Đề tài Tìm hiểu về nền văn minh phương Đông cổ đại

MỞ ĐẦU Nói đến lịch sử văn minh nhân loại, người ta thường nghĩ đến những giá trị to lớn mà loài người đã đạt được trong thời đại ngày nay. Nhưng chúng ta cần phải nhìn nhận lại quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, ngay từ rất sớm - thời cổ đại, loài người đã bước vào xã hội văn minh của mình, chính khu vực phương Đông chứ không phải là khu vực nào khác, những thành tựu văn minh rực rỡ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã được hình thành và phát triển rực rỡ. Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Mặc dù khái niệm Đông phương học (Oriental Studies) xuất phát từ phương Tây song vai trò của Đông phương học nói chung, văn minh phương Đông nói riêng càng ngày càng được giới khoa học thế giới khẳng định và quan tâm. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, . phương Đông chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đến những nền văn hoá - văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. Nói đến phương Đông, người ta cũng nhắc ngay đến các đại ngữ hệ như Nam Á, Nam đảo, Hán - Tạng, Thái - Kađai, Antai .; đến những công trình văn hoá kì vĩ như Ăngco Vát, Vạn lí trường thành, Borobudur, các kim tự tháp Ai Cập . Và, từ góc nhìn văn hoá - văn minh hiện đại, phương Đông còn làm cho thế giới ngạc nhiên về “sự thần kì Nhật Bản”, về hàng loạt các con rồng châu Á như Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, . Tóm lại, phương Đông là một khu vực văn hoá-văn minh có “bản sắc” riêng cả về phương diện truyền thống lẫn hiện đại. Vì vậy, tìm hiểu về nền văn minh phương Đông cổ đại có một ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta hiểu rõ bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự phát triển của lịch sử khu vực này. Ngoài ra, nó còn mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình hội nhập của khu vực nói chung và đất nước nói riêng trong thời đại ngày nay. KẾT LUẬN Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng có cơ sở hình thành, quá trình phát triển rồi đến diệt vong. Văn minh cổ đại phương Đông cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung ấy. Chúng ta khẳng định chắc chắn rằng, ngay từ thời cổ đại, chính phương Đông chứ không phải phương Tây là “cái nôi”, là “trung tâm” của nền văn minh nhân loại. Với cơ sở kinh tế nông nghiệp lúa nước, cư dân phương Đông sớm bước vào xã hội có giai cấp từ rất sớm, nhà nước được xây dựng với thiết chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền tất cả những điều ấy đã tạo nên một cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội vững chắc cho sự hình thành của nền văn minh phương Đông. Khi nhắc đến phương Đông, nhân loại sẽ không bao giờ quên được nơi đây chính là quê hương của cây lúa nước, là quê hương của những tôn giáo lớn của thế giới như Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo .gắn liền với Thích Ca Mâu Ni, Nhà tiên tri Mô-ha-mét, Khổng Tử - người được Vua Khang Hy nhà Thanh phong tặng là “Vạn thế sư biểu”, là nơi bước vào xã hội có giai cấp sớm nhất cũng như chế độ phong kiến điển hình nhất. Nhưng lịch sử văn minh phương Đông đâu chỉ là của riêng một các nhân nào, vượt lên trên tất cả, chính sức lao động của bàn tay và khối óc của cư dân phương Đông đã xây dựng nên những giá trị vĩnh hằng. Nhân loại sẽ không khỏi ngạc nhiên nếu biết rằng với những điều kiện thô sơ như thế nhưng ở phương Đông đã xuất hiện những Kim tự tháp trường tồn với thời gian, vườn treo Babylonia kỳ vĩ, kiệt tác Angkor Vatt, Angkor Thom, Vạn Lý Trường Thành Nhìn chung, qua mọi thời kỳ thăng trầm của lịch sử, nền văn hoá phương Đông vẫn toả sáng. Những “chiếc nôi” văn hoá cổ đại phương Đông vẫn có sức lan toả mạnh mẽ ra các khu vực xung quanh: Nhiều yếu tố văn hoá Ấn Độ được truyền bá sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Bắc Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới; văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản, Korea, Việt Nam và các nước khác; Văn hoá Ai Cập - Lưỡng Hà mặc dù tồn tại không lâu song những thành tựu của nó không chỉ có ảnh hưởng trong khu vực mà còn toả sáng ra các khu vực khác của thế giới, v.v. Cùng với sự lan toả của các nền văn hoá cổ đại là sự xuất hiện của các nền văn hoá mới như Arập, Nhật Bản, Korea, v.v. Bức tranh văn hoá phương Đông, do vậy càng phong phú, đa dạng, nhiều sắc vẻ. Thêm nữa, vừa đấu tranh chống lại sự đô hộ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, các dân tộc phương Đông vừa tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho vườn hoa văn hoá của dân tộc mình. Bức tranh văn hoá phương Đông từ đây càng ngày càng rực rỡ sắc màu. Trong giai đoạn hiện nay, những giá trị của văn minh phương Đông vẫn còn đang lan tỏa rộng khắp. Những giá trị ấy như một liều thuốc tinh thần để con người phương Đông quay về với cội nguồn, quay về tìm hiểu quá khứ rực rỡ của ông cha, cũng như làm cơ sở cho việc tiếp thu những giá trị mới của nền văn minh nhân loại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Almanach những nền văn minh thế giới – NXB VH-TT, H.1995 2. Will Durant: Lịch sử văn minh Trung Hoa - NXB VH-TT, TP.HCM 1997 3. Đặng Đức An (chủ biên): Những mẫu chuyện lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục, H.2003 4. Lê Phụng Hoàng (chủ biên): Lịch sử văn minh thế giới - NXB Giáo dục - 1999 5. Cao Xuân Huy: Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn học, H.1995 6. Vũ Dương Ninh (chủ biên): Lịch sử văn minh thế giới - NXB Giáo dục, H.2000 7. Lương Ninh (chủ biên): Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục, H.2000

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 12311 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về nền văn minh phương Đông cổ đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của sông Hoài trong gần 700 năm sau. Phù sa Hoàng Hà đã ngăn chặn dòng chảy của sông Hoài và làm hàng ngàn người mất nhà ở. Mỗi lần đổi dòng nó khi thì đổ ra biển Hoàng Hải, khi thì ra vịnh Bột Hải. Hoàng Hà có dòng chảy như ngày nay từ năm 1897 sau lần đổi dòng cuối cùng năm 1855. Hiện tại Hoàng Hà chảy qua Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông và đổ ra biển Bột Hải (vịnh Bột Hải). Màu nước vàng của con sông là do phù sa mà nó mang theo. Hàng thế kỷ của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này chảy ở độ cao lớn hơn so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở nên nguy hiểm hơn. Ngập lụt của Hoàng Hà đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp trong lịch sử. Mặc dù vậy, sau khi nước lũ rút đi, nó đã để lại một khối lượng phù sa khổng lồ, tạo nên đồng bằng phì nhiêu, thuận lợi cho cư dân quần cư để sinh sống. Đôi khi người ta còn gọi nó là Trọc Lưu, nghĩa là dòng nước đục. Thành ngữ Trung Quốc "Khi nước Hoàng Hà trong" ám chỉ điều không bao giờ xảy ra. Sông Dương Tử, còn có tên gọi phổ biến hơn là Trường Giang, là con sông dài nhất châu Á. Sông Trường Giang dài khoảng 6.300 km, bắt nguồn từ phía tây Trung Quốc - tỉnh (Thanh Hải) và chảy về phía đông đổ ra Đông Hải, Trung Quốc. Thông thường sông này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa bắc và Hoa nam Trung Quốc, mặc dù sông Hoài  cũng đôi khi được coi như vậy. Tên gọi Dương Tử nguyên thủy là tên gọi của người dân khu vực hạ lưu sông này để chỉ khúc sông chảy qua đó. Vì được phổ biến qua những nhà nhà truyền giáo châu Âu nên tên “Dương Tử” đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ cả con sông (Yangtse, Yangtze Kiang). Con sông này đôi khi còn được gọi là Thủy lộ Vàng (Golden Waterway). Ngoài ra, con sông này mang nhiều tên khác nhau tùy theo khu vực mà nó chảy qua. Ở cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng, nó được gọi là Vbri-chu. Ở thượng nguồn, thuộc tỉnh Thanh Hải nó được gọi là Đà Đà Hà, Đương Khúc Hà, Thông Thiên Hà. Đoạn từ Thanh Hải chảy đến Nghi Tân tỉnh Tứ Xuyên được gọi là Kim Sa Giang. Đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương được gọi là Xuyên Giang . Đoạn từ Nghi Đô tỉnh Hồ Bắc đến Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam được gọi là Kinh Giang (xưa là đất Kinh Châu). Cuối cùng, khi chảy qua khu vực Dương Châu tỉnh Giang Tô nó được gọi là Dương Tử Giang.  Trường Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc về chiều dài, lượng nước chảy, diện tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế. Trường Giang bắt nguồn từ vùng cao nguyên tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây Tạng vào địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đông bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tô rồi đổ ra biển ở giữa Hoàng Hải và Đông Hải. Sông Trường Giang là đầu mối giao thông quan trọng của Trung Quốc. Nó nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Việc vận chuyển trên sông rất đa dạng từ vận chuyển than, hàng hóa tiêu dùng và hành khách. Các chuyến tàu thủy trên sông trong vài ngày sẽ đưa ta qua các khu vực có phong cảnh đẹp như khu vực Tam Hiệp ngày càng trở nên phổ thông hơn làm cho du lịch Trung Quốc phát triển.             Hoàng Hà và Trường Giang  từ xưa thường gây ra nhiều lũ lụt, nhưng qua đó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành cái nôi của nền văn minh Trung Quốc…             Ngoài ra, nền Văn minh sông Hồng của Việt Nam ở thời cổ đại cũng được hình thành trên lưu vực các con sông như: sông Hồng, sông Mã.             Như vậy, những trung tâm văn minh lớn của phương Đông cổ đại, mặc dù thời gian xuất hiện có khác nhau nhưng cùng có chung đặc điểm vô cùng quan trọng, đó là hình thành trên lưu vực các con sông lớn.         2.Văn minh cổ đại phương Đông được hình thành trên nền nông nghiệp lúa nước                 Với những điều kiện vô cùng thuận lợi, đó là: thuỷ lượng cao, khí hậu ấm áp, đất đai màu mỡ, dễ canh tác. Cho nên, ngay từ rất sớm, cư dân phương Đông đã bước vào nền văn minh nông nghiệp, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lúa nước. Nền kinh tế phương Đông mang nặng tính chất tự nhiên, nông nghiệp chủ đạo. Do đặc điểm của tự nhiên ở vùng sông nước, cho nên có rất nhiều đồng bằng màu mỡ, phì nhiêu, có nguồn nước dồi dào do các con sông lớn cung cấp...Do đó, nền kinh tế phương Đông có những đặc thù riêng, kinh tế tự nhiên chiếm địa vị thống trị. Hoạt động kinh tế chủ đạo là nông nghiệp, qui mô sản xuất nhỏ, gắn liền với công tác thủy lợi. Vì nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của phương Đông nên tư liệu sản xuất chính là ruộng đất. Không chỉ trong thời kỳ cổ đại mà trong suốt chiều dài lịch sử của các quốc gia phương Đông, vấn đề ruộng đất luôn là một vấn đề hết sức quan trọng. Kinh tế công thương ở phương Đông có phát triển nhưng rất yếu ớt, chỉ là một hoạt động kinh tế phụ hay kinh tế thứ yếu trong các gia đình nông dân. Sự phân công chuyên môn hóa giữa các ngành chưa diễn ra một cách sâu sắc, vì năng suất lao động thấp kém, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, công cụ lao động thô sơ. Những sản phẩm của nền kinh tế phương Đông thì rất đơn điệu, chủ yếu là nông sản, lương thực thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết khác.             Bên cạnh nông nghiệp và luôn luôn đi cùng với nông nghiệp, cư dân phương Đông còn thể hiện trình độ văn minh của mình thông qua công cuộc chinh phục tự nhiên, đặc biệt là trong công tác trị thủy và làm thủy lợi. Điều kiện tự nhiên của phương Đông vô cùng thuận lợi đối với nền kinh tế nông nghiệp nhưng nó cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức. Vì vậy, để có được cuộc sống ổn định lâu dài, cư dân phương Đông trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Đông không chỉ nghiêng về hoà đồng, thuận tự nhiên mà họ còn tìm cách từng bước chinh phục tự nhiên để phục cho cuộc sống của mình.             Một trong những điều kiện thuận lợi khác của phương Đông chính là việc cư dân phương Đông đã sớm bước vào thời đại kim khí, tức là có sự xuất hiện của những công cụ lao động bằng kim khí như đồng đỏ, đồng thau và sắt. Sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí đã làm biến đổi to lớn xã hội loài người. Ngay từ thiên niên kỷ IV TCN, con người đã biết phát minh ra và sử dụng công cụ bằng đồng, đầu tiên là đồng đỏ. Vào khoảng 5500 năm trước đây, cư dân Tây Á và Ai Cập đã biết sử dụng đồng đỏ. Đến khoảng 4000 năm trước đây thì nhiều cư dân trên trái đất đã biết dùng đồng thau. Từ đồng thau, người ta đã biết chế tạo ra nhiều loại công cụ như: lưỡi cày, lưỡi cuốc, rìu, dao...Đến khoảng cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỉ I TCN, con người đã biết chế tạo ra công cụ lao động bằng sắt-một thứ kim loại cứng và sắc hơn đồng rất nhiều. “Sắt cho phép người ta có thể trồng trọt trên những diện tích rộng lớn hơn, có thể khai hoang những miền rừng rú rộng lớn hơn; sắt khiến cho người thợ thủ công có được một công cụ cứng và sắc mà không có một loại đá nào hay một loại kim khí quen thuộc nào có thể đương đầu với nó được”. Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong suốt thời kỳ đồ đá, cuộc sống của con người từ chỗ sống bấp bênh, đến chỗ tìm kiếm thức ăn để nuôi sống mình và lúc này, vào buổi đầu của thời đại kim khí, sản phẩm họ làm ra không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa thường xuyên. Với Ai Cập, ngay từ thời kỳ sơ khai,  nền nông nghiệp đã bắt đầu xuất hiện với công cụ sản xuất đều làm bằng đá, bằng gỗ, phương pháp canh tác thô sơ, lạc hậu; người ta chỉ biết xới đất lên rồi gieo hạt giống. Tuy vậy, nhờ đất đai màu mỡ nên đã được thu hoạch một cách đều đặng. Theo các văn tự cổ, thời Cổ vương quốc đã có những loại lúa mì đặc biệt ở Thượng và Hạ Ai Cập; nghề trồng nho, trồng cây ăn quả và trồng cây gai cũng được nói đến trong các văn tự cổ. Sang đến thời kỳ Tân vương quốc, nền kinh tế Ai Cập chủ yếu vẫn dựa trên sự phát triển của kinh tế nông nghiệp tưới tiêu. Ở thời kỳ này, nền nông nghiệp đã có bước phát triển mới. Bước tiến đó thể hiện trước hết trong kỹ thuật canh tác. Công cụ bằng đồng thau được sử dụng rộng rãi trong sản xuất, người ta biết dừng loại cày cán đứng có lỗ cầm và biết dùng vồ để đập đất. Từ thời Cổ vương quốc, người Ai Cập đã biết chú trọng đến công tác thủy lợi và đã tiến hành xây dựng nhiều công trình thủy lợi có quy mô to lớn. Herodote cũng nói rằng vùng châu thổ sông Nil chằng chịt những kênh đào. Nhà nước còn đặt ra chức nông quan có nhiệm vụ trông nom các công trình thủy lợi. Ở thời kỳ Trung vương quốc, các Pharaon đã hiểu một cách sâu sắc tác dụng của các công trình thủy lợi và tầm quan trọng của việc quan sát mực nước sông Nil đối với sản xuất nông nghiệp. Vì thế, chính quyền nhà nước rất quan tâm đến công tác thủy lợi. Có quy mô to lớn nhất trong thời kỳ này là công trình sửa chữa hồ Phayum thành một bể chứa nước nhân tạo rộng lớn. Đến thời vương triều XII, người ta đã đào một con kênh dẫn nước nối từ hồ tới sông Nil dài 19 km. Sang thời Tân vương quốc, nhà nước đã cử quan Vizir lãnh đạo mọi công việc sản xuất nông nghiệp cũng như công tác thủy lợi trong cả nước. Với Lưỡng Hà, ngay từ đầu, nền kinh tế nông nghiệp cũng khá phát triển. Do được phù sa bù đắp từ hai con sông Tigris và Euphrates, đất đai ở khu vực này rất màu mỡ, dày đặt thích hợp cho việc gieo trồng lúa mạch lúa mì. Vì khí hậu Lưỡng Hà nóng và khô nên lượng mưa hằng năm không đáng kể; do vậy nông nghiệp chủ yếu được tiến hành trên những vùng đất đã được nước sông tưới tiêu tự nhiên hay bằng sức lao động của con người. Từ xa xưa, cư dân Lưỡng Hà đã biết chăm lo đến công tác thủy lợi, đào kênh máng để tưới tiêu cho đồng ruộng. Dưới thời thống trị của vương triều III Ur, kinh tế nông nghiệp đã được phục hưng và phát triển mạnh mẽ. Công tác thủy lợi được phục hồi, sửa chữa và đào đắp thêm. Cư dân Lưỡng Hà thời kỳ này đã biết dùng gầu, guồng đơn giản để đưa nước lên cao. Việc sử dụng sức kéo của bò, ngựa cũng được phổ biến rộng rãi, diện tích canh tác được mở rộng, sản phẩm nông nghiệp phong phú. Bên cạnh ngũ cốc, chà là, người Lưỡng Hà cũng bắt đầu biết trồng và và sử dụng nho. Sang thời kỳ trị vì của vua Hammurabi, với sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí như đồng và sắt, điều này đã thúc đẩy cho nền kinh tế nông nghiệp phát triển; công tác thủy lợi được triển khai rộng, nó không chỉ là công việc của nhà nước mà đã trở thành việc của toàn dân, những điều luật trong bộ luật Hammurabi đã minh chứng cho điều ấy. Sản phẩm làm ra trong nông nghiệp không những đủ tiêu dùng mà còn được tiến hành trao đổi mua bán với các vùng lân cận, nhất là cho các bộ lạc chăn nuôi ở Xiri. Nền kinh tế nông nghiệp của Lưỡng Hà tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian trị vì của Vua Nabuchodonosor, với sự quan tâm của nhà nước phong kiến, kinh tế nông nghiệp tiếp tục giữ vị trí hàng đầu trong hoạt động kinh tế ở Tân Babylone. Ngay từ thời tiền sử, với nền văn hóa sông Ấn, cư dân Ấn Độ đã tiến hành làm kinh tế nông nghiệp. Với điều kiện thuận lợi do sông Ấn và sông Hằng mang lại, kinh tế nông nghiệp ở Ấn Độ từng bước phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Ấn Độ cũng là một trong những quốc gia có được nền văn minh lúa nước. Ở Ấn Độ, các vị Vua vẫn được xem là người sở hữu tối cao về ruộng đất, nhưng cũng thừa nhận hình thức chiếm hữu tư nhân. Cây lúa nước vẫn được xem là cây trồng chính của cư dân Ấn Độ. Sự xuất hiện của nàng Sita trong bộ sử thi Ramayana đã minh chứng cho điều này. Cuộc xung đột của Rama và Ranava phải chăng là sự đấu tranh trên con đường phát triển giữa cư dân nông nghiệp ở lưu vực sông Hằng với cư dân săn bắn và hái lượm trong vùng núi Vindia. Từ khi cư dân Arya định cư ở lưu vực sông Hằng, cư dân ở đây đã bắt đầu biết dùng ngựa và trồng lúa nước. Họ đã biết sử dụng công cụ lao động bằng đồng. Từ năm 800 TCN, kỹ nghệ sắt đã được áp dụng, đã thúc đẩy nghề rèn đúc kim khí, thợ mộc và thợ rèn là những tầng lớp được xã hội quý trọng. Sang thời trị trị vì của vương triều Morya, kinh tế nông nghiệp tiếp tục được phát triển, nông dân tự nhận ruộng đất của làng để tự canh tác và phải nộp từ 1/6 đến ¼ sản phẩm, tùy theo chất lượng đất và thuế được tính theo diện tích, căn cứ vào đó  mà chính quyền địa phương phải thu thuế và nộp lên triều đình. Gắn liền với nông nghiệp là thủy lợi. Nhà nước hết sức quan tâm đến công tác thủy lợi, như tổ chức đào kênh, đắp đập, đê...Một viên quan thời Chandragupta được giao trọng trách đắp đập tạo nên một hồ nước gần Girnar. Đập này vẫn còn có tác dụng đến 800 năm sau. Thủy lợi là một nhiệm vụ quan trọng của quan chức địa phương và cũng là một chính sách quan trọng của nhà nước nhằm kiểm soát chính trị trên toàn lãnh thổ. Nhà nước cũng định cả mức thuế đối với nông dân nói chung và nhất là những người có sử dụng các công trình thủy lợi do nhà nước làm. Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước được phát triển rất mạnh mẽ  trong suốt chiều dài lịch sử của Trung Quốc. Ngay từ thời nhà Hạ (khoảng thế kỷ XXI-XVI TCN), cư dân Trung Hoa cổ đại đã biết sử dụng đồng đỏ, mặc dù số lượng còn rất ít. Sang đến thời Nhà Thương (khoảng thế kỷ XVI-khoảng năm 1066 TCN), đồng thau đã được sử dụng một cách phổ biến. Thời Tây Chu, do cư dân đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm, nhờ việc quy hoạch đồng ruộng gắn liền với hệ thống tưới nước, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, nền kinh tế Trung Quốc lúc bây giờ còn mang nặng tính chất tự nhiên. Đến thời Xuân Thu-Chiến Quốc, tiến bộ nhất trong lĩnh vực kinh tế lúc bây giờ là sự xuất hiện của công cụ lao động bằng sắt. Các nhà Khảo cổ học đã phát hiện được một số đồ sắt cuối thời Xuân Thu trong một ngôi mộ cổ ở Hồ Nam mà ngày xưa là nước Sở. Thời Chiến Quốc, công cụ sắt như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, liềm, búa được sử dụng một cách phổ biến. Họ cũng biết dùng súc vật để làm sức kéo. Bên cạnh sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí, vấn đề thủy lợi ở thời kỳ này cũng được coi trọng. Nước Ngô thời Phù Sai (thế kỷ V TCN) đã đào một hệ thống kênh nối Trường Giang với sông Hoài và nối sông Hoài với mấy con sông khác ở lưu vực sông Hoàng Hà. Đến thời Chiến Quốc, các công trình thủy lợi lớn lại càng nhiều hơn. Các nước Ngụy, Tần đều có kênh đào khá dài. Quan hệ sở hữu ruộng đất cũng có sự thay đổi. Trong giai đoạn trước, toàn bộ ruộng đất ở Trung Quốc đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, nhưng bắt đầu từ thời Xuân Thu, chế độ ruộng đất của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư đã xuất hiện ngày càng nhiều. Xã hội phương Đông, như đã trình bày ở  trên, là xã hội nông nghiệp. Nền sản xuất cổ truyền của các xã hội phương Đông về cơ bản đều là nền sản xuất nông nghiệp. Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đông nói chung đều thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có mặt của những con sông lớn: Sông Nil ở Bắc Phi; sông Tigris, sông Euphrates ở Tây Á; sông Ấn (Indus), sông Hằng (Gangga) ở Ấn Độ; sông Hoàng Hà, sông Dương Tử (Trường Giang) ở Trung Quốc; sông Mêcông ở bán đảo Trung – Ấn, sông Mênam ở Thái Lan, sông Hồng ở Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông này tạo ra những đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phương Đông và thế giới. Và cũng chính từ các dòng sông ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn hoá - văn minh phương Đông. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu lại đưa ra các cụm từ như “văn minh sông Hồng”, “văn minh sông Mã”, “văn minh sông Ấn - sông Hằng”, v.v. Có thể nói, ngay từ đầu, văn minh phương Đông đã là văn minh nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn hoá phương Đông cho đến tận ngày nay. Không chỉ trong lịch sử xa xưa, ngày nay nông nghiệp vẫn phổ biến ở nhiều quốc gia phương Đông. Các nhà khoa học cho biết rằng hiện nay 90% diện tích trồng lúa trên thế giới nằm ở châu Á và sản lượng lúa gạo tại châu Á bằng 92% tổng sản lượng của thế giới. Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc gia phương Đông, và đó là cơ sở tạo ra loại hình văn hoá gốc nông nghiệp, tạo ra bản sắc nông nghiệp - nông thôn của văn minh phương Đông. Tính chất nông nghiệp - nông thôn được thể hiện ở rất nhiều bình diện văn hoá và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hoá phương Đông. 3. Ở phương Đông - nhà nước được hình thành từ rất sớm với thiết chế chính trị quân chủ chuyên chế Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ - xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử phát triển của nhân loại - tương đối sớm. Điều này cũng dễ hiểu. Như trên đã nói, nông nghiệp ở phương Đông ra đời sớm và giữ vai trò chủ đạo. Khi nông nghiệp phát triển thì tổ chức xã hội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân hoá thành giai cấp và hệ quả là nhà nước sớm ra đời. Thời gian xuất hiện nhà nước phương Đông cổ đại sớm nhất (dưới hình thức nhà nước chiếm hữu nô lệ) là vào khoảng thế kỉ thứ IV TCN. Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô lệ không ra đời cùng một lúc và cũng không chấm dứt cùng một lúc. Ra đời sớm nhất là nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập và Lưỡng Hà (thế kỉ thứ IV TCN), sau đó mới đến các nhà nước ở khu vực sông Ấn, sông Hằng và Hoàng Hà, Dương Tử (thế kỉ thứ III TCN). Về sự “lụi tàn” của các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông cũng tương tự. Nếu như đế quốc Ba Tư ở vùng Trung Cận Đông sụp đổ ngay từ thế kỉ thứ IV TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ còn kéo dài mãi đến tận những thế kỉ đầu công nguyên.      Các nhà nước cổ đại phương Đông không chỉ có những đặc trưng chung của một xã hội chiếm hữu nô lệ mà còn có những đặc điểm riêng mang màu sắc phương Đông, như sau: - Do các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội đang còn ở trình độ thấp kém, tức là ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá mới, nên xã hội chiếm hữu nô lệ không thể phát triển nhanh chóng, khiến các quốc gia đó, nói chung, không trở thành những xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển thành thục và điển hình. - Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ chức công xã nông thôn, tàn tích của xã hội thị tộc thời nguyên thuỷ, và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về ruộng đất trong các xã hội cổ đại phương Đông. Nói như Marx (trong thư gửi Engels ngày 2–6–1853): “Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở của tất cả các hiện tượng ở phương Đông”. Engels cũng có nhận xét tương tự khi ông viết (trong thư gửi lại cho Marx ngày 6–6–1853): “Việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất thực sự là chiếc chìa khoá để hiểu toàn bộ phương Đông”. - Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nô lệ gia trưởng và của các hình thức áp bức, bóc lột kiểu gia trưởng, việc sử dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các ngành sản xuất xã hội và vai trò của nô lệ trong sản xuất kinh tế chưa chiếm vị trí chủ đạo. Nô lệ phương Đông không phải là lực lượng chính làm ra của cải vật chất. Tuyệt đại đa số nô lệ được sử dụng để hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan lại, chủ nô quyền quý. Điều này cũng dễ hiểu bởi ở các quốc gia nông nghiệp phương Đông, nhà nước bóc lột nông dân là chính, bằng chế độ lao dịch, thuế khoá. - Sự xuất hiện và phát triển mạnh của một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt - nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền - gọi là chủ nghĩa chuyên chế phương Đông. Các quốc gia phương Đông sở dĩ thiết lập được thiết chế chính trị này bởi vua các nước đó nắm được quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần dân trong cả nước. Có thể nói “khắp dưới gầm trời không đâu không phải đất nhà vua, khắp dưới mặt đất không đâu không phải thần dân của nhà vua”. Do nắm được tư liệu sản xuất là toàn bộ ruộng đất nên các nhà vua đã dùng nó để ràng buộc các thần dân và nắm trọn quyền chính trị. Một lí do nữa về sự tồn tại của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền là yêu cầu của việc trị thuỷ, đắp đê phòng lụt, bảo vệ mùa màng. Nhu cầu này đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào trung ương để có thể huy động được sức người sức của, nhân tài vật lực. Ngoài ra các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông còn phải tiến hành các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi hoặc bảo vệ lãnh thổ của mình, do đó cũng cần phải tập trung quyền lực vào tay trung ương để huy động lực lượng vật chất và tinh thần. Căn cứ và những ngườn sử liệu còn lại, chúng ta biết rằng, ngay từ rất sớm, cụ thể là từ thiên niên kỷ IV TCN, nhà nước đã được hình thành ở Ai Cập. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cộng với nền kinh tế nông nghiệp phát triển từ rất sớm, các liên minh công xã lần lượt xuất hiện mà người Ai Cập gọi la Nôm, ở Ai Cập lúc bây giờ có  40 Nôm (hay còn gọi là Châu). Đứng đầu Nôm là một thủ lĩnh gọi là Nomarque - tức Chúa Châu. Chúa châu đồng thời cũng là thủ lĩnh quân sự, thẩm phán và là tăng lữ tối cao của châu. Chức tăng lữ tối cao đã đem lại cho họ thêm một quyền lực rất lớn: thần quyền. Chúa châu được xem như một vị thần sống. mỗi châu có một tín ngưỡng riêng, thờ một vị thần riêng. Chiến tranh cướp bóc của cải và nô lệ, thôn tính đất đai lẫn nhau thường xuyên xảy ra giữa các châu. Ngoài ra, chiến tranh giữa các châu còn xuất phát từ những vấn đề về tôn giáo. Do yêu cầu thống nhất để quản lý công tác thủy lợi với quy mô ngày một rộng lớn, lại cũng do nguyện vọng chấm dứt những cuộc tranh chấp lâu dài và tàn khốc nhằm thôn tính đất đai của nhau, dần dần các châu hợp nhất lại thành một quốc gia thống nhất tương đối rộng lớn. Giữa thiên niên kỷ IV TCN, các châu miền Bắc Ai Cập thống nhất thành vương quốc Hạ Ai Cập, còn các châu ở miền Nam thống nhất thành vương quốc Thượng Ai Cập. Mỗi vương quốc gồm khoảng 20 châu. Vào khoảng năm 3200 TCN, sau một quá trình đấu tranh lâu dài, hai vùng Thượng và Hạ Ai Cập đã hợp nhất thành một quốc gia thống nhất. Người có công to lớn ấy cũng là vị Vua đầu tiên của Ai Cập chính là Menes, Ông cũng là người đặt nền móng xây dựng thành Memphis-kinh đô đầu tiên của Ai Cập. Nhà nước Ai Cập thống nhất trải qua ba thời kỳ phát triển chính: Cổ vương quốc (khoảng từ năm 3000 đến năm 2300 TCN), Trung vương quốc (khoảng từ năm 2200 đến năm 1570 TCN) và Tân vương quốc (khoảng từ năm 1570 đến khoảng thế kỷ X TCN). Ngoài ra, thời kỳ mới ra đời của nhà nước được gọi là thời Tảo kì vương quốc, thời kỳ cuối là Hậu kỳ vương quốc. Thời Tảo kì vương quốc gồm hai vương triều I và II, tồn tại từ năm 3200 đến khoảng năm 3000 TCN. Tổ chức nhà nước bây giờ còn sơ khai nhưng đã mang đặc điểm của một nhà nước chuyên chế phương Đông. Đứng đầu bộ máy nhà nước Ai Cập là một ông vua chuyên chế, người Ai Cập gọi là Pharaon. Pharaon được xem như một vị thần sống. Quyền lực của Pharaon là tối cao và vô hạn. Bất cứ là thường dân hay là quý tộc, một được khi tiếp xúc với Pharaon đều phải quỳ lạy. Quý tộc, quan lại khi muốn tâu trình với Pharaon điều gì đều phải cúi mặt xuống sát đất, cách xa nhà Vua. Người Ai Cập coi Pharaon là “con của thần Ra”-thần Mặt Trời. Như vậy, mọi người không thể tiếp xúc với nhà Vua một cách tùy tiện. tên gọi đó một mặt phản ánh bản chất tôn giáo của các giai cấp ở Ai Cập cổ đại, mặt khác nó phản ánh quyền lực vô hạn của nhà nước quân chủ chuyên chế mà đứng đầu là nhà Vua-đã được thần thánh hóa. Với quyền lực tối cao và vô hạn, những mệnh lệnh của nhà Vua tuyên bố trong hội đồng vương quốc hay trước tòa án đều là pháp luật. Các Pharaon ở Ai Cập có chức năng tăng lữ tối cao, là thẩm phán tòa án tối cao, lãnh tụ quân sự tối cao. Như vậy, tất cả những chức vụ cao nhất, to lớn nhất của nhà nước này đều nằm trong tay nhà Vua. Nhà nước, mà người đứng đầu là Vua, là chủ sở hữu lớn nhất về đất đai, tài sản và thần dân của đất nước. Vua dùng quyền sở hữu đó để ban tặng cho thân tộc, quý tộc, quan lại, tăng lữ-những người giúp việc cho mình, để tạo ra chỗ dựa vững chắc cho mình cho chính quyền. Vì là người có quyền sở hữu tài sản lớn nhất nên cuộc sống của nhà vua rất xa hoa, lộng lẫy, phù phiếm giữa đám thân nhân hoàng tộc và đám đình thần thân tín nhất trong triều. Cùng với tầng lớp quí tộc, quan lại, tầng lớp tăng lữ cao cấp có vai trò vô cung quan trọng trong đời sống chính trị xã hội của Ai Cập. Tăng lữ là chỗ dựa về mặt tinh thần cho cả nhà nước quân chủ chuyên chế và cả thần dân. Các tăng lữ luôn tìm cách thần thánh hóa địa vị và quyền lực của nhà Vua cho nên họ có quyền hành to lớn và được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của nhà nước ban cho. Đồng thời, với việc củng cố bộ máy nhà nước, củng cố quyền lực của nhà Vua, nhà nước Ai Cập còn chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng quân đội mạnh để tiến hành chiến tranh xâm lược, cướp bóc của cải và thống trị nhân dân các nước khác. Ngoài ra, còn dùng nó để đàn áp và thống trị nhân dân trong nước. Nhà nước Ai Cập cổ đại được coi là nhà nước quân chủ chuyên chế điển hình trong tất cả các nhà nước cổ đại ở phương Đông. Ở Lưỡng Hà, vào cuối thiên niên kỷ IV TCN – đầu thiên niên kỷ III TCN, những quốc gia đầu tiên của người Sumer đã xuất hiện. Sự xuất hiện nhà nước đánh dấu thời kỳ tan rã của chế độ thị tộc và sự bắt đầu thời đại văn minh. Những quốc gia đầu tiên của người Sumer là quốc gia thành bang, tiêu biểu như Ur, Eridu, Lagash, Uruk, Nippua... Tiếp đến, người Akkad cũng xây dựng nên quốc gia riêng của mình. Sau khi lật đổ vương triều III của thành bang Ur , người Amorites đã xây dựng nên một quốc gia mới, chọn thành Babylonia ở trung tâm lưu vực sông Euphrates làm kinh đô. Kể từ đây, Lưỡng Hà bước vào thời kỳ phát triển hưng thịnh khá lâu dài ( từ đầu thế kỷ XIX TCN đến đầu thế kỷ XVI TCN), cường thịnh nhất là dưới thời trị vì của Vua Hamurabi (1792-1750 TCN). Lịch sử gọi thời kỳ là Cổ Babylonia để phân biệt với thời kỳ Tân Babylonia sau này. Vưong quốc Tân Babylonia phát triển thịnh trị nhất dưới thời trị trị vì của vua Nabuchodonosor (605-562 TCN). Ngay từ thời Xume, tổ chức chính trị ở Lưỡng Hà đã được xây dựng và phát triển theo mô hình nhà nước phong kiến quân chủ chuyên chế tập quyền, quyền lực tập trung vào trong tay nhà Vua và tập đoàn thống trị trung ương. Ở thời Xume, vì tồn tại nhiều quốc gia nhỏ, đứng đầu nhà nước là một Patesi - người làm chủ - là đại diện của tầng lớp thống trị. Chức Patesi ban đầu do quý tộc bầu ra, nhưng về sau được cha truyền con nối. Chính vì vậy, các Patesi sẽ dần thâu tóm mọi quyền lực to lớn nhất, cùng với đó, dần dần Patesi được coi là đại diện tăng lữ tối cao của tầng lớp tăng lữ, là đại diện của thần thánh, là chỉ huy lực lượng quân sự của thành bang, là người quản lý kinh tế và là người sở hữu tối cao đối với đất đai  và mọi tài sản của thành bang. Mặc dù nhà nước đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện nhưng điểm nổi bật của nhà nước Lưỡng Hà thời kỳ Xume vẫn còn mang tính chất sơ khai, tồn tại nhiều tàn dư của chế độ dân chủ thị tộc, bộ lạc. Những cơ quan dân chủ của thời kỳ thị tộc, bộ lạc vẫn còn tồn tại và vẫn có quyền lực nhất định bên cạnh chính quyền chuyên chế của nhà vua. Mặt khác, sự tồn tại của các công xã nông thôn đã buộc nhà nước Xume phải thiết lập và sử dụng các cơ quan quản lý của công xã như là một bộ phận của chính quyền trong cả nước, bỡi vì, có thông qua những cơ quan công xã thì nhà nước quân chủ chuyên chế mới với tay tới các cơ quan đơn vị hành chính nhỏ nhất, mới có thể điều khiển các thành viên của công xã. Sang thời kỳ Cổ Babylonia, xã hội Lưỡng Hà phát triển thịnh đạt dưới triều Vua Hamurabi. Đây là thời kỳ mà lãnh thổ vương quốc được mở rộng nhất, toàn bộ khu vực Lưỡng Hà là một dơn vị kinh tế chính trị rộng lớn nhất, có một chính quyền quân chủ chuyên chế tập quyền cai trị toàn quốc gia. Thời kỳ Babylonia là thời kỳ mà nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền được củng cố và phát triển hoàn thiện nhất, nhà nước Babylonia đứng đầu là vua – người có quyền lực tối cao, được các thần dân và tăng lữ thần thánh hóa. Trong bộ luật Hamurabi, quyền lực của nhà vua được thể hiện rất rõ, nó là thiêng liêng, là tối thượng, nhà vua trở thành chúa tể của cả nước. Cùng với vai trò hết sức to lớn của nhà vua, bộ máy quân chủ chuyên chế Babylonia được thiết lập đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện nhất. Về hình thức, nhà nước Babylonia được chia thành hai khu vực khác nhau nên có chế độ cai trị khác. Cùng với việc củng cố bộ máy chính quyền và chính sách cai trị thích hợp, nhà vua rất quyết tâm xây dựng quân đội. Quân đội Babylonia là quân đội thường trực, do chính nhà vua chỉ huy, tướng lĩnh và quân sĩ đều được ban cấp ruộng đất, người có công được ban thưởng để khuyến khích họ nhiệt tình trong công việc của nhà nước. Quân đội Babylonia có tinh thần kỷ luật nghiêm minh, được huấn luyện chiến đấu kĩ càng nên khả năng chiến đấu rất tốt. Chính vì quân đội hùng mạnh nên nhà nước Babylonia luôn giành thắng lọi trong các cuộc chiến tranh chinh phục toàn bộ Lưỡng Hà, củng cố chính quyền nhà nước, đưa vương quốc Babylonia trở thành quốc gia thịnh trị nhất trong lịch sử Lưỡng Hà. Đặc biệt, dưới thời Hamurabi còn chế định được bộ luật thành văn hoàn chỉnh đầu tiên, được áp dụng rộng rãi và thống nhất ở Lưỡng Hà. Sự ra đời của bộ luật Hamurabi vừa phản ánh được bản chất giai cấp rõ nét của nhà nước quân chủ chuyên chế, đồng thời, nó vừa thể hiện tính chất và trình độ của bộ máy nhà nước đó trong việc cai trị quốc gia. Xét về khía cạnh lịch sử, bộ luật Hamurabi được coi là tài sản, văn kiện có giá trị bậc nhất của phương Đông và thế giới thời cổ đại. Các thời kỳ sau đó, tuy Lưỡng Hà có nhiều biến động nhưng về cơ bản, mô hình quân chủ chuyên chế này vẫn được duy trì. Điều này chứng tỏ, thiết chế chính trị phổ biến của các quốc gia cổ đại phương Đông vẫn là quân chủ chuyên chế. Mặc dù xuất hiện muộn hơn Ai Cập, Lưỡng Hà về mặt thời gian nhưng nhà nước cổ đại của Trung Quốc vẫn được hình thành từ khá sớm, mở đầu là triều đại nhà Hạ thiết lập vào thế kỷ XXI-XVIII TCN, nó chưa thực sự ổn định và vững chắc nhưng vẫn là một kiểu nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền. Thủ lĩnh liên minh các bộ lạc đã trở thành vua, ngôi vua không còn do được bầu cử của các thành viên trong bộ lạc mà đã trở thành ngôi thừa kế. Việc nối ngôi vua được xem là tất nhiên hợp với đạo lý. Để bảo vệ địa vị của nhà vua cũng như địa vị của giai cấp thống trị, nhà Hạ đã tổ chức ra những công cụ bạo lực như quân đội, nhà tù, hệ thống quan lại… Trong hệ thống hành chính, người có quyền lực cao nhất là vua. Sau khi nhà Hạ sụp đổ, nhà Thương lên thay. Nhà Thương tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII-XII TCN, bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế tập quyền đã được củng cố và phát triển vững chắc hơn, với cơ cấu tổ chức hoàn thiện hơn. Do đó, xã hội Trung Quốc dưới thời Thương đã có những bước phát triển cao hơn so với thời Hạ về tất cả các mặt: kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng… Sang thời nhà Chu, kế thừa sự thành quả dưới thời Thương, nhà Chu đã tiến hành xây dựng và phát triển mạnh mẽ, là triều đại lớn mạnh nhất của Trung Quốc thời cổ đại. Với sự mở rộng lãnh thổ, bộ máy cai trị đã được xây dựng hoàn chỉnh và phát triển đầy đủ nhất. Người đứng đầu đất nước được gọi là Thiên tử, Thiên tử cùng với các quý tộc lập ra triều đình, gồm có bá quan, chia thành hai ngành Văn và Võ rất rõ ràng. Triều đình đặt ra những chức quan phụ trách các công việc cụ thể của đất nước, hệ thống sáu bộ đã được thành lập. Chế độ “thế tộc” được xác lập. Mọi tài sản trong nước đều là của nhà vua, kể cả các thần dân. Để củng cố địa vị thống trị, hòa hoãn những mâu thuẫn nội bộ, vua Chu tiến hành phân phong đất đai cho họ hàng con cháu, công thần…cho họ làm chư hầu, để họ cùng quản lý xã hội. Trên cơ sở đó, các chư hầu cũng xây dựng chính quyền riêng. Các chức quý tộc ở các chư hầu như Khanh, Đại phu…được cha truyền con nối. Chế độ cai trị “Tông Pháp” của nhà Chu lúc đầu rất có hiệu quả đối với một lãnh thổ rộng lớn bao gồm nhiều tộc người. hơn nữa, theo chế độ này, lãnh thổ của nhà Chu dần dần được mở rộng ra xung quanh, thế lực của nhà Tây Chu ngày càng được mở rộng, nền quân chủ trung ương tập quyền của Tây Chu ngày càng được vững chắc, quyền lực của Thiên tử ngày càng trở nên vô hạn. Mặc dù vậy, chế độ phân phong đất đai cũng có mặt trái của nó, đó chính là nguyên nhân chính khiến cho nhà Chu trở nên suy yếu, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, phân liệt sâu sắc, kéo dài suốt từ thế kỷ VIII-III TCN. Thiết chế quân chủ chuyên chế tập quyền không chỉ có ở bốn trung tâm văn minh lớn là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc mà nó còn xuất hiện ở các quốc gia cổ đại khác ở phương Đông. Tóm lại, với bộ máy bạo lực to lớn, với việc đề cao đến mức thần thánh hoá nhà vua, các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã phục vụ đắc lực cho giai cấp chủ nô, bảo vệ quyền lợi và tài sản của giai cấp thống trị, đàn áp những cuộc khởi nghĩa của nông dân, giữ vững địa vị thống trị của chủ nô. Tuy nhiên cũng cần nhấn mạnh rằng các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông đã làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng, phát triển được những nền văn hoá đa dạng, độc đáo, với nhiều thành tựu rực rỡ về chữ viết, văn học nghệ thuật, khoa học tự nhiên, triết học, v.v. và hàng loạt những công trình văn hoá vật chất đồ sộ vẫn sống mãi với thời gian. Những thành tựu văn hoá rực rỡ ấy đã làm cho các quốc gia cổ đại phương Đông trở thành những trung tâm của các nền văn minh thế giới cổ đại. Vào những năm cuối cùng TCN hoặc những năm đầu công nguyên, nhìn chung các quốc gia phương Đông đều kết thúc chế độ nô lệ và lần lượt chuyển sang xã hội phong kiến. 4. Văn minh phưong Đông được hình thành có phần chịu sự ảnh hưởng của tín ngưỡng - tôn giáo Không chỉ gắn liền với những yếu tố văn hoá mang “tính vật chất” phục vụ trực tiếp đời sống thường nhật của con người,  tính chất nông nghiệp - nông thôn của văn minh phương Đông còn được biểu hiện ở các tín ngưỡng-tôn giáo và sinh hoạt văn hoá dân gian rất độc đáo của khu vực. Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc đến những nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. Có thể nói bao trùm lên đời sống cư dân nông nghiệp phương Đông là niềm tin tín ngưỡng và các sinh hoạt văn hoá dân gian như biểu diễn âm nhạc, múa hát, lễ hội... Tín ngưỡng là cội nguồn của lễ hội. Trong lễ hội thường diễn ra các trò chơi và các hoạt động ca múa dân gian. Lễ hội vừa là dịp tiến hành các nghi lễ có tính ma thuật để cầu xin thần linh giúp đỡ, xua đuổi tà ma, vừa là dịp để người dân vui chơi giải trí. Tín ngưỡng và các hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian luôn gắn với cuộc sống của cư dân nông nghiệp, phản ánh sâu sắc nhịp điệu lao động và đời sống tinh thần phong phú của người dân. Tín ngưỡng bản địa và các lễ hội đã trở thành một nhân tố văn hoá đặc sắc gắn bó với các giá trị văn hoá nông nghiệp – nông thôn cổ truyền phương Đông. Trong số các loại tín ngưỡng tồn tại ở phương Đông, phổ biến nhất là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ở thời kì sơ khai khi khoa học kĩ thuật chưa phát triển, gần như tất cả đều phụ thuộc vào thiên nhiên, vào ý Trời. Vì vậy, ở khắp nơi, từ Đông Bắc Phi – Tây Á đến đất nước mặt trời mọc, các quần đảo Đông Á, từ Bắc Á rồi lưu vực sông Hoàng Hà rộng lớn cho đến các đảo cực nam Indonesia, v.v. đâu đâu người ta cũng thờ cúng các vị Thần liên quan đến sản xuất nông nghiệp như Thần Mặt trời, Thần Đất, Thần Nước, Thần Lúa, Thần Gió, Thần Sông... Gắn liền với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên là hàng loạt các lễ hội nông nghiệp như lễ hội té nước, lễ hội cầu mưa, cầu nắng, hội đua thuyền, lễ tịch điền, lễ hội mừng được mùa... Ngoài tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, một loại tín ngưỡng nữa cũng khá phổ biến là tín ngưỡng phồn thực. Với ý nghĩa “phồn” - “nhiều”, “thực” - “nảy nở”, tín ngưỡng này mang triết lí sống điển hình cho cư dân nông nghiệp luôn hướng tới sự sinh sôi, là ước mong duy trì và phát triển sự sống. Trong cuộc sống lấy nghề nông làm vi bản, người dân không có mong muốn gì hơn là mùa màng tươi tốt, gia súc đầy đàn, gia đình, con cái đông đúc đề huề. Để phát triển, theo qui luật tự nhiên cần có sự kết hợp giữa hai yếu tố khác loại là mẹ và cha, trời và đất. Bắt đầu từ thực tế cuộc sống, con người nông nghiệp phương Đông đã nâng tư duy phồn thực trở thành một tín ngưỡng quan trọng, gắn nó với hàng loạt nghi thức và lễ hội đa dạng, sống động. Những tín ngưỡng và lễ hội này vừa mang tính chất nguyên sơ, chân thực và thiêng liêng trong tâm thức vừa phản ánh tính chất đặc trưng chung của văn hoá nông nghiệp phương Đông. Tín ngưỡng và lễ hội phồn thực được biểu hiện ở hai khía cạnh chủ yếu: thờ sinh thực khí và thờ hành vi giao phối. Biểu hiện thờ sinh thực khí có ở nhiều nơi. Nhiều tượng, tháp, hình trụ,... được tạc, đắp theo hình các sinh thực khí nam nữ. Ở Ấn Độ và hàng loạt nước Đông Nam Á, người ta đều tìm thấy rất nhiều linga (sinh thực khí nam). Ngay ở thủ đô Seoul hiện đại ngày nay, ở nhiều nơi, kể cả trước cửa khách sạn cao sao, người ta cũng có thể trưng bày các hình sinh thực khí được đắp rất to. Một số nhạc cụ như chiêng, trống, dùi trống,... cũng mang ý nghĩa biểu tượng của các sinh thực khí. Cũng có khi người ta lại lấy ngay những vật có sẵn hình sinh thực khí trong tự nhiên để thờ cúng. Chẳng hạn, cột đá hình sinh thực khí nam thờ ông Đùng ở Nhân Nghĩa, Lạc Sơn, Hoà Bình hay kẽ nứt Lỗ Lường hình sinh thực khí nữ được thờ ở Sở Đầm, Hòn Đỏ, Khánh Hoà... Ở Ai Cập cổ đại, tôn giáo giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của cư dân nước này, vì tôn giáo đã thâm nhập vào mọ lĩnh vực sinh hoạt của xã hội. Mặc dù quốc gia Ai Cập được hình thành từ rát sớm, song xã hội Ai Cập phát triển hết sức chậm chạp, khiến cho Ai Cập trong một thời gian dài còn giữ lại nhiều tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy. một trong những hình thức tôn giáo sơ khai còn khá thịnh hành ở Ai Cập là sùng bái động vật và sùng bái tự nhiên. Vì vậy, họ thờ rất nhiều vị Thần khác nhau, từ Thần mang hình súc vật đến những vị Thần mang hình người, từ những Thần tầm thường đến Thần vũ trụ. Người Ai Cập cổ đại cũng sùng bái động vật, theo họ, đông vật là sự hóa thên của các vị Thần. Các loài động vật như rắn, cừu, sói, hạc…đều đuọc coi là những vị Thần. Người ta còn thờ những con vật không có thật như Nhân Sư (Sphinx). Việc sùng bái tự nhiên chiếm một địa vị quan trọng, mọi hiện tượng tự nhiên đều được thần thánh hóa. Vì thế có Thần Mặt Trời Ra, Địa Thần “Ghep” và Thủy Thần Odirit... Người Ai Cập cũng tin vào lin hồn bất tử. Theo họ, trong mỗi người đều có linh hồn “Ka” đị theo thân thể người như hình với bóng. Khi người chết đi thì “Ka” rời khỏi thể xác và chỉ khi nào xác người bị hủy hoại hoàn toàn thì “Ka” mới chết theo. Nhưng nếu giữ được được xác thì có ngày “Ka” sẽ quay trở lại, người chết sẽ sống lại. Vì thế mà người Ai Cập có tục ướp xác. Với cư dân Lưỡng Hà, họ theo đa thần giáo. Mỗi quốc gia đều có thần chủ của mình. Người Uruc thờ Thàn Anu, Eridu thờ Thần Eaua. Ngoài các Thần chủ, người Lưỡng Hà còn tôn thờ nhiều thần khác như thần nước Ea và con trai thần. Thần Tammu được coi như vị thần dạy bảo cư dân trồng trọt, làm nghề thủ công và là vị thần của lòng nhân ái, bảo vệ mùa màng. Thần Negan là Thần địa ngục. Nữ thần Iara được gọi là Thần mẹ, thần bảo hộ nông nghiệp và sinh sản. Thần Mặt Trời Samat là thần bảo trợ luật pháp, tòa án. Thời Hamurabi, Thần Marduk đã trở thành vị thần tối cao trong toàn quốc. Nhà vua cũng được thần thánh hóa, thay mặt thần Marduk cai trị muôn dân. Một trong những nét đặc sắc của tôn giáo ở Ấn Độ đó là sự gắn kết lẫn nhau giữa triết học và tôn giáo, mặc dù đây là hai lĩnh vực khác nhau. Ở Ấn Độ, tư tưởng tôn giáo nổi bật hơn triết học. Ấn Độ là quê hương của nhiều tôn giáo, trog đó quan trọng nhất là đạo Bàlamôn về sau là đạo Hindu và Phật giáo, ngoài ra còn có đạo Sikh, đạo Jain. Theo kinh Veda, từ khi người Arya đến định cư ở Ấn Độ thì ngoài việc làm ăn sinh sống, họ còn có cả tín ngưỡng và tôn giáo. Ban đầu chưa phải là hệ thống thần thánh hoàn chỉnh mà chỉ là tín ngưỡng linh tinh. Với họ, Yakshas là thần cây, trong đó có bodhi cây đa, naga là rắn thần ( có lẽ là vật tổ của bộ lạc Nagas ở thượng nguồn sông Ấn), Hanuman là thần khỉ, Nandi là thần bò…. Cũng giống như các quốc gia phương Đông khác, với nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, tín ngưỡng của cư dân Ấn Độ còn mở rộng đến các lực lượng siêu nhiên như Trời (Varuna) cũng là Cha; Đất (Prithivi) cũng là Mẹ; Lửa (Agni), Gió (Vayu). Ngay như Thần Vishnu ban đầu cũng đồng nhất với Mặt Trời (Surya). Vị thần gần gũi nhất của cư dân Ấn Độ là Indra, thần mưa bão, sấm sét. Như vậy, ở Ấn Độ, xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, cư dân với tín ngưỡng đa thần còn mang nhiều yếu tố linh tinh, tự nhiên. Theo cùng với sự phát triển của lịch sử Ấn Độ, các tôn giáo cũng lần lượt ra đời. Đạo Bàlamôn, Đạo Phật, Jain, Sikh. Tùy theo sự phát triển của các triều đại phong kiến, trong một giai đoạn nhất định, các tôn giáo này cũng có lúc thịnh lúc suy. Ví như Ấn Độ là quê hương của Phật giáo nhưng Đạo Phật chỉ phát triển thịnh đạt nhất ở thời kỳ vua Asoka. Một thời gian sau, Đạo Phật lại nhường vị trí của mình cho Hindu giáo, nhưng nó lại được truyền bá mạnh mẽ ra các nước trong khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc, Xrilanca, khu vực Đông Nam Á…. Mặc dù vậy, một trong những đặc điểm nổi bật của xã hội Ấn Độ là đã chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo, tôn giáo đã ăn sâu bén rễ vào xã hội Ấn Độ. Vì vậy, nhiều lúc nó cũng gây ra nhiều biến động mang tính bất lợi cho lịch sử Ấn Độ, thậm chí vấn đề này tồn tại cho đến ngày nay. Trung Quốc cổ đại, ngay từ thời Xuân Thu-Chiến Quốc, các học thuyết tư tưởng lần lượt xuất hiện và nó đã đặt nền móng cho các trường phái tư tưởng của Trung Quốc thời cổ trung đại như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia, trong đó quan trọng nhất là phái Nho gia và Pháp gia. Pháp gia là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước. Phái này xuất hiện từ thời Xuân Thu mà người khởi xướng là Quản Trọng (? - 645 TCN). Tiếp đó, trong thời Xuân Thu-Chiến Quốc, phái này còn xuất hiện nhiều đại biểu, trong đó có thể kể đến Thương Uởng, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Lý Tư…Tuy nhiên, người có nhiều đóng góp nhất đối với lý luận của phái Pháp gia là Hàn Phi (khoảng 280-230 TCN). Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt cơ sở đầu tiên cho Nho gia là Khổng Tử (551-479 TCN), sống vào thời Xuân Thu. Về sau, sang thời kỳ Chiến Quốc, Mạnh Tử (371-289 TCN) đã kế thừa và phát triển học thuyết này. Đến thời Hán, năm 136 TCN, chấp nhận ý kiến của Đổng Trọng Thư (179-104 TCN), Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật”. Từ đó, Nho gia trở thành hệ tư tưởng chính thống trong suốt thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Trung Quốc, Đổng Trọng Thư đã bổ sung học thuyết của Nho gia, làm cho nó trở nên hoàn chỉnh. Sang đến thời Tống, Nho học tiếp tục phát triển, gắn liền với các đại biểu xuất sắc như Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy. Năm 221 TCN, sau khi kết thúc được cục diện “thất hùng”, thống nhất Trung Quốc, nhà Tần tiếp tục sử dụng tư tưởng Pháp gia làm đường lối trị nước, vì vậy triều Tần sớm bị lật đổ. Từ thời Hán trở về sau, chế độ phong kiến Trung Quốc luôn luôn xem Nho giáo là hệ tư tưởng chính thống, nó được coi là “mẫu mực”, là “khuôn vàng thước ngọc” để trị quốc. Có thể nói, không chỉ thời cổ đại, đi cùng với sự phát triển của chế độ phong kiến Trung Quốc, Nho giáo luôn giữ vị trí độc tôn, nó đã tác động đến tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Trung Quốc. Nói như thế không có nghĩa là vai trò của Pháp gia bị xem nhẹ. Trên thực tế, mặc dù giai cấp thống trị Trung Quốc luôn luôn khẳng định vai trò độc tôn của Nho giáo nhưng trong đường lối trị quốc của tất cả các triều đại đều đi theo con đường “âm Pháp dương Nho”. Sự kết hợp ấy thậm chí còn tồn tại mãi cho đến đầu thế kỷ XX, khi chế độ phong kiến Trung Quốc sụp đổ. Sự phát triển của các học thuyết tư tưởng này không chỉ diễn ra trên lãnh thổ Trung Quốc. Cùng với chính sách bành trướng xâm lước của chính quyền phong kiến Trung Quốc cũng như con đường giao lưu văn hóa, hòa hợp tự nhiên, các học thuyết này cũng được truyền bá sang các quốc gia khác trong khu vực và ít nhiều cũng được phát huy được ảnh hưởng của mình. Có thể nhận thấy rằng, không chỉ riêng thời kỳ cổ đại mà mãi đến sau nay, thậm chí là cho đến ngày nay, tôn giáo luôn có vai trò nhất định đối với xã hội phương Đông. Nhưng khác với phương Tây ở chỗ, xã hội phương Đông không chịu sự ảnh hưởng đậm nét, hay nói cách khác là xã hội phương Đông không chịu sự thống trị của tôn giáo như phương Tây. Chúng ta có thể lý giải điều này từ góc độ của yếu tố kinh tế-xã hội của phương Đông. Phương Đông, với những điều kiện thuận lợi của mình đã sớm hình thành nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc gắn liền với thiên nhiên. Xuất phát từ đặc điểm ấy, ngay từ đầu, tín ngưỡng - tôn giáo của cư dân phương Đông đã phản ánh rõ nét đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp. Bằng chứng rõ nét nhất là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng phồn thực. Mặc khác, mặc dù bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước từ rất sớm (thiên niên kỷ IV TCN), nhưng khác với phương Tây ở chỗ, nhà nước cổ đại phương Đông được hình thành trên hai yếu tố: Một là, trị thủy và làm thủy lợi; hai là, chống giặc ngoại xâm. Xuất phát từ hai yếu tố này, một khối cộng đồng thống nhất đã được gắn kết bền chặt. Vì vậy, dù ít hay nhiều, các giai–tầng trong xã hội cũng có sự liên hệ lẫn nhau. Trong việc kết hợp giữa thế quyền và thần quyền ở phương Đông, mặc dù xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế, nhà Vua phương Đông có quyền lực tối cao và vô hạn cả thế quyền và thần quyền, nhưng công cụ để thống trị đại đa số quần chúng nhân dân vẫn là thế quyền. Do vậy, hệ thống tăng lữ mặc dù có tham gia vào công việc của nhà nước, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi từ nhà nước nhưng họ không thể đưa giáo lý tôn giáo thống trị nhân dân. 5. Ở phương Đông, ngay từ rất sớm đã xuất hiện sự “giao thoa” giữa các nền văn minh lớn Dễ dàng nhận thấy rằng mặc dù thời gian hình thành nên xã hội có giai cấp và nhà nước khác nhau, nhưng ngay từ rất sớm, các quốc gia cổ đại phương Đông đã có sự giao lưu với nhau trên nhiều lĩnh vực như kinh tế-văn hóa. Xuất phát từ đặc điểm riêng vô cùng thuận lợi về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của phương Đông, các quốc gia cổ đại phương Đông đã bắt đầu có ý thức về việc mở rộng giao lưu buôn bán với nhau, thông qua cả đường thủy lẫn đường bộ. Qua việc giao lưu kinh tế, sự “giao thoa” về văn hóa cũng bắt đầu xuất hiện, những cái hay cái đẹp đều được truyền bá cho nhau và rất nhanh chóng, chúng được tiếp nhận và phổ biến ra các khu vực khác. Chẳng phải Phật Giáo xuất phát ở Ấn Độ nhưng nó vẫn có mặt ở Trung Quốc, Xrilanka hay khu vực Đông Nam Á đó sao? Hay những phát minh vĩ đại trong toán học của người Ấn Độ đã được người Ả Rập học tập rồi truyền bá sang Châu Âu. Cũng giống như sự chuyển tải bốn phát minh quan trọng về kỹ thuật của người Trung Quốc sau này. Nho giáo không chỉ có mặt ở Trung Quốc mà nó còn có vai trò to lớn đối với Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…Trong sự phát triển rực rỡ của văn minh phương Đông cổ đại chắc chắn không chỉ là sự tự thân phát triển của mỗi quốc gia, mà còn bắt nguồn từ sự “giao thoa” giữa các trung tâm văn minh lớn của nhân loại. KẾT LUẬN Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng có cơ sở hình thành, quá trình phát triển rồi đến diệt vong. Văn minh cổ đại phương Đông cũng không nằm ngoài quy luật phát triển chung ấy. Chúng ta khẳng định chắc chắn rằng, ngay từ thời cổ đại, chính phương Đông chứ không phải phương Tây là “cái nôi”, là “trung tâm” của nền văn minh nhân loại. Với cơ sở kinh tế nông nghiệp lúa nước, cư dân phương Đông sớm bước vào xã hội có giai cấp từ rất sớm, nhà nước được xây dựng với thiết chế quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền… tất cả những điều ấy đã tạo nên một cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội vững chắc cho sự hình thành của nền văn minh phương Đông. Khi nhắc đến phương Đông, nhân loại sẽ không bao giờ quên được nơi đây chính là quê hương của cây lúa nước, là quê hương của những tôn giáo lớn của thế giới như Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Nho giáo….gắn liền với Thích Ca Mâu Ni, Nhà tiên tri Mô-ha-mét, Khổng Tử - người được Vua Khang Hy nhà Thanh phong tặng là “Vạn thế sư biểu”, là nơi bước vào xã hội có giai cấp sớm nhất cũng như chế độ phong kiến điển hình nhất. Nhưng lịch sử văn minh phương Đông đâu chỉ là của riêng một các nhân nào, vượt lên trên tất cả, chính sức lao động của bàn tay và khối óc của cư dân phương Đông đã xây dựng nên những giá trị vĩnh hằng. Nhân loại sẽ không khỏi ngạc nhiên nếu biết rằng với những  điều kiện thô sơ như thế nhưng ở phương Đông đã xuất hiện những Kim tự tháp trường tồn với thời gian, vườn treo Babylonia kỳ vĩ, kiệt tác Angkor Vatt, Angkor Thom, Vạn Lý Trường Thành… Nhìn chung, qua mọi thời kỳ thăng trầm của lịch sử,  nền văn hoá phương Đông vẫn toả sáng. Những “chiếc nôi” văn hoá cổ đại phương Đông vẫn có sức lan toả mạnh mẽ ra các khu vực xung quanh: Nhiều yếu tố văn hoá Ấn Độ được truyền bá sang Đông Nam Á, Tây Tạng, Bắc Á, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới; văn hoá Trung Quốc, đặc biệt là Nho giáo, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản, Korea, Việt Nam và các nước khác; Văn hoá Ai Cập - Lưỡng Hà mặc dù tồn tại không lâu song những thành tựu của nó không chỉ có ảnh hưởng trong khu vực mà còn toả sáng ra các khu vực khác của thế giới, v.v. Cùng với sự lan toả của các nền văn hoá cổ đại là sự xuất hiện của các nền văn hoá mới như Arập, Nhật Bản, Korea, v.v. Bức tranh văn hoá phương Đông, do vậy càng phong phú, đa dạng, nhiều sắc vẻ. Thêm nữa, vừa đấu tranh chống lại sự đô hộ của chủ nghĩa tư bản phương Tây, các dân tộc phương Đông vừa tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, tiến bộ từ phương Tây để làm giàu cho vườn hoa văn hoá của dân tộc mình. Bức tranh văn hoá phương Đông từ đây càng ngày càng rực rỡ sắc màu. Trong giai đoạn hiện nay, những giá trị của văn minh phương Đông vẫn còn đang lan tỏa rộng khắp. Những giá trị ấy như một liều thuốc tinh thần để con người phương Đông quay về với cội nguồn, quay về tìm hiểu quá khứ rực rỡ của ông cha, cũng như làm cơ sở cho việc tiếp thu những giá trị mới của nền văn minh nhân loại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.      Almanach những nền văn minh thế giới – NXB VH-TT, H.1995 2.      Will Durant: Lịch sử văn minh Trung Hoa - NXB VH-TT, TP.HCM 1997 3.      Đặng Đức An (chủ biên): Những mẫu chuyện lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục, H.2003 4.      Lê Phụng Hoàng (chủ biên): Lịch sử văn minh thế giới - NXB Giáo dục - 1999 5.      Cao Xuân Huy: Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn học, H.1995 6.      Vũ Dương Ninh (chủ biên): Lịch sử văn minh thế giới - NXB Giáo dục, H.2000 7.      Lương Ninh (chủ biên): Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục, H.2000 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docmo_dau_5888.doc
Tài liệu liên quan