống xã hội cụ thể. Như áp dụng vào thực trạng nghèo của các hộ gia đình xã Thái Ninh, có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu ở chính bản thân người dân đó, lười lao động là một nguyên nhân sâu xa dẫn đến không biết làm ăn, không có nghề và rơi vào cái bẫy nghèo khổ. Từ đó có nhiều chiến lược giải quyết vấn đề nghèo khổ của các cấp chính quyền, có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Sự thay đổi thực trạng nghèo thể hiện ở mức đánh giá của người dân. Chỉ có một hộ gia đình trả lời là mức sống của họ kém đi còn hầu như là lời là đã khá hơn, có một số ít thấy khó nói. Tuy nhiên nhìn tổng thể, những người nghèo này vẫn cảm thấy cuộc sống của họ khá hơn nhiều so với trước cải cách, và tất nhiên họ coi tiến trình này vẫn đang tiếp diễn. Họ đang đi bước đi đầu tiên hướng tới một cuộc sống tốt đẹp hơn mà họ có thể tiếp cận được. Dưới chính sách của Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương đã có những chính sách trong việc xóa đói giảm nghèo và bước đầu cũng kết quả khả quan. Chúng ta hy vọng trong tương lai số hộ khó nói này sẽ tự tin vào kinh tế vào kinh tế của gia đình và sẽ trả lời là mức sống của họ là khá lên rất nhiều. Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 3. 1 Kết luận Qua đề tài nghiên cứu về thực trạng nghèo ở xã Thái Ninh thuộc huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ, ta thấy được mức độ nghèo đói của người dân qua các chỉ báo: Thu nhập, chi tiêu, điều kiện sinh hoạt và đánh giá của chính các hộ gia đình ấy về thực trạng nghèo. Về thu nhập của các hộ gia đình có sự thay đổi theo quy luật phát triển của xã hội. Khi mức sống chung của cả nước nói chung và toàn tỉnh nói riêng được nâng lên thì đời sống của người dân xã cũng thay đổi . Ở đây là thể hiện thu nhập và chi tiêu thay đổi. Mặc dù việc chi tiêu chỉ vào ăn uống hay những nhu cầu thiết yếu cơ bản đã chiếm số lượng nhiều nhưng việc chi tiêu trong đầu tư phương tiện sản xuất không nhiều. Điều đó thể hiện nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu: “ Tự cung tự cấp”. Nền sản xuất này đem lại hiệu quả sản xuất không cao. Do vậy mà đời sống của người dân có thể chưa coi là cao. Về điều kiện sinh hoạt và trang thiết bị trong gia đình các hộ gia đình hiện nay có thể nói là khá đầy đủ cho những nhu cầu thiết yếu nhưng những trang thiết bị như tủ lạnh và điện thoại chiếm tỷ lệ ít. Như vậy mặt bằng chất lượng thấp. Tỷ lệ này thấp hơn so với các vùng trong tỉnh. Về hình thức nhà ở thì tỷ lệ các hộ còn ở trong nhà tranh tre không còn nhiều (19%) và loại nhà chủ yếu của người dân ở đây là nhà bán kiên cố, tỷ lệ gia đình ở trong loại nhà kiên cố cũng không có nhiều. Nói chung về thu nhập, chi tiêu và điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình chưa cao. Từ đó có thể cho thấy được nguyên nhân của thực trạng trên. Ở mỗi nơi tỷ lệ nghèo có sự khác nhau và nguyên nhân cũng khác nhau. Ở xã Thái Ninh cũng vậy, nguyên nhân nghèo chủ yếu là do lười lao động, đây là nguyên nhân của nền sản xuất cũ, nó ảnh hưởng sâu vào con người và nó là nguyên nhân chủ yếu kéo theo các nguyên nhân khác như không biết sản xuất, hiệu quả sản xuất không cao và thu nhập thấp là điều tất yếu. Thường khi nói về nghèo thì ta thường nghĩ do nguyên nhân số lao động ít, đây là một nguyên nhân quan trọng, nhưng tại địa bàn nghiên cứu thì nó không phải là nguyên nhân chủ yếu. Theo xu thế phát triển của đất nước thì có thể hiện trạng nghèo sẽ dần được cải thiện. 3.2. Giải pháp và khuyến nghị 3.2.1 Giải pháp Theo tổ chức UNICEF: “ Sự chuyển đổi kinh tế đã có tác động không tránh khỏi đối với phúc lợi gia đình. Thay đổi ý nghĩa nhất trong việc tăng quyền lực cho gia đình chính là việc tạo ra khả năng lựa chọn lớn hơn đối với gia đình trong việc thu, chi, sản xuất lương thực, nhà ở, các dịch vụ xã hội và phúc lợi, và giáo dục. Khả năng lựa chọn lớn hơn cũng đi kèm với mức độ may rủi lớn hơn. Vì người ta có nhiều sự lựa chọn hơn, và phải tự mình trả tiền cho nhiều dịch vụ xã hội vốn trước đây được trợ giá hoặc cho không, nên nhu cầu đối với việc các gia đình phải đưa ra những quyết định trên cơ sở giáo dục cũng tăng lên đáng kể”. Như vậy là mỗi gia đình khi muốn thay đổi cuộc sống hay thay đổi kinh tế thì phải tự lực, phải quyết định kinh tế của gia đình dựa trên sự học hỏi, và thay đổi phương thức sản xuất. Tất nhiên khi bắt đầu làm một công việc không khỏi gặp những khó khăn. Nhưng nó sẽ là chìa khóa mở ra để thoát khỏi cảnh nghèo. Từ thực trạng nghèo đói ở xã Thái Ninh, điều quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo là vai trò của chính quyền địa phương trong việc xóa đói giảm nghèo: Tuyên truyền, giáo dục và dạy họ phương thức sản xuất để họ tự lao động sản xuất theo sự hướng dẫn của chính quyền địa phương. Muốn giải quyết tận gốc vấn đề nghèo đói thì phải dựa vào chính bản thân của các hộ gia đình. Đảng ủy và UBND xã đã nhìn thấy trước được những khó khăn trên, do vậy đã có kế hoạch triển khai một số công trình công cộng: Chợ, trường học và nâng cấp đường giao thông cấp xã. Phấn đấu đưa xã vào quỹ đạo phát triển chung của toàn huyện, tỉnh và cả nước 3.2.2 Khuyến nghị Nhà nước có chính sách chú trọng đầu tư thích đáng, đầu tư vào công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, tạo nhiều công ăn việc làm Đây là địa hình chia cắt mạnh phần cuối của dãy núi Hoàng Liên Sơn, nên việc đường xá chưa được đầu tư nhiều do vậy nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng: Đường xá, thông tin liên lạc, thủy lợi. Để làm được điều này phải có sự hỗ trợ của chính quyền địa phương TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, Phân tầng xã hội, Bất bình đẳng xã hội, Xã Hội Học đại cương [2] Báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, Nghèo [3] Bùi Thế Giang, Phạm Văn Chương, Đỗ Lê Châu, Lê Thị Thu Hà , Những vấn đề chính mà người nghèo gặp phải trong việc tìm kiếm chăm sóc y tế, Vấn đề nghèo ở Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 1994 [4] Lê Ngọc Hùng, Phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội Xã Hội Học Kinh Tế, nhà xuất bản lý luận chính trị 2004 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXHH21t.doc
Tài liệu liên quan