Đề tài Tìm hiểu tính thời vụ của du lịch nghỉ biển ở Hải Phòng, thực trạng và một số kiến nghị giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2 NỘI DUNG 4 Phần 1 : Thời vụ du lịch và những nhân tố ảnh hưởng tới thời vụ trong du lịch nghỉ biển . 4 I. Thời vụ du lịch . 4 1. Khái niệm “Tính thời vụ trong du lịch”, “Thời vụ du lịch”. 4 2.Các đặc điểm của thời vụ du lịch. 4 II. Các nhân tố tác động tới thời vụ du lịch nghỉ biển: 6 1. Nhân tố mang tính tự nhiên: 6 2. Nhân tố mang tính kinh tế- xã hội. 7 3. Nhân tố mang tính tổ chức - kỹ thuật: 8 4. Các nhân tố khác: 8 Phần 2: Phân tích tác động của thời vụ du lịch đến hoạt động kinh doanh du lịch nghỉ biển tại Hải Phòng. 8 I. Tiềm năng để phát triển loại hình du lịch nghỉ biển của Hải Phòng. 8 1. Điều kiện về tài nguyên du lịch. 8 2.Điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ khách du lịch. 11 II. Thực trạng của hoạt động kinh doanh du lịch biển ở Hải Phòng trong những năm gần đây. 15 1. Các tác động bất lợi của thời vụ du lịch đến kinh doanh du lịch biển. 15 2.Thực trạng du lịch Cát Bà. 16 3.Hoạt động du lịch nghỉ biển của Hải Phòng có nhiều khởi sắc. 17 4. Những vấn đề còn tồn tại trong kinh doanh du lịch nghỉ biển ở Hải Phòng. 21 Phần 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hạn chế tác động bất lợi của thời vụ du lịch đến sự phát triển du lịch ở Hải Phòng. 23 I. Một số đề xuất và kiến nghị. 23 II.Các phương hướng và giải pháp chính làm giảm những tác động bất lợi so tính thời vụ trong du lịch 24 1 . Làm tăng mức độ phù hợp tối ưu giữa cung và cầu 24 2. Làm kéo dài độ dài của thời vụ du lịch: 24 3. Tạo điều kiện cho thời vụ thứ hai: 24 Kết luận 26 Các tài kiệu tham khảo: 27

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3004 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu tính thời vụ của du lịch nghỉ biển ở Hải Phòng, thực trạng và một số kiến nghị giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
độ hoạt động đều đặn trong năm và vì vậy tồn tại tính thời vụ trong du lịch. 2.2. Một nước hoặc một vùng du lịch có thể có một hoặc nhiều thời vụ du lịch, tuy thuộc vào các thể loại du lịch phát triển. Các vùng biển Đồ Sơn, Sầm Sơn Vũng Tàu của Việt Nam chỉ kinh doanh và phát triển loại hình du lịch nghỉ biển là chủ yếu thì mùa du lịch sẽ là vào mùa hè. Nhưng nếu như tại đây có nhiều nguồn nước khoáng giá trị, ở đó phát triển mạnh hai thể loại du lịch: du lịch nghỉ biển vào mùa hè và du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh vào mùa đông dẫn đến ở đó có hai mùa du lịch. 2.3. Độ dài của thời gian và cường độ của thời vụ du lịch không bằng nhau đối với các thể loại du lịch khác nhau . Du lịch nghỉ biển (vào mùa hè), nghỉ núi (trượt tuyết vào mùa đông) có mùa ngắn hơn và cường độ hơn (do phụ thuộc vào yếu tố thiên nhiên nhiều hơn). Còn du lịch chũa bệnh thưòng có mùa dài hơn và cường độ vào mùa chính yếu hơn. Tại bãi biển Đồ Sơn vào tháng 6,7,8 là thời gian tắm biển đẹp nhất, nhiều người đi tắm nhất (vì cũng vào kỳ nghỉ hè ). Vào thời gian đó số khách đông nhất, cường độ thời vụ là lớn nhất hoặc gọi là mùa chính. Vào tháng 4,5,9,10 nước biển cũng tương đối ấm có thể tắm biển được, vì vậy vẫn có khách du lịch đến tắm biển, nghỉ ngơi hoặc nghỉ trước mùa và sau mùa. Còn lại các tháng 11 đến tháng 3 là những tháng ngoài mùa được gọi là mùa chết. 2.4. Độ dài của thời gian và cường độ của thời vụ du lịch phụ thuộc vào mức độ phát triển và kinh nghiệm kinh doanh du lịch của các quốc gia du lịch, điểm du lịch và các nhà kinh doanh du lịch. Cùng kinh doanh một loại hình du lịch, với các điều kiện về tài nguyên du lịch tương đối như nhau thì ở các nước, các vùng, các cơ sở kinh doanh du lịch phát triển hơn, có kinh nghiệm kinh doanh tốt hơn thì thời vụ du lịch thường kéo dài hơn và cường độ của mùa du lịch yếu hơn. Ngược lại, các nước, vùng, cơ sở du lịch mới phát triển, chưa có nhiều kinh nghiệm kinh doanh thường có mùa du lịch ngắn hơn và cường độ của mùa du lịch chính thể hiện mạnh hơn. 2.5. Cường độ và độ dài của thời vụ du lịch phụ thuộc vào cơ cấu của khách đến vùng du lịch. Các trung tâm dành cho du lịch thanh, thiếu niên thường có mùa ngắn hơn và có cường độ mạnh hơn so với những trung tâm đón khách ở độ tuổi trung niên . Nguyên nhân chính ở đây là do thanh, thiếu niên thường hay đi theo đoàn, hội và vào các dịp nghỉ hè, nghỉ tết ngắn hạn. 2.6. Cường độ và độ dài của thời vụ du lịch phụ thuộc vào số lượng các cơ sở lưu trú chính. Ở đâu có chủ yếu là các cơ sở lưu trú chính – khách sạn, hotel, nhà nghỉ, khu điều dưỡng, mùa du lịch kéo dài hơn và cường độ của mùa chính là yếu hơn so với nơi sử dụng nhiều nhà trọ và camping. Ở đó mùa du lịch thường ngắn hơn và cường độ thường mạnh hơn. ► Một vài đặc điểm về tính thời vụ du lịch của Việt Nam: ♦ Việt Nam là một nước có tài nguyên du lịch thuận lợi cho việc phát triển kinh doanh du lịch quanh năm . ♦ Trong giai đoạn hiện nay đối tượng khách du lịch Việt Nam có động cơ và mục đích rất khác nhau: Khách du lịch nội địa đi du lịch chủ yếu là để nghỉ biển, nghỉ dưỡng, lễ hộ, tham quan hoặc họ đi du lịch chủ yếu vào các tháng hè và các tháng đầu năm. Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam hiện nay chủ yếu với mục đích kết hợp kinh doanh sau đó với mục đích tham quan ,tìm hiểu và họ đến Việt Nam chủ yếu từ tháng 10 đến tháng 3 . ♦ Thời vụ du lịch, độ dài của thời vụ du lịch và cường độ biểu hiện của thời vụ du lịch ở các thành phố lớn, các tỉnh và các trung tâm du lịch biển là rất khác. Điều đó phụ thuộc vào sự phát triển các loại hình kinh doanh du lịch khác và cấu trúc, đặc điểm của các luồng khách du lịch. Xuất phát từ chỗ Việt Nam trong giai đoạn phát triển du lịch hiện nay thu hút khách du lịch quốc tế chủ yếu bởi các giá trị lịch sử(các di tích lịch sử), các giá trị văn hoá (các phong tục tập quán cổ truyền, các lễ hội), các dự án đầu tư, các hoạt động kinh doanh sản xuất, dịch vụ khách du lịch quốc tế đến Việt Nam, tập trung chính vào khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 3 trong năm. II. Các nhân tố tác động tới thời vụ du lịch nghỉ biển: Tính thời vụ trong du lịch tồn bản tại bởi tác động của nhiều nhân tố đa dạng (về chất và hướng ảnh hưởng). Đó là các nhân tố tự nhiên, nhân tố kinh tế xã hội, nhân tố tổ chức kỹ thuật, nhân tố tâm lý v.v…Một số các nhân tố tác động chủ yếu lên cung du lịch, một số khác tác động chủ yếu lên cầu du lịch. Có nhân tố lại tác động lên cả cung và cầu du lịch và thông qua đó gây lên tính thời vụ trong kinh doanh du lịch . Nhân tố mang tính tự nhiên: Trong các nhân tố mang tính tự nhiên, khí hậu là nhân tố chủ yếu quyết định đến tính thời vụ trong kinh doanh du lịch. Thông thường khí hâụ tác động lên cả cung và cầu trong du lịch. Tuy nhiên ở từng vùng khí hậu cụ thể thì mức độ tác động có khác nhau. Hướng ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của nhân tố khí hậu là khác nhau đối với các loại hình kinh doanh du lịch khác nhau. Cụ thể: ► Đối với các thể loại du lịch nghỉ biển, nghỉ núi, du lịch thể thao núi: khí hậu hoặc tài nguyên du lịch ảnh hưởng lên cầu du lịch. Mức độ ảnh hưởng đối với các thể loại du lịch như du lịch nghỉ biển, nghỉ núi mức độ ảnh hưởng của các nhân tố khí hậu là rất lớn . Đối với du lịch nghỉ biển các thành phần của khí hậu như cường độ ánh sáng, độ ẩm, độ mạnh và hướng của gió, nhiệt độ, cộng với một số đặc điểm khác của biển và bờ biển tài nguyên tự nhiên du lịch như: Độ sâu của bờ biển, kích thước của bãi tắm v.v… quyết định mức độ tiện nghi phù hợp với việc tắm và phơi của khách từ đó dẫn đến việc xác định giới hạn của thời vụ du lịch. Tuy nhiên giới hạn đó có thể mở rộng ra hoặc thu hẹp lại tuỳ thuộc vào đòi hỏi của khách du lịch và tiêu chuẩn của họ khi sử dụng tài nguyên du lịch. Ví dụ: Đối với khách du lịch Bắc Âu, nhiệt độ nước biển từ 15-16 độ C là phù hợp để tắm hoăc mùa du lịch có thể kéo dài hơn. Đối với các đối tượng khách du lịch khác thì nhiệt độ nước biển phải từ 20-25 độ C (hoặc cao hơn nữa) mới là phù hợp nên mùa du lịch bị co ngắn lại. ► Đối với các thể loại du lịch khác (du lịch chữa bệnh, du lịch văn hoá, du lịch công vụ v.v…): Khí hậu không ảnh hưởng trực tiếp lên tài nguyên du lịch. Khí hậu lại có ảnh hưởng trực tiếp lên cầu du lịch (măc dù ảnh hưởng có điều kiện khí hậu không khắt khe như đối với du lịch nghỉ biển). Khách du lịch của các thể loại du lịch này thường chọn khi thời tiết thuận lợi (vào mùa xuân, mùa thu hay mùa khô) để thực hiện các cuộc hành trình du lịch. Do đó, biểu hiện cường độ khách tập trung chủ yếu vào một số thời gian trong năm. Hoặc nhân tố khí hậu đóng vai trò chính, hạn chế sự cân bằng của các cuộc hành trình du lịch và việc sử dung các tài nguyên du lịch theo thời gian. 2. Nhân tố mang tính kinh tế- xã hội. ● Ở những quốc gia có thời gian nghỉ phép của năm ngắn thì người dân thường chỉ có thể đi du lịch một lần trong năm. Khi đó họ sẽ có xu hướng chọn thời gian chính vụ để nghỉ. Do vậy sự tập trung của cầu du lịch sẽ thường cao vào thời vụ du lịch chính. Tuy nhiên theo xu hướng ngày nay thì số ngày nghỉ phép năm của người dân tại nhiều nước trên thế giới naỳ càng tăng lên. Do đó con người có thể đi du lịch nhiều lần hơn trong năm và từ đó thì tỉ trọng tương đối của nhu cầu du lịch tập trung vào thời vụ chính sẽ giảm trong tổng số nhu cầu cả năm. Như vậy, sự gia tăng thời gian nhàn rỗi góp phần làm giảm cường độ tập trung nhu cầu vào ngoài thời vụ du lịch truyền thống. ● Phong tục tập quán là những nhân tố tác động trực tiếp lên cầu du lịch và tạo nên sự tập trung của cầu du lịch vào những thời vụ nhất định. Nhiều khi phong tục đã tạo nên thói quen cho con người(đi du lịch biển phải vào mùa hè). Ở Việt Nam tác động của nhân tố phong tục lên tính thời vụ du lịch thật là mạnh mẽ và rõ ràng. Theo phong tục thì những tháng đầu năm là những tháng hội hè lễ bái. Vào khoảng tháng 2, 3 âm lịch là hội của hầu hết các đình chùa, các đền và các vùng nổi tiếng bất kể đến thời tiết ẩm ướt mưa dầm: Chùa Hương, Chùa Thầy, Đền Hùng, Hội Lim…. ● Điều kiện về tài nguyên du lịch chỉ có thể phát triển thể loại du lịch nào sẽ gây ảnh hưởng đến thời vụ du lịch của điểm du lịch tương ứng. Đây là nhân tố tác động mạnh lên cả cung và cầu du lịch. Ví dụ: Nếu một điểm du lịch chỉ có điều kiện phát triển du lịch nghỉ biển thì thời vụ du lịch tại đó sẽ ngắn hơn một điểm du lịch khác có điều kiện phát triển du lịch nghỉ biển kết hợp với chữa bệnh hoặc một điểm du lịch khác có điều kiện phát triển du lịch văn hoá. 3. Nhân tố mang tính tổ chức - kỹ thuật: Sự sẵn sàng đón tiếp khách du lịch. Chất lượng và cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nhân tố ảnh hưởng đến độ dài của thời vụ du lịch. Ví dụ: Cơ sở lưu trú chính thì thường có thời gian kinh doanh dài hơn cơ sở lưu trú phụ (Hotel ở biển có thời gian kinh doanh dài hơn Camping hay Bungalow). Khách sạn có hội trường lớn, có bể bơi kín, có các trung tâm chữa bệnh, nơi vui chơi giải trí có thời vụ kinh doanh dài hơn. 4. Các nhân tố khác: * Nhân tố mang tính tâm lý (nhân tố về mốt và sự bắt chước). Một số người muốn đi nghỉ mát ở một vùng, một đất nước du lịch nào đó mà họ không hề biết đến các điều kiện cụ thể về ăn uống, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí. Khi đó họ chọn thời gian đi nghỉ theo các du lịch có kinh nghiêm hoặc những nhân vật nổi tiếng. Khi những trường hợp nêu trên là khá phổ biến thì có thể sẽ tạo sự căng thẳng nhân tạo của thời vụ tại một điẻm thời gian nào đó. Tuy nhiên nhân tố chủ yếu ảnh hưởng lên cường độ biểu hiện của thời vụ du lịch, ít ảnh hưởng lên độ dài của thời vụ. Mức độ ảnh hưởng là ít và bất biến. * Các nhân tố đặc biệt: Một số khách sạn phục vụ chính là đối tượng khách công vụ thì thời vụ của các khách sạn này phụ thuộc lớn vào thời gian họp tổng kết của các doanh nghiệp. Phần 2: Phân tích tác động của thời vụ du lịch đến hoạt động kinh doanh du lịch nghỉ biển tại Hải Phòng. I. Tiềm năng để phát triển loại hình du lịch nghỉ biển của Hải Phòng. 1. Điều kiện về tài nguyên du lịch. Một quốc gia, một vùng dù có nền kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội phát triển cao song nếu không có được các tài nguyên du lịch thì cũng không thể phát triển được du lịch. Tiềm năng về kinh tế là vô hạn song tiềm năng về tài nguyên du lịch là có hạn, nhất là đối với tài nguyên thiên nhiên -những cái mà thiên nhiên chỉ ban cho một số vùng và một số nước nhất định. Riêng thành phố Hải Phòng được thiên nhiên vô cùng ưu đãi, ban tặng cho 1 tiềm năng lớn về con người, môi trường, cảnh quan thiên nhiên, có rừng có biển, có nền văn hoá đặc trưng của vùng ven biển bắc Bộ để phát triển du lịch. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, Hải Phòng được biết đến với vị thế của một thành phố Cảng, một trong những trung tâm kinh tế, văn hoá, du lịch của cả nước, có nhiều điểm du lịch nổi tiếng được phân bố trên toàn thành phố với đa dạng các loại hình như rừng, biển, đảo, di tích văn hoá và nhiều thắng cảnh danh lam thu hút khách trong nước và quốc tế. Bất cứ du khách nào đến Hải Phòng cũng nghĩ ngay tới các địa danh du lịch biển nổi tiếng như Đồ Sơn, Cát Bà. 1.1. Thắng cảnh Đồ Sơn. Có 2.450m bờ biển đầy cát mịn làm bãi tắm lý tưởng, từ lâu Đồ Sơn đã là một trong số những khu nghỉ mát nổi tiếng của nước ta. Bán đảo Đồ Sơn nằm trên miền cổ lục địa, chạy dài 22,5km ven biển từ cửa sông Cấm đến cửa sông Văn Úc. Với những cảnh sắc tuyệt đẹp về phong cảnh sơn thuỷ tình hữu. Có thể nói, Đồ Sơn đẹp tựa Đà Lạt mộng mơ để du khách thả hồn tận hưởng những kiệt tác mà thiên nhiên ban tặng. Đến với khu du lịch Đồ Sơn, du khách sẽ được đắm mình trong làn nước biển, nghỉ ngơi để thưởng ngoại cảnh đẹp của một miền biển nổi danh mang đậm nét truyền thống, lung linh màu của huyền thoại... Du khách các nơi về Đồ Sơn, ít người biết, cách bãi tắm phía Đông Nam bán đảo Đồ Sơn chừng 800m có đảo Dáu hoang sơ đến lạ kỳ. Người xưa hình tượng hoá Đồ Sơn như đầu rồng đang hướng về phía viên ngọc (đảo Dáu), đuôi quẫy ra khơi xa thành Bạch Long Vĩ. Hiếm có hòn đảo nào gần đất liền lại được nhiều ưu ái của cả thiên nhiên và truyền thuyết như đảo Dáu. Chỉ sau khoảng 20 phút cưỡi sóng từ bến Nghiêng, du khách đã lạc vào chốn hoang sơ, tận mắt ngắm nhìn tháp đèn biển, công trình hơn trăm tuổi giữa gió biển phóng khoáng. Cây đèn biển hơn trăm tuổi đặt trên đỉnh cao 128 m, được xây dựng từ năm 1892, cao như một tháp pháo đài cổ, chiếu xa tới 40 km. Biết bao lượt du khách đã bước theo những bậc cầu thang gỗ bóng loáng để lên đỉnh ngọn đèn, hưởng cảm giác lâng lâng, hào sảng khi đứng trên độ cao hàng chục mét đón gió căng tràn sức sống. Con đường lên đảo không quá dốc và cũng chỉ dài vừa đủ để du khách cảm thấy như tập thể dục. Thích nhất có lẽ là được đi dưới ‘mái nhà’ lợp bằng tán cổ thụ và dây leo chằng chịt, những chùm rễ si buông rủ như tơ liễu và cơ man gốc cổ thụ to vài người ôm. Tuy ở ngay nơi tàu bè qua lại tấp nập, nhưng cảnh quan rừng vẫn được giữ nguyên trạng. Tương truyền Nam Hải Thần vương rất thiêng, không ai dám lấy đi ở đảo bất cứ thứ gì, kể cả từ một cành củi. Chuyện kể rằng thời nhà Trần, sau trận thủy chiến với giặc Nguyên trên sông Bạch Đằng, bà con trên đảo thấy xác một tướng quân dạt vào. Biết là tướng nhà Trần tử trận, bà con bèn lập đền thờ và gọi ngài là Nam Hải thần vương. Hằng năm, vào các ngày 8, 9 và 10 - 2 (âm lịch) diễn ra lễ hội đảo Dáu của ngư dân Đồ Sơn tại đền thờ ngài để cầu may. 1.2. Đảo ngọc Cát Bà. ♦ Cát Bà là đảo lớn nhất trong số 1.969 hòn đảo của quần thể danh thắng vịnh Hạ Long. Đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải cách thành phố Hải Phòng 30 hải lý. Phần đảo nổi Cát Bà có diện tích khoảng 200km2 gồm 2 dạng cấu trúc cơ bản là hệ thống đảo và bãi chiều. Hệ thống đảo gồm 366 đảo lớn nhỏ, nằm rải rác trên vùng biển giáp vịnh Hạ Long nổi tiếng ở phía Đông Nam. Cát Bà là hệ thống đảo đá vôi, núi đá vôi có độ cao trung bình từ 50m đến 200m. ♦ Quần đảo Cát Bà với hơn 172 bãi cát nhỏ nằm rải rác trên các đảo, trong đó có rất nhiều bãi có thể dùng làm bãi tắm như: Cát Cò I, Cát Cò II, Cát Dứa, Cát Quyển … Những bãi cát này ẩn mình dười chân các đảo nhỏ có nhiều hệ sinh thái tự nhiên, ít sóng gió. Bãi tắm ở đây đẹp, nhiều hòn đảo chưa đặt tên, thuận lợi cho việc du lịch mạo hiểm, khám phá… Thiên nhiên ở đây hoang sơ, rừng, biển, sông, suối, núi, đồi, thung lũng, bãi cát, hang động, xen kẽ gắn kết với nhau tạo nên nhiều cảnh đẹp kỳ thú. Rừng Quốc gia Cát Bà rộng 15.200ha có khu rừng nguyên sinh nhiệt đới rộng 570ha với hệ thống động thực vật vô cùng phong phú va quý hiếm đặc trưng là loài Voọc đầu trắng và cây Kim Giao. ♦ Hiện Cát Bà có 620 loài thực vật thuộc 438 chi, 123 họ, trong đó có 357 loài có thể làm thuốc chữa bệnh, có 350 loài đã được ghi trong sách đỏ của Việt Nam cần được bảo vệ. Rừng Cát Bà có nhiều loài cây lấy gỗ như trai lý, mấn mái, chò dãi, lát hoa, gội nếp, lim giao… Về động vật, các kết quả điều tra thống kê được 28 loài thú, 59 loài chim, 20 loài bò sát, có 10 loài thú và 6 loài chim quý hiếm cần được bảo vệ như: voọc đầu trắng, mèo rừng, nhím, khỉ vàng, khỉ đuôi lợn, nai, khỉ mặt đỏ, sơn dương, cầy giông, chim cu gáy, hoẵng, chim đa đa, chim cu xanh, chim ngói, vịt trời, sâm cầm. ♦ Với vẻ đẹp quyến rũ do thiên nhiên ban tặng, Cát Bà đang được coi là một trong những trung tâm du lịch sinh thái cấp quốc gia rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Đi từ thành phố ra đảo bằng tàu thuỷ cao tốc khoảng hơn một giờ đồng hồ, đi bằng đường bộ khoảng 60km qua 2 phà, bạn sẽ dễ dàng tiếp cận đảo Ngọc. Giữa sóng nước mênh mông của biển khơi, ta bỗng gặp một khu rừng nhiệt đới. Rừng ở đây có diện tích hơn 17.300ha, trong đó có 570ha là rừng nguyên sinh. Dưới tán rừng già có hàng trăm cây thuốc quí, đặc biệt có cây thuốc bổ tim một củ, một lá. Cát Bà có hệ thực vật và động vật điển hình quí hiếm của rừng trên núi đá vôi, có nhiều hang động kỳ thú và bãi tắm thiên nhiên cát trắng, nước trong tới đáy. Trong rừng già còn loại kỳ đà Komodo cổ đại, sơn dương nặng trên 100kg. Vùng biển Cát Bà có nhiều bãi tôm, bãi câu cá hồng, cá nục, cá tráp; có áng thảm nuôi đồi mồi. Dưới các rạn đá ngầm chân đảo có bào ngư, trai ngọc và tôm rồng. Ở bãi hạ triều có tu hài (họ nhuyễn thể) được coi là ‘gà biển’, thịt chắc và ngọt hơn cả bào ngư. Món tu hài nướng vắt chanh trở thành món đặc sản không thể thiếu ở các quán nhậu ven bờ biển. ♦ Huyện Cát Hải hiện có khoảng 5992ha rừng ngập mặn và bãi triều ven biển, đây là nơi cư trú của các loài động thực vật và là nơi lưu giữ các nguồn gen phong phú, là nơi cung cấp dinh dưỡng và nguồn giống để duy trì bền vững cho nghề cá ven bờ. Ngoài ra, rừng ngập mặn tại Cát Bà còn là vùng đệm bảo vệ vững chắc bờ biển. Những khu rừng ngập mặn trên 5 năm tuổi hoặc có độ cao thân cây khoảng từ 4m trở lên là nơi lý tưởng cho việc khai thác, phát triển du lịch sinh thái. ♦ Cát Bà có hệ sinh vật dưới đáy biển vô cùng phong phú, bao gồm 135 loài thực vật, 51 loài động vật, hệ sinh thái san hô, 27 loài cá làm cảnh cộng sinh, 300 loài cá tại ngư trường 500 loài thân mềm và giáp xác. Các rạn san hô và cá cảnh cộng sinh tập trung ở phía Đông áng Thảm, Cát Dừa, Tùng Giỏ, Hòn Mây, Vạn Bội, vụng Cọc Chèo, vụng Vua. Ở đây cũng tập trung nhiều vich, đồi mồi, ốc cảnh, cá cảnh có khả năng phát triển các loại hình du lịch lặn biển, câu cá, săn bắn dưới biển… ♦ Cùng với những đảo nhỏ, Cát Bà có hàng trăm vụng biển tạo cho khách du lịch có cảm giác đang đi trên công viên biển. Ở Cát Bà còn có những điểm vô cùng lý thú cho du lịch nghiên cứu khoa học, bởi hệ sinh thái tự nhiên ở các hồ nước mặn mà dân địa phương thường gọi là “áng”, đó là những cái hồ hình phễu hoặc hố sụt can có hang ăn thông với biển. Những áng đẹp ở Cát Bà có: áng Vẹm, hồ Hang Do, hồ Gương… đặc biệt có áng Thảm nằm trên một hòn đảo nhỏ cách bến tàu Cát Bà khoảng 1km về phía Đông Nam, nơi lý tưởng cho việc nuôi động vật biển như trai, đồi mồi, cá cảnh. Đảo Cát Bà một tấm thảm xanh khổng lồ chứa đựng nhiều bí ẩn, hấp dẫn. Cát Bà xứng đáng là khu dự trữ sinh quyển thứ ba của Việt Nam. 2.Điều kiện về sự sẵn sàng phục vụ khách du lịch. 2.1. Các điêù kiện về kỹ thuật. ● Sự tận dụng hiệu quả các tài nguyên du lịch và việc thỏa mãn các nhu cầu của du khách phụ thuộc 1 phần lớn vào cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch, bao gồm: toàn bộ nhà cửa và phương tiện kỹ thuật. Ở Hải Phòng có một hệ thống các khách sạn nhà hàng, khu giải trí, cửa hàng, sân thể thao… có thể kể đến các địa chỉ tiêu biểu như: STT Hạng Tên khách sạn Địa chỉ Số ĐT Số phòng 1 4 sao Khách sạn Hữu Nghị 60 Điện Biên Phủ 823244 127 2 Khách sạn Tray 47 Lạch tray 828555 78 3 Làng Hướng Dương Số 1 Văn Cao 892000 120 4 Khách sạn Harbour View Số 4 Trần Phú 827827 126 5 3 sao Khách sạn Bạch Đằng 42 Điện Biên Phủ 842444 38 6 Khách sạn Hải Phòng 17 Nguyễn Bỉnh Khiêm 731444 40 7 Khách sạn Đại Dương 20 Lê đại Hành 822848 37 8 2 sao Khách sạn Dầu khí 1 Chùa Vẽ 766667 64 9 Khách sạn Phú Vinh 27 Hai Bà Trưng 631684 36 10 Khách sạn Hàng Hải 282 Đà Nẵng 751565 38 11 Khách sạn Quang Minh 20 Minh Khai 823404 30 12 Khách sạn Hải Âu Khu II Đồ Sơn 861221 49 13 Biệt thự khu II Khu II Đồ Sơn 861226 25 14 Khách sạn Vạn Thông Khu II Đồ Sơn 861331 74 *Câu lạc bộ vui chơi giải trí (khách sạn Hữu Nghị) 60 Điện Biên Phủ *Maxim Café 51 Điện Biên Phủ *Trung tâm thể thao giải trí 55 Lạch tray *Câu lạc bộ Đất Cảng 28 Quang Trung Chợ Sắt Phố Quang Trung Chợ Ga Phố Lương Khánh Thiện Chợ An Dương Phố Tôn Đức Thắng Chợ Tam Bạc Phố Phan Bội Châu Siêu thị Ánh Dương 32 Trần Phú Siêu thị chợ Sắt Phố Quang Trung Siêu thị Minh Khai ● Cơ sở kỹ thuật hạ tầng xã hội là yếu tố cơ sở nhằm khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, bao gồm hệ thống đường sá, nhà ga, sân bay, bến cảng đường sắt, mạng lưới điện, cấp thoát nước… quan trọng nhất vẫn là hệ thống giao thông vận tải, viễn thông, điện, nước… Tại Hải Phòng, có hệ thống giao thông khá, như: Sân bay Cát Bi, có tuyến bay nối các trung tâm du lịch Huế, Đà Nẵng, Hạ Long qua sân bay Cát Bi; Ga Hải Phòng nằm ngay trung tâm thành phố; Hệ thống cảng (cảng bến Nghiêng, cảng Hải Phòng…) cùng với hàng loạt tàu vận chuyển khách hiện đại được trang bị phục vụ khách du lịch từ bến Bính, Đồ Sơn đi Cát Bà, Hạ long… 2.2 Điều kiện về tổ chức. Tại Hải Phòng: Sở du lịch đặt dưới sự quản lý trực tiếp của UBND TP Hải Phòng, và dưới sự quản lý của chủ thể là Chính Phủ. Sự có mặt của các tổ chức và doanh nghiệp chuyên trách về du lịch(đó là bộ máy quản lý vi mô về du lịch). Các tổ chức này có nhiệm vụ chăm lo đến việc đảm bảo sự đi lại và phục vụ trong thời gian lưu trú của khách du lịch. Gồm: Kinh doanh khách sạn, kinh doanh lữ hành, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh các dịch vụ khác. Sau đây là các doanh nghiệp tiêu biểu trong các lĩnh vực này: Dịch vụ vận tải Tên doanh nghiệp Địa chỉ Văn phòng đại diện Vietnam Airline tại Hải Phòng 30 Trần Phú ĐT: 921242/ 921686 Đường sắt Việt Nam - Ga Hải Phòng 75 Lương Khánh Thiện ĐT: 921333 Chi nhánh công ty vận tải biển Sài Gòn 57 Đinh Tiên Hoàng ĐT: 827 097 Tuấn Hợp: Kinh doanh vận tải bộ 11 Lương Khánh Thiện ĐT: 844448 Công ty dịch vụ vận tải số 1 - TRACO 289 Lý Thường Kiệt ĐT: 745 027 Công ty vận tải biển 3 1 Hoàng Văn Thụ ĐT: 842 170 Công ty vận tải biển Việt Nam 215 Lạch Tray ĐT: 731 951 Công ty vận tải Dầu khí Việt Nam 88 Điện Biên Phủ ĐT: 622 192 Công ty vận tải Dầu khí PALCON Hải Phòng 14B Điện Biên Phủ ĐT: 822 192 Công ty vận tải sông biển 6 Cù Chính Lan ĐT: 822 898 Công ty vận tải Thuỷ Bắc 2 Lý Thường Kiệt ĐT: 838 236 Công ty vận tải thuỷ số 3 22 Cù Chính Lan ĐT: 842 807 Công ty vận tải thuỷ số 4 Km7 đường 5 ĐT: 850 326 Công ty xe khách Hải Phòng 440 Tô Hiệu ĐT: 858 416 Dịch vụ du lịch Tên Địa chỉ, điện thoại Trung tâm điều hành du lịch Hải Phòng 57 Điện Biên Phủ ĐT: 842 432 Công ty liên doanh du lịch hàng không 107 Điện Biên Phủ ĐT: 745 292 Công ty du lịch - dịch vụ Hải Phòng 40 Trần Quang Khải ĐT: 745 258 Công ty TNHH Thương mại du lịch Quang Minh 101 Cát Dài ĐT: 845 324 Trung tâm du lịch lữ hành quốc tế 30 Trần Phú ĐT: 822 669 Công ty Du lịch Hải Phòng 57 Điện Biên Phủ Tel: 745432 Công ty Du lịch Dịch vụ Hải Phòng 40 Trần Quang Khải Tel: 745415 Công ty Du lịch Dầu khí Hải Phòng 40 Trần Quang Khải Tel: 823552 Công ty Du lịch Vạn Hoa 60 Lương Khánh Thiện Tel: 845044 Công ty Cung ứng tàu biển Thương mại Du lịch & Dịch vụ (Haiphong Shipchanco) 13 Trần Quang Khải Tel: 745735 Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Du lịch Nam Cường 89 Bạch Đằng Tel: 820072 Công ty Liên doanh Harbour View 4 Trần Phú, Hải Phòng Tel: 827934 Làng Quốc tế Hướng Dương 1 Văn Cao, Hải Phòng Tel: 892022 II. Thực trạng của hoạt động kinh doanh du lịch biển ở Hải Phòng trong những năm gần đây. 1. Các tác động bất lợi của thời vụ du lịch đến kinh doanh du lịch biển. Tính thời vụ trong du lịch ảnh hưởng bất lợi đến tất cả các thành phần của quá trình du lịch – đến dân cư sở tại, đến chính quyền địa phương và nhất là đến khách du lịch và nhà kinh doanh du lịch. 1.1. Các tác động bất lợi đến dân cư sở tại: Khi cầu du lịch tập trung quá lớn gây nên sự mất cân đối, mất ổn định đối với các phương tiện giao thông đại chúng, đối với mạng lưới phục vụ xã hội (giao thông công chính, điện, nước, mạng lưới thương nghiệp v.v…), làm ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của nhân dân địa phương. Khi nhu cầu du lịch giảm xuống và giảm tới bằng không thì những người làm hợp đồng theo thời vụ sẽ không còn việc làm. Ngoài ra, ngay cả những nhân viên cố định ngoài thời vụ cũng có thu nhập thấp hơn. 1.2 Các tác động bất lợi đến chính quyền địa phương: Khi cầu du lịch tập trung quá lớn sẽ gây ra không ít những sự mất thăng bằng cho việc bảo vệ trật tự an ninh và an toàn xã hội. Ở mức độ nhất định, tính thời vụ gây ra những khó khăn cho việc quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch. Khi cầu giảm xuống và giảm tới mức bằng không thì những khoản thu nhập từ thuế và lệ phí do du lịch đem lại cho du lịch cũng giảm. 1.3. Các tác động bất lợi đến khách du lịch: Khi cầu du lịch tập trung lớn làm hạn chế khả năng tìm chỗ nghỉ thích hợp với thời gian tự chọn theo ý muốn. Ngoài ra, vào mùa du lịch chính thường xảy ra tình trạng tập trung nhiều khách du lịch trên phương tiện giao thông, trong các cơ sở lưu trú ở các nơi du lịch. Điều đó làm giảm tiện nghi khi đi lại, lưu trú của khách. Do vậy dẫn đến việc giảm chất lượng phục vụ khách du lịch. 1.4. Các tác động đến nhà kinh doanh du lịch: - Các bất lợi khi cầu du lịch tăng tới mức vượt quá khả năng cung cấp của các cơ sở kinh doanh du lịch nhiều lần (độ căng thẳng của độ tập trung cầu du lịch ); Đối với chất lượng phục vụ du lịch ; Đối với việc tổ chức và sử dụng nhân lực ; Đối với việc tổ chức các hoạt động cung ứng , các ngành kinh tế và du lịch có liên quan, dịch vụ công cộng; Đối với việc tổ chức hoạch toán ; Đối với tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật; Các tác động bất lợi gây ra khi cầu du lịch giảm xuống và giảm xuống tới mức bằng không ; Tác động tới chất lượng phục vụ ; Tác đông tới hiệu quả kinh tế trong kinh doanh ; Tác động tới việc tổ chức và sử dụng nhân lực nhân lực ; Tác đông tới việc tổ chức hoạch toán; Đối với tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật; 2.Thực trạng du lịch Cát Bà. Năm 2001, Cát Bà có trên 40 khách sạn, trong đó chỉ có 01 khách sạn nhà nước với 40 phòng, còn lại phần lớn là của tư nhân hoặc cổ phần với qui mô nhỏ từ 10 đến 20 phòng. Tất cả các khách sạn này đều được xây dựng theo kiểu tự phát, chấp vá, manh mún, các chất thải lỏng, thậm chí cả chất thải rắn đều được đưa xuống bãi biển ngay trước mặt khách sạn thông qua đường ống cống. Về phương tiện vận chuyển khách đường thuỷ ra đảo hoặc thăm vịnh, ngoài hơn chục chiếc tàu gỗ nhỏ hiện có của địa phương, Cát Bà có khoảng 30 chiếc tàu du lịch các loại của các tỉnh thường xuyên hoạt động trên đảo, đó là chưa kể đến hàng ngàn chiếc tàu đánh cá loại nhỏ (gia đình) thường xuyên neo đậu, sinh sống trên đảo. Việc kinh doanh du lịch ở đây còn tuỳ tiện, công tác đào tạo nghiệp vụ cho những người làm du lịch trên đảo gặp nhiều khó khăn, phần lớn lao động ở đây đều làm việc theo thời vụ, họ được tuyển dụng từ những vùng quê hoặc là những người dân chài của các tỉnh sống di cư trên đảo. Rất nhiều người chỉ làm việc một mùa đầu tiên rồi rút lui vì không chịu được cường độ lao động và áp lực tâm lí, một số coi đây là một nghề làm thêm và chỉ làm trong 03 tháng mùa hè. Lượng khách du lịch đến Cát Bà không cân đối, ít về mùa đông nhưng lại quá tải về mùa hè dẫn đến tình trạng khi thì dồn nén khách, khi thì chèo kéo khách, chính quyền địa phương không kiểm soát được giá cả, nộp ngân sách địa phương còn thấp, săn bắt động thực vật, chặt cây, hái củi… vẫn còn tồn tại. Vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý là một khu du lịch sinh thái như Cát Bà có thể gánh chịu được bao nhiêu du khách? Vấn đề ô nhiễm, rác thải và sự có mặt của du khách có làm gián đoạn quá trình phát triển của các loài động thực vật trên đảo hay không? Ai là người chịu trách nhiệm về vấn đề này? Có thể nói Cát Bà vẫn còn nhiều khó khăn trong việc đi lại, giá điện và nước sạch. Vấn đề này không những chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Cát Bà mà còn gây ra những trở ngại cho việc đầu tư, phát triển các hoạt động du lịch. 3.Hoạt động du lịch nghỉ biển của Hải Phòng có nhiều khởi sắc. Khai thác hiệu quả phục vụ vận chuyển khách bằng đường không là hướng đi mới tích cực tạo động lực tăng trưởng kinh tế, thương mại và du lịch hấp dẫn các nhà đầu tư trong nước và quốc tế. Với những cố gắng của thành phố cũng như Tổng Cục hàng không dân dụng Việt Nam, sân bay Cát Bi được cải tạo, nâng cấp với đường băng, sân đỗ, nhà ga, nhà điều hành bay, hệ thống dẫn đường, thông tin vệ tinh hiện đại đón khách 24/24 giờ trong ngày. Sân bay Cát Bi cũng chính thức được Hiệp hội hàng không quốc tế công nhận đạt tiêu chuẩn ICAO, đủ điều kiện thực hiện các chuyến bay từ Hải Phòng đi Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và đến các sân bay quốc tế trong khu vực. Sự kiện tuyến bay Ma Cao-Hải Phòng chính thức đi vào hoạt động thường xuyên 2 chuyến/ ngày mở ra nhiều triển vọng lớn trong việc hợp tác và đón khách du lịch quốc tế trong thời gian tới. Bên cạnh đó, hệ thống các tuyến xe buýt công cộng được mở rộng phát triển phục vụ tốt nhu cầu đi lại bằng đường bộ, tạo thuận lợi cho khách du lịch. Các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch được chủ động thực hiện với nhiều loại hình phong phú, đa dạng thực sự tạo sức hấp dẫn cho du khách và các nhà đầu tư. Ngành du lịch đã xây dựng Websibe du lịch Hải Phòng và thường xuyên truy cập thông tin về du lịch thành phố trên Websibe của Tổ chức xúc tiến du lịch các thành phố khu vực châu Á - Thái Bình Dương; phối hợp với Truyền hình thực hiện Chương trình giới thiệu điểm đến của du lịch Hải Phòng phát sóng tới các khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ, Canada; đồng thời đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch mở rộng thu hút du khách tại các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Lào, Malaysia... Đã qua những tháng cao điểm của mùa du lịch biển do đặc thù thời tiết, lượng khách đến Hải Phòng giảm 8,2%. Tuy vậy, khác với mọi năm, lượng khách quốc tế đến với các khu du lịch trên địa bàn thành phố trong thời điểm này vẫn ổn định và tăng 14,4%, kéo theo doanh thu tăng 4,1% - do tuyến bay quốc tế MaCao/Hồng Kông-Hải Phòng chính thức đi vào ổn định từ ngày 04/9/2006. Tính đến ngày 20/10, tuyến bay quốc tế MaCao/Hồng Kông-Hải Phòng đã thực hiện 96 lượt chuyến bay đi và đến với tổng số khách là 4.543 lượt khách, hệ số sử dụng ghế đạt 59%. Chủ yếu là khách quốc tế đến lưu chân và thưởng thức các dịch vụ vui chơi, giải trí tại Khu du lịch Đồ Sơn, Cát Bà, suối khoáng nóng Tiên Lãng. 3.1.Những khởi sắc trong du lịch biển Cát Bà. Thị trấn Cát Bà Năm nay lượng khách du lịch đến Cát Bà tăng đột biến. Tính từ đầu năm đến nay, tổng lượt khách du lịch đến Cát Bà đạt gần 400 nghìn lượt, bằng 90% kế hoạch, tăng 103% so với cùng kỳ năm 2005; trong đó, khách quốc tế ước khoảng 117 nghìn lượt, doanh thu từ du lịch - dịch vụ đạt 83,5 tỷ đồng. Với Cát Bà, đã mở rộng đường hè, hoàn thành khuôn viên cây xanh tại thị trấn, đưa Công viên nước vào họat động; cải tạo cầu nối bãi tắm Cát Cò I, II và tăng cường vệ sinh các bãi tắm; xây dựng mới một số biển chỉ dẫn bằng hai thứ tiếng Việt - Anh... thu hút lượt khách tăng 3,1% (khách quốc tế tăng 15,4%), doanh thu tăng 26,4% so cùng kỳ. Năm nay Cát Bà vui Tết, đón xuân Đinh Hợi trong một niềm vui lớn - niềm vui của một năm du lịch bội thu. Năm 2006 du lịch Cát Bà phát triển nhanh với sự tham gia rộng rãi của các thành phần kinh tế, cơ sở vật chất của ngành du lịch được tăng lên đáng kể. Tính đến nay, Cát Bà có hơn 100 khách sạn, nhà nghỉ. Trong đó có 10 khách sạn 2 sao, 11 khách sạn 1 sao, với trên 2 ngàn phòng nghỉ. Năm 2006 Cát Bà đón được 450.000 lượt du khách tăng 37,2% so với cùng kỳ năm 2005. Trong đó có 180.000 lượt khách nước ngoài đạt 150% kế hoạch năm , tăng 52,54% so với cùng kỳ năm 2005. Doanh thu từ du lịch đạt 80 tỷ đồng, tăng 86,05 % so với cùng kỳ năm 2004 và đạt 114,29% kế hoạch năm. Để có được những kết quả đáng mừng đó là nhờ có ngành du lịch - của huyện đảo luôn đẩy mạnh công tác hoạt động du lịch - dịch vụ, đồng thời khuyến khích các dự án đầu tư trong và ngoài nước nhằm đưa du lịch Cát Bà nhanh chóng trở thành ngành kinh tế chính mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách địa phương, cho cộng đồng dân cư và giải quyết phần đông công ăn việc làm cho người dân trên đảo. So với năm 2005 chất lượng buồng, phòng năm nay được cải thiện một cách đáng kể. Các chủ nhà hàng, khách sạn đã nắm bắt được nhiều hơn nguồn lợi chính từ ngành công nghiệp không khói du lịch mang lại, nên chỉ tự chủ động mà còn bảo nhau chú trọng khâu luôn đầu tư chất lượng và tiện nghi hơn. Các khách sạn ngày càng có sự đầu tư lớn về trang thiết bị, phòng buồng ngày càng nâng cấp hiện đại hơn đáp ứng nhu cầu phục vụ du khách đến với Cát Bà. Một số khách sạn đã được được nâng cấp, xây dựng theo tiêu chuẩn khách sạn hiện đại. Hiện tại đã có nhiều khách sạn đạt tiêu chuẩn 2 sao và hiện tại đã có thêm những khách sạn tiêu chuẩn từ 3 đến 4 sao hoạt động rất hiệu quả. Giao thông ở Cát Bà cũng được chú trọng, tuyến đường du lịch khu mặt tùng vịnh, khu cảng cá từ Chợ Cát Bà đến Cát Cò 3 đã được mở rộng. Từ đài phun nước màu, cổng chào, đến các loài hoa đủ màu khoe sắc, rồi những chiếc ghế đá xinh xắn, nhà chờ…những cảnh sắc hài hòa tạo nên khung cảnh thoáng rộng thoải mái để du khách thực sự bắt gặp ngay vẻ đẹp khi đến và khi tạm xa đảo. Tăng cường thêm tuyến Hà Nội-Hải phòng-Cát Bà bằng phương tiện ô tô, tầu thuỷ cao tốc đáp ứng nhu cầu đi lại trong ngày của du khách, Ngành du lịch ở Cát Bà còn phối hợp với các cơ quan liên ngành làm tốt công tác tuyên truyền quảng bá du lịch với nhiều sản phẩm đặc sản của huyện đảo. Đồng thời giới thiệu về du lịch Cát Bà bằng những tờ rơi, pa nô, ảnh quảng cáo và đặc biệt là in đĩa VCD có hình tiếng lồng ghép với nội dung phong phú. Bên cạnh đó còn kết hợp với các đoàn liên ngành kiểm tra và tuyên truyền công tác vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác hoạt động ở các bãi tắm. Nhắc nhở các chủ quản lý bãi tắm làm tốt hơn về công tác cứu nạn ở bãi tắm như xuồng cứu nạn, thông tin liên lạc, chòi quan sát bãi tắm Cát Cò 2,3. Thường xuyên tập luyện nghiệp vụ cứu nạn, phải có địa điểm sơ cứu rõ ràng. Công tác phục vụ khách du lịch nhiệt tình, chu đáo, không làm phiền nhiễu du khách trong thời gian lưu trú tại Cát Bà. 3.2. Một hình ảnh hoàn toàn mới về du lịch biển Đồ Sơn. Đến với Đồ Sơn dịp này, du khách chắc chắn sẽ cảm nhận được nhiều sự thay đổi ở khu du lịch này. Thay vào con đường hẹp, gập gềnh là con đường mới thênh thang rộng mở với 4 làn xe chạy từ cầu Rào đi Đồ Sơn. Suốt chiều dài tuyến đường rộng thênh thang 20km, là những cây xanh, thảm cỏ đủ màu khoe sắc và những dự án về du lịch, khu liên hợp thể thao đa chức năng đã và đang được hoàn thành nhanh chóng. Nếu du khách đi hay về vào buổi tối qua tuyến đường này thì chắc rằng du khách không thể không qua Công viên văn hóa Việt trong lòng Hội chợ triển lãm tầm cỡ quốc tế, bởi nơi đây tích tụ đầy đủ những trò vui chơi giải trí hấp dẫn: như câu cá miễn phí, ẩm thực ba miền, mực nướng trong chòi phù hợp với đôi uyên ương, trượt cỏ cảm giác mạnh, chơi trong sân gôn mini, khu sinh thái nghỉ dưỡng thật quyến rũ… Dọc vỉa hè hai bên đường vào các khu du lịch được lát gạch bloc rất đẹp và sạch sẽ, ngoài hàng ngàn cây xanh, cây dừa vừa được trồng mới, những chiếc ghế đá xinh xắn mới lắp, những điểm dừng chân đầy hấp dẫn, sẽ đáp ứng được bước chân dạo mỏi của những đôi uyên ương, của du khách muốn dừng lại ít phút để ngắm nhìn phong cảnh tuyệt sắc của Đồ Sơn. Cái mới nhất mà Thành phố vừa kết hợp cùng UBND thị xã Đồ Sơn và các ngành là, niêm yết công khai giá các mặt hàng để tránh cảnh chém đẹp, không cho nhân viên xuống đường chèo kéo khách, cho dẹp gần 300 nhà hàng xây dựng không đúng qui hoạch, để trả lại vẻ đẹp phong quang đúng qui hoạch của khu du lịch. Bên cạnh các dự án đã hoàn thành như: khu sinh thái khách sạn bốn sao Đồ Sơn, khu vui chơi giải trí Đảo Dáu đã sẵn sàng phục vụ, thì nước Đồ Sơn không xanh nhưng người dân ở đây mến khách biết làm hài lòng du khách qua những sản vật mang lên từ Đại Dương mênh mông và những ấn tượng khó quên trước khi du khách ra về. Tại khu du lịch Đồ Sơn, công tác giải toả những công trình xây dựng lấn chiếm, di dời các lều quán trên bãi tắm được thành phố quan tâm, chỉ đạo quyết liệt bước đầu tạo sự thông thoáng, sạch sẽ; thường xuyên kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, không để xẩy ra ngộ độc; trang bị và thực hiện tốt công tác cứu hộ, cứu nạn; các dự án hạ tầng được quan tâm thực hiện như khu du lịch đảo Dáu, Bia tưởng niệm đường Hồ Chí Minh trên biển tại bến Nghiêng... khách đến du lịch Đồ Sơn tăng 14,6% (khách quốc tế tăng 15,4%), doanh thu tăng 41,6% so cùng kỳ. Hòn Dáu nhìn từ Đồ Sơn Khu du lịch quốc tế Hòn Dáu được thực hiện bằng việc lấn biển phía chân đồi khu Casino Đồ Sơn khoảng 250 m và về phía đảo Hòn Dáu cũng khoảng 250 m với mục tiêu tạo hình ảnh mới cho ngành du lịch TP Hải Phòng; tôn tạo và gìn giữ những giá trị truyền thống, phục hồi các lễ hội, sinh hoạt đặc trưng miền biển trên cơ sở các làng chài Đồ Sơn xưa; khai thác tốt tài nguyên du lịch biển, chú trọng bảo vệ cảnh quan rừng nguyên sinh. Sẽ tận dụng hết những thế mạnh Đồ Sơn sẵn có, từ sóng, gió, nước đến rừng, núi, đảo để hình thành khu du lịch biển, sinh thái, các trò chơi, kể cả đáp ứng nhu cầu tâm linh, chữa bệnh. Vì đây là công trình hoàn toàn lấn biển, cho nên chúng tôi sẽ mở rộng đảo Dáu giữa biển hiện nay từ 9,24 ha rừng nguyên sinh, lấn ra biển 24 ha để tiếp tục trồng rừng, bờ bên này mở rộng chừng hơn 40 ha nữa, được xây dựng liên hoàn các khu trung tâm hội nghị, biểu diễn tầm cỡ quốc tế; khu du lịch, nghỉ dưỡng cao cấp; khu vui chơi giải trí cuối tuần thông qua các hoạt động tắm biển, công viên biển, thế giới nước, câu cá, tham quan biển, nhảy dù,,,, Nối liền sẽ là cây cầu vòm bê-tông cốt thép chiều dài toàn bộ 421 m, rộng 11 m, thân cầu dài 150 m, uốn cong cách điệu hình hai con chim hải âu. Chiếc cầu này sẽ chỉ dành cho người đi bộ nhằm gìn giữ vẻ nguyên sơ của đảo Dáu. Trước mắt, khi cầu chưa hoàn thành, du khách sẽ được đáp ứng nhu cầu thăm đảo Dáu bằng 10 con tàu nhỏ liên tục chuyên chở. Dự án được chia thành hai giai đoạn, theo thiết kế ban đầu sẽ hoàn thành vào năm 2013. Ai cũng ngại nước biển Đồ Sơn nhiễm phù sa từ các cửa sông đổ ra, trông có vẻ bẩn, không dám xuống tắm. Giải quyết vấn đề này, 2 triệu USD đã được đầu tư để xây một bể bơi thông minh theo công nghệ Pháp, vừa có tác dụng lọc nước, vừa có thể tạo sóng. Hơn thế, sẽ hình thành luôn khu dịch vụ chữa bệnh, shopping, tư vấn làm đẹp... phục vụ đa dạng khách du lịch, từ nam phụ đến lão ấu. Một loại cát trắng mua từ Quảng Nam sẽ được đổ dọc theo chiều dài bờ biển để tạo cho du khách cảm giác sạch sẽ khi tắm biển. Công viên trước cửa đang được đắp hình mấy con khủng long, trồng cây tạo cảnh quan. Cách đây hơn một năm, nơi này vẫn còn là biển khơi đêm ngày sóng vỗ. Bây giờ, biển đã được chặn bằng một bức tường bê-tông chắc chắn. Nhiều nhà đầu tư đã đổ về đây ngắm nhìn công trình này và tỏ ý muốn hợp tác đầu tư mở thêm các khu vui chơi, ẩm thực, giải trí. Tiêu chí ở Khu du lịch quốc tế Hòn Dáu sẽ là rẻ nhất, ngon nhất, lịch sự nhất... Nhiều nhà đầu tư lo ngại chỉ có ba tháng hè như vậy làm sao có lãi. Từ lâu, du khách có ấn tượng ở các bãi biển một năm mài dao, ba tháng chém... Kiểu kinh doanh ăn xổi ở thì này khiến thương hiệu du lịch Đồ Sơn mai một dần. Điều quan trọng nhất là làm thế nào kéo du khách ra Đồ Sơn ngay trong cả mùa đông. Muốn như vậy, phải có một hệ thống các dịch vụ đồng bộ, hoàn chỉnh, thường xuyên thay đổi mới lạ để hấp dẫn du khách từ khi đặt chân đến lúc ra về. Sẽ có nhiều người ưa thích ra biển mùa đông hơn là mùa hè, khi các điều kiện được đáp ứng hoàn hảo. 4. Những vấn đề còn tồn tại trong kinh doanh du lịch nghỉ biển ở Hải Phòng. 4.1.Vấn đề về cơ sở kỹ thuật. Để Hải Phòng trở thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế, du lịch thành phố vẫn còn những bất cập chưa thật sự hấp dẫn du khách. Tại các khu du lịch trọng điểm Đồ Sơn, Cát Bà việc thực hiện niêm yết giá dịch vụ du lịch chưa được thường xuyên; vẫn còn các điểm kinh doanh dịch vụ không đúng quy hoạch làm mất mỹ quan tại khu du lịch Đồ Sơn; các bãi tắm khu du lịch Cát Bà còn thiếu phương tiện cứu hộ và điều kiện cấp cứu, giá phòng ngủ tăng giảm thất thường theo lượng khách. Du lịch sinh thái đa dạng song còn thiếu tính chuyên nghiệp, làm cho du khách chưa mặn mà với các tua du lịch; các doanh nghiệp lữ hành hoạt động hiệu quả thấp, qua kiểm tra 17 doanh nghiệp lữ hành nội địa và quốc tế chỉ có 8 doanh nghiệp hoạt động. Hệ thống khách sạn tăng về số lượng song chất lượng đạt hạng sao, đáp ứng nhu cầu của khách cao cấp (VIP) còn hạn chế, chưa có khách sạn 5 sao. Vẫn còn thiếu sự gắn kết giữa du lịch với các hoạt động thương mại, dịch vụ; số ngày lưu trú của khách thấp, khả năng chi tiêu không cao; sản phẩm du lịch. , dịch vụ còn thiếu đặc sắc. Một số dự án đầu tư du lịch triển khai còn chậm. Chất lượng và số lượng cảng biển: Việt Nam tuy có nhiều cảng biển nhưng hầu hết đều là cảng bốc dỡ hàng hoá. Một vài cảng bước đầu thu xếp để có thể đón tiếp khách du lịch như cảng Sài Gòn, Đà Nẵng. Tuy nhiên do diện tích cảng hẹp, việc đón tiếp khách lại không thường xuyên nên việc thiết kế, xây dựng chưa phù hợp với một cảng du lịch. 4.2. Vấn đề môi trường: Với quy mô to lớn của sự phát triển du lịch biển hiện nay, đòi hỏi tìm kiếm những vùng đất mới để phân bố các cơ sở nghỉ mát du lịch. Môi trường du lịch biển là môi trường du lịch mỏng manh, dễ bị phá vỡ trước quá trình địa lý hiện đại và sự tác động của các hoạt động kinh tế của con người. Tập trung những người đi nghỉ trên một sự căng thẳng không kham nổi có thể huỷ hoại giá trị thiên nhiên của các địa điểm ấy. Khi quy hoạch du lịch biển phải chú ý nghiêm ngặt đến vấn đề bảo vệ đất đai và môi trường vùng biển có lợi cho việc xây dựng và phát triển vùng biển sau này. Trong trường hợp không thể khai thác ngay, cần phải gìn giữ tránh xây dựng tràn lan các công trình ít giá trị. Điển hình nạn lấn chiếm đất dai du lịch biển bằng những nhà cửa riêng lẻ, kiến trúc tầm thường, các xí nghiệp, bến bãi kho tàng bừa bộn hiện nay. 4.3. Các vấn đề khác. Mặt khác, công tác tuyên truyền quảng bá sản phẩm còn rất hạn chế. Nội dung nghèo nàn. Các công ty chưa có chiến lược marketing, đăc biệt trong quan hệ quốc tế: hầu như chưa có các văn phòng đại diện ở nước ngoài, chưa có đầy đủ thông tin hấp dẫn trên các tờ gấp, trang web… Những mảng thông tin giới thiệu về đất nước, con người chưa đầy đủ hấp dẫn nên chưa giúp cho khách hiểu về những nét đặc sắc, độc đáo, truyền thống văn hoá dân tộc của con người Việt Nam trước khi họ quyết định đi du lịch. Trên thực tế, thì nhu cầu về du lịch tăng lên rất mạnh kể cả du lịch nội địa cũng như quốc tế, những khả năng cung cấp của chúng ta sẽ khó khăn trong việc đáp ứng kịp cung cũng như cầu. Phần cung ở đây là các khách sạn, nhà hàng, nhà dân, giao thông...(nói chung là hạ tầng du lịch). Những địa chỉ thực sự là điểm sáng an toàn toàn và chất lượng, để tạo nên những sản phẩm phục vụ trong du lịch là rất khiêm tốn thậm chí còn thiếu thốn. Phần cầu có nhiều mặt, nhưng chủ yếu là nguồn nhân lực và môi trường trong lành, không bị ô nhiễm đang là vấn đề thiếu và yếu. Hai khía cạnh này là vấn đề nóng bỏng, cấp bách cần giải quyết cụ thể ngay. Điều nữa, lượng khách tăng nhưng chất lượng và hiệu quả không cao. Có nhiều lý do để nói về sự yếu kém này. Do vậy, năm 2007 và những năm tiếp theo, cần có những biện pháp thiết thực hơn nữa để nâng cao chất lượng, đặc biệt là hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh. Điều nữa, về khả năng quản lý và tốc độ tăng trưởng còn nhiều vấn đề cẩn mạnh dạn sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp. Phát triển nhanh nhưng khả năng quản lý chưa theo kịp, trong đó có quản lý lữ hành. Thời gian tới, cần đặc biệt chú trọng tăng cường hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực du lịch. Phần 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hạn chế tác động bất lợi của thời vụ du lịch đến sự phát triển du lịch ở Hải Phòng. Một số đề xuất và kiến nghị. Thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố; Chiến lược Phát triển bền vững thành phố giai đoạn 2006-2010, định hướng đến 2020; Chương trình hành động của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố, từ tình hình, điều kiện thực tiễn, mục tiêu phát triển du lịch thành phố đề ra là: Từng bước xây dựng Hải Phòng thành một trong những trung tâm du lịch quốc tế, đào tạo nhân lực du lịch, quảng bá xúc tiến du lịch cho các địa phương phía Bắc. Tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch theo hướng hiện đại, đồng bộ; đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch; ưu tiên đầu tư cho khu du lịch trọng điểm Cát Bà và Đồ Sơn; tăng cường hợp tác du lịch trong nước và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2010 đạt trên 5,6 triệu lượt khách du lịch; GDP du lịch chiếm 4,5% tỷ trọng GDP của kinh tế thành phố. Trước hết phải khẳng định rằng Cát Bà là một quần đảo sinh thái điển hình có giá trị du lịch biển vào loại bậc nhất Việt Nam. Bởi vậy các nhà kinh doanh du lịch ở đây không thể chỉ rừng lại ở việc đảm bảo cho khách đi tham quan, nghỉ dưỡng, mà còn phải biết giáo dục môi trường cho cả du khách và cộng đồng địa phương. Cho nên, việc cần làm ngay là phải hình thành tại đây một khu du lịch biển mang tầm cỡ quốc gia hoặc quốc tế, cần có một Ban Quan lý khu du lịch để quản lý và khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và hiệu quả. Đồng thời, cần hoạch định chiến lược phát triển du lịch khu vực bằng một số biện pháp cụ thể như xây dựng quy hoạch bảo tồn thiên nhiên Cát Bà để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nguồn vốn đầu tư. Đối với khu du lịch trọng điểm Đồ Sơn, Cát Bà cần hoàn thiện quy hoạch chi tiết, tập trung đầu tư theo hướng hiện đại, đồng bộ; khẩn trương thực hiện các dự án khách sạn cao cấp, khu du lịch quốc tế đảo Dáu, tháp Tường Long, sân gôn Đồ Sơn... quan tâm xây dựng các bãi tắm trở thành khu vui chơi giải trí, tắm biển hấp dẫn du khách. Chiến lược phát triển mới của thành phố là : Xác định mục tiêu phát triển du lịch Hải Phòng theo hướng du lịch sinh thái biển kết hợp với du lịch văn hóa, lễ hội, Sở Du lịch đã tham mưu với Ủy ban nhân dân thành phố tập trung chỉ đạo đầu tư, nâng cấp một số điểm du lịch văn hóa, từng bước hoàn thiện các công trình xây dựng hạ tầng phục vụ du lịch tại hai trọng điểm du lịch là: Đồ Sơn và Cát Bà, chú trọng phát triển nguồn nhân lực du lịch, tiếp tục kêu gọi các dự án đầu tư, thường xuyên hướng dẫn, nắm bắt và kiểm tra các hoạt động du lịch, có kế hoạch điều chỉnh để phát triển du lịch phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay của thành phố. II.Các phương hướng và giải pháp chính làm giảm những tác động bất lợi so tính thời vụ trong du lịch 1 . Làm tăng mức độ phù hợp tối ưu giữa cung và cầu ♦ Các biện pháp chủ yếu ở đây là : Tổ chức lao động hợp lý – các doanh nghiệp có quỹ lao động cơ hữu và lao động hợp đồng theo thời vụ . Liên kết với các đơn vị kinh doanh bên cạnh để hổ trợ về nguồn nhân lực lúc quá tải . Tạo công ăn việc làm ngoài thời vụ du lịch cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. 2. Làm kéo dài độ dài của thời vụ du lịch: - Tăng thêm các loại hình (kinh doanh)dịch vụ bổ xung : giải trí , tiêu khiển , thể thao, câu lạc bộ. - Dùng chính sách khuyến khích , khen thưởng ngoài thới vụ chính : giảm giá ,thêm dịch vụ không mất tiền , tặng quà, tặng tỷ giá hối đoái. 3. Tạo điều kiện cho thời vụ thứ hai: Phải xác định được những thể loại du lịch mới có thể phát triển đạt hiệu quả kinh tế .Việc đánh giá xác định phải dựa trên cơ sở những tiêu chuẩn sau: Tính hấp dẫn của tài nguyên du lịch vào thời gian ngoài du lịch chính Khả năng huy động những tài nguyên du lịch chưa được khai thác . Nguồn Khách triển vọng theo số lượng và cơ cấu . Chất lượng và cơ cấu của cơ sở vật chất kỹ thuật đã có(đánh giá theo hướng xem cơ sở vật chất kỹ thuật đó có thể thoã mãn được những nhu cầu của các đối tượng khách du lịch khác. Lượng vốn cần thiết để đầu tư xây dựng thêm trang thiết bị phục vụ cho mùa du lịch thứ hai . ● Một số biện pháp nhằm phát triển mạnh du lịch biển Việt Nam: Khai thác tiềm năng các điểm du lịch ven biển. Thực hiện nghiêm ngặt chính sách bảo vệ môi trường. Liên kết chặt chẽ với ngành hàng không hàng hải. Giải pháp tốt đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch trong đó có những chuyên đề đào tạo riêng cho du lịch biển. Nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác marketing. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cả vĩ mô, vi mô, thủ tục hành chính gọn nhẹ, giảm giá visa, chính sách thuế hợp lý, xây dựng hạ tầng cơ sở, giới thiệu du lịch Việt Nam trên các phương tiện đại chúng. Giữ gin an ninh trật tự, bảo đảm an toàn cho du khách. Nâng cao chất lượng các tour du lịch. Hợp tác chặt chẽ giữa các hãng lữ hành cùng hoạt động du lịch biển. ● Xây dựng thương hiệu du lịch Hải Phòng phải được coi là mối quan tâm hàng đầu, thành phố cần tiếp tục đẩy mạnh rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thành phố Hải Phòng đến năm 2010 và định hướng 2020 gắn với phát triển văn hoá và bảo vệ môi trường; xây dựng các chương trình, kế hoạch dài hạn về huy động các nguồn lực đầu tư cho phát triển du lịch, tập trung đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch theo hướng hiện đại, đồng bộ; nâng cao chất lượng các tuyến và các hình thức du lịch hiện có, khai thác mở thêm các tuyến và các hình thức du lịch mới; đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch, xây dựng và phát triển các sản phẩm du lịch chủ yếu; mở rộng các loại hình thông tin, quảng bá, xúc tiến du lịch; tạo sự liên kết, hợp tác có tổ chức chặt chẽ trong các doanh nghiệp du lịch của thành phố nhằm tăng cường sự cạnh tranh trong quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Kết luận Hiện nay du lịch Hải Phòng được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn và là khâu đột phá để phát triển kinh tế thành phố.Năm 2006, Ngành du lịch Hải Phòng có nhiều cơ hội cũng như những thách thức. Những thành tựu đạt được trong những năm qua, nhất là năm 2006 sẽ tạo đà phát triển tốt cho năm 2007. Vị thế thành phố du lịch cảng Hải Phòng tiếp tục được duy trì nâng cao và bừng sáng, đó cũng là nhân tố khách quan để chúng ta tiếp tục đầu tư mạnh cả chiều rộng và chiều sâu để phát triển cho được một chiến lược du lịch . Năm nay, đặt ra những thách thức lớn, đó là khả năng của chúng ta đáp ứng cơ hội hội nhập là rộng mở, cần sẵn sàng chuẩn bị đủ năng lực để đáp ứng.Hi vọng trong tương lai không xa, Du lịch Hải Phòng sẽ có một bộ mặt hoàn toàn khác, mới mẻ hơn và tiến bộ hơn, xứng đáng với những gì mà thiên nhiên đã ban tặng , để Du lịch Hải Phòng sẽ như con rồng bay vào thế kỷ mới. Các tài kiệu tham khảo: 1.Giáo trình Kinh tế du lịch trường KTQD, NXB LĐ-XH 2006. 2. Tạp chí du lịch Việt Nam: số 4/ 2001 số 12/ 2001 số 5/ 2000 số 8/ 2000 số 12/ 2000 số 5/ 2006 số 8/ 2005 3. Trang cơ sở dữ liệu văn hoá du lịch của thành phố Hải Phòng. 4. Trang website của Hải Phòng city: www.haiphong.gov.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc67647.DOC
Tài liệu liên quan