Ngoài ra, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam còn là một sản phẩm du lịch văn
hóa. Du khách đến với núi Sam một cách rất tự nguyện không cần quảng cáo, đã
vậy khách đáo lệ hàng năm ngày một đông hơn, bởi vì người ta đến đây để củng
cố niềm tin bằng tâm linh, lợi thế tuyệt đối này không phải muốn mà có, cho nên
phải khai thác triệt để. Lễ hội vẫn còn tồn tại không ít những mặt hạn chế nhất
định cần phải khắc phục. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm ra giải pháp hữu
hiệu để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho một hoạt động tín ngưỡng dân gian,
đồng thời phát huy tiềm năng du lịch sẵn có của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam.
Sự quan tâm chăm lo của Đảng và Nhà nước, của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền ở
các địa phương là việc làm quan trọng để Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam ngày
càng gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân và là một Lễ hội cấp quốc gia có
quy mô lớn thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.
62 trang |
Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 1061 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu việc giữ gìn nét văn hóa dân tộc ở Lễ hội vía Bà Chúa Xứ núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tượng Bà chưa thật sự được quan tâm, tôn kính.
Bỗng dưng một hôm có một cơn dịch bệnh cướp đi sinh mạng của một số trẻ con,
người ta đồn đại lên rằng “Bà quở”, vì dân làng không tôn kính Bà. Nghe nói ai
nấy đều đến miếu cúng vái, cầu nguyện mong Bà ban cho sự bình yên, và ngẫu
nhiên, những năm sau đó trận dịch không lập lại, trẻ con trong làng đều mạnh
khỏe vui chơi. Từ đó, tin đồn Bà Chúa Xứ núi Sam linh thiêng được loan truyền.
Hằng năm, dân làng Vĩnh Tế tổ chức cúng Bà ở miếu, gọi là vía Bà [26;42]. Thời
Trang 41
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
xưa, lễ hội vía Bà núi Sam diễn ra cũng rất bình thường, vì cư dân lúc này còn
thưa thớt, phương tiện đi lại khó khăn, người từ các làng lân cận đến cũng chẳng
là bao. Vài chục năm trở lại đây, đường sá thông thương, cư dân đông đúc – nhất
là từ năm 1972, khi ngôi miếu được xây dựng lại – số người tham dự dần dần mỗi
năm một tăng; và đến nay, trong thời gian cao điểm, mỗi ngày có đến hàng trăm
ngàn lượt khách.
Hàng năm, Lễ hội vía Bà núi Sam được tổ chức vào các ngày 23, 24, 25, 26,
27 tháng tư âm lịch. Vía chính vào ngày 25. Về mặt nghi thức, trình tự lễ hội có
các nghi thức sau:
Thứ nhất, Lễ tắm Bà
Lễ này được tổ chức vào lúc 0 giờ đêm rạng ngày 24 tháng 4 âm lịch. Nói là
tắm Bà, nhưng thực tế là lau lại bụi bặm trên tượng thờ và thay áo mão cho tượng
Bà. Vào giờ đó trong khuôn viên miếu, hàng chục ngàn người chen chút nhau trên
sân, mọi di chuyển tới lui chỉ có thể nhích từng bước một.
Vào lúc 19 giờ đóng cửa chính điện và mời khách hành hương ngưng cúng,
ra khỏi chánh điện để quét dọn sạch sẽ. 21 giờ cho mời các đoàn khách đã đăng
ký trong ngày vào cúng, bình quân mỗi đoàn trên dưới 50 người, lễ vật gồm có
hương đăng trà quả, bông, rượu, trầu cau, mâm xôi, Sau khi cúng mỗi đoàn cử
đại diện hai hoặc ba người ở lại dự lễ.
Đến 23 giờ 30, ông Chánh tế cúng và Ban Quản trị cùng một số bô lão ở địa
phương có mặt trước điện thờ để kiểm tra lễ vật, áo mão dâng cúng. Đúng 0 giờ
ngày 24 lễ Tắm Bà được chính thức cử hành. Nghi thức đầu tiên, Ban lễ thắp sáng
tất cả các ngọn đèn cầy to trên bàn thờ Bà và các bàn thờ trong chánh điện. Ông
Trưởng ban Quản trị lăng miếu, hai ông chánh tế, ba ông ngồi tế, ba ông chấp
kích, tổ phụ nữ tắm bà gồm 9 người, lần lượt nguyện hương. Trong lúc nguyện
hương ban lễ dâng rượu. Bức màn nhung đỏ có kết hoa đẹp mắt được kéo ngang
bệ thờ, che kín khu vực đặt tượng. Một tổ gồm 9 người phụ nữ được chọn lựa,
phân công từ trước, lần lượt vén màn bước vào trong để chuẩn bị tắm Bà. Việc
phân công người chủ trì buổi lễ này cũng rất cẩn thận, đó là một phụ nữ đứng
tuổi, có uy tín ở địa phương. Đầu tiên là thay áo ngoài, áo trong. Nước tắm Bà
được nấu từ mưa hứng ở ngoài trời với nhiều loại hoa thơm và pha thêm nước hoa
xông lên thơm ngát. Tổ tắm Bà dùng khăn mới nhúng nước vắt khô rồi lau lên cốt
tượng, ngoài số khăn của Ban tế lễ, khách hành hương cũng gởi vào số lượng
khăn rất nhiều, nên để vừa lòng mọi người tổ phục vụ phải liên tục thay khăn
Trang 42
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
mới, cố sử dụng cho hết số khăn được đưa vào. Sau khi lau tượng Bà, cốt tượng
được mặt lên 4 áo lót, kế tiếp là chiếc áo đại lễ đã được lựa chọn. Cuối cùng là hai
người nam bước lên bệ để thay mão cho Bà. Khi hai người nam rời bệ thờ, bà tổ
trưởng tung hoa lài lên khắp mình tượng. Nhiều loại nước hoa đắt tiền được dâng
lên, xịt mỗi chai một ít vào tượng, xong được mang ra hoàn trả lại cho người dâng
cúng. Người dâng cúng kính cẩn mang về xem như một vật gia bảo. Lễ Tắm Bà
đã kết thúc, người chủ trì buổi lễ kiểm soát lại trang phục trên tượng lần chót, bức
màn được kéo ra hai bên, mọi người chen nhau đến gần để chiêm ngưỡng, khấn
vái, ai củng cố đến sát bên bệ thờ để xin lộc Bà. Lộc Bà bây giờ chỉ là một vài
cành hoa, một vài trái cây để trên bàn, chứ không như trước đây có người sử dụng
nước tắm bà xem như nước thánh để chữa bệnh, hay uống vào để được mạnh giỏi,
không bị tà ma quấy nhiễu.
Lễ Tắm Bà thường kéo dài khoảng một giờ, sau đó mọi người được tự do lễ
bái.
Thứ hai, Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu về miếu Bà
Lễ này được tiến hành vào lúc 15 giờ ngày 25 tháng tư âm lịch. Tại miếu Bà,
các bô lão trong làng và Ban quản trị lăng miếu lễ phục chỉnh tề sang lăng Thoại
Ngọc Hầu thỉnh sắc.
Dẫn đầu đoàn thỉnh sắc là đoàn lân, tiếp theo là ông hương lễ bưng khai trầu
rượu, học trò lễ đi hai bên, rồi đến 2 ông Chánh tế, ba ông bồi tế, ba ông chấp
kích, các vị bô lão và các vị chức sắc khác. Theo sau là các học trò lễ xếp thành
hai hàng dọc, tay cầm cờ phướn đi hầu trước và sau long đình do bốn người khác
khiêng. Đến trước đền thờ Thoại Ngọc Hầu, các vị bô lão tuần tự vào nguyện
hương, dâng hoa và xin phép thỉnh bài vị. Ông Chánh tế thỉnh bài vị ông lớn
(Thoại Ngọc Hầu), chánh tế ca công thỉnh bài vị hội đồng, hai bồi tế thỉnh bài vị
bà chánh, bà thứ. Sau ba hồi chiêng và ba hồi trống ban nhạc trổi bát cấu, tất cả
bốn bài vị được phủ khăn đỏ và thỉnh lên long đình, đoàn lân múa dẫn đầu đoàn
rước quay trở về. Ba bài vị được đặt lên trên bàn thờ trước cửa vào chánh điện
hướng về phía võ ca. Chính giữa là bài vị Thoại Ngọc Hầu, bên trái là bài vị
chánh phẩm Châu Thị Tế, bên phải là bài vị nhị phẩm Trương Thị Miệt. Bài vị
thứ tư là bài vị “Hội đồng” được đặt riêng một bàn thờ phía trước.
Sau đó, Ban quản trị lần lượt nguyện hương làm lễ tọa vị cúng một đầu heo,
một cặp vịt. Lễ thỉnh sắc được kết thúc.
Trang 43
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
Thứ ba, Lễ túc Yết
Lễ được tổ chức 0 giờ ngày 25. Tất cả các bô lão trong làng và Ban quản trị
lăng miếu lễ phục chỉnh tề, đứng xếp hàng hai bên trước tượng Bà để bắt đầu nghi
lễ cúng Túc Yết. Phía sau các vị là bốn học trò lễ và bốn đào thài. Đứng chính
diện với tượng Bà là ông chánh bái. Lễ vật dâng cúng gồm có: một con heo trắng
(heo đã mổ xong, cạo lông sạch sẽ), một đĩa đựng huyết có tí lông heo để chung
gói trong giấy hồng đơn gọi là “mao huyết”, một mâm xôi, một mâm trái cây, một
dĩa trầu cau, một thớt đao nằm, nước, muối, gạo mỗi thứ một tô. Các mâm chàm
được đặt hai bên con heo trắng, trên bàn thờ và hai mâm trên bàn hội đồng. Mâm
chàm gồm có thịt luộc, lòng heo luộc, hai chén cháo, hai đôi đũa, rau dưa, trầu
cau, gạo muối Ngoài ra, trên các bàn thờ khác còn có nhiều mâm xôi, trái cây,
bánh của dân làng và thành viên, hội viên Ban quản trị dâng cúng. Các lễ vật
được bày trên bàn, riêng con heo trắng được đặt sấp, thân phủ lên một giá gỗ sơn
đỏ, cao hơn 6 tấc, đầu hướng về bàn thờ.
Vào lễ cúng, ông Chánh bái và các vị bô lão đến niệm hương trước bàn thờ.
Kế đến là phần “Khởi cổ”. Sau khi đánh ba hồi trống gõ và ba hồi chiêng trống,
nhạc lễ bắt đầu trổi lên là lễ dâng hương, chúc tửu, hiến trà. Mọi diễn tiến của
buổi lễ được điều khiển bởi hai người xướng lễ, gồm một xướng nội và một
xướng ngoại, từ chánh điện nhìn ra, người xướng nội đứng bên cạnh bàn thờ lễ
vật phía bên trái, còn người xướng nội đứng ở phía bên phải xa hơn, giữa bàn thờ
Hội đồng và bàn thờ Tổ (nơi đặt bản dâng tế và rượu trà dâng cúng). Ban Tế lễ
đứng sau tượng Bà, đúng 0 giờ ban nhạc trổi lên bát cấu. Ban Tế lễ tuần tự đi hai
hàng tả hữu, lớn trước, nhỏ sau, đứng dọc theo nghi cúng. Ông Chánh bái đi
trước, bốn học trò lễ và bốn đào thài đi theo, hướng về phía bàn thờ tổ. Tại đây
ông chánh bái tự rót rượu để học trò lễ đem lên dâng cúng. Chánh Tế hô to:
‘Tràng áp hầu”. Bốn cô Đào hát bộ dạ lớn, từ trên cầm đèn cầy đi xuống đứng
hầu hai bên nghi cúng. Các vị bô lão nguyện hương. Trưởng Ban Quản trị rồi đến
thành viên hội viên nam trước nữ sau nguyện hương. Các đoàn đại diện, đình,
miếu hội bạn cùng vào nguyện hương. Sau khi dâng cúng hoa là dâng ba lần rượu
gọi là chúc tửu, dâng ba lần trà gọi là hiến trà, theo lệnh của người xướng lễ, bản
văn tế được mang trước bàn thờ. Dứt bài văn tế, ông chánh bái đốt bài văn bản
này và một ít giấy vàng bạc, heo cúng trên bàn được lật ngửa ra trước khi nghiêng
đi. Phần cúng túc yết đã xong.
Trang 44
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
Thứ tư, Lễ xây Chầu
Sau cúng túc yết là Lễ xây chầu: tại gian võ đường, những người tham dự ăn
mặc chỉnh tề, hai hàng từ cửa chính điện trở ra. Lễ vật là một con heo trắng, một
mâm xôi và một mâm chàm. Tất cả các diễn viên của đoàn hát bộ hóa trang, trống
mõ sẵn sàng. Ông Chánh bái đứng trước tượng Bà và đặt một cái trống. Chánh tế
chọn hướng đại lợi đặt trống (gọi là chí chầu), nguyện hương trước tượng Bà có
đặt một khay trầu rượu, một roi (vùi) chầu để trên khay. Ông vái xong lấy roi
chầu vác lên vai hô to: Phụng mạng.
Chánh tế ra trước nghi xây chầu đặt roi chầu lên khay, lễ xướng: “Ca công
tựu vị”. Ông Chánh bái ca công liền bước tới bàn thờ đặt giữa gian võ ca, nâng tô
nước có nhành dương đưa ngang trán khấn vái, hạ tô nước ngang ngực, dùng ba
cây nhan vẽ bùa (tứ tung ngũ hoành) trên tô nước. Xong hớp ba hớp nước, giắt
nhan lên mép tai. Bước sang trái một bước ông cầm nhành dương nhúng vào tô
nước, vừa vẩy nước ra xung quanh vừa đọc to:
“Nhất xái thiên thanh” thứ nhất vẩy nước lên trời xanh cầu cho mưa thuận
gió hòa.
“Nhị xái địa ninh” thứ nhì vẩy nước xuống mặt đất, cầu cho đất đai phì
nhiêu màu mỡ.
“Tam xái nhơn trường” thứ ba vẩy nước vào loài người, cầu cho dân gian
được trường thọ.
“Tứ xái quỷ diệt hình” thứ tư vẩy nước vào loài quỷ dữ, cầu cho chúng bị
tiêu diệt.
Đọc xong, ông xá ba xá, tiếp tục đọc thần chú:
Pháp luân thường chuyển tứ thiên vương
Bát bộ kim cang trấn tứ phương
Hộ kinh khởi cổ đàn lai trợ
Tùng thư xã tắc hộ miên trường.
Ông đi chữ đinh, tay chấp vùi trống ngang ngực đến trước mặt trống, dùng
cân mặt vẽ bóng chữ bùa “sát quỷ” trên mặt đất. Cầm vùi trống vẽ bùa tứ tung
trên chữ “sát quỷ”, chân trái đạp lên, ông đứng tề chỉnh ngước mặt lên trời hô to:
“Thái thượng lão quân cấp cấp như luật định” rồi cầm lấy khăn đỏ phủ trống lao
mặt trống, quấn khăn đỏ vào vùi trống. Tay mặt cầm vùi, tay trái nắm lấy lai áo
bấm “ấn ty” rồi vẽ bùa tứ tung lên trên trống. Cầm vùi nhịp nhẹ bên trái, đọc chú:
“Nhứt kích cổ chư thiên giáng phước”. Gõ nhẹ bên mặt: “Nhị kích cổ chư địa phi
Trang 45
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
tai”, gõ nhẹ phía trên “Tam kích cổ giáng thầm lai khởi thủ”. Nhịp nhẹ giữa mặt
trống: “Nhất điểm nguyệt hoàng trào tể chúa, vương bá hà xương vạn vọng trình
tường, thiên thu thiên hóa. Nhì điểm nguyệt hải yến hà thăng, chư thần đinh ninh,
uy linh hạt tán. Tam điểm nguyệt quốc thới dân cường, hoành trạch phong đăng
dân khương vật thạnh, bổn hội bá tánh thọ thọ phước”. Tay cầm vùi đánh mạnh
lên mặt trống, niệm chú : “Chư thân nhất túc”. Đánh thêm một cái: “Hét tợ lôi
oanh, biển cổ chấn kim tinh thiên đạt địa ly mỵ tiệm hành án oanh oanh, án oanh
oanh, án oanh oanh”. Đánh ba hồi, tới hai vùi lẻ hô lên: “Ca công tiếp giá”. Lập
túc cả đoàn hát bộ đồng thanh dạ một tiếng thật to. Thêm hai vùi nữa là hát bộ mở
màn. Trong lúc ông đánh 3 hồi học trò lễ nâng trống, đánh hai vùi học trò lễ xoay
trống đem đến giá chầu. Ông đánh tiếp cho đến khi trống được đưa lên giá chầu.
ông giao vùi cho người cầm chầu.
Đây là đêm diễn đầu tiên, hát một suất ngắn, đoàn còn tiếp tục diễn hai suất
buổi sáng (mãn chầu) và tối ngày 27 (hát giúp), có nghĩa suất hát cuối cùng đêm
27 đoàn không tính thù lao để gọi là cúng Bà.
Các tuồng hát được chọn là tuồng hay, có ý nghĩa nhưng trong 5 suất diễn
bắt buộc phải có vở “Thứ ba San Hậu” đào kép phải hát đúng bổn tuồng không
được sửa đổi. Suất hát cuối vào ngày 27, đúng 15 giờ vào đoạn chót tôn vương là
chuẩn bị làm lễ hồi sắc. Phần quan trọng nhất là trước khi diễn tuồng phải có 7
lớp hát chúc đúng theo cổ lệ cúng tế đình miếu Nam Bộ.
Một là, Khai tràng, ông Bàn cổ hóa trang, niềm hương, niềm hoa (Múa bộ,
dâng hương, dâng hoa chúc mừng cho hội)
Hai là, Khai nhật nguyệt (Một nam áo đỏ, tượng trưng mặt trời, một nữ áo
trắng tượng trưng mặt trăng, múa bộ mang ý nghĩa nhật nguyệt trong sáng, thời
tiết tốt đẹp)
Ba là, Tam hiền (Ba ông Phúc, Lộc, Thọ hát chúc)
Bốn là, Tứ thiên vương (Múa bộ và dâng lễ chúc thọ)
Năm là, Bát tiên (Hóa trang thành tám vị tiên trong truyện cổ Trung Quốc,
chỉ hát bộ không hát). Trong những năm gần đây các đoàn hát bộ đã bỏ bớt lớp
này.
Sáu là, Chưng đại bộ (Gồm một cái, bốn con, một cái do nam đóng. Tượng
trưng cho ngũ hành, nam vai Mã Viện (thổ) đứng giữa, nữ vai Mã Xuân Mai
(mộc) áo xanh, nữ vai Mã Hạ Lan (hỏa) áo đỏ, nữ vai Mã Đông Trúc (thủy) áo
tím. Năm diễn viên tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và bốn loại hoa
Trang 46
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
mai, lan, cúc, trúc. Các diễn viên vừa múa bộ vừa hát chúc, một cái hát trước, bốn
con hát họa theo).
Bảy là, Ông địa (Ông địa múa bộ dâng liễn gia quan tấn phước cho hội)
Theo cổ lệ, ông chánh tế ca công phải cầm chầu trong suốt các đêm hát,
nhưng thời gian gần đây do các vị tuổi tác cao, sức khỏe không cho phép nên việc
cầm chầu hát bộ được giao cho người khác thay thế.
Thứ năm, Lễ Chánh Tế
Nghi cúng chánh tế được tổ chức vào lúc 4 giờ ngày 27 tháng tư âm lịch.
Diễn biến cuộc hành lễ cũng giống như nghi cúng Túc Yết. Khoảng 15 giờ cùng
ngày, Ban Quản trị lại tề tựu đông đủ, áo dài khăn đóng chỉnh tề làm lễ Tôn
Vương. Ông chánh tế ca công thọ (nhận) hàm ấn và gươm lĩnh của Hoàng tử
trong vở hát bộ “Thứ ba San Hậu” dâng lên bàn thờ Bà. Xong ông đốt văn xây
chầu. Phần hát bộ chấm dứt. Sau đó, làm lễ hồi sắc, rồi thỉnh bài vị Thoại Ngọc
Hầu, bài vị hai vị phu nhân và bài vị Hội đồng đưa lên long đình. Đoàn đưa sắc
có lân dẫn đầu hướng về lăng Thoại Ngọc Hầu để hồi lại bài vị trên điện thờ.
Lễ hồi sắc là lễ sau cùng, chấm dứt mọi nghi cúng cổ lệ nhân dịp Vía Bà
Chúa Xứ núi Sam.
Xung quanh Lễ Vía Bà Chúa Xứ núi Sam còn có những hủ tục như: xin
xăm, vay tiền, đeo khăn Bà, v.v một thời được nhiều người tin tưởng. Hiện nay
không còn nữa, nhưng cũng xin nhắc lại để hiểu về nhu cầu cuộc sống tinh thần
của người dân lúc bấy giờ.
Khăn bùa Bà:
Trong ngày Vía Bà Chúa Xứ núi Sam trước đây, còn có xin khăn bùa để
mang trong người, tránh tà ma quấy phá, để con người được khỏe mạnh. Đó là
một mảnh vải màu đỏ, chiều ngang chừng 2cm, chiều dài chừng 20cm, được xé
từ chiếc khăn đỏ choàng lên vai tượng Bà. Trẻ em đeo quanh cổ, người lớn tết lại
thành cái nơ gắn nơi miệng túi hay khuy áo. Sự hưởng ứng tục xin khăn bùa lan
rộng trong dân chúng, khiến có năm, số vải xé ra để phát cho số khách hành
hương, tới cả ngàn mét vải đỏ.
Xin xăm Bà:
Người ta xin xăm trong tất cả các thời điểm chứ không phải chỉ xin trong lễ
hội. Quanh năm người ta đến viếng miếu Bà, cúng Bà, rồi xin xăm. Dụng cụ xin
xăm là một ống tre to, đáy là mắt tre bịt kín miệng ống để trống là nơi bỏ các thẻ
xăm làm bằng tre chuốt mỏng, có khắc số bằng chữ Hán, sau được ghi thêm số
Trang 47
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
bằng các mẫu tự thông dụng. Mỗi thẻ xăm có đánh số, ứng với mỗi lá xăm. Lá
xăm là một tờ giấy mỏng màu vàng được in một bài vè bốn câu bằng chữ Hán,
mượn các điển tích để lý giải chuyện xấu tốt của lá xăm. Người xin xăm, sau khi
đã xin Bà, cầm ống xăm lên ngang trán, lắc lúc đầu chậm sau nhanh dần cho đến
khi có thẻ xăm rơi ra khỏi ống. Người xin nhặt lên, để xem số mấy, rồi tiếp tục
xin keo. Keo là hai mảnh gỗ được đẻo giống như hình trái đào, một mặt phẳng,
mặt còn lại hình bầu tròn. Người xin, chắp hai mảnh lại, tung lên không, cho rơi
xuống mặt đất. Căn cứ vào sự sắp ngửa của hai mảnh gỗ để người ta xác nhận giá
trị của thẻ xăm vừa xin được. Sau khi có được con số của lá xăm, người ta sang
phòng bên để nhận lá xăm rồi chờ một người ở bàn xăm đoán giùm cho việc cầu
xin của mình.
Vay tiền Bà:
Tiền của Bà cũng là loại tiền “dương gian” do nhà nước phát hành, nhưng có
thêm dấu son của Hội quý tế. Những người đến viếng Bà, thường để vay một ít,
có tính chất tượng trưng để lấy may, lấy hên trong cuộc mua bán làm ăn. Số tiền
trả, không giới hạn, tùy tâm tín chủ.
Uống nước tắm Bà:
Trong đêm 23 tháng tư âm lịch diễn ra lễ Tắm Bà, nhiều người đến túc trực
bên ngoài mang theo chai, lọ để xin nước tắm Bà về uống hoặc thoa để trị và
phòng bệnh, trừ tà. Hủ tục này ngày nay không còn nữa.
Lễ hội vía Bà núi Sam cơ bản giống như lễ hội kỳ yên. Tuy nhiên, Lễ
hội Vía Bà núi Sam vẫn có những nét riêng của nó. Chính những nét riêng ấy,
khiến Lễ hội vía Bà núi Sam vượt ra khỏi ranh giới lễ hội làng trở thành lễ hội cả
một vùng. Với tính chất và quy mô rộng lớn của nó, năm 2001 Tổng Cục Du Lịch
Việt Nam kết hợp với tỉnh An Giang tiến hành nâng cấp lễ hội này thành lễ hội
truyền thống cấp quốc gia; đưa thêm vào chương trình nghi thức lễ hội này lễ
phục hiện rước tượng Bà từ đỉnh núi Sam – nơi trước đây Bà ngự - về miếu Bà và
lễ khai hội.
Lễ Khai hội
Thường được tổ chức vào đêm trước lễ tắm Bà, trước là trước phần lễ truyền
thống. Chương trình Lễ Khai hội khá phong phú với các tiết mục: Sân khấu hóa,
biểu diễn lân sư rồng, diễu hành xe hoa, ca múa nhạc các dân tộc Kinh, Chăm,
Hoa, Khmer rất đặc sắc. Sau phát biểu của lãnh đạo địa phương là phần đánh
trống Khai hội. Tiếp tục là tiết mục sân khấu hóa dựng lại hình tượng thời lưu dân
Trang 48
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
đi mở đất, cuộc sống phát triển và chống chọi với thú dữ, thiên tai; cảnh dân làng
đưa tượng Bà xuống núi Kết thúc lễ Khai hội với hàng chục ngàn người tham
dự là phần bắn pháo hoa. Màu sắc lung linh rực rỡ một góc trời; tạo nên không
khí sôi nổi, tưng bừng trong dòng người đi lễ hội.
Lễ Phục hiện:
Với ý nghĩa tái hiện cảnh rước tượng Bà từ đỉnh núi Sam về miếu theo
truyền thuyết chín cô gái đồng trinh đưa Bà xuống núi, lễ Phục hiện được tổ chức
vào buổi sáng sau ngày Lễ Khai hội với sự tham dự của trên hai ngàn diễn viên
của các đoàn văn nghệ, lân sư rồng và hàng ngàn quần chúng địa phương, du
khách các nơi về tham gia.
Dòng người rồng rắn xuất phát từ Nhà bia Liệt sĩ dưới chân núi Sam dần dần
tiến lên đỉnh núi theo đường Tháp. Khi tốp đầu đến nơi bệ đá đặt tượng Bà làm
Lễ thỉnh Bà xuống núi thì tốp cuối vẫn còn nối đuôi nhau ở gần chân núi. Một
cuộc lễ hoành tráng, sinh động làm phong phú, long trọng thêm những ngày Lễ
hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam.
Năm 2008, Lễ hội Vía Bà núi Sam đã được chọn là một trong năm mươi sáu
chương trình của năm Du lịch quốc gia Mekong – Cần Thơ 2008.
Lễ hội Vía Bà núi Sam, qua diện mạo của nó cơ bản phù hợp với phong tục,
tập quán, truyền thống của người Việt, không trái với quy chế lễ hội của Bộ Văn
hóa Thông tin. Hơn nữa, lễ hội diễn ra một cách có tổ chức, vui nhộn, nhưng phần
lễ lại rất trang nghiêm, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham dự. Điều đó
cho thấy bản thân, nguồn gốc ban đầu của Lễ hội Vía Bà núi Sam là tích cực.
Nói tóm lại, Vía Bà Chúa Xứ núi Sam là lễ hội cổ truyền mang đậm nét bản
sắc văn hóa dân tộc do nhân dân làng Vĩnh Tế ngày xưa tạo nên, công chúng –
trước hết là công chúng ở Vĩnh Tế, núi Sam – vừa là khách thể hưởng thụ, vừa là
chủ thể sáng tạo, đồng thời cũng là nơi nuôi dưỡng, giữ gìn, lưu truyền và phát
triển lễ hội này.
2.2. Tác động của Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam đến người
dân
2.2.1. Ý thức người dân đối với Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ Núi
Sam
Đã thành lệ, người dân Châu Đốc ngoài những ngày lễ tết chung của dân
tộc, cứ sau Tết Nguyên Đán lại chuẩn bị cho ngày Vía Bà, một nghi thức tín
ngưỡng dân gian được truyền từ hơn thế kỷ với sự thu hút ngày càng đông, quy
Trang 49
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
mô ngày càng lớn. Lễ hội được Bộ Văn hóa xếp hạng là Lễ hội Dân gian cấp
Quốc gia và đưa vào danh mục 15 lễ hội lớn của cả nước. Năm 2001, Tổng cục
Du lịch nâng cấp lễ hội thành sản phẩm du lịch cấp quốc gia. Đây là thủ tục pháp
lý khẳng định vị trí của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam đã vươn ra khỏi cái
khung hành chính địa phương, là sản phẩm quốc gia về mặt văn hóa và du lịch có
nghĩa rằng đối tượng của lễ hội từ nay phải tính đến sự tham gia của du khách.
Có hơn hai triệu lượt người, như một dòng chảy, hàng năm cuồn cuộn đổ về
núi Sam để hành hương. Chắc hiếm có lễ hội nào trong nước, mà số người về dự
đông đến thế. Dường như có một điều gì đó thật hấp dẫn, để có thể thu hút khách
thập phương đến với Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam (Châu Đốc) trong nhiều
năm qua. Ai đó chỉ cần đến núi Sam một lần, thì tiếp theo những năm sau, họ sẽ
háo hức, với một tâm trạng thật thoải mái, để quay lại với lễ hội. Khi cuộc sống
vật chất đầy đủ, người ta chăm lo đến đời sống tinh thần. Một trong những thú vui
có ý nghĩa, giúp con người thư giãn sau những ngày lao động căng thẳng với
công việc là đi hành hương, du lịch. Đi để mở rộng tầm nhìn kiến thức; để hiểu
biết những cái mới lạ, cảm thụ sắc thái văn hóa của các dân tộc. Đi để chiêm bái
hoặc thưởng ngoạn vẻ đẹp của núi sông, của các di tích thắng cảnh; để trái tim
hồn nhiên rung động với người và cảnh vật. Về với núi Sam, về với Lễ hội Vía
Bà Chúa Xứ, du khách sẽ nghe lòng mình nhẹ nhàng thơ thới, một cảm giác lâng
lâng, bay bổng, quyện vào mùi khói nhan cay cay như say như mộng, hòa nhập
vào thế giới thần linh. Chúng ta sẽ nghe được tiếng gió núi bên tai, tiếng của
người xưa rùn rùn đi mở đất, tiếng của những anh hùng đi mở rộng biên cương,
tiếng chuông chùa Tây An ngân dài trong sương chiều tĩnh mịch
Khách hành hương đến với Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam bằng cả một
niềm tin và sự ngưỡng vọng về sự linh thiêng của Bà Chúa Xứ, thể hiện sự tín
ngưỡng dân gian thờ Mẫu của người dân Châu Đốc nói riêng và khách thập
phương nói chung. Niềm tin và sở nguyện của khách thập phương được lan nhanh
ra khắp nơi, khắp chốn Không chỉ có người già đến cầu ước, mà còn có nhiều
tài tử, giai nhân bốn phương đến với núi Sam một mặt để thưởng ngoạn danh lam
thắng cảnh, sông núi hữu tình mà thiên nhiên đã ban tặng, một mặt để hòa nhập
với không khí linh thiêng, trang nghiêm của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ, có rất nhiều
người là những người kinh doanh họ cầu nguyện làm ăn phát đạt, có thật nhiều
hợp đồng kinh doanh, hay có nhiều người cầu nguyện cho gia cảnh của mình
được bình an, hạnh phúc. Mùa lễ hội nơi đây còn là mùa của tình yêu, mùa của
Trang 50
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
hò hẹn. Trai thanh, nữ tú khắp mọi miền đất nước nô nức về đây. Lòng họ hân
hoan, rộng mở niềm vui. Với họ ai cũng muốn vào đền thắp cho Bà một nén
hương, để cầu xin tình duyên, cầu xin hạnh phúc lứa đôi.
Khách hành hương đến cúng viếng Bà thường dâng tặng nhiều lễ vật, quà
lưu niệm rất phong phú, đa dạng và giá trị. Người ta dâng tặng Bà những bộ áo,
mão, quạt nhiều màu sắc thêu rồng phụng kim tuyến sặc sỡ và đắt tiền. Có nhiều
bộ áo trị giá trên một lượng vàng. Các vật dụng tiện nghi trong miếu hầu hết cũng
do khách thập phương tặng như bàn ghế sơn mài cẩn xà cừ, những cặp nhang, đèn
cầy rất to đắp nổi hình rồng phụng cao một, hai mét. Sau khi nhận quà tặng, Ban
quản trị lăng miếu núi Sam trao tặng chủ nhân giấy cảm tạ rất trang trọng.
2.2.2. Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam tác động đến người dân
Bà Chúa Xứ núi Sam cho người dân cả một niềm tin, là chỗ dựa vững chắc
tinh thần của họ. Mọi người dân đều tin rằng Bà Chúa Xứ ban phúc cho
mình.Việc ban phúc đầu tiên là cho người dân Vĩnh Tế! Ngày xưa, dân Vĩnh Tế
nghèo cằn cỗi, quanh năm chỉ sống bằng nghề đập đá, nép mình sau những tấm
phên rách, kiếm sống từng bữa qua ngày. Hôm nay, họ đang giàu có lên! Nhà lầu
đúc hai ba tầng. Trước kia xóm làng thưa thớt, nay đã trở thành đô thị. Khách sạn,
nhà trọ mọc lên như nấm. Dân chúng buôn bán tấp nập
Miếu Bà Chúa Xứ thu hút khách thập phương ngày càng đông, số tiền người
hành hương chiêm bái, hỉ cúng, đóng tiền cho việc trùng tu tôn tạo ngày càng cao.
Số tiền này được quản lý chặt, công khai, minh bạch. Ngoài việc đầu tư, sửa
chữa, nâng cấp, xây dựng các công trình của miếu nhằm phục vụ khách hành
hương, các thời kỳ Hội quý tế đã ủng hộ cách mạng trong cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ bằng nhiều hình thức: tiếp tế tiền, thực phẩm, thuốc
chữa bệnh, chôn cất liệt sĩ, tạo điều kiện ẩn náu cho cán bộ công tác vùng tạm
chiếm Đồng thời sử dụng một phần nguồn thu nhập này vào công tác phúc lợi
xã hội, phục vụ cho cuộc sống con người.
Các công trình phúc lợi:
Theo các tư liệu còn thu thập được, một số công trình phúc lợi lớn được xây
dựng từ quỹ miếu Bà Chúa Xứ:
Trường Trung học Vĩnh Tế: khởi công xây dựng từ 19-8-1970 hoàn thành
10-4-1972, khánh thành 5-10-1972, tổng chi phí trên 23 triệu đồng thời bấy giờ,
gồm một tầng trệt, hai tàng lầu với 16 phòng học. Đây là trường trung học đầu
Trang 51
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
tiên của làng Vĩnh Tế, giúp cho các em học sinh bậc Trung học không còn phải ra
Châu Đốc xa xôi.
Từ năm 1985 đến nay, đã trên 40 phòng học ở địa phương, sửa chữa nâng
cấp các trường ở xã Vĩnh Tế, xây dựng phòng thí nghiệm, thư viện, nhà vệ sinh,
nhà giáo viên, dụng cụ dạy nghề cho học sinh.
Từ năm 1987 đến nay, miếu Bà đầu tư rất lớn chi phí làm đường phục vụ sự
đi lại cho nhân dân và du khách. Điển hình như nâng cấp, tráng nhựa, xây kè đá,
mương thoát nước cho các con lộ: đường vòng núi Sam, quốc lộ 91 khu vực xã
Vĩnh Tế, đường chợ Bến Đá, đường sau miếu, lộ tẻ vòng núi Sam
Từ năm 1991 đến năm 1994, tu sửa đường Tháp lên đỉnh núi Sam và xây
dựng 4 nhà nghỉ mát trên núi cho du khách nghỉ chân.
Năm 1990, xây dựng nhà bảo sanh thuộc Trạm y tế xã Vĩnh Tế, năm 1993
sửa chữa Trạm y tế và mua trang thiết bị tim mạch.
Năm 1993, xây dựng trạm bơm nước, năm 1994 xây dựng nhà máy nước
phục vụ toàn xã. Năm 1994 – 1995, xây dựng đường ống nước. Nhờ các công
trình này nhân dân xã Vĩnh Tế và du khách có nguồn nước sạch hơn để sinh hoạt.
Phục vụ ánh sáng cho dân trong xã, từ năm 1989 đến 1993 đã hỗ trợ cho
mạng lưới điện toàn xã. Xây dựng công trình điện lên đỉnh núi Sam.
Nhằm giáo dục truyền thống và đền ơn đáp nghĩa những người có công với
đất nước, năm 1994 và 1995, xây dựng đền thờ nhà chí sĩ Trương Gia Mô trên
sườn núi Sam. Xây nhà tưởng niệm liệt sĩ xã Vĩnh Tế, xây nhà tình nghĩa.
Phục vụ sản xuất địa phương. Năm 1991, đã xuất quỹ đào kinh Bến Vựa và
đắp đê bảo vệ lúa.
Năm 1994, chi tiền trồng cây phủ xanh đồi núi Sam.
Năm 1997, hỗ trợ kinh phí cho công trình khu dân cư Bến Vựa.
Đang thi công xây dựng nhà bia liệt sĩ và bãi đậu xe của xã.
Ngoài ra miếu Bà còn chi sửa chữa trùng tu các lăng miếu địa phương như:
lăng Thoại Ngọc hầu, miếu Khổng Tử, miếu Âm Nhơn, đình Vĩnh Tế, xây dựng
nhà trưng bày[15;86-88].
Hoạt động xã hội:
Hoạt động xã hội cũng là một việc làm thường xuyên của miếu Bà, trong đó
có một số hoạt động đáng kể:
Đóng góp quỹ khuyến học thị xã.
Giúp học sinh nghèo trong thị xã.
Trang 52
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
Giúp một số Trường Phổ thông Trung học trong tỉnh.
Mua xe nhà giàng phục vụ lễ tang ở địa phương.
Hỗ trợ kinh phí cho trung tâm nuôi dưỡng người già và mồ coi thị xã Châu
đốc, cung cấp gạo, dầu ăn hàng tháng [15;89].
2.3. Một số giải pháp giữ gìn nét văn hóa Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ
Núi Sam
2.3.1. Một số vấn đề tồn tại trong Lễ Hội Vía Bà Chúa Xứ Núi
Sam
Sự phát triển ồ ạt của hoạt động lễ hội trên địa bàn cả nước những năm gần
đây tuy có những tác động tích cực góp phần ổn định và nâng cao đời sống kinh
tế, văn hóa đất nước, nhưng nó cũng kéo theo nhiều biểu hiện tiêu cực. Trong Lễ
hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam cũng không ngoại lệ, mặc dù đã được khắc phục
đáng kể những biểu hiện không tốt diễn ra trong Lễ hội nhưng vẫn còn những vấn
đề tồn tại cần phải khắc phục:
Tổ chức Lễ hội nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của con người là
việc làm chính đáng. Song, nhiều hoạt động mê tín dị đoan cũng nhân đó mà trỗi
dậy, tác động đến tinh thần ý thức của nhiều người. Tại Lễ hội, những kẻ “buôn
thần bán thánh” đã gieo rắc vào số đông người những điều nghi hoặc qua việc xóc
thẻ, bán quẻ, đoán số, biến thánh nhân có công đức thành đối tượng cho những
hoạt động phản văn hóa, tạo ra tâm lý thực dụng xa lạ với sinh hoạt văn hóa lành
mạnh của con người. Do trải qua một quá trình phát triển hàng thế kỷ, Lễ hội Vía
Bà Chúa Xứ núi Sam ít nhiều cũng bị tác động bởi các phần tử lạc hậu, mê tín dị
đoan điển hình như Lễ hội này đã có một thời từng tồn tại những thủ tục rất lạc
hậu như: thỉnh bùa của Bà đeo, lấy nước tắm Bà làm phép chữa bệnh, xin xăm,
lên đồng, múa bóng, xin lộc Bà, vay tiền Bà
Chính những hiện tượng tiêu cực ấy đã dung tục hóa, vật chất hóa quan hệ
Thần – Người và quan hệ Người – Người ở nơi thờ cúng linh thiêng. Một số kẻ
cơ hội lợi dụng lễ hội kiếm ăn bất chính bằng các nghề bói toán, tướng số, đồng
cốt, Đồng thời, nhiều con nhang đệ tử đến lễ hội với ý thức “lợi dụng thần
thánh”, họ dâng lễ vật hậu hĩnh mong rửa sạch tội lỗi, hy vọng nhờ thần thánh che
chở cho những hoạt động phi pháp trong đời sống thường ngày.
Gắn với các hiện tượng tiêu cực trên, những biểu hiện kinh doanh trong Lễ
hội của một số tập thể và cá nhân cũng bộc lộ một cách trắng trợn. Nhiều tờ báo
đã lên tiếng phê phán cảnh tượng này qua các lễ hội, Báo văn hóa nêu: “Mấy năm
Trang 53
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
gần đây, lễ hội diễn ra cùng với cơ chế thị trường, nên việc kinh doanh lễ hội
cũng lộ rõ, khó có thể chấp nhận được. Nhiều nơi diễn ra lễ hội, có những khoản
thu phí bừa bãi, lễ hội bỗng chốc trở thành mảnh đất cho nhiều kẻ kiếm lời”
[14;77].
Hệ quả việc kinh doanh lễ hội là những dịch vụ “bắt chẹt”, “cắt cổ” khách
hành hương và khách du lịch của những kẻ bất chính. Những biểu hiện tiêu cực
luôn đeo bám Lễ hội này một cách dai dẳng, nổi bật nhất là tệ “cò mồi”, đủ loại
“cò”, từ giành khách, dắt mối bán đồ cúng, đến mời mọc gởi xe, chụp ảnh, ăn
uống, bán hàng theo kiểu chặn đường níu kéo không từ một ai, gây không ít phiền
hà cho du khách và làm mất trật tự nơi công cộng. Cả “làng cò” núi Sam từ lâu đã
trở thành đối tượng kém văn hóa nhất. Ngoài ra, từ các điểm hoạt động nghệ
thuật, vui chơi giải trí, từ các quán ăn, quán giải khát tạo ra một không gian hỗn
loạn về âm thanh, phá vỡ cái không khí nghiêm trang cần thiết để tiến hành các
nghi lễ. Những biểu hiện tiêu cực tác động đến Lễ hội, những hành vi lấn chiếm,
xâm phạm di tích văn hóa phải có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm
minh.
Bên cạnh “đội quân phục vụ” là “đội quân ăn bám” sống dựa vào lễ hội cũng
xuất hiện đông đảo. Đó là những kẻ giả vờ hành khất, những kẻ đội lốt các nhà tu
hành và các loại thầy số, thầy tướng “dởm”. Trong số hành khất ấy có những kẻ
không muốn xin ăn mà ngang ngược đòi ăn, chúng bao vây khách, nhất là khách
nước ngoài, bắt ép họ phải “bố thí” mới thôi.
Tính tiêu cực trong Lễ hội còn thể hiện ở sự phát triển các hủ tục và tệ nạn
xã hội; cờ bạc nhậu nhẹt, hút sách, sát phạt lẫn nhau giữa thanh thiên bạch nhật,
giữa nơi thiêng liêng làm rối loạn trật tự công cộng, ngăn cản sự bái vọng của
khách hành hương. Ý thức cục bộ địa phương, cục bộ phường hội của đội quân
phục vụ Lễ hội nảy sinh trong việc tranh giành địa bàn làm dịch vụ dẫn đến ẩu đả
thậm chí ảnh hưởng đến tính mạng con người. Cách tổ chức và quản lý của những
người có trách nhiệm trong Lễ hội cũng còn nhiều việc chưa tốt. Tổ chức Lễ hội
mà chưa có phương án, kế hoạch, phương tiện, người bảo vệ cần thiết tốt nhất để
giữ gìn trật tự an toàn cho Lễ hội, nên dẫn đến sự lộn xộn, chen chút tạo điều kiện
cho bọn ăn cắp xô đẩy, cướp lễ vật và cướp giật tiền của khách.
Nạn ô nhiễm môi trường, phá hoại cảnh quan thiên nhiên ở di tích văn hóa
Miếu Bà cũng là một hiện tượng tiêu cực đáng báo động. Tại lễ hội diễn ra nhiều
Trang 54
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
ngày, có hàng chục ngàn người tham gia, rác rưởi và các loại phế thải do con
người thải ra đã làm mất vệ sinh, làm mất vẻ mỹ quan khu di tích văn hóa.
Tuy đã có nhiều biện pháp khắc phục nhưng giao thông vẫn là vấn đề cần
quan tâm trong Lễ hội, đặc biệt là những ngày chánh lễ tình trạng kẹt xe, ùng tắt
giao thông, hiện tượng chở quá số người quy định
Tóm lại, không riêng gì Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, các lễ hội cổ
truyền tồn tại trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, là loại hình văn hóa đặc
biệt, trong mỗi giai đoạn lịch sử, lễ hội đều có vai trò, tác dụng nhất định. Sự
phục hồi và có chiều hướng ngày càng gia tăng những năm gần đây đã chứng
minh sức sống trường tồn của chúng. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong thời gian qua những giá trị văn hóa truyền thống của các lễ hội không được
phát huy một cách triệt để, đôi khi bị cố tình hiểu sai lệch tạo nên một thực trạng
“đáng buồn” như đã mô tả trên. Trước thực tế đó, vấn đề cần là phải làm cho sinh
hoạt lễ hội truyền thống trở nên lành mạnh, hữu ích. Riêng Lễ hội Vía Bà Chúa
Xứ núi Sam cần có những giải pháp những vấn đề tồn tại để ngày càng làm Lễ
hội xứng đáng là Lễ hội cấp quốc gia thu hút được du khách trong và ngoài nước
đến tham dự.
2.3.2. Một số giải pháp giữ gìn nét văn hóa Lễ hội Vía Bà Chúa
Xứ núi Sam
Các di sản và lễ hội là vốn quý của dân tộc do biết bao nhiêu thế hệ tổ tiên,
ông bà ta vắt óc suy nghĩ và đổ công sức lao động lẫn tiền của để tạo dựng nên.
Có dân tộc là có văn hóa, mất văn hóa thực tế là mất dân tộc. Chính vì vậy, trong
những năm qua Nghị quyết của các Đại hội Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc và định hướng cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ
đã giành một vị trí thích đáng cho lĩnh vực bảo tồn và phát triển di sản văn hóa
dân tộc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI khẳng định: “Tiếp tục phát
triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, văn học nghệ thuật; xây
dựng một nền văn hóa văn nghệ xã hội chủ nghĩa, đậm đà bản sắc dân tộc”
[5;222]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII có viết: “ Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn
hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng
Trang 55
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
cao” [6;10]. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII nêu rõ: “Kế thừa và phát
huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của
dân tộc. Bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
của đất nước” [7;110]. Văn kiện Đại hội IX cũng đã nhấn mạnh: “Bảo tồn và
phát huy các di sản văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ,
chữ viết và thuần phong mỹ tục của dân tộc” [8;115]. Đại hội X tiếp tục chỉ ra:
“Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng
chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa,
nghê thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục các cộng đồng dân tộc” [9;106-107].
Như vậy, việc giữ gìn nét văn hóa truyền thống của dân tộc là vấn đề luôn
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Trên tinh thần chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, để giữ gìn nét văn hóa của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam,
cần có một số giải pháp cụ thể sau
2.3.2.1. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và nâng cao
nhận thức về việc giữ gìn nét văn hóa dân tộc ở Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
núi Sam:
Trước hết, các cấp chính quyền, nhân dân tại địa phương nói riêng và du
khách nói chung cần phải nhận thức đúng đắn về việc bảo tồn di sản văn hóa
Miếu Bà Chúa Xứ cũng như nét văn hóa của Lễ hội. Chúng ta cần phải thực sự ý
thức được nó như là một tài sản vô giá, đóng vai trò nền tảng cho động lực phát
triển đất nước. Cần phải nhận thức đầy đủ về vai trò và ý nghĩa của tài sản văn
hóa, nếu không ý thức được vấn đề này, chẳng bao lâu nữa địa phương nói riêng
và đất nước nói chung sẽ lại đứng trước những hiểm họa mà các nước phát triển
đã vấp phải. Khi đó sẽ lại phải bắt đầu trở lại những gì mà các nước phát triển giờ
đây đang tiến hành. Phát triển trên sự hư hoại của những tài sản văn hóa truyền
thống như thế có thể dẫn đến kết quả là tụt hậu.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, nhân dân địa phương và du khách sẽ tự ý
thức và khắc phục được những việc mình không nên làm, những tồn tại do mình
gây ra. Từ đó, góp phần giữ gìn nét văn hóa của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
xứng đáng là một lễ hội mang tầm cỡ quốc gia được đông đảo quần chúng nhân
dân ngưỡng vọng.
Để quảng bá hình ảnh văn hóa của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, cần
phải tuyên truyền, vận động thông qua việc thiết lập hệ thống báo chí, sách vở để
đưa đến tận người đọc, thông qua mạng lưới thư viện đến các phòng đọc sách, các
Trang 56
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
tủ sách được bố trí ở cụm dân cư hoặc ở tại miếu Bà. Trong những năm qua, các
tài liệu cũng như sách báo viết về Lễ hội chưa được nhiều và đầy đủ, vì vậy để
đảm bảo việc đưa thông tin và kiến thức từ sách, báo đến mọi người cần phải khai
thác tốt hoạt động của các nhà bưu điện ở phường núi Sam trên cả hai mặt thông
tin liên lạc và thông tin kiến thức, tận dụng các cơ sở sẵn có, phát triển thêm điểm
đọc tạo điều kiện thuận lợi cho người đọc.
Về công tác thông tin cổ động, đây là mũi chủ chốt của hoạt động thông tin
cơ sở, nó mang hình ảnh trực quan sống động hàm chứa thông tin, thông qua
bảng biểu (panô áp phích). Qua hoạt động thông tin, tuyên truyền hình ảnh văn
hóa của Lễ hội sẽ đến với du khách trong và ngoài nước biết đến để họ hòa vào
không khí và dòng người đến hành hương hay tham quan thắng cảnh, di tích.
Nâng cao ý thức giữ gìn, trùng tu, tôn tạo Miếu Bà Chúa Xứ. Đồng thời giáo
dục, động viên lớp trẻ về ý thức bảo tồn di sản văn hóa tại Miếu Bà để họ tự
nguyện học tập và truyền bá văn hóa của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam. Đảm
bảo sự trang nghiêm, văn hóa ở nơi thờ tự ở miếu Bà.
2.3.2.2. Phát huy nét đẹp, điều đúng ở Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
núi Sam:
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam diễn ra vào thời điểm sau Tết Nguyên Đán
của cả dân tộc Việt Nam. Những ngày này (từ ngày 23 đến ngày 27 tháng tư âm
lịch) quần chúng nhân dân địa phương cũng như khách hành hương chuẩn bị vật
phẩm, trang phục đẹp để đến Lễ hội cúng bái, ngưỡng vọng Bà Chúa Xứ. Việc tổ
chức Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam phải đảm bảo sự hài hòa giữa sinh hoạt tôn
giáo, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt văn hóa. Cần phải giữ gìn những nét văn hóa
độc đáo, riêng biệt cả phần hội và phần lễ của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam,
đồng thời khắc phục những hủ tục lạc hậu không còn phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta không
nên can thiệp vào nghi thức tôn giáo hoặc tự do tín ngưỡng của quần chúng nhân
dân mà chỉ tập trung đầu tư hỗ trợ cho các hoạt động vui chơi - giải trí, văn hóa
thể thao tạo thêm sinh khí cho Lễ hội.
Nhìn ở góc độ phần lễ của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, cần phải được
giảm bớt những nghi thức rườm rà, câu nệ, thời gian tế lễ rút ngắn lại, nhưng vẫn
bảo đảm tính thiêng liêng và long trọng. Văn tế bằng Hán ngữ được chuyển sang
Việt ngữ gần gũi với con người hiện đại Việt Nam, vì ai cũng có thể hiểu và rung
cảm bởi những lời thỉnh cầu chân thành của thần linh. Còn về phần hội, hoạt động
Trang 57
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
vui chơi đúng nghĩa của lễ hội còn hạn chế, do đó cần phải tăng thêm một số nội
dung hoạt động văn hóa, thể thao hiện đại, cần tạo thêm các trò chơi dân gian phù
hợp; trò chơi Thi leo núi do Phòng Văn hóa Thông tin Châu Đốc tổ chức qua
nhiều năm đã trở thành một loại hình chính thức trong phần hội của Lễ hội. Mặt
khác, cũng phải nên loại bỏ những hình thức hoạt động không phù hợp, không
thích nghi với không khí của lễ hội. Thật ra, phần đông khách thập phương đến
với núi Sam trong những ngày mở hội không phải để xem phim, xem biểu diễn
nghệ thuật, xem thi đấu thể thao mà người ta đến với vía Bà bằng lòng tín
ngưỡng, tìm ở đó chút gì của cái thiêng, để được sống trong không khí có gì xưa
xưa, thưởng thức những sinh hoạt văn hóa cổ.
Hàng năm, vào dịp Lễ hội diễn ra, các Cấp ủy chính quyền, Mặt trận và các
đoàn thể cần tổ chức thăm hỏi, tham dự Lễ hội thể hiện sự quan tâm của các cấp
đối với việc phát triển văn hóa, tôn trọng tín ngưỡng dân gian của quần chúng
nhân dân, góp phần làm cho Lễ hội thêm trang trọng, đúng với vị thế, vai trò của
Lễ hội cấp quốc gia.
2.3.2.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và biện pháp quản
lý của Nhà nước đối với Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
Trên cơ sở các Nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của tỉnh và các chương
trình của Nhà nước về văn hóa. Vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của địa phương,
các cấp ủy phải có Nghị quyết về giữ gìn văn hóa của cấp mình, lãnh đạo chính
quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng cụ thể hóa triển khai thực hiện công
tác xây dựng và phát triển văn hóa.
Giữa ngành Văn hóa thông tin của tỉnh phải có sự phối hợp liên tịch với các
ngành như Ban Tuyên giáo, Mặt trận Tổ quốc để thống nhất trong việc quản lý
và phân định chức năng của từng ngành đối với từng sự việc có liên quan đến vấn
đề giữ gìn, trùng tu, tôn tạo di tích Miếu Bà và Lễ hội. Trên cơ sở luật Di sản văn
hóa, tỉnh nên có văn bản pháp qui chỉ đạo các địa phương (thị xã Châu Đốc và
phường núi Sam) cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát để phát hiện những
sai phạm, vi phạm tại di tích Miếu Bà để có biện pháp xử lý hoặc báo về cấp trên
để cùng phối hợp xử lý kịp thời những vấn đề có liên quan đến di tích Miếu Bà và
Lễ hội.
Phòng Văn hóa Thông tin thị xã Châu Đốc cũng phải tăng cường việc kiểm
tra, giám sát các hoạt động tại di tích để có biện pháp xử lý kịp thời những vấn đề
có liên quan đến di tích và trong các cuộc họp định kỳ về quản lý Nhà nước tại Sở
Trang 58
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
Văn hóa Thông tin nên có phần báo cáo các hoạt động tại di tích thuộc địa bàn
quản lý.
Thanh tra ngành Văn hóa Thông tin khi nhận các vụ việc vi phạm tại di tích
phải tổ chức đến ngay hiện trường, tùy theo mức độ vi phạm của sự việc mà dùng
các biện pháp thuộc chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, có biện pháp
xử lý nhanh kịp thời để ngăn chặn và hạn chế sự việc vi phạm làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến di tích. Căn cứ vào luật Di sản văn hóa, các ngành chức năng
quản lý Nhà nước nên kiên quyết xử lý đúng luật, phải đình chỉ và tháo gỡ các
công trình xây dựng trái phép ở di tích và có mức phạt hành chánh nặng nhất để
nhằm nâng cao vai trò quản lý Nhà nước.
Công an địa phương và các lực lượng an ninh địa phương nên tăng cường
việc kiểm tra giám sát và lưu ý. Có kế hoạch hỗ trợ Ban bảo vệ Lễ hội trong việc
phòng chống cháy nổ, phòng chống trộm, bảo vệ an toàn các đồ thờ tự trong di
tích.
Với một số giải pháp được nêu trên, hy vọng có thể giúp cho việc giữ gìn và
phát huy nét văn hóa truyền thống của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam, thị xã
Châu Đốc, tỉnh An Giang hiện nay. Góp phần vào mục tiêu mà Đảng và Nhà
nước ta đang từng bước thực hiện trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trang 59
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
PHẦN KẾT LUẬN
Hiện nay trên bề mặt địa cầu của chúng ta, không có một quốc gia nào, bất
kể trình độ cao thấp đến đâu, lại không bị thu hút vào quá trình giao lưu văn hóa,
theo xu hướng giữ gìn các lợi ích chung vì sự phát triển của toàn nhân loại. Qua
hệ thống truyền thông đại chúng, hàng ngày mỗi người trên hành tinh có thể nắm
bắt, cập nhật những tin tức phát ra từ những nơi cách xa vạn dặm. Sách, báo,
phim ảnh, âm nhạc nhanh chóng vượt qua giới hạn của quốc gia, dân tộc để đến
với công chúng toàn cầu. Quốc tế hóa đang là xu hướng mạnh mẽ chi phối sự
phát triển của các hoạt động kinh tế trên thế giới. Từ lĩnh vực kinh tế, xu hướng
này sẽ lan tỏa sang các lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa, xã hội. Đương nhiên
sự vận động văn hóa còn theo một quy luật riêng của nó. Đó là sự giao lưu qua
màng lọc của văn hóa dân tộc thuộc các cộng đồng dân tộc – quốc gia khác nhau,
nhằm chọn lọc tiếp thu những yếu tố thích hợp để văn hóa của mỗi cộng đồng xã
hội có thể giàu có thêm lên về giá trị mà vẫn giữ được bản sắc độc đáo của mình.
Đó là sự phát triển văn hóa trong tính đa dạng toàn nhân loại.
Văn hóa dân gian nói chung và lễ hội văn hóa truyền thống nói riêng là tài
sản vô giá góp phần làm nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng của nền văn hóa Việt
Nam thống nhất về mục tiêu, định hướng phát triển cũng như các tính chất đặc
trưng cơ bản. Trong phạm vi của một nước đa tôn giáo, đa dân tộc (54 dân tộc)
như nước ta thì vấn đề bảo tồn và phát triển các văn hóa tín ngưỡng dân gian và
các lễ hội truyền thống mang một ý nghĩa chính trị - xã hội – văn hóa sâu sắc.
Bản sắc văn hóa dân tộc ta hàm chứa những giá trị văn hóa dân gian thể hiện rất
đa dạng, xuyên suốt thắm đượm trong toàn bộ đời sống xã hội. Nó có mặt khắp
nơi trong văn hóa vật thể lẫn văn hóa phi vật thể, nó in đậm vào từng cá thể, cộng
đồng. Nó gần gũi với mọi người trong sinh hoạt đời thường như ăn, mặc, giao
tiếp,đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao. Giữ gìn và phát
triển các giá trị văn hóa tín ngưỡng dân gian nói chung và các lễ hội truyền thống
nói riêng là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và
coi đó là nội dung quan trọng trong thực hiện việc “Xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Cặp từ “lễ hội” mới thông dụng những năm gần đây để chỉ những hội hè
đình đám mang tính truyền thống dân gian. Không riêng ở nước ta, các dân tộc
Trang 60
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
trên toàn thế giới ngày nay vẫn duy trì lễ hội và phát triển rầm rộ như một cuộc
phục hưng văn hóa, như thể một cuộc quay về nguồn cội hết sức náo nức, vội
vàng. Nào đợi đến bây giờ, từ xưa, rất xa xưa lễ hội đã là nhu cầu thiết yếu cho
nhân dân, như cơm ăn, áo mặc, nước uống hằng ngày không từ một ai trong cộng
đồng dân tộc. Kẻ sang, người nghèo, bậc thức giả, người bình thường tìm đến lễ
hội mỗi người một cách, một tâm tư riêng. Bất cứ lễ hội của dân tộc nào, một
cộng đồng nhỏ bé nào, ở lục địa nào cũng mang ý nghĩa bắt nguồn từ thời rất xa
xôi, từ những huyền thoại mơ hồ, từ khát vọng, ước mơ và hình thành trên đời
sống thật của con người. Lễ hội, không chỉ là lễ hội đơn thuần, hay là những trò
mê tín, hoang đường gần như không tưởng, như một số nhà cực đoan đã trì chiết,
mà còn là mối quan hệ vô hình với thiên nhiên, giữa con người đang sống với
những vĩ nhân, anh hùng có công với nước với dân, tái tạo sợi dây liên kết các
thành viên trong xã hội, mà cơn lốc trong đời sống nghiệt ngã hàng ngày xô đẩy
ra nhiều phía.
Lễ hội nào cũng chan chứa âm thanh và hương sắc, tràn ngập khói hương,
hoa trái trống kèn. Người đến lễ hội mang theo niềm hân hoan hướng thượng và
hướng thiện, khát vọng bình an và hạnh phúc, niềm tin sâu kín và khát vọng ẩn
giấu trong mỗi con người. Điều chắc chắn là ai ai đến lễ hội cũng mong tận
hưởng sự hoan lạc thanh khiết, hào hứng và thanh thản tâm linh. Lễ hội Vía Bà
Chúa Xứ núi Sam cũng không ra ngoài quy luật chung đó. Hàng năm, có đến
hàng triệu lượt người hành hương về núi Sam cúng bái và cầu nguyện cuộc sống
phát đạt an lành.
Là một lễ hội cấp quốc gia ở Việt Nam, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
phát sinh từ tín ngưỡng hoang đường đã thành lễ hội truyền thống dân gian, mang
nhiều nét đẹp tín ngưỡng và văn hóa cổ truyền vốn có tự thân. Đó là tín ngưỡng
thờ Mẫu đã có sự đan xen với các tín ngưỡng khác thể hiện sự giao lưu văn hóa.
Lễ hội có hai phần: Phần lễ gồm Lễ tắm Bà, Lễ thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu, Lễ
Túc Yết, Lễ Xây Chầu và Lễ Chánh Tế; Phần hội gồm Lễ Khai hội và Lễ Phục
hiện. Những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp này cần phải được giữ gìn hơn nữa
để hòa nhập vào nền văn hóa chung của dân tộc Việt Nam và phù hợp với xu thế
phát triển chung của thời đại.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam đã có một quá trình lâu dài tồn tại và gắn
bó với khách hành hương trong cả nước nói chung và nhân dân tại địa phương nói
riêng. Trải qua thời gian khá dài như vậy nhưng Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam
Trang 61
Khóa luận tốt nghiệp Đại học sư phạm Svth: Nguyễn Hồ Thanh
vẫn bảo tồn được những nét văn hóa độc đáo của mình. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ An Giang, thị xã Châu Đốc nói riêng và của Đảng Cộng sản Việt Nam
nói chung, truyền thống văn hóa tín ngưỡng dân gian thờ Mẫu của Lễ hội vẫn
được bảo tồn, phát huy và trở thành một bộ phận của nền văn hóa thống nhất
trong đa dạng của dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam còn là một sản phẩm du lịch văn
hóa. Du khách đến với núi Sam một cách rất tự nguyện không cần quảng cáo, đã
vậy khách đáo lệ hàng năm ngày một đông hơn, bởi vì người ta đến đây để củng
cố niềm tin bằng tâm linh, lợi thế tuyệt đối này không phải muốn mà có, cho nên
phải khai thác triệt để. Lễ hội vẫn còn tồn tại không ít những mặt hạn chế nhất
định cần phải khắc phục. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm ra giải pháp hữu
hiệu để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cho một hoạt động tín ngưỡng dân gian,
đồng thời phát huy tiềm năng du lịch sẵn có của Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam.
Sự quan tâm chăm lo của Đảng và Nhà nước, của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền ở
các địa phương là việc làm quan trọng để Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam ngày
càng gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân và là một Lễ hội cấp quốc gia có
quy mô lớn thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước.
Trang 62
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1280.pdf