Đề tài Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và một số giải pháp

Đối tượng của tín dụng ĐTPT chỉ mang tính tương đối, nó sẽ thay đổi khi chiến lược, kế hoạch phát triển cũng như hoàn cảnh kinh tế đất nước thay đổi. Một ngành, một lĩnh vực sau một thời gian được ưu tiên khuyến khích phát triển đã đủ khả năng hấp dẫn đầu tư của tư nhân và đầu tư của nước ngoài sẽ không còn là đối tượng được ưu tiên nữa, thay vào đó là các ngành, các khu vực khác cần sự ưu đãi nhất định để khuyến khích phát triển. Do đó, không có một quy định bắt buộc nào về đối tượng ưu tiên của tín dụng ĐTPT. Song đối tượng của tín dụng ĐTPT phải xuất phát từ mục đích của tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Vốn đầu tư phát triển của Nhà nước phải là vốn mời khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát huy năng lực, tham gia đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn, phát huy lợi thế so sánh của nền kinh tế, đồng thời tín dụng ĐTPT phải thực hiện đựoc mục tiêu công bằng xã hội, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền. Do đó, đối tượng vay vốn tín dụng ĐTPT không chỉ tập trung vào các khu vực có khả năng phát triển, các chương trình kinh tế trọng điểm mà còn có các khu vực có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng kém phát triển. Đối tượngv ay vốn cũng phải có tác dụng tạo đà, lôi kéo các ngành nghề, vùng, lĩnh vực khác phát triển.

doc69 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1005 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng đầu tư phát triển nhà nước thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chấp hành chế độ báo cáo thống kê với các cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nhà nước đối với NHPT ngày càng được tăng cường để quản lý và phối hợp với NHPT thực hiện tốt hơn công tác đầu tư phát triển. Trong đó: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giám sát NHPT trong việc thực hiện các nghiệp vụ theo quy định của pháp luật; Bộ thương mại thực hiện các nhiệm vụ theo chức năng và thẩm quyền liên quan đến danh mục tín dụng xuất khẩu của Nhà nước; Bộ nội vụ: hướng dẫn Ngân hàng phát triển thực hiện đúng các chế độ,chính sách quản lý và đào tạo cán bộ,viên chức. Trên đây là những điểm khác biệt của Ngân hàng phát triển so với Quỹ hỗ trợ phát triển. Với việc chuyển đổi mô nhình tổ chức thực hiện từ Quỹ hỗ trợ phát triển sang mô hình Ngân hàng phát triển vừa đáp ứng được yêu cầu , nhiệm vụ mới, vừa khắc phục được những tồn tại, vướng mắc trong thời gian qua với những ưu điểm cơ bản sau : +Đảm bảo phát huy tốt hơn vai trò là công cụ của Chính phủ, thực hiện hỗ trợ mạnh hơn, nhiều hơn, hiệu quả hơn cho đầu tư và xuất khẩu, đồng thời tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm quản lý của hệ thống Quỹ hỗ trợ phát triển. +Khắc phục được các tồn tại, vướng mắc trong hoạt động nghiệp vụ hiện nay của Quỹ hỗ trợ phát triển về:huy động vốn, cho vay, thanh toán, thu hồi nợ, tái cơ cấu nợ, nâng cao chất lượng công tác thẩm định và chất lượng tín dụng, đảm bảo sự quản lý thống nhất và toàn diện của các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư, tài chính, tiền tệ và tín dụng. +Hình thành một định chế tài chính phát triển chuyên nghiệp có tính độc lập và vị thế pháp lý rõ ràng,hoạt động công khai minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, tương tự như NHPT của các nước:cùng tồn tại, phát triển và bổ sung lẫn nhau với các Ngân hàng thương mại để đáp ứng yêu cầu đầu tư của đất nước. +Khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và quốc tế, đảm bảo vốn trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giảm áp lực về vốn trung và dài hạn của các Ngân hàng thương mại. +Quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước và quốc tế thuận lợi hơn, tranh thủ được công nghệ và kinh nghiệm của các ngân hàng trong nước và quốc tế. 2.2. Nguồn vốn hoạt động: Nguồn vốn hoạt động ngày càng được mở rộng thêm từ nhiều nguồn theo hướng giảm bao cấp về vốn ngân sách và tăng nguồn vốn từ huy động các nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội. Ngoài hình thức huy động phát hành trái phiếu Chính phủ, NHPT được quyền phát hành trái phiếu Ngân hàng phát triển và kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi theo quy định. Ngoài ra, nguồn vốn vay của công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm xã hội, các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước và nguồn vốn uỷ thác cũng đóng góp một lượng vốn tương đối lớn dành cho nhu cầu đầu tư phát triển. Bảng 6: Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển giai đoạn 2006 đến nay. Đơn vị:tỷ đồng. STT Khoản mục Năm 2006 Năm 2007 1 Tiền gửi của kho bạc nhà nước, TCTD, TCTC 1428 271 2 Tiền gửi của khách hàng. 5594 4233 3 Vay ngân sách nhà nước TCTD, TCTC 23193 17316 4 Vốn uỷ thác đầu tư. 49266 53178 5 Phát hành giấy tờ có giá. 25753 49588 Qua bảng số liệu trên cho thấy qua hai năm thực hiện từ khi chuyển đổi sang mô hình Ngân hàng phát triển thì nguồn vốn huy động tăng mạnh, đặc biệt là hình thức phát hành giấy tờ có giá từ 25.753 tỷ năm 2006 tăng lên 49.588 tỷ năm 2007. Điều này đã phản ánh sự tăng cường hơn nữa của Ngân hàng phát triển trong việc chủ động về nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển, giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Những bước tiến đáng kể trong công tác huy động vốn không chỉ về khối lượng ngày càng tăng mà còn có sự cải thiện mạnh mẽ cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng vốn huy động có kỳ hạn dài, giảm vốn huy động có kỳ hạn ngắn. Cụ thể là nguồn vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá tăng mạnh trong khi đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi ngắn hạn lại giảm mạnh:từ 1428 tỷ xuống 271 tỷ đối với tiền gửi của Kho bạc nhà nước, tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng; từ 5594 tỷ xuống 4233 tỷ đối với tiền gửi của khách hàng. Tuy nhiên nguồn vốn vay ổn định từ các nguồn truyền thống lại có xu hướng giảm từ 23193 tỷ năm 2006 giảm xuống 17316 tỷ năm 2007. 2.3. Đối tượng của tín dụng ĐTPT : Để thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập WTO, đối tượng hưởng ưu đãi cũng được quy định lại trong danh mục đối tượng của tín dụng đầu tư phát triển đi kèm với Nghị định 151. Nếu như ở Nghị định 106, đối tượng hưởng ưu đãi được mở rộng hơn cho lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản, thì ở Nghị định 151 đối tượng hưởng ưu đãi đã được điều chỉnh phù hợp với Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng khi gia nhập WTO. +Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn đỏ là:trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp sản xuất hàng nội địa thay thế nhập khẩu thì cần phải tận dụng thời gian trước khi bị cấm tiếp tục hỗ trợ cho các đối tượng này. +Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn vàng là:trợ cấp riêng biệt cho từng doanh nghiệp, lĩnh vực, ngành vẫn tiếp tục hỗ trợ song phải kiểm soát chặt chẽ để tránh bị áp dụng các biện pháp đối kháng. +Đối với các đối tượng thuộc trợ cấp đèn xanh là:đối tượng không bị cấm, không bị áp dụng biện pháp đối kháng nên cần đẩy mạnh và mở rộngcho các đối tượng này. Theo đó danh mục các đối tượng hưởng ưu đãi tín dụng đầu tư được phân thành năm nhóm vốn:với quy định không phân biệt địa bàn đầu tư và không phân biệt loại hình doanh nghiệp.Cụ thể bao gồm: Nhóm I: Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Nhóm II: Nông nghiệp,nông thôn. Nhóm III: Công nghiệp. Nhóm IV: Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơme sinh sống tập trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi ngang. Nhóm V: các dự án cho vay theo Hiệp định của Chính phủ, các dự án đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Để đầy mạnh chiến lược xuất khẩu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tận dụng thời gian trước khi các mặt hàng xuất khẩu bị cấm hỗ trợ, hoạt động hỗ trợ cho xuất khẩu cũng được tăng cường. Tuy nhiên, các đối tượng hưởng ưu đãi xuất khẩu cũng bị thu hẹp để phù hợp với các thông lệ quốc tế khi gia nhập WTO. Các mặt hàng hỗ trợ xuất khẩu cũng được quy định theo danh mục riêng, cụ thể gồm bốn nhóm hàng chính: Nhóm I: Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ hải sản. Nhóm II: Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ. Nhóm III: Nhóm hàng sản phẩm công nghiệp. Nhóm IV: Máy tính nguyên chiếc,phụ kiện máy tính và phần mềm tin học. Với sự thay đổi trong quy định về đối tượng hưởng trợ cấp ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển, Nghị định 151 đã tỏ ra phù hợp hơn với bối cảnh kinh tế đất nước và chiến lược phát triển kinh tế trong giai đoạn hội nhập này. 2.4. Các hình thức tín dụng đầu tư phát triển: Cùng với sự điều chỉnh về đối tượng hưởng ưu đãi thì các hình thức tín dụng đầu tư phát triển cũng được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Theo đó phân thành hai mảng hoạt động chính:Tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu. Tín dụng đầu tư vẫn gồm ba hình thức như cũ. Tín dụng xuất khẩu lại được mở rộng ra thành ba hình thức:cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động tín dụng đầu tư phát triển và giảm gánh nặng cho ngân sách, hình thức cho vay sẽ có những thay đổi cơ chế:như lãi suất cho vay sẽ tiến sát đến lãi suất thị trường và mở rộng các điều kiện ưu đãi khác như thời hạn cho vay,điều kiện cho vay. Sự thay đổi này rất phù hợp với xu hướng chung của các nước, đồng thời nâng cao hiệu quả trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức thực hiện, tiến tới phát triển bền vững nguồn tín dụng. 2.4.1 Hình thức cho vay đầu tư phát triển: Bảng 7: Kết quả cho vay đầu tư giai đoạn 2006 đến nay. Đơn vị:tỷ đồng. STT Chỉ tiêu 2006 2007 1 Cho vay 9887 14634 2 Thu nợ 5667 7106 3 Dư nợ 45438 53163 4 Nợ quá hạn(% dư nợ) 7,02% 5,8% Nguồn: NHPT Doanh số cho vay năm 2006 đạt 9887 tỷ, nhưng mới chỉ đạt 54% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, bằng 87% nhu cầu vốn do các chủ đầu tư đăng ký. Như vậy tiến độ giải ngân năm 2006 là rất chậm, sang năm 2007 con số này tăng lên đến 14634 tỷ. Tốc độ tăng so với năm 2006 đạt 48%, tăng nhanh so với các năm trước(năm 2006 so với năm 2005 là 26%). Đặc biệt trong năm 2007, đã có 113 dự án vay vốn tín dụng đầu tư đưa vào sử dụng, 1203 dự án đã thanh lý hợp đồng tín dụng. Về công tác thu hồi nợ vay(cã gốc và lãi) năm 2006 đạt 5667 tỷ, trong khi đó dư nợ là 45438 tỷ. Công tác này vẫn chưa đạt kế hoạch được giao và còn thấp hơn nữa so với số nợ phải trả theo hợp đồng đã ký. Nguyên nhân chủ yếu là do một số dự án chậm tiến độ nên chưa có nguồn thu từ dự án để trả nợ, một số dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng nhưng lại gặp khó khăn tạm thời về sản xuất kinh doanh trong thời gian đầu đưa vào sử dụng Năm 2007, công tác thu nợ đạt cao so với kế hoạch điều chỉnh(95% kế hoạch thu nợ gốc và 99,5% kế hoạch thu nợ lãi), tuy nhiên so với kế hoạch đặt ra thì tỉ lệ này chỉ là 78% kế hoạch thu nợ gốc và 80% kế hoạch thu nợ lãi. Việc thu nợ không đạt kết quả đã làm ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn và việc thực hiện kế hoạch tài choính của Ngân hàng phát triển. Một thực trạng còn tồn tại là chất lượng nợ vẫn chưa tốt. Tỷ lệ nợ quá hạn năm 2006 là 7,02%, năm 2007 là 5,8%. Tuy con số này có giảm nhưng vẫn còn cao, phản ánh chất lượng tín dụng chưa cao. Như vậy có thể thấy rằng qua hai năm thực hiện tình hình giải ngân cho các dự án đầu tư cũng có nhiều khởi sắc, tuy nhiên vẫn có nhiều biến động, chưa thực sự ổn định. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do năm 2006 cơ chế, chính sách thay đổi nên tổ chức thực hiện vẫn chưa nắm bắt kịp thời với những thay đổi này để thực hiện tốt các nghiệp vụ. Điều này phản ánh một thực tế vẫn còn tồn tại ở Việt Nam là chính sách ban hành chưa đi cùng với hướng dẫn thực hiện kịp thời để chính sách sớm đưa vào thực tiễn. Với vai trò là công cụ chính sách trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế hoạt động tín dụng đầu tư phát triển trong giai đoạn này vẫn có tác động lớn đến chuyển dịch cơ câú ngành kinh tế Bảng8: Cơ cấu cho vay theo ngành kinh tế giai đoạn 2006 đến nay. Đơn vị: tỷ đồng. STT Ngành Số vốn và tỷ trọng phân theo ngành kinh tế Năm 2006 Năm 2007 số vốn tỷ trọng(%) số vốn tỷ trọng(%) 1 Công nghiệp, xây dựng 8206 83 12731 87 2 Nông,lâm, ngư nghiệp 988 10 1170 8 3 Giao thông vận tải 395 4 439 3 4 Khác 298 3 294 2 Tổng cộng 9887 100 14634 100 Nguồn: NHPT Số vốn vay cho các ngành đều tăng từ năm 2006 đến năm 2007, nhưng tỷ trọng số vốn vay của các ngành qua hai năm có sự thay đổi theo xu hướng: tỷ trọng vốn vay của ngành công nghiệp, xây dựng tăng nhanh, tỷ trọng vốn vay của các ngành nông lâm, ngư nghiệp và giao thông vận tải lại giảm. Cơ cấu này rất phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn này. * Cùng với tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước có xu hướng cho vay tín dụng đầu tư đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng giảm, tăng tỉ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bảng 9: Số vốn cho vay theo hình thức sở hữu Đơn vị: tỷ đồng. STT Hình thức sở hữu Số vốn và tỷ trọng phân theo hình thức sở hữu Năm 2006 Năm 2007 số vốn tỷ trọng(%) số vốn Tỷ trọng(%) 1 Doanh nghiệp nhà nước 7909 80 10975 75 2 Doanh nghiệp tư nhân 1977 20 3658 25 Tổng cộng 9887 100 14634 100 Nguồn: NHPT Tỷ trọng vay vốn của các doanh nghiệp nhà nước giảm đồng thời và tăng đáng kể tỷ trọng vay vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho thấy việc tiếp cận với nguồn vốn tín dụng ưu đãi của doanh nghiệp tư nhân (đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ) dễ dàng hơn, chứng tỏ chính sách tín dụng đầu tư đã có những điều chỉnh rất phù hợp với tình hình thực tiễn, khắc phục được những tồn tại của cơ chế cũ. Cùng với sự tăng lên của nguồn vốn trong nước dành cho đầu tư phát triển thì nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA cũng tăng lên đáng kể, góp phần quan trọng vào việc giải quyết nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, nguồn vốn này được coi là nguồn ngoại lực cần thiết đối với sự phát triển của đất nước. Nguồn ODA thu hút trong nền kinh tế những năm gần đây đạt những con số khổng lồ, tuy nhiên việc sử dụng nó như thế nào cho hiệu quả lại đang là một vấn đề nan giải. Ngân hàng phát triển với nhiệm vụ nhận uỷ thác quản lý nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại đã phát huy tốt vai trò là công cụ vĩ mô để quản lý hiệu quả nguồn vốn này. Trong giai đoạn này Ngân hàng phát triển đang quản lý cho vay lại 357 dự án với số vốn vay theo hợp đồng tín dụng đã ký gần 6700 triệu USD. Giải ngân vốn ODA năm 2007 tăng 70% so với năm 2006,đạt 92% kế hoạch được giao, tốc độ giải ngân những tháng cuối năm tăng mạnh, công tác thu hồi nợ đạt tốt 2330 tỷ đồng nợ gốc và 1431 tỷ đồng nợ lãi(trên 100% kế hoạch năm). 2.4.2.Hỗ trợ lãi suất đầu tư: Trong giai đoạn này Ngân hàng phát triển đã ký hợp đồng hỗ trợ sau đầu tư 2784 dự án với tổng số vốn hỗ trợ khoảng 3533 tỷ đồng. Hiện tại, đang cấp hỗ trợ cho 1850 dự án với số vốn hỗ trợ theo hợp đồng khoảng 3340 tỷ đồng.Số vốn đã cấp từ đầu năm 2007 là 260 tỷ đồng, đạt 65% kế hoạch được giao, bằng 95% kế hoạch Ngân hàng phát triển đã thông báo, tăng 31% so với năm 2006. Số vốn cấp hỗ trợ sau đầu tư đạt thấp, tập trung vào các dự án chuyển tiếp. Nguyên nhân là do: +Đối tượng hỗ trợ sau đầu tư hẹp. +Hiện nay còn nhiều dự án đang phải khắc phục tồn tại sau kiểm tra vì thế phải tạm dừng việc cấp hỗ trợ sau đầu tư. +Một số chủ đầu tư không trả được nợ cho tổ chức tín dụng theo đúng hợp đồng đã ký. 2.4.3. Cho vay ngắn hạn tín dụng xuất khẩu: Để thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO một số mặt hàng thuộc trợ cấp đèn đỏ không thuộc đối tượng cho vay nữa đã làm ảnh hưởng đến doanh số cho vay. Doanh số cho vay xuất khẩu đang có xu hướng giảm dần, kết quả đạt thấp nhưng nợ quá hạn lại có xu hướng tăng nhanh. Nguyên nhân chính là do năm 2006, mặt hàng gạo thường chiếm 30% doanh số cho vay xuất khẩu không thuộc đối tượng cho vay. Bên cạnh đó,việc hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị định 151 chậm(kể cả thông báo lãi suất cho vay) và việc tăng lãi suất vay vốn lên cao hơn sẽ không hấp dẫn các doanh nghiệp nữa. Năm 2007 doanh số cho vay đạt 9563 tỷ đồng của 1753 hợp đồng xuất khẩu, tăng 16% so với năm 2006. Bảng 10:Cơ cấu doanh số cho vay giai đoạn 2006 đến nay. Theo thị trường Theo mặt hàng Theo loại hình doanh nghiệp Thị trường Tỷ trọng(%) Mặt hàng Tỷ trọng(%) Loại hình DN Tỷ trọng(%) Mỹ 11 Nông-lâm-thuỷ sản 65 DNNN 45 Nhật 9 Thủ công mỹ nghệ 7 Công ty cổ phần 25 Châu Âu 27 Công nghiệp 11 DNTN 10 Châu Á 18 Máy tính 1 Công ty TNHH 20 Khác 35 Gạo 16 Hợp tác xã 0,05 Nguồn: NHPT Cơ cấu cho vay theo thị trường cho thấy doanh số cho vay xuất khẩu vào thị trường châu Âu chiếm tỷ trọng lớn(27%). Đây là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam. Tuy nhiên tỷ trọng cho vay xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật vẫn còn nhỏ. Theo mặt hàng xuất khẩu thì mặt hàng nông-lâm-thuỷ sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn(65%), trong khi đó các mặt hàng như thủ công mỹ nghệ, công nghiệp và đặc biệt là máy tính chiếm tỷ lệ rất thấp. Với cơ cấu này cho thấy nước ta vẫn chỉ chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, giá trị không cao, còn các mặt hàng có giá trị cao như công nghiệp, máy tính thì rất hạn chế. Theo loại hình doanh nghiệp thì doanh số cho vay xuất khẩu đối với doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất(45%). Song các loại hình doanh nghiệp được vay vốn xuất khẩu đã được mở rộng ra đến năm loại hình: trong đó doanh nghiệp cổ phần (chiếm 25%), doanh nghiệp tư nhân chiếm 10%. Cơ cấu này phản ánh sự điều chỉnh của hoạt động tín dụng đầu tư phát triển dần theo hướng cân đối sự phát triển giữa các thành phần kinh tế, phù hợp hơn với tình hình hiện nay. Mặc dù trong hai năm qua Ngân hàng phát triển đã hoàn thành vượt mức kế hoạch tín dụng xuất khẩu do Thủ tướng chính phủ giao, tuy nhiên doanh số cho vay của Ngân hàng phát triển đối với lĩnh vực xuất khẩu chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu(là 5,4%). Công tác thu hồi nợ quá hạn đã được thúc đẩy, quyết liệt và phù hợp với đặc điểm từng khoản nợ, từng doanh nghiệp nên nợ quá hạn đã giảm đáng kể, đặc biệt là các khoản nợ kéo dài. Hoạt động cho vay hỗ trợ xuất khẩu trong giai đoạn này vẫn còn những tồn tại như sau: +Vẫn chưa đẩy mạnh được hoạt động cho vay xuất khẩu tại các tỉnh miền núi phía Bắc, là địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, các doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ bé. +Lãi suất vay vốn tăng nên không hấp dẫn daonh nghiệp vay vốn. +Các hoạt động nghiệp vụ chưa được đa dạng, đặc biệt các sản phẩm dịch vụ đi kèm nghiệp vụ cho vay, thanh toán quốc tế chưa triển khai. +Tình trạng nợ quá hạn kéo dài vẫn còn tồn tại. II.Đánh giá chung về hoạt động tín dụng đầu tư phát triển qua hai giai đoạn:2000_2005 và 2006 đến nay: 1. Những thành tựu đạt được Kết quả của quá trình thực thi chính sách tín dụng ĐTPT Nhà nước từ năm 2000 đến nay đã khẳng đinh tính đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, phản ánh tính tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Việc hình thành và phát triển hệ thống QHTPT( giai đoạn 2000_2005), NHPT( giai đoạn 2006 đến nay) để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước thời gian qua là bước kế tiếp thành công của sự đổi mới mô hình tổ chức tài chính của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện khả năng tích lũy của ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển có hạn, cùng với các chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ đã có thêm công cụ khai thác nguồn vốn trong xã hội để hỗ trợ phát triển các ngành, các vùng, các sản phẩm trọng điểm, thúc đẩy chuyển dich cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu và khai thác các tiềm năng to lớn của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt là giai đoạn 2006 đến nay với việc chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động từ QHTPT sang NHPT thì hoạt động tín dụng ĐTPT ngày càng phát huy hơn nữa những thành tựu đồng thời khắc phục những hạn chế của giai đoạn trước để phù hợp hơn với thực tiễn. Chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã có những kết quả và đóng góp cho nền kinh tế biểu hiện các mặt chủ yếu sau: * Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Lượng vốn cho vay đầu tư vào các ngành tăng và chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể là: - Ngành công nghiệp, xây dựng tăng từ 43% năm 2000 lên 87% năm 2007 - Ngành nông – lâm nghiệp giảm từ 28% năm 2000 xuống còn 8% năm 2007 * Hỗ trợ phát triển một số lĩnh vực, chương trình, dự án, sản phẩm trọng điểm của nền kinh tế: - Góp phần phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế: + Hàng nghìn km cầu đường giao thông được làm mới và nâng cấp mở rộng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trên từng địa bàn và trong phạm vi cả nước; + Tăng thêm công suất phát điện 2000 Kw, xây dựng mới hơn 500km đường dây 500KV, gần 2000 km đường dây 220KV và 110KV, hàng trăm trạm biến áp các loại + Hạ tầng nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu ở các vùng kinh tế trọng điểm và các cửa khẩu quốc gia được hình thành, nâng cấp, mở rộng. - Góp phần phát triển các ngành, các sản phẩm công nghiệp trọng điểm: + Đầu tư 17 nhà máy đóng tàu có khả năng đóng mới hàng chục tàu có trọng tải từ 6500 tấn đến 53000 tấn mỗi năm; đóng mới 42 tàu vận tải biển trọng tải từ 3600 tầu đến 22000 tấn; đóng mới 166 toa xe khách và 610 toa xe hàng. + Tăng thêm năng lực sản xuất: 2,8 triệu tấn xi măng, 0,55 triệu tấn thép, 50 vạn tấn phân bón các loại, trên 1 triệu bộ săm lốp ô tô, 45000 tấn sợi, 110 triệu m2 vải thành phẩm, 23 triệu sản phẩm dệt kim mỗi năm. - Góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn: Đã đầu tư trên 800 dự án tăng thêm năng lực chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản; trồng mới 240000ha rừng nguyên liệu, 50000ha cây công nghiệp dài ngày; 27000 km kênh mương nội đồng và 155000 km đường giao thông nông thôn được bê tông hóa; hoàn thành tôn nền 637 cụm tuyến dân cư đồng bằng Sông Cửu Long với tổng diện tích trên 15000 ha Đang tiếp tục đầu tư nhiều nhà máy chế biến nông, lâm, thủy hải sản; chương trình kiên cố hóa kênh mương, giao thông nông thôn; trồng rừng nguyên liệu và trồng cây công nghiệp dài ngày. - Góp phần thực hiện chính sách xã hôi hóa trong lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao: đã đầu tư đưa vào sử dụng hàng trăm trường học, trường dạy nghề, bệnh viện, trạm xá, các khu nhà ở và đô thị mới * Hỗ trợ phát triển kinh tế các vùng, miền: Trên 40% tổng số cho vay được tập trung vào các vùng kinh tế trọng điểm của đất nước để phát huy tiềm năng và lợi thế, tạo đà cho các vùng kinh tế khác cùng phát triển; 32% tổng số vốn cho vay được đầu tư vào các vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn – nơi các dự án có hiệu quả kinh tế và khả năng sinh lời thấp, độ rủi ro cao, không hấp dẫn các nhà dầ tư và các tổ chức tín dụng, từng bước xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân giữa các vùng, miền. * Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA: Tín dụng ĐTPT đảm bảo đủ nguồn vốn đối ứng góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện trên 3 tỷ USD vốn ODA cho vay lại (trong tổng số trên 5 tỷ USD vốn cam kết). Đồng thời, thông qua cơ chế tự chịu trách nhiệm thẩm định, quyết định cho vay và quản lý rủi ro, đã tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả trên 300 triệu USD từ các nhà tài trợ song phương và đa phương dưới dạng các quỹ ủy thác quay vòng để cho vay đầu tư. * Tín dụng hỗ trợ xuất khẩu đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. - Đã cho vay trên 700 dự án đầu tư cơ sở sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu với tổng số vốn cho vay hơn 6500 tỷ đồng chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dệt may, da giày, chể biến thủy hải sản, chế biến rau quả, thủ công mỹ nghệ - Đã cho vay vốn ngắn hạn trên 2000 doanh nghiệp với tổng số vốn gần 25000 tỷ đồng để thực hiện thành công các hợp đồng xuất khẩu các mặt hàng được ưu tiên như: thủy sản, cà phê, gạo, dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, vào thị trường lớn như Asean, Mỹ, Nhật, EU * Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư thông qua việc thực hiện nhiệm vụ cấp phát, cho vay ủy thác: * Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đã tạo được sự chuyển biến về lượng và chất trong việc khai thác các nguồn vốn cho đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính: - Thông qua hoạt động huy động vốn cho đầu tư phát triển, trên thị trường tài chính nước ta lần đầu tiên đã xuất hiện một công tụ tài chính là Trái phiếu Chính phủ có thời hạn 2 năm, 5 năm, đặc biệt là trái phiếu do NHPT phát hành tăng thêm một lượng hàng hóa đáng kể và đa dạng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán, đồng thời góp phần thúc đẩy sự phát triển các định chế tài chính (các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư), bước đầu hình thành một kênh huy động vốn trung hạn cho đầu tư phát triển. - Hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đã cung ứng một số “vốn mồi”, từ đó thu hút được một lượng vốn lớn của các tổ chức tín dụng cho đầu tư phát triển, góp phần phát triển thị trường tín dụng ngân hàng. * Tín dụng ĐTPT đã góp phần giải quyết các vấn đề xã hội. Tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đào tạo nguồn nhân lực , bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khỏe và nâng cao mức sống cho người dân, đặc biệt ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng song Cửu Long. 2. Những hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những thành tựu đạt được hoạt động tín dụng ĐTPT cũng bộc lộ một số hạn chế sau: * Nguồn vốn huy động chưa đa dạng, chưa ổn định, chưa thực sự đáp ứng đầy đủ nhu cầu ĐTPT của toàn xã hội. Các nguồn truyền thống như vay của các TCTC, TCTD giảm đáng kể. Hình thức huy động mới như chứng chỉ tiền gửi, huy động ngoại tệ chưa được thực hiện. Nguyên nhân : - Cơ chế và phương thức huy động vốn chưa đa dạng, chưa thực sự gắn với thị trường. - Tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ còn thấp do thị trường thứ cấp chưa phát triển. - Tổ chức thực hiện chưa được phép huy động bằng ngoại tệ do vậy không thu hút được ngoại tệ trong nước cho hoạt động tín dụng ĐTPT nhằm giảm bớt áp lực huy động vốn bằng VNĐ. - Công tác chăm sóc khách hàng cũng chưa được chú trọng do cán bộ thực hiện chưa có tính chuyên nghiệp cao trong công tác huy động vốn. * Quản lý và đảm bảo an toàn vốn tín dụng ĐTPT vẫn chưa được thực hiện tốt gây ra tình trạng thất thoát, lãng phí và mất ổn định nguồn vốn. Nguyên nhân : - Các quy định về đảm bảo tiền vay của tổ chức thực hiện được ban hành nhưng lại không có văn bản hướng dẫn để thực hiện các quy định này. - Các ràng buộc pháp lý về trách nhiệm của khách hàng vay vốn chưa được thiết lập đồng bộ và chặt chẽ, đặc biệt trong việc trả nợ gây khó khăn cho việc thu hồi nợ. - Lượng vốn tín dụng ĐTPT chiếm phần đáng kể trong tổng lượng dư tín dụng của toàn nền kinh tế nhưng chưa nhận được sự giám sát, hỗ trợ thường xuyên của cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng. * Hoạt động cho vay ĐTPT tuy đã có nhiều khởi sắc nhưng nhìn chung doanh số cho vay chưa ổn định và tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn còn thấp so với tốc độ tăng trưởng tín dụng của toàn ngành ngân hàng. Đặc biệt là chất lượng nợ còn rất thấp đang là vấn đề bất cập đặt ra đối với tổ chức thực hiện. Nguyên nhân: - Cơ chế chính sách ban hành chưa đồng bộ. Văn bản hướng dẫn ban hành chậm gây ra sự lúng túng cho tổ chức thực hiện và chủ đầu tư. - Công tác thu hồi nợ còn nhiều bất cập mà nguyên nhân chủ yếu là do công tác dự đoán, dự báo, thông tin tín dụng và khả năng phân tích đánh giá thị trường còn bị động. - Chất lượng thẩm định dự án của tổ chức thực hiện còn yếu kém. Báo cáo thẩm định chưa có kết luận và kiến nghị đầu tư thực sự rõ ràng đối với từng nội dung được yêu cầu thẩm định; chưa đưa ra được những nhận xét, đánh giá về các chỉ tiêu về năng lực của chủ đầu tư nên dẫn đến tình trạng lựa chọn dự án cho vay không được khả thi. Đây là một tồn tại lớn của hoạt động tín dụng ĐTPT. * Hoạt động cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu chưa thực sự được đẩy mạnh. Doanh số cho vay xuất khẩu chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nguyên nhân: - Chính sách tín dụng ĐTPT có sự điều chỉnh theo hướng cắt giảm đối tượng cho vay để phù hợp với thực tiễn nên một số mặt hàng cho vay truyền thống đã không thuộc đối tượng vay vốn, làm ảnh hưởng đến doanh số cho vay. - Lãi suất cho vay được điều chỉnh theo hướng tiếp cận dần với lãi suất thị trường. Điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của tổ chức thực hiện. Bởi vì lãi suất thấp vẫn là ưu thế của tổ chức thực hiện trong việc thu hút khách hàng. Mà tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghiệp vụ của tổ chức này so với các ngân hàng thương mại thì còn thua kém. - Hệ thống thanh toán quốc tế chưa có và việc mua bán bằng ngoại tệ cũng chưa được thực hiện đã gây ra các khó khăn cho hoạt động này. Bên cạnh đó tính chuyên nghiệp trong công tác phục vụ khách hàng còn yếu. Trong tương lai với cơ chế cho vay thông thoáng cộng với các dịch vụ trọn gói các ngân hàng thương mại sẽ có nhiều lợi thế hơn trong việc thu hút khách hàng. Điều này sẽ đẩy tổ chức thực hiện vào vị trí tụt hậu hơn so với các ngân hàng khác. * Hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng vẫn chưa được tăng cường. Điều đó cho thấy hình thức cho vay vẫn là hình thức chủ yếu trong hoạt dộng tín dụng ĐTPT. Nguyên nhân : - Hồ sơ để xem xét dự án được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư còn phức tạp. - Đối tượng được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hẹp - Uy tín của tổ chức thực hiện đối với các tổ chức tín dụng khác chưa cao cũng là nguyên nhân hạn chế hoạt động bảo lãnh tín dụng. - Các chủ đầu tư vẫn có tâm lý chung thích vay vốn tín dụng ưu đãi hơn là bảo lãnh tín dụng hay hỗ trợ lãi suất sau đầu tư vì thế nhu cầu của các dự án với hai hình thức này còn hạn chế. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM I. Quan điểm và định hướng cho hoạt động tín dụng ĐTPT đến năm 2010. 1. Quan điểm cho hoạt động tín dụng ĐTPT Tín dụng ĐTPT Nhà nước được hoạch định theo lộ trình hội nhập, định hướng thị trường bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, chú trọng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời cân bổ sung các quy định để các dự án được hỗ trợ đều phải được kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quá trình đầu tư từ chủ trương, ý đồ đầu tư đến khâu chuẩn bị dự án, thực hiện dự án và quá trình khai thác sử dụng công trình hoàn thành cho đến khi hoàn trả hết vốn và lãi cho nhà nước. Từng bước điều chỉnh phạm vi, đối tượng được hưởng tín dụng ưu đãi, hình thức và thời hạn hỗ trợ theo lộ trình hội nhập đảm bảo hỗ trợ có hiệu quả phục vụ mục tiêu tăng trưởng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ để hỗ trợ được nhiều hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, chuyển dần từ ưu đãi về lãi suất sang ưu đãi về điều kiện được hỗ trợ, mức hỗ trợ, thời hạn hỗ trợ Từng bước nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức thực hiện( Ngân hàng phát triển) và đa dạng hóa các hoạt động nghiệp vụ để tổ chức này phát huy tốt vai trò là công cụ của chính phủ để thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư và hỗ trợ xuất khẩu theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. 2: Định hướng cho hoạt động tín dụng ĐTPT đến năm 2010 2.1 Tiếp tục hỗ trợ các dự án đầu tư( cho vay đầu tư, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ sau đầu tư) và các khoản vay hỗ trợ xuất khẩu chuyển tiếp. Riêng đối với các khoản vay hỗ trợ xuất khẩu được điều chỉnh phù hợp với cam kết hội nhập. 2.2 Đối với các khoản hỗ trợ mới được thực hiện như sau * Cho vay đầu tư + Về đối tượng Tiếp tục cho vay các dự án phát triển các ngành sản phẩm( trợ cấp đèn vàng) theo mục tiêu ưu tiên của chính phủ với mức hỗ trợ nằm trong giới hạn cho phép: Đầu tư phát triển những ngành sản phẩm công nghiệp trọng điểm. Công nghiệp chế biến Một số dự án trọng điểm quốc gia có quy mô đầu tư lớn. Đẩy mạnh cho vay đầu tư các dự án được phép hỗ trợ lâu dài( trợ cấp đèn xanh) Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội Phát triển các ngành nghề mới Phát triển nông nghiệp, nông thôn Phát triển các vùng miền khó khăn Xã hội hóa y tế và giáo dục + Về cơ chế cho vay Lãi suất được điều chỉnh theo hướng tiếp cận với lãi suất thị trường Mức vốn cho vay tối đa từ 50%-70% tổng số vốn đầu tư của dự án Thời hạn cho vay phù hợp với thời hạn hoàn vốn của từng loại hình dự án Có cơ chế phù hợp và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về bảo đảm tiền vay xử lý rủi ro, dự phòng rủi ro. * Cho vay lại vốn ODA Tiếp tục thực hiện quản lý, cho vay, thu hồi nợ các dự án ODA cho vay lại theo ủy quyền của Bộ tài chính; mở rộng hình thức quản lý, cho vay lại vốn ODA theo nguyên tắc nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức thực hiện trong việc thẩm định, quyết định cho vay, thu hồi nợ. Đảm bảo đủ nguồn vốn đối ứng theo tiến độ đối với các dự án sử dụng vốn ODA. * Cho vay hỗ trợ xuất khẩu + Tập trung hỗ trợ để thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên phù hợp với lộ trình hội nhập Các mặt hàng công nghiệp có tiềm năng xuất khẩu lớn Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ Các sản phẩm ngành nghề truyền thống Với các mặt hàng nông sản xuất khẩu mà Việt Nam đang có lợi thế tiếp tục hỗ trợ cho đến khi bị xóa bỏ theo lộ trình hội nhập + Cơ chế cho vay Trong thời hạn được phép duy trì trợ cấp lãi suất cho vay ở khoảng mức 80% lãi suất thị trường; sau thời hạn này sẽ cho vay theo lãi suất thị trường Điều kiện cho vay bình đẳng giữa các thành phần kinh tế Từng bước đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ * Hỗ trợ sau đầu tư Mức hỗ trợ và thời hạn hỗ trợ được điều chỉnh phù hợp với từng loại hình dự án và địa điểm đầu tư nhằm khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào các ngành nghề, các vùng miền khó khăn * Bảo lãnh tín dụng đầu tư Tiếp tục đẩy mạnh đối với các loại hình dự án cần khuyến khích đầu tư theo chủ trương của Chính phủ * Chính sách huy động, quản lý và sử dụng vốn Coi nguồn vốn huy đông từ thị trường thông qua hình thức phát hành trái phiếu là nguồn vốn mang tính chiến lược vì đây là nguồn tài chính dài hạn, ổn định.Do đó cần đổi mới cơ chế huy động sử dụng vốn theo hướng + Đa dạng hóa hình thức, đối tượng và loại tiền huy động + Lãi suất huy động phù hợp với diễn biến thị trường + Tăng cường huy động từ nguồn đi vay của Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, Bảo hiểm xã hội Việt Nam vì đây là các nguồn vốn huy động được lớn, ổn định. * Về cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý Có cơ chế tăng nguồn thu để giảm dần cấp phí hoạt động từ NSNN và tiến tới tự bù đắp chi phí hoạt động bằng cách đa dạng hóa, nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ và tiết kiệm chi phí. Thực hiện cơ chế lãi suất cho vay theo lộ trình tiếp cận với thị trường để giảm dần số cấp bù chênh lệch lãi suất. II: Một số giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng ĐTPT Nhà nước Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và không ít những khó khăn. Với vai trò là công cụ chính sách của Nhà nước tín dụng ĐTPT cần có sự tăng cường hơn nữa để thực hiện tốt vai trò hỗ trợ phát triển đối với nền kinh tế nhưng phải phù hợp với các thông lệ quốc tế. Xuất phát từ các hạn chế của tín dụng ĐTPT và định hướng nêu trên bài viết xin được đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động tín dụng ĐTPT 1. Giải pháp đối với tổ chức thực hiện Với cơ chế, chính sách Việc ban hành cơ chế, chính sách về tín dụng ĐTPT phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, của từng vùng, từng địa phương, từng ngành. Từ đó có sự lựa chọn đối tượng hưởng ưu đãi có thứ tự ưu tiên phát triển phù hợp với tình hình thực tế, tránh dàn trải, bao cấp. Cơ chế, chính sách phải được ban hành đồng bộ cùng các thông tư hướng dẫn kịp thời, cụ thể, rõ ràng. Có như thế việc triển khai thực hiện chính sách mới nhanh chóng, giảm bớt các chi phí phát sinh. Cần có sự phối kết hợp giữa các cơ quan Nhà nước: Chính phủ, NHPT, các Bộ, ngành liên quan trong việc ban hành chính sách tín dụng ĐTPT để chính sách phù hợp hơn với thực tiễn. Để thực hiện tốt các cam kết khi gia nhập WTO đối tượng hưởng ưu đãi cần phải được điều chỉnh cho phù hợp. Trong thời gian đầu của quá trình hội nhập cần tranh thủ hỗ trợ cho các đối tượng này rồi tiến tới xóa bỏ hẳn trợ cấp khi nền kinh tế đã đi sâu vào hội nhập. Cơ chế quản lý tài chính đối với tổ chức thực hiện phải được quy định cụ thể, đảm bảo cho tổ chức tài chính cân đối được nguồn thu chi để tiến tới tự chủ về tài chính. Song song với chính sách tín dụng ĐTPT cần có các chính sách về đầu tư, chính sách về tài chính, tiền tệ, chính sách về quản lý tài chính công cho phù hợp. + Đối với các chính sách về đầu tư. Ban hành chính sách phù hợp với thực tiễn Cần có cơ chế quản lý đầu tư, quản lý các chương trình dự án thật hợp lý Quán triệt tinh thần chống đầu tư dàn trải, lãng phí Cần có các cơ chế thoáng hơn về hành lang pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các dự án đầu tư . Cơ chế, chính sách ban hành phải đồng bộ, có hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời để các chủ đầu tư có thể nắm bắt thực hiện, đảm bảo tiến độ đầu tư không bị chậm trễ. + Đối với chính sách tài chính tiền tệ Cơ chế về lãi suất phải ổn định, linh hoạt, đảm bảo cho các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng được tiến hành có hiệu quả hơn. Cơ chế điều tiết vĩ mô về tài chính tiền tệ phải ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng. + Đối với chính sách tài chính công Cần có các cơ chế quản lý chặt chẽ, đảm bảo công khai, minh bạch nguồn tài chính công, đồng thời giảm chi ngân sách tiến tới giảm bao cấp trong nền kinh tế và bền vững nguồn tài chính công. Với việc ban hành đồng bộ các cơ chế chính sách trên một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến việc nâng cao hơn nữa hoạt động tín dụng ĐTPT. 1.2. Với Ngân hàng phát triển Việt Nam Trong giai đoạn này Ngân hàng phát triển cần phải nỗ lực để chủ động cho viêc hội nhập: tiến tới tự chủ, độc lập và trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực hơn nữa cho Chính phủ. Để làm được điều này Ngân hàng cần phải: Bám sát chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, từng vùng, từng địa phương, từng ngành từ đó xây dựng các định hướng chiến lược, kế hoạch, giải pháp trong từng thời kỳ để thực hiện tốt công tác tín dụng nhà nước. Cần phải sớm xây dựng chiến lược hoạt động của ngân hàng để đi đúng định hướng, thống nhất trong chỉ đạo điều hành. Các đơn vị chủ động nghiên cứu, xây dựng kế hoạch hoạt động của đơn vị mình. NHPT cần phải xây dựng bộ phận chuyên trách nghiên cứu chiến lược, chính sách hoạt động của hệ thống NHPT. Bộ phận này có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị, xác định kế hoạch hoạt động, bước đi cụ thể của toàn hệ thống NHPT và của từng đơn vị trong từng giai đoạn, đánh giá tình hình thực hiện để điều chỉnh kế hoạch phù hợp với thực tế. Tăng cường tham mưu với Chính phủ và các Bộ, ngành để hoạt động của NHPT theo đúng chiến lược, kế hoạch đã xây dựng. Xây dựng cơ chế huy động và quản lý, điều hành nguồn vốn theo hướng tập trung vốn về TW để sử dụng có hiệu quả và thống nhất. Hoàn thiện toàn diện các quy chế, quy trình nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tín dụng ĐTPT giai đoạn hiện nay. Chuẩn hóa quy trình hành chính, đảm bảo các công việc, hồ sơ được giải quyết đúng trình tự, đúng thời gian theo các thủ tục đã ban hành. Xử lý, giải đáp các kiến nghị của các chi nhánh kịp thời. Hoàn thiện, cải tiến hệ thống thông tin. Đảm bảo các thông tin báo cáo đầy đủ, kịp thời, chính xác. Cập nhật, phổ biến các chế độ, chính sách liên quan đến hoạt động của NHPT và hệ thống văn bản mới ban hành của NHPT trên mạng thông tin nội bộ để kịp thời khai thác, thực hiện và công khai, minh bạch hoạt động của hệ thống NHPT. Sửa đổi, hoàn thiện hệ thống định mức chi tiêu, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của NHPT. Ban hành quy định cụ thể về chế độ trách nhiệm đối với cán bộ viên chức thuộc hệ thống NHPT. Đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ viên chức và lãnh đạo để xác định kế hoạch đào tạo bồi dưỡng. Đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý và thực hiện các hoạt động của NHPT: hiện đại hóa công tác thông tin tin học, xây dựng các phần mềm quản lý nghiệp vụ, trong đó đặc biệt quan trọng là hệ thống quản lý tín dụng và kế toán, khai thác có hiệu quả hệ thống mạng nội bộ, tránh lãng phí. Tăng cường hơn nữa công tác quản lý tài chính công: quản lý trong đầu tư xây dựng cơ bản, sửa chữa, cải tạoở các đơn vị thuộc NHPT. Thực hiện quản lý chặt chẽ theo đúng trình tự và quy định của Nhà nước. Tăng cường công tác quản lý tài chính, tài sản trên tất cả các mặt công tác được giao, bảo đảm việc tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả phục vụ nhiệm vụ chính trị. Tăng cường phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ tín dụng ĐTPT. Giải pháp với việc triển khai thực hiện Với hoạt động huy động vốn Nâng cao vị thế và uy tín của NHPT trên thị trường tiền tệ thông qua việc nâng cao chất lượng tín dụng; minh bạch về tài chính; đảm bảo khả năng thanh toán, tạo sự tin tưởng của người gửi tiền và người mua trái phiếu chính phủ do NHPT phát hành. Đa dạng hóa hình thức huy động vốn trong đó cần phải có hình thức huy động bằng ngoại tệ để giảm áp lực về vốn bằng VNĐ Tham gia thị trường tiền tệ, thị trường mở của ngân hàng Nhà nước; tham gia thanh toán liên ngân hàng, thanh toán với khách hàng để thông thoáng, hiệu quả trong huy động và sử dụng vốn. Cơ cấu lại nguồn vốn, tổ chức huy động vốn theo hướng ngày càng tăng cường thu hút vốn trung, dài hạn trên thị trường. Tiếp tục làm việc với các Bộ, ngành để điều chỉnh cơ chế và mở rộng hình thức huy động nhằm đẩy mạnh phát hành trái phiếu Chính phủ và huy động ngoại tệ. Đẩy mạnh huy động vốn tại các chi nhánh NHPT thông qua cơ chế gắn liền nghĩa vụ với quyền lợi; triển khai các nội dung đã thí điểm trong công tác huy động vốn trên toàn hệ thống. Khai thác triệt để vốn nhàn rỗi của các Tổng công ty có quan hệ tín dụng với NHPT thông qua việc giao nhiệm vụ huy động vốn cho các ban tại hội sở chính NHPT. Tập trung toàn bộ nguồn vốn tại NHPT đảm bảo sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn, đảm bảo hoàn vốn và bù dắp chi phí. Với hoạt động cho vay ĐTPT * Về công tác thu hồi nợ vay của NHPT Bám sát tình hình sản xuất kinh doanh và nguồn thu của chủ đầu tư, các doanh nghiệp xuất khẩu để đôn đốc, quyết liệt trong công tác thu hồi nợ vay. Tiếp tục thực hiện việc phân loại nợ vay theo quy định để có giải pháp xử lý phù hợp với từng loại dư nợ. Phối hợp với các cấp chủ quản đầu tư dự án, các doanh nghiệp xuất khẩu theo dõi tình hình thực hiện dự án, hợp đồng xuất khẩu đối với các dự án và hợp đồng xuất khẩu gặp khó khăn cần đề xuất các biện pháp cụ thể để tháo gỡ nhằm giúp chủ đầu tư, doanh nghiệp xuất khẩu nâng cao khả năng trả nợ từ đó mới có cơ sở đề xuất biện pháp xử lý nợ phù hợp với quy định. Tiếp tục rà soát, tổng hợp kết quả phân loại nợ, từng bước hướng tới thực hiện tốt việc phân loại nợ theo quy định của ngân hàng nhà nước. Tăng cường hình thức thu hồi nợ thông qua công ty mua bán nợ của Bộ tài chính đối với một số dự án. Có cơ chế gắn chặt hơn kết quả thu hồi nợ vay với quỹ lương được hưởng. Quán triệt sâu sắc tới từng phòng ban, từng cán bộ của NHPT về tầm quan trọng của công tác thu hồi nợ vay, để mỗi cán bộ thấy rõ hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong công tác này. Theo dõi chặt việc phát sinh nợ quá hạn của từng dự án. Bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của các chủ đầu tư để đôn đốc, quyết liệt trong công tác thu hồi nợ vay đồng thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và đề xuất hướng xử lý. Đối với các dự án mà chủ đầu tư có biểu hiện chây ỳ cần kiên quyết xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ . Phối hợp chặt chẽ với các cấp và chính quyền địa phương để được hỗ trợ các biện pháp thu hồi nợ. * Về công tác thẩm định của NHPT + Đối với quy trình - Chuẩn xác lại danh mục hồ sơ pháp lý liên quan đến năng lực pháp lý của chủ đầu tư. - Hồ sơ liên quan đến năng lực tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư phải nêu rõ: Tình hình các dự án đã, đang đầu tư Bảng kê các loại công nợ với các tổ chức tín dụng Bảng kê các khoản phải thu, phải trả đối với khách hàng - Hồ sơ liên quan đến phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay của dự án đầu tư: Bổ sung văn bản phê duyệt sự phù hợp của dự án với quy hoạch kết cấu hạ tầng- kỹ thuật, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch sử dụng khoáng sản, tài nguyên Bổ sung kết quả thẩm định thiết kế cơ sở( đối với dự án đầu tư xây dựng công trình ) Thẩm định dự án cần phải bổ sung làm rõ các nội dung cần phân tích để kết luận về xu hướng phát triển của ngành có xem xét các yếu tố liên quan như: Ảnh hưởng của lộ trình thuế quan (AFTA) và xu hướng hội nhập WTO tới khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm dự án. Các chính sách của Nhà nước và xu hướng thay đổi đối với hoạt động của ngành; phân tích ảnh hưởng của những thay đổi này đối với hoạt động của ngành Các yếu tố kinh tế như lạm phát, thất nghiệp, lãi suất, thu nhập của người tiêu dùng, thuế xu hướng thay đổi và ảnh hưởng của những yếu tố này đối với hoạt động của ngành. Các yếu tố xã hội, trình độ sử dụng công nghệ trong ngànhảnh hưởng của những thay đổi này đối với dự án. Hướng dẫn cụ thể cả cách làm và những kết luận rút ra trên cơ sở phân tích độ nhạy cảm của dự án: về tiến độ, về thị trường, rủi ro về môi trường và xã hội, rủi ro về chính sách, kinh tế vĩ mô và các biện pháp giảm thiểu rủi ro của chủ đầu tư. Bổ sung hướng dẫn rõ hơn việc thẩm định, đánh giá một số chỉ tiêu của dự án. + Đối với quyết định phân cấp Phân cấp được gắn liền với các điều kiện có ảnh hưởng đến mức độ an toàn vốn vay: quy mô dự án, mức vốn vay; năng lực chủ đầu tư; tỷ lệ vốn tự có, tài sản đảm bảo tiền vay; chất lượng tín dụng của chi nhánh Xiết chặt thẩm định và bổ sung các điều kiện tín dụng khác đối với các dự án thuộc đối tượng sẽ phải chấm dứt hỗ trợ sau khi gia nhập WTO hoặc bị coi là trợ cấp riêng biệt, có thể bị đối kháng. Các dự án này phải đảm bảo có hiệu quả và khả năng trả nợ theo lãi suất thị trường. Tăng cường kiểm tra đánh giá việc thực hiện quy trình thẩm định và quyết định phân cấp Quy định cụ thể trách nhiệm của các đơn vị trong việc: cập nhật, cung cấp, khai thác thông tin về kinh tế, kỹ thuật, thông tin phòng ngừa rủi ro theo ngành và lĩnh vực kinh tế. Với hoạt động cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu. + Khi hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của NHPT chịu tác động của hội nhập quốc tế thì nghiệp vụ này có sự thay đổi nhiều nhất, có xu hướng thu hẹp lại gần với cho vay thương mại thì sự nâng cao nhận thức của mỗi cán bộ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu từ TW đến chi nhánh là rất cần thiết để có sự bắt kịp với những thay đổi lớn . + Nâng cao tính chuyên nghiệp trong phục vụ khách hàng thể hiện: Cần rút ngắn tối đa thời gian thẩm định hồ sơ vay vốn, một mặt vẫn đảm bảo an toàn tín dụng, mặt khác tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận vốn vay. Giảm thiểu các hồ sơ thủ tục hành chính rườm rà, gây khó khăn cho các doanh nghiệp. Phối hợp chặt chẽ và hiệu quả giữa các phòng ban để giảm thiểu thời gian trong việc xem xét duyệt vay, giải ngân, kiểm tra vốn vay. Thái độ phục vụ khách hàng cần nhiệt tình hơn, nhanh nhẹn hơn. + Việc nâng cao năng lực trình độ của cán bộ làm công tác tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cần được quan tâm thích đáng. Với đặc thù của nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu có tính rủi ro cao, vì vậy các cán bộ tín dụng phải có năng lực chuyên môn vững vàng, giỏi về nghiệp vụ tín dụng . + Để khống chế nguy cơ nợ quá hạn cần thắt chặt tín dụng, kiểm soát chặt các khoản vay cụ thể là: Chỉ lựa chọn khách hàng vay vốn thỏa mãn các điều kiện như: tài chính lành mạnh, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả có uy tín; phương án sản xuất kinh doanh có lãi, hợp đồng xuất khẩu có hình thức thanh toán an toàn; lựa chọn tài sản bảo đảm có giá trị, có tính thanh khoản cao. Bám sát tình hình sản xuất, xuất khẩu hàng hóa của doanh nghiệp vay vốn tín dụng ưu đãi. + Bên cạnh đó cần phải có hệ thống thanh toán quốc tế và mua bán bằng ngoại tệ. Đây là yêu cầu cấp bách để nâng cao hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất khẩu. Với hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng ĐTPT Thường xuyên nghiên cứu, cập nhật các cơ chế, chính sách các quy định hiện hành có liên quan đến nghiệp vụ hỗ trợ sau đầu tư. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành liên quan để hướng dẫn, xử lý kịp thời những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ tại các chi nhánh. Tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc các chi nhánh tự kiểm tra nghiệp vụ hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và xử lý dứt điểm những tồn tại sau kiểm tra. Cần tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn chỉnh kịp thời hồ sơ các dự án hỗ trợ sau đầu tư. Nâng cao uy tín của NHPT để tăng cường hoạt động bảo lãnh tín dụng ĐTPT. Tuyên truyền rộng rãi hoạt động hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng ĐTPT đến với các chủ đầu tư. Như vậy các chủ đầu tư sẽ hiểu biết hơn về hai hình thức này từ đó mới có sự lựa chọn hình thức hưởng ưu đãi cho phù hợp với dự án. KẾT LUẬN Tín dụng ĐTPT với những thành tựu đáng kể qua hai giai đoạn 2000-2005, 2006-nay đã khẳng định vai trò to lớn của hoạt động này đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trải qua giai đoạn đầu tín dụng ĐTPT được thực hiên bởi QHTPT đã đóng góp những thành công nhất định cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Tuy nhiên khi bước vào tiến trình hội nhập thì cơ chế, chính sách tín dụng đầu tư đã không còn phù hợp nữa. Cùng với việc ban hành cơ chế, chính sách mới sang giai đoạn 2006 - nay hoạt động tín dụng đầu tư nhà nước đã được giao cho NHPT Việt Nam thực hiện. Trong những năm đầu của việc chuyển đổi chính sách tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng mô hình tổ chức mới này lại tỏ ra hoạt động có hiệu quả hơn và đáp ứng tốt hơn các cam kết quốc tế. Như vậy với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thì chính sách tín dụng ĐTPT cần có sự thay đổi cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thực hiện tốt sứ mệnh của mình là đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Trong khuôn khổ bài viết còn nhiều hạn chế, em kính mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn. Danh mục tài liệu tham khảo Nghị định 43, 106, 151 của Chính phủ về tín dụng ĐTPT Đề án đổi mới tín dụng ĐTPT của QHTPT Báo cáo kết qủa hoạt động của QHTPT, NHPT các năm 2000,,2007 Báo cáo chuyên đề của QHTPT tại Hội nghị giám đốc ở Thanh Hoá Giáo trình kinh tế phát triển Các trang web: chinhphu.vn, mpi.gov.vn Giáo trình NHPT của khoa ngân hàng trường Đại học KTQD Tạp chí hỗ trợ phát triển của NHPT CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc LỜI CAM ĐOAN Kính gửi: Khoa Kế họach và Phát triển trường Đại học Kinh tế quốc dân. Sinh viên: Nguyễn Thị Huyền Trang. Lớp: Kinh tế phát triển 46 Sau một thời gian thực tập tại ngân hàng phát triển Việt Nam và được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo hướng dẫn Th.S Nguyễn Thị Hoa và các cô chú trong ban Kế hoạch tổng hợp, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp: “Tín dụng đầu tư phát triển thực trạng và giải pháp”. Chuyên đề tốt nghiệp của em không được sao chép từ bất kỳ công trình nghiên cứu, luận văn hay luận án nào, đó là công sức nghiên cứu và tìm hiểu của bản thân em. Trong quá trình nghiên cứu em có tham khảo một số tài liệu nhưng không có sự sao chép chỉ mang tính chất tham khảo. Em xin cam đoan những điều trên đây là đúng sự thật, nếu vi phạm em xin chịu mọi kỷ luật của nhà trường. Hà Nội, ngày 29 tháng 04 năm 2008. Người viết cam đoan Nguyễn Thị Huyền Trang MỤC LỤC DANH M ỤC BẢNG BIỂU

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7311.doc
Tài liệu liên quan