- Nêu bật vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc thực hiện mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo của Nhà nước trong việc cấp tín dụng cho người nghèo.
- Phân tích có phê phán thực trạng việc cung ứng vốn phục vụ chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh Hoà Bình.
74 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1137 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng Ngân hàng đối với chương trình xoá đói giảm nghèo tỉnh Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Tuy nhiên, cũng có một số đánh giá ban dầu như sau:
Biểu số 05 :
Kết quả cho vay dự án Việt - Đức (kfw)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 1999
Năm 2000
Số hộ
Số tiền
Số hộ
Số tiền
Tổng dự nợ:
1.940
5.369
2.841
4.394
- Chăn nuôi
1.785
4.991
2.625
3.754
+ Trâu, bò
1.065
4.033
1.597
3.164
+ Lợn
720
958
1.058
590
- Trồng trọt
95
175
105
220
- Dịch vụ
25
85
46
100
- Khác
35
118
65
320
- Lãi suất (%)
0,85
0,85
Nguồn số liệu: Báo cáo thực hiện chương trình dự án hợp tác Việt - Đức của Sở LĐTB và XH Tỉnh Hoà Bình.
Với số tiền tài trợ trên, cùng với các nguồn vốn khác như vốn của NHNg, vốn cho vay hộ sản xuất của NHNo & PTNT tỉnh, vốn của một số tổ chức quốc tế khác đã đáp ứng được phần nào cho các hộ đói nghèo phát triển chăn nuôi, trồng trọt, lao động sản xuất, nâng cao đời sống. Nhiều hộ gia đình đã sử dụng đồng vốn trong việc sản xuất có hiệu quả. Bằng nhiều nguồn vốn cho vay hộ nghèo (trong đó có nguồn vốn của chương trình hợp tác Việt - Đức), tuy là dự án mới thực hiện nhưng cũng đã góp phần vào tiến trình xoá đói giam nghèo của vùng nông thôn miền núi. Tỉnh Hoà Bình trong những năm qua bình quân mỗi năm giảm được 4,6% số hộ nghèo, tương đương trên 4.000 hộ. Cũng từ nguồn vốn này, đã giúp các hộ đói nghèo nhận thức được tự vươn lên có sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng xã hội, không trông chờ ỷ lại sự cứu trợ của cấp trên. Đồng thời, cũng từ những nguồn vốn này, đã đẩy lùi và chấm dứt tệ nạn cho vay nặng lãi ở các địa phương trong tỉnh.
Tuy nhiên quá trình thực hiện cũng nổi lên một số hạn chế sau:
Do đặc thù của vùng núi cao, trình độ dân trí thấp, do đó rất khó khăn khi tiếp cận dự án tín dụng với lãi suất thị trường, mặc dù địa phương đã có chính sách bù chênh lệch vốn Việt - Đức bằng lãi suất vốn NHNg nhưng nguồn vốn này vẫn không giải ngân hết, một số xã được chọn thực thi dự án đã từ chối vì lý do dân không biết vay để làm gì. Việc tuyên truyền phổ biến ý nghĩa mục đích của dự án đến tận người nghèo có nơi, có lúc chưa làm chu đáo, có trường hợp người được vay vốn dự án không biết được vay vốn của tổ chức nào.
- Việc xét duyệt cho vay còn phải qua nhiều cấp trung gian (tổ, nhóm, ban xoá đói giảm nghèo...) trong khi thủ tục vay vốn của NHNo & PTNT lại đơn giản hơn, số tiền được vay cao hơn (từ 5-10 triệu không phải thế chấp tài sản). Vì thế, dân thích vay vốn của NHNo hơn, vừa tiện lợi vừa kịp thời.
- Việc hình thành các nhóm vay vốn, các tổ tương hỗ là cần thiết, song hoạt động của các nhóm, tổ này mới chỉ dừng lại ở việc thu nợ thu lãi. Còn việc trợ giúp lẫn nhau trong sử dụng vốn, kinh nghiệm sản xuất, quản lý chi tiêu, tiêu thụ sản phẩm hoặc giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn rất hạn chế.
- Đối với NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình: Việc thẩm định độc lập của Ngân hàng để quyết định cho vay tuy có thực hiện nhưng vẫn thiếu thường xuyên, có nơi chỉ căn cứ vào danh sách của Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo để giải ngân. Vì thế, chất lượng của dự án chưa cao, tỷ lệ hộ sử dụng vốn sai mục đích còn nhiều.
- Các chi nhánh NHNo cơ sở chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa của nguồn vốn này, do đó chưa quan tâm đúng mức để có biện pháp tích cực giải ngân vốn dự án.
Những hộ đói nghèo dân tộc miền núi có nét riêng và đặc biệt bởi điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán lạc hậu về sản xuất và sinh hoạt, sự thiếu hiểu biết và kém khả năng tổ chức sản xuất có hiệu quả, thiếu kiến thức và phương tiện kỹ thuật... để sản xuất có năng suất cao. Điều đó cho thấy, tầm quan trọng của việc hỗ trợ vốn tín dụng phải gắn với các dịch vụ kỹ thuật, khuyến nông, khuyến lâm... một cách bền vững.
3. Hỗ trợ vốn phục vụ chương trình xoá đói giảm nghèo từ nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo tỉnh Hoà Bình:
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm các phương thức hỗ trợ vốn cho người nghèo ở trong nước trong mấy năm qua; nghiên cứu kinh nghiệm về hỗ trợ vốn cho người nghèo của một số nước có hoàn cảnh tương đồng với Việt Nam, ngày 31/ 08/ 1995 Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 525/ TTg về việc thành lập NHNg. Ngày 01/ 01/ 1996 NHNg tỉnh Hoà Bình được thành lập với mạng lưới tổ chức chỉ đạo từ tỉnh xuống gồm 10 huyện, thị và 3 Ngân hàng liên xã.
Với mục đích hỗ trợ vốn cho các hộ gia đình nghèo (theo tiêu chí của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội) sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải thiện đời sống, XĐGN, NHNg tỉnh Hoà Bình được sự ủng hộ mạnh mẽ của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền địa phương và đông đảo quần chúng nhân dân trong tỉnh.
Biểu số 06 :
Nguồn vốn và sử dụng vốn của Ngân hàng phục vụ người nghèo giai đoạn 1999 - 2000
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 1999
Năm 2000
Tăng (+), giảm (-)
A. Nguồn vốn:
69.419
98.777
+ 29.358
1. Nguồn vốn TW
Tr.đ
61.750
80.000
+ 18.250
2. Nguồn vốn uỷ thác đầu tư
Tr.đ
7.666
18.777
+ 11.108
B. Sử dụng vốn:
1. Doanh số cho vay
Tr.đ
24.006
42.831
+ 18.825
2. Dư nợ cuối kỳ
Tr.đ
68.523
94.047
+ 25.524
- DN cho vay hộ nghèo d.tộc TS
36.356
51.037
+ 14.681
- DN cho vay hộ nghèo khu vực III
13.661
18.285
+ 4.624
3. Số lượt hộ được vay
Lượt hộ
10.128
15.428
+ 5.300
4. Số hộ còn dư nợ
hộ
39.009
45.200
+ 6.191
- Hộ dân tộc thiểu số
31.767
36.000
+ 4.233
5. DN b.quân 1 hộ nghèo vay vốn
Tr.đ
2
2,5
+ 0,5
6. Số hộ thoát khỏi ngưỡng nghèo đói:
hộ
4.626
4.305
- 321
- Hộ dân tộc thiểu số
3.700
3.444
- 256
Nguồn số liệu: Báo cáo thường niên của NHNg.
* Về nguồn vốn:
Là một tỉnh nghèo, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn nhất là những hộ nghèo ở vùng cao, vùng sâu, vùng lòng hồ Sông Đà còn mang nặng những tập tục lạc hậu, du canh, du cư... Do đó, việc huy động vốn trong cộng đồng là rất khó khăn. Hơn nữa Ngân sách tỉnh hàng năm vẫn không đủ chi nên nguồn vốn huy động từ Ngân sách tỉnh cũng gần như không có. Vì vậy, trong 5 năm hoạt động, NHNg đã phải sử dụng 100% vốn của Trung ương. Chính điều này cũng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến kế hoạch hoạt động của NHNg tỉnh Hoà bình, đòi hỏi Nhà nước, Trung ương, Tỉnh và bản thân Ngân hàng phục vụ người nghèo cần phải có một chính sách huy động vốn phù hợp đề tạo thêm nguồn vốn cho vay hộ nghèo. Đó là các vấn đề: thị trường tiền tệ, thị trường vốn, lãi suất, hình thức huy động, phương thức thanh toán...
* Về cho vay:
Đối tượng cho vay của NHNg là hộ gia đình nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn sản xuất, kinh doanh. Hộ gia đình nghèo vay vốn không phải thế chấp tài sản, phải hoàn trả vốn vay (cả gốc và lãi) đúng thời hạn đã cam kết. NHNg cho hộ gia đình nghèo vay vốn theo chuẩn mực phân loại hộ nghèo do Bộ lao động - Thương binh và xã hội phối hợp với các cơ quan lên công bố từng thời kỳ. NHNg cho vay trực tiếp đến hộ gia đình nghèo. Phối kết hợp với Hội nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ và các đoàn thể nhân dân khác cùng xây dựng “Tổ tiết kiệm, vay vốn” trong cộng đồng người nghèo để huy động vốn và chuyền tải vốn cho vay trực tiếp đến hộ nghèo.
Đến 31/ 12/ 2000, NHNg tỉnh Hoà Bình có dư nợ cho vay hộ nghèo là 94.047 triệu đồng vưới 15.428 lượt hộ nghèo được vay vốn vốn và số hộ còn dư nợ là 45.200. Vốn Ngân hàng đã đến hầu hết các bản làng, đến với các hộ nghèo vùng cao, các hộ nghèo dân tộc thiểu số. Vốn được đưa đến tận tay hộ vay theo đúng quy trình. Vốn Ngân hàng đã góp phần đáng kể vào giảm tỷ lệ đói nghèo hàng năm của tỉnh (hàng năm, trên 4 ngàn hộ thoát khỏi ngưỡng đói nghèo). Các hộ nghèo trong tỉnh bước đầu ổn định cuộc sống đi vào sản xuất tạo nên những vùng kinh tế mới phát triển như: Vùng nguyên liệu mía đường, vùng nguyên liệu chè... Các hộ nghèo có điều kiện tự khẳng định mình đi lên cùng với cộng đồng, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước nói chung, của tỉnh Hoà Bình nói riêng.
Cùng với sự ra đời của NHNg tỉnh Hoà Bình, đã nhanh chóng xây dựng được một tổ chức mạng lưới cơ sở của NHNg như Ban xoá đói giảm nghèo, tổ tương trợ vay vốn làm nền móng cho hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo. Góp phần mở rộng và ổn định thị trường tiền tệ ở nông thôn, khẳng định sự ra đời của NHNg phù hợp với ước nguyện của 1,4 triệu hộ nghèo trong toàn quốc, trong đó có trên 23 ngàn hộ nghèo của tỉnh Hoà Bình
* Những tồn tại và nguyên nhân:
Hoạt động của NHNg là hoạt động hoàn toàn mới mẻ, hoạt động còn mang tính “thử nghiệm” vừa làm vừa rút kinh nghiệm.
- Không huy động và tập trung được các nguồn vốn cho vay XĐGN trên địa bàn vào một mối do NHNg quản lý quản lý. Nguyên nhân là:
+ Do chưa lập được tổ tiết kiệm và vay vốn hoặc đã thành lập được thì tổ này hoạt động kém hiệu quả.
+ Là một tỉnh nghèo, hàng năm vẫn phải sử dụng Ngân sách Trung ương từ 65-70% để chi tiêu, do đó địa phương không bố trí được nguồn vốn hỗ trợ để cho vay hộ nghèo.
+ Nguồn vốn đầu tư cho XĐGN của các ngành, các cấp khá lớn nhưng do cách quản lý và sử dụng nên nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực này bị phân tán với nhiều hình thức đầu tư khác nhau, lãi suất khác nhau, dẫn đến tình trạng vốn chồng vốn và hiệu quả đồng vốn không cao, hạn chế tái đầu tư.
Hiệu quả cấp tín dụng XĐGN còn ở mức thấp. Nguyên nhân là do:
+ Cơ chế chính sách tín dụng hộ nghèo chưa đồng bộ và chưa đầy đủ, chưa có chính sách huy động vốn tạo nguồn vốn có lãi suất thấp để cho vay hộ nghèo. Việc hoạch định chính sách tín dụng hộ nghèo chưa đồng bộ, chưa có chính sách bảo hiểm rủi ro tín dụng, sản xuất, chăn nuôi cũng như tiêu thụ sản phẩm cho nhân dân.
+ Cơ chế nghiệp vụ chưa hoàn chỉnh. Quy trình nghiệp vụ còn quá rườm rà, qua nhiều khâu trung gian không cần thiết, mức an toàn vốn thấp, trách nhiệm về vốn mang tính cộng đồng, tập thể, ẩn chứa nhiều rủi ro ngay từ khi thẩm định cho vay.
+ Thiếu cơ chế kiểm tra, kiểm soát phối hợp với đào tạo, huấn luyện nên đội ngũ trong ban xoá đói giảm nghèo các cấp hoạt động kém hiệu quả, một số nơi tổ trưởng tổ tương trợ xâm tiêu tiền vay.
+ Điều tra thống kê hộ nghèo chưa được quan tâm và thực hiện có hiệu quả, chưa phân loại được hộ nghèo, đói. Từ đó dẫn đến vốn Ngân hàng chủ yếu được sử dụng cứu đói, hiệu quả kinh tế thấp.
+ Một số cán bộ NHNo & PTNT được phân công làm nhiệm vụ cho NHNg thường phát sinh tư tưởng không yên tâm, vì đây là lĩnh vực hoạt động khó khăn, phải dành nhiều công sức, thời gian nhưng lại không được quan tâm đúng mức và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra tình trạng ứ đọng vốn cho vay của NHNg. ở một số địa phương, Giám đốc NHNo & PTNT (mặc dù đều là phó thường trực ban đại diện Hội đồng quản trị) có tư tương muốn đẩy hoạt dộng của NHNg riêng ra, tự chịu trách nhiệm về tài chính vì chi phí cho các hoạt động NHNg ảnh hưởng đến kết quả tài chính của NHNo & PTNT.
+ Là một tổ chức tín dụng cho người nghèo, có tư cách pháp nhân nhưng điều hành quản lý và điều hành tác nghiệp lại theo chế độ kiêm nhiệm nên không thể toàn tâm toàn ý với nông dân nghèo được. Hơn nữa, vì kiêm nhiệm nên phần lớn là thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về Ngân hàng cung như về kinh nghiệm XĐGN. Ban đại diện hội đồng quản trị NHNg các cấp tuy đã được thành lập đầy đủ thành phần, song còn mang nặng tính hình thức, hoạt động không đồng đều, công tác tuyên truyền, học tập rút kinh nghiệm làm chưa tốt, dân chưa hiểu rõ về chính sách cho vay hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, còn nhầm tưởng vốn Ngân hàng với vốn trợ cấp của chương trình XĐGN chung của Chính phủ, nên dẫn đến sử dụng vốn sai mục đích, trả gốc, lãi không đúng thời hạn, dẫn đến nợ quá hạn phát sinh ngày một tăng.
+ Hoạt động của Ban XĐGN các cấp ở nhiều nơi chỉ măng tính hình thức, không có các biện pháp thực hiện hữu hiệu, chưa xây dựng được các mô hình kinh tế điển hình, tổ chức tham quan, học tập cũng như hỗ trợ lẫn nhau hoạt động sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm.
- Về điều hành. Nếu danh nghĩa là NHNg thì việc chỉ đạo điều hành của Giám đốc NHNg tỉnh tới huyện và của Giám đốc NHNg huyện với các nhân viên (ở huyện chỉ có một chức danh Giám đốc NHNg) để thực hiện nhiệm vụ cho NHNg là rất khó khăn, thực ra không có “quân” để điều hành vì cán bộ tín dụng, kế toán để thực thi nhiệm vụ là của NHNo & PTNT. Trong trường hợp Giám đốc NHNg tỉnh có tham gia điều hành một số công việc của NHNo & PTNT thì việc điều hành hoạt động của NHNg thuận lợi. Hiện tại ở Hoà Bình đã hai năm không có Giám đốc NHNg (do Giám đốc được điều động chuyển công tác khác), điều hành hoạt động là Phó giám đốc NHNg (chuyên trách) được bổ nhiệm không phải từ Phó giám đốc NHNo & PTNT tỉnh. Do vậy, công tác chỉ đạo điều hành gặp rất nhiều khó khăn.
Thực tiễn kết quả XĐGN tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố, bên cạnh các yếu tố nội lực là quyết định, trong đó có sự nỗ lực vươn lên của bản thân các hộ nghèo thì cần phải có một chính sách hợp lý và tạo cơ hội của Chính phủ. Việc cấp tín dụng phải đồng thời với các chính sách hỗ trợ khác như khuyến nông khuyến lâm, chính sách ruộng đất, cơ sở hạ tầng... có như vậy thì đồng vốn Ngân hàng mới có ý nghĩa trong quá trình vươn lên của người nghèo .
CHươNG III
GIảI PHáP nhằm đẩy mạnh hoạt động TíN DụNGĐốI VớI CHươNG TRìNH XOá ĐóI GIảM NGHèOCủA NHNo & PTNT TỉNH HOà BìNH
I. ĐịNH HướNG PHáT TRIểN KINH Tế - Xã HộI TỉNH HOà BìNH Từ NAY ĐếN NăM 2005 Và MốI qUAN Hê VớI “XOá ĐóI GIảM NGHèO”:
1. Định hướng chung về phát triển kinh tế - xã hội và mục tiêu xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2000 - 2005:
1.1. Định hướng chung về phát triển kinh tế - xã hội:
Do xuất phát điểm cho sự phát triến kinh tế - xã hội của tỉnh Hoà Bình thấp, nên cần phấn đấu để có tốc độ cao hơn tránh tụt hậu so với các tỉnh miền núi phía Bắc và tạo điều kiện sau một số năm đạt ngang với tốc độ phát triển chung của toàn quốc. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo được xác định như sau:
Một là: Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đây là việc làm thiết thực góp phần đưa nông nghiệp tiến nhanh và vững chắc, tạo tiền đề để phát triển công nghiệp chế biến, áp dụng công nghệ sinh học và đưa nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, chế biến... Cần có quy hoạch tổng thể và quy hoạch đất đai trên địa bàn tỉnh để xác định từng vùng trồng cây gì, nuôi con gì cho thích hợp. Xác định các vùng chuyên canh, vùng kinh tế và có hướng tiêu thụ sản phẩm. Có chủ trương, chính sách và biện pháp thích hợp đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các vùng đó phát triển, xoá đói giảm nghèo.
Hai là: Xây dựng các mô hình kinh tế hộ cho phù hợp với cơ chế mới, khuyến khích kinh tế hộ phát triển theo mô hình V.A.C, mô hình trang trại nông - lâm kết hợp. Đổi mới các hợp tác xã theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng: “Đổi mới và phát triển đa dạng các hình thức kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, triển khai thực hiện luật hợp tác xã”. Mục tiêu chủ yếu của hợp tác xã giai đoạn đầu là làm dịch vụ cho kinh tế hộ phát triển như cây, con giống, hướng dẫn sản xuất, giải quyết đầu ra. Sự phát triển của kinh tế hộ theo quy hoạch sẽ tạo cơ sở hình thành các vùng nguyên liệu lớn, tập trung phục vụ yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tế cho thấy, nếu thiếu người hướng dẫn sản xuất (hợp tác xã) thì kinh tế hộ dễ phát triển theo hướng phân tán, manh mún, tự cấp, tự túc.
Ba là: Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp gắn với vùng nguyên liệu, xây dựng các xí nghiệp quy mô nhỏ và vừa, nhằm khai thác tiềm năng kinh tế trên địa bàn tỉnh. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của vùng kinh tế mà xây dựng các loại hình xí nghiệp cho phù hợp với thực tế của địa phương. Muốn cạnh tranh được trên thị trường thì công nghệ phải tiên tiến, mẫu mã bao bì phải đẹp, hấp dẫn được người tiêu dùng. Cho nên, việc mở rộng các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh phải tính toán kỹ cả hiệu quả kinh tế và xã hội. Việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng hình thành các vùng kinh tế là tiền đề cho việc xây dựng các nhà máy chế biến, đáp ứng từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Về tiểu thủ công nghiệp, cần đẩy mạnh việc phát triển ngành nghề để khai thác nguyên liệu sẵn có trên địa bàn. Từng bước xây dựng và khôi phục lại các làng nghề truyền thống mây tre đan, dệt thổ cẩm, chế biến nông - lâm sản phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Để có được làng nghề, cần có thời gian và chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tay nghề, có chính sách kinh tế thực sự khuyến khích người lao động, coi trọng sử dụng các nghệ nhân “bàn tay vàng” tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị thẩm mỹ cao và giá trị xuất khẩu lớn.
Bốn là: Mở rộng dịch vụ du lịch trên địa bàn, tạo nguồn thu cho Ngân sách. Hoà Bình có nhiều danh lam thắng cảnh, có tiềm năng du lịch lớn và có nền văn hoá dân tộc cổ truyền phong phú nhưng chưa được khai thác và đầu tư thích đáng. Du khách đến từ nhiều nơi thường lên thăm nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, xem văn hoá Mường, Thái và các dân tộc khác. Khách đến đông nhưng dừng chân nghỉ lại Hoà Bình còn ít vì cơ sở hạ tầng yếu kém. Những khách sạn ở Hoà Bình chưa hấp dẫn du khách vì trang thiết bị và các dịch vụ chưa đồng bộ. Muốn đáp ứng dược yêu cầu của du khách trong điều kiện hiện nay, các khách sạn của Hoà Bình cần được nâng cấp. Mặt khác, việc xây dựng làng du lịch nhà sàn, làng văn hoá, du lịch sinh thái cũng cần được phát triển đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách trong và ngoài nước.
Năm là: Coi trọng công tác giao đất, giao rừng, khoán rừng, bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ trên địa ban tỉnh, hoàn chỉnh xong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân. Làm tốt công tác quy hoạch, trồng mới, bảo vệ và tu bổ ba loại rừng: Rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất và có biện pháp quản lý và sử dụng hợp lý. Xây dựng mô hình kinh tế gia đình theo hướng nông - lâm kết hợp, hình thành các chủ trang trại lớn làm giàu cho gia đình và xã hội bằng chính nghề rừng.
Sáu là: Coi trọng việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phấn đấu 100% xã có đường ô tô đến xã, xây dựng lưới điện, nước sạch, trường, trạm, chợ, các “cụm xã”, các trung tâm kinh tế. Mặt khác, coi trọng bố trí gọn các khu dân cư quá phân tán để quy hoạch vùng kinh tế, sử dụng cơ sở hạ tầng nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Bảy là: Tăng cường công tác xây dựng Đảng và đào tạo đội ngũ cán bộ, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ mới. Muốn thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội do Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh đề ra, cần thực hiện nhiệm vụ then chốt là đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ở địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chú ý xây dựng đội ngũ cán bộ nắm được khoa học công nghệ, đủ sức giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ xã, thôn bản yếu kém. Đào tạo các trí thức người dân tộc phục vụ ngay trên địa bàn là hiệu quả nhất, có tính bền vững nhất. Muốn vậy, cần phải mở thêm các trường dân tộc nội trú để đào tạo con em các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Đây chính là nguồn bổ xung cán bộ trực tiếp cho các vùng này.
1.2. Mục tiêu của chương trình xoá đói giảm nghèo:
a. Chủ trương - phương hướng:
Tiếp tục làm chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong cấp uỷ, Chính quyền và các tổ chức đoàn thể cũng như nhân dân các dân tộc trong tỉnh về chủ trương XĐGN của Đảng và Nhà nước. XĐGN là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và của các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở, cộng đồng.
XĐGN đòi hỏi phải phát triển về nguồn lực, tạo vốn, tạo tư liệu sản xuất đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác XĐGN có đủ trình độ khoa học kỹ thuật để có đủ điều kiện, khả năng chuyển giao công nghệ khoa học cho những hộ đói nghèo tăng cường khả năng sản xuất và kiến thức làm ăn.
- Ưu tiên các nguồn lực về XĐGN cho các hộ đói nghèo ở vùng cao, vùng sâu đặc biệt là các hộ nghèo thuộc diện chính sách.
- Các địa phương, các ngành, các tổ chức đoàn thể phải xây dựng nội dung chương trình XĐGN cho cấp mình, ngành mình và có kế hoạch triển khai thực hiện các mục tiêu đề ra.
- Phải lồng ghép chặt chẽ giữa chương trình XĐGN với các chương trình kinh tế - xã hội khác, có sự chỉ đạo thống nhất thông qua hệ thống tổ chức của Ban chỉ đạo XĐGN từ tỉnh đến xã, phường, thị trấn một cách cụ thể.
- Xây dựng mô hình huyện, xã, thôn, hộ gia đình làm công tác XĐGN để từ đó rút kinh nghiệm nhân diện rộng.
b. Chỉ tiêu:
- Không còn hộ đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn dưới 10% vào năm 2005.
- Mỗi năm mỗi huyện giảm từ 1 đến 2 xã nghèo. Phấn đấu đến hết năm 2005 xóa xong xã nghèo.
- Tỷ trọng cơ cấu kinh tế đến năm 2005 theo xu thế: Nông, lâm, ngư nghiệp: 44 - 46%; xây dựng cơ bản: 22 - 23%; các ngành dịch vụ: 32 - 33%.
2. Định hướng hoạt động tín dụng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hoà Bình nhằm thực hiên mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001:
2.1. Đối với cho vay hộ sản xuất:
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo do Đảng và Nhà nước đề ra, ngành Ngân hàng nói chung đóng một vị trí quan trọng trong việc giải quyết vấn đề này. Với mục tiêu đề ra của tỉnh, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hoà Bình cần có những định hướng cụ thể sau:
* Định huớng:
Một là: Huy động mọi nguồn tiền tệ nhàn rỗi để đầu tư cho hộ sản xuất nói chung và hộ nghèo nói riêng.
Hai là: Ưu tiên vốn cho vay cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, vùng chuyên canh tập trung, chú trọng cho vay các đối tượng khác. Đồng thời cho vay khôi phục và mở rộng các ngành nghề thủ công, mây tre đan, dệt thổ cẩm có tính chất hàng hoá. Cho vay để khôi phục một số loại cây trồng có hiệu quả kinh tế trước đây như mía tím, đậu tương, lạc... ở một số vùng thuận lợi.
Ba là: Ưu tiên những vùng sản xuất hàng hoá tập trung.
Bốn là: Khuyến khích đầu tư phát triển các mô hình kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác...
Năm là: Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, phúc tra ở các Ngân hàng cơ sở nhằm nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế những tồn tại mới phát sinh.
*Mục tiêu:
- Nguồn vốn tăng trưởng 20 - 25%.
- Dư nợ cho vay hộ sản xuất và hợp tác xã tăng 20%.
- Tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn chiếm 45% tổng dư nợ.
- Thực hiện tốt việc cho vay từ nguồn vốn của các dự án tài trợ của nước ngoài và làm dịch vụ tốt cho NHNg.
- Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 2%.
2.2. Định hướng trong hoạt động của NH phục vụ người nghèo:
Một là: Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức NHNg từ tỉnh xuống huyện.
Hai là: Tranh thủ sự hỗ trợ nguồn vốn của Trung ương để cho vay hộ nghèo trên địa bàn, chú trọng đầu tư cho các hộ nghèo vùng cao, dân tộc ít người và hộ chính sách. Phấn đấu 100% số hộ nghèo được vay vốn NHNg, nâng mức dư nợ bình quân 1 hộ lên 3 triệu đồng. Từ dó khơi tăng nguồn vốn tại địa phương, tránh sự lệ thuộc quá lớn vào nguồn vốn của Trung ương.
Ba là: Phối kết hợp với các ban ngành có liên quan điều tra, phân loại hộ nghèo để có hướng đầu tư hợp lý, giúp hộ nghèo vươn lên.
II. NHữNG giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tín dụng đối với chương trình xoá đói giảm nghèo ở NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình
1. Giải pháp trực tiếp
1.1. Vấn đề nguồn vốn
Nguồn vốn là nguyên liệu “đầu vào”, là hoạt động thường xuyên, liên tục của hệ thống Ngân hàng thương mại. Các Ngân hàng chỉ có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh một khi Ngân hàng thực hiện tốt chức năng huy động vốn của mình. Đặc biệt hơn, hiện nay Chính phủ đã cho phép Tổng công ty Bưu chính viễn thông được thực hiện dịch vụ tiết kiệm bưu điện để bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển dưới hình thức có kỳ hạn và không kỳ hạn. Đây là một đối thủ cạnh tranh “nặng ký” của ngành Ngân hàng đặc biệt là đối với NHNo & PTNT. Bởi vậy, đòi hỏi NHNo & PTNT phải đề ra được những đối sách hữu hiệu:
Một là: Luôn có cơ chế lãi suất cạnh tranh linh hoạt.
Lãi suất là yếu tố quan trọng giúp các Ngân hàng hấp dẫn được khách hàng đến gửi tiền. Bởi vì, người gửi có tiền muốn đem tiền gửi Ngân hàng, trước tiên họ sẽ so sánh lãi suất huy động nơi nào cao hơn, kế đến mới là vấn đề an toàn tiền gửi cũng như các dịch vụ tiện ích mà họ được hưởng.
Để thực hiện cơ chế lãi suất huy động cạnh tranh, các Ngân hàng phải thường xuyên theo dõi thống kê tình hình biến động lãi suất trên cùng địa bàn hoạt động để có quyết định điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với mặt bằng lãi suất trên thị trường. Tuy nhiên, cũng cần quan tâm đến lãi suất tín phiếu kho bạc Nhà nước, bởi vì trên thực tế, Kho bạc thường phát hành tín phiếu trả lãi cao hơn lãi suất huy động của Ngân hàng thường mại (do Kho bạc không bị khống chế ở “trần” lãi suất). Hơn nữa, trên cùng địa bàn, các Ngân hàng thương mại cũng có cơ chế lãi suất khác nhau do chi phí cho hoạt động huy động vốn khác nhau. Thực tế, hoạt động của NHNo & PTNT chứa đựng rất nhiều rủi ro, chi phí cho hoạt động huy động cũng như cho vay lớn hơn nhiều so với hoạt động của các Ngân hàng thương mại khác. Do đó, để có thể điều chỉnh lãi suất huy động ngang bằng với các lãi suất huy động của các Ngân hàng thương mại khác buộc các NHNo phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng và phấn đấu giảm thiểu mọi khoản chí phí khác.
Hai là: Phải đa dạng các kỳ hạn gửi tiền gửi tiền với nhiều mức lãi suất khác nhau theo nguyên tắc kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao:
Các nguồn tiền nhàn rỗi, tiền để dành của người dân rất đa dạng, nếu Ngân hàng chỉ huy động các kỳ hạn 3, 6, 9, 12 tháng... như hiện nay, thì với những khoảng thời gian nhàn rỗi của đồng tiền “không khớp” với kỳ hạn huy dộng của Ngân hàng sẽ không khuyến khích khách hàng gửi tiền. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá các kỳ hạn gửi tiền sẽ làm cho công việc giao dịch,quản lý, lưu trữ hồ sơ của Ngân hàng có phần vất vả hơn nhưng không phải là không thực hiện được.
Ba là: Cần đa dạng các hình thức trá lãi và hình thức thanh toán.
Khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau, có người vì an toàn, có người vì mục đích hưởng lãi hàng tháng, có người dư dật gửi tiền để đồng tiền ngày càng sinh sôi nẩy nở... Vì thế, cách trả lãi của Ngân hàng cũng nên sao cho phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng. Hiện nay, đa số các Ngân hàng áp dụng hai hình thức trả lãi là trả lãi trước và trả lãi cuối kỳ. Lý do là để đơn giản cho công tác huy động vốn, ổn định được vốn hoạt động, dễ cân đối kế hoạch huy động và sử dụng vốn. Nếu Ngân hàng trả lãi hàng tháng cho khách hàng thì phải huy động mới, vì thế mà sẽ gặp rất nhiều trở ngại, nhất là trong những thời điểm khó khăn, vốn Ngân hàng không tăng thêm được mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần điều chỉnh lãi suất huy động. Tuy nhiên, phải thấy rằng: Mục tiêu của NHNo & PTNT hiện giờ là tranh thủ, thu hút và khai thác tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Do đó, trong thời gian này cần phải duy trì thường xuyên hình thức trả lãi tháng như đã từng làm trước đây để thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với NHNo. Mặt khác, cần phải quan tâm đến việc mở rộng khả năng thanh toán của thẻ tiết kiệm. NHNo & PTNT có mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc, từ thành thị đến nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh, hơn nữa, hầu hết các Ngân hàng đều đã có mạng lưới vi tính rất thuận lợi cho việc thanh toán trong toàn hệ thống. Vì vậy cần phải thu hút tiền gửi hơn nữa bằng cách mở ra loại tiết kiệm gửi một nơi lĩnh nhiều nơi trong cùng một hệ thống Ngân hàng nông nghiệp.
Bốn là: Khuyến khích bằng lợi ích vật chất.
Khách hàng gửi tiền, ngoài việc so sánh lãi suất, họ còn quan tâm đến những lợi ích vật chất mà họ được hưởng. Chẳng hạn như khách hàng gửi tiền tiết kiệm loại có kỳ hạn 12 tháng nhưng vì có nhu cầu đột xuất nên khách yêu cầu được rút trước hạn khi mới gửi được 7 tháng. Thay cho việc trả cho khách hàng số lãi bằng lãi suất không kỳ hạn, Ngân hàng sẽ trả cho khách hàng số tiền lãi bằng lãi suất tiết kiệm có kỳ hạn 6 tháng cộng với một tháng lãi suất không kỳ hạn, như vậy khách hàng đỡ thiệt thòi và sẽ lôi cuốn được khách hàng hơn. Hoặc như trước đây, Ngân hàng đã phát hành loại tiền gửi tiết kiệm có quay số mở thưởng, nên chăng hình thức này được khôi phục lại sẽ kích thích được người gửi rất nhiều.
Năm là: Trụ sở làm việc khang trang, tác phong giao dịch lịch thiệp, tận tình hướng dẫn khách hàng.
Với trụ sở làm việc khang trang, sẽ tạo cho khách hàng ân tượng ban đầu về một Ngân hàng ăn nên, làm ra, là nơi tin cậy để mà yên tâm gửi tiền. Mặt khác, trong thời buổi cạnh tranh hiện nay, phương tiện làm việc của hệ thống NHNo & PTNT chưa được tự động hoá cao, thì chắc chắn khách hàng không thể không quay lại nữa cho dù là khách có khó tính đến mấy.
Sáu là: Định kỳ quảng cáo, niêm yết công khai, đầy đủ lãi suất, thể lệ tiền gửi tiết kiệm.
Việc quảng cáo sẽ có tác dụng gây chú ý cho khách hàng về hình ảnh của Ngân hàng để họ có sự so sánh và lựa chọn. Mặt khác, không phải ai cũng tường tận về mọi thủ tục, thể lệ gửi tiền cũng như các chính sách khuyến khích, ưu đãi mà họ được hưởng. Bảng niêm yết phải đầy đủ, chính xác, công khai, dễ hiểu sẽ tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái khi đến gửi tiền.
Bảy là: Tập trung các khoản tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn vào một tổ chức duy nhất là NHNo & PTNT quản lý và cho vay, nhằm phát huy hiệu quả đồng vốn, tránh thất thoát và góp phần bình ổn thị trường vốn ở nông thôn.
Đây là những biện pháp vi mô nằm trong tầm tay và có thể thực hiện được. Khơi tăng được nguồn vốn huy động sẽ giúp Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, cần phải đạt được hiệu suất sử dụng nguồn vốn huy động một cách hợp lý, tránh tình trạng ứ đọng vốn dẫn đến việc hạ lãi suất huy động như đã làm thời gian qua.
Bên cạnh đó, một vấn đề hết sức quan trọng là phải tạo lập được một hệ thống chính sách phát huy tính năng động, sáng tạo của từng cơ sở và người lao động, có cơ chế xử lý lợi ích khuyến khích mọi tầng lớp tích cực khai thác mọi khả năng tiềm tàng, các lợi thế so sánh để tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo lập nguồn vốn từ chính sách sản xuất để quay trở lại đầu tư cho sản xuất, tăng thu nhập và tạo nguồn tích luỹ. Đồng thời các địa phương cũng cần phải quan tâm giành một phần thu ngân sách hàng năm để chuyển sang cho vay hộ nghèo thông qua NHNg. ở một số nước trên thế giới, Nhà nước quy định buộc các Ngân hàng thương mại khác phải dành 20% nguồn vốn huy động được dể đầu tư trực tiếp cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hoặc chuyển sang cho NHNo & PTNT để đầu tư cho lĩnh vực này. Nên chăng, Nhà nước ta cũng nên nghiên cứu, ban hành quy chế này để giảm bớt gánh nặng về huy động cho NHNo & PTNT.
1.2. Vấn đề cho vay:
- Xây dựng quy chế phối hợp với các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể xã hội về cho vay, quản lý và thu nợ; phối hợp với các tổ chức Hội, đoàn thể làm tốt công tác khuyến nông, tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật, xây dựng các điển hình sử dụng vốn có hiệu quả.
- Tiếp tục củng cố hoạt động của các tổ vay vốn bằng hình thức đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và tuyên truyền.
- Tập trung xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, nợ do tổ trưởng chiếm dụng xâm tiêu, nợ do Chính quyền địa phương sử dụng sai mục đích nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính. Cần thiết phải tiến hành đánh giá, phân loại và phân tích nợ quá hạn, đồng thời phân tích hiệu quả kinh tế của tín dụng NHNg, trên cơ sở đó đề ra biện pháp thu hồi vốn.
- Đa dạng hóa các hình thức chuyển tải vốn đến các hộ nông dân, nhằm giúp họ dễ dàng tiếp cận với vốn tín dụng Ngân hàng.
- Không ngừng đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ tín dụng.
- Phải có một cơ chế kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt: Do hộ vay ở nông thôn chủ yếu là hộ vay không thế chấp tài sản (kể cả vốn vay Ngân hàng nông nghiệp và vốn vay NHNg), trách nhiệm về mặt pháp lý không có, vì vậy thường bị lạm dụng bởi tín dụng tiêu dùng hoặc các hình thức khác. Bởi vậy, tín dụng cho hộ sản xuất nông nghiệp và hộ nghèo cần phải được kiểm soát nghiêm ngặt đặc biệt là khâu kiểm tra sau khi cho vay.
Đi liền với vấn đề trên là việc tổ chức bộ máy, công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất của cán bộ vừa tinh thông nghiệp vụ, vừa có kiến thức giúp đỡ nông dân trong hoạt động sản xuất cũng như quản lý.
2. Giải pháp hỗ trợ :
Một là: Chính sách ruộng đất.
Xuất phát từ những đòi hỏi cần phải được giải quyết, trước mắt cần phải hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ. Nhà nước phải xây dựng các văn bản thể chế hoá 5 quyền của người sử dụng đất theo luật. Có chế độ cụ thể khuyến khích người sử dụng đất đầu tư cải tạo đồng ruộng và tự chuyển đổi, tích tụ ruộng đất. Đối với những hộ không muốn sản xuất phải có cơ chế thu hồi lại đất, không cho phép sử dụng lãng phí hoặc kém hiệu quả đất sản xuất. Tiếp tục nghiên cứu chính sách mới giảm thuế sử dụng đất cho những vùng sâu, vùng xa, vùng cao có nhiều khó khăn và nới rộng hạn điền ở những vùng này để khuyến khích đầu tư và tạo điều kiện cho người lao động khai thác tốt hơn các vùng đất này.
Hai là: Chính sách đầu tư.
Việc quản lý các nguồn vốn đầu tư các năm qua còn rất sơ sài và nhiều sơ hở, yếu kém, đặc biệt là tính đồng bộ, tập trung trong đầu tư. Để giải quyết vấn đề này cần phải cần phân định rõ các hạng mục đầu tư cho từng cấp, ngành chịu trách nhiệm từ khi giải ngân đến khi kết thúc chương trình đi vào sử dụng. Tăng vốn Ngân sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, ưu tiên đầu tư vào lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng.
Thiết nghĩ, nguồn Ngân sách Nhà nước chủ yếu để hỗ trợ cơ sở hạ tầng cho nông thôn và làm chuyển giao kỹ thuật do Kho bạc Nhà nước thực hiện. Một phần vốn Ngân sách dành cho công tác đào tạo, huấn luyện, cứu tế do Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện. Kênh tín dụng có hoàn trả (kể cả chương trình chỉ định của Chính phủ với chính sách ưu đãi) giao cho hệ thống NHTM thực hiện. Kênh phi Chính phủ do các hiệp hội, các đoàn thể trong nước và nước ngoài chỉ nên để gọi vốn còn phần giải ngân nên để hệ thống Ngân hàng thực hiện (bởi các tổ chức này không phải là tổ chức tín dụng, nên không có quy chế và kỹ thuật nghiệp vụ cần thiết cho hoạt động mang tính chất tín dụng), có như vậy mới tránh được tình trạng lãng phí và phát huy được hiệu quả đồng vốn.
Ba là: Chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm của kinh tế nông thôn.
Đây là đòi hỏi bức bách yêu cầu Nhà nước phải can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp cho nông dân. Tổ chức tốt công tác nghiên cứu, tiếp thị, xúc tiến thương mại, tổ chức chế biến thu mua nông lâm sản gắn liền với sản xuất, theo đó là xây dựng rộng rãi hệ thống chợ nông thôn, các tụ điểm giao lưu kinh tế, các khu trung tâm công nghiệp, dịch vụ thương mại... để vừa gắn cung ứng vật tư hàng hoá tiêu dùng phục vụ sản xuất vừa thu mua hàng hoá nông, lâm ngư nghiệp của nông dân sản xuất ra.
Bốn là: Chính sách triển bộ kỹ thuật.
Việc đưa khoa học tiến bộ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp sẽ làm giảm bớt gánh nặng sức lực cho dân, nâng cao hiệu quả sản xuất, góp phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập. Vì vậy, để giúp nông dân thoát khỏi cảnh lầm than vươn lên cuộc sống no đủ, Nhà nước cần phải quan tâm đến việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động lao động ở nông thôn. Từng bước nhanh chóng nâng dần trình độ công nghệ của sản xuất nông nghiệp nước ta theo kịp trình độ nông nghiệp thế giới và của các nước trong khu vực. Đầu tư cao hơn nữa cho nghiên cứu khoa học và có chính sách thoả đáng đối với cán bộ khoa học làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Đào tạo, huấn luyện tại chỗ cho chính bản thân người lao động để họ nhanh chóng tiếp thu thành tựu khoa học và đưa khoa học vào ứng dụng thông qua các chương trình khuyến nông, khuyến lâm...
Năm là: Vấn đề chính sách xã hội ở nông thôn.
Phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn mới đã và đang chiếm vị trí hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Đối với nước ta, nông nghiệp là chủ yếu. Vì thế, vị trí của nông thôn càng đặc biệt quan trọng. Trên thực tế, nông thôn nước ta vẫn là một nông thôn lạc hậu. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến lĩnh vực này, một chính sách đặc biệt đối với phát triển nông nghiệp nông thôn được Nhà nước ưu tiên thực hiện trong những năm đầu thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính sách đó bao gồm: Chính sách xoá đói giảm nghèo; chính sách dân số, lao động và việc làm, chính sách sinh đẻ có kế hoạch, chính sách trợ giúp giải quyết việc làm ở nông thôn, chính sách dân chủ và công bằng xã hội ở nông thôn...
Có thể thấy rõ ràng rằng, chương trình XĐGN của Chính phủ hình như chủ yếu tập trung vào cấp tín dụng. Về một phương diện thì chương trình này đã thành công. Tuy nhiên, cách tiếp cận hầu như chỉ dựa vào việc cấp tín dụng để kéo người nghèo ra khỏi nghèo khổ không tránh khỏi khiếm khuyết. Bởi vì, XĐGN cần phải có thời gian, không thể nóng vội, nên các chiến lược này phải bao gồm mạng lưới an ninh - xã hội và việc cung cấp các dịch vụ xã hội đảm bảo cho mọi công dân, kể cả những người nghèo có được cơ hội tiếp cận các dịch vụ trên. Nghèo đói là do nhiều nguyên nhân, trong đó một tỷ lệ không nhỏ là do đông con, vì vậy XĐGN cũng phải quan tâm đến vấn đề dân số, giáo dục... Nếu như XĐGN tập trung một công cụ duy nhất là cấp tín dụng mà hạn chế các biện pháp can thiệp khác sẽ làm giảm hiệu quả chiến lược chung về XĐGN. Vì vậy, cần phải hoạch định một chương trình có hiệu quả hơn về XĐGN, có một khuôn khổ quốc gia là điều quan trọng nhưng chương trình cần phải được xây dựng, thiết kế phi tập trung hoá hơn với nhiều đóng góp từ các địa phương hơn và phải xuất phát từ địa phương, và như vậy, các biện pháp can thiệp khác sẽ phù hợp hơn với hoàn cảnh của địa phương. Phải coi trọng tính đồng bộ của các chính sách hỗ trợ người nghèo, cấp tín dụng phải đi đôi với khuyến nông, khuyến lâm, với cơ sở hạ tầng và các chương trình xã hội khác. Có như vậy thì việc cấp tín dụng mới có tác dụng, bằng không người nghèo không những không xoá được mà còn nghèo thêm.
III. Một số kiến nghị để thực hiện tốt các giải pháp nêu trên :
1. Đối với Chính phủ:
- Cần có chính sách bảo hiểm và bảo hộ nông nghiệp:
+ Bảo hiểm nông nghiệp: Nguồn lực ngân sách quốc gia hạn hẹp, trong khi sản xuất nông nghiệp rộng lớn, nên Nhà nước không thể bao cấp được bảo hiểm nông nghiệp, song để phù hợp với xu thế kinh tế thị trường thì Chính phủ cần chỉ đạo Bảo Việt, Tổng Công ty Nhà nước kinh doanh lĩnh vực này tiếp tục triển khai thí điểm, tiến tới mở rộng bảo hiểm tới một số cây công nghiệp chiến lược, một số loại vật nuôi quan trọng. Đồng thời ngân sách Nhà nước có cơ chế xử lý về bảo hiểm khi xảy ra thiên tai gây thiệt hại nghiêm trọng đối với loại cây con được bảo hiểm.
Thực tế tại Tỉnh Hoà Bình trong những năm qua các địa phương đã cố gắng thực hiện rất có hiệu quả việc xóa đói giảm nghèo. Song, người nghèo lại hoàn nghèo do bị ảnh hưởng của thiên tai, do đó mà khó có thể vượt qua được ngưỡng đói nghèo.
+ Bảo hộ sản xuất nông nghiệp: Thực tế, Nhà nước ta không thể bảo hộ sản xuất nông nghiệp như nhiều nước phát triển trên thế giới do tiềm lực ngân sách Nhà nước còn hạn chế. Song cần điều chỉnh cơ chế xử lý về giá cả và tiêu thụ nông sản phẩm theo hướng xử lý trực tiếp cho người sản xuất vay vốn và người cho vay được hưởng lợi từ cơ chế này.
- Có chính sách cơ chế chi tiết để xử lý rủi ro tín dụng nông nghiệp và nông thôn theo quyết định 67/ QĐ-TTg.
- Chính phủ cần ban hành thông tư, hoặc Chính phủ cho phép liên Bộ: Tài chính - Nông nghiệp & PTNT - Ngân hàng Nhà nước có thông tư liên ngành quy định cụ thể việc xử lý rủi ro tín dụng NHNo & PTNT về rủi ro bất khả kháng để chủ động xử lý cho cả người vay và người cho vay khi thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa... vừa xảy ra. Phạm vi được xử lý đối với tất các loại rủi ro trên phạm vi rộng, cục bộ hay cá biệt.
- Cần có chính sách đất đai ưu đãi hộ nghèo (cấp đất, điều chỉnh lại ruộng đất, giao khoán đất trồng rừng, cây lâu năm...) để các hộ nghèo thiếu đất được yên tâm sản xuất và xây dựng được nhiều mô hình và trang trại gia đình đối với đồng bào miền núi.
- Có chính sách miễn giảm thuế và các khoản đóng góp đối với các hộ nghèo.
- Điều chỉnh mức thuế suất các loại đối với hoạt động tín dụng nông nghiệp nông thôn, thay vào đó chuyển mức điều chỉnh đó vào quỹ phòng ngừa rủi ro của tổ chức tín dụng hoặc mua bảo hiểm tín dụng nông nghiệp.
2. Đối với NHNN Trung ương, NHNo & PTNT Việt Nam,NHNg Việt Nam :
- Vấn đề lãi suất cho vay:
+ Lãi suất cho vay bằng nguồn vốn huy dộng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn: Về nguyên tắc, nông nghiệp nông thôn có những điểm đặc thù so với các ngành, các lĩnh vực khác. Vì vậy, đầu tư cho nông nghiệp nông thôn qua các hình thức tín dụng phải được áp dụng mức lãi suất thấp. Tuy nhiên, chi phí huy động vốn và cho vay ở khu vực nông thôn lại lớn hơn nhiều khu vực thành thị, do đó để đảm bảo tồn tại Ngân hàng nông nghiệp buộc phải cho vay khu vực nông thôn lãi suất cao hơn khu vực thành thị. Tỷ lệ lãi suất huy động thấp sẽ không thu hút được người gửi tiền; Lãi suất cho vay thấp sẽ làm cho lượng cầu lớn hơn cung, như vậy sẽ làm hạn chế phúc lợi tín dụng. Điều này dẫn đến những tiêu cực trong việc xác lập đối tượng vay. Tình trạng thiên vị bỏ qua các đối tượng nghèo đói bằng sự tiếp xúc hoặc hối lộ... Trong nhiều trường hợp , tín dụng không được sử dụng vào sản xuất mà quay trở lại hình thức tín dụng khác. Vì vậy, một chính sách về lãi suất tín dụng muốn tồn tại và phát triển phải dựa trên cơ sở cải tiến hệ thống tín dụng, giảm bớt chi phí giao dịch... Lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn thành thị, điều này không phù hợp với chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp nông thôn và thực hiện xoá đói giảm nghèo của Nhà nước ta hiện nay, đòi hỏi Nhà nước và các nhà khoa học phải nghiên cứu tìm ra giải pháp.
Theo tôi, lãi suất cho vay không nên phân biệt giữa khu vực nông thôn và thành thị cũng như không nên phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, trước mắt phải hạ lãi suất cho vay khu vực nông thôn ngang bằng với lãi suất cho vay khu vực thành thị, tiến dần đến lãi suất khu vực nông thôn thấp hơn khu vực thành thị. Muốn vậy, Nhà nước phải thực thi được những nhiệm vụ sau:
Một là: Tạo mặt bằng chung về lãi suất trong cả nước (trừ vùng sâu, vùng xa, miền núi).
Hai là: Nhà nước tạo điều kiện cho NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình được xử lý sớm những tồn đọng cũ, nhằm lành mạnh hoá tài chính, ưu tiên các khoản vốn tài trợ từ nước ngoài để dầu tư cho nông nghiệp nông thôn qua NHNo & PTNT để cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn . Cần quy định lại hợp lý hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất tái cấp vốn đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để NHNo & PTNT có thêm nguồn vốn cho vay đồng thời góp phần làm giảm tỷ lệ lãi suất cho vay ở khu vực nông thôn. Theo tôi, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHNo & PTNT chỉ nên giữ ở 0-2% cho loại tiền gửi có kỳ hạn và từ 2-5% cho loại tiền gửi không kỳ hạn.
Mặt khác, Nhà nước cũng cần tập trung, thống nhất quản lý và sử dụng các nguồn vốn tài trợ cho nông nghiệp nông thôn cũng như các nguồn vốn hỗ trợ xoá đói giảm nghèo, vì cùng lúc tồn tại nhiều hình thức cấp vốn khác nhau, với các mức lãi suất khác nhau sẽ gây nên tình trạng rối loạn thị trường vốn ở nông thôn. Giao cho NHNo & PTNT thực hiện các quỹ hoặc chương trình khuyến nông, lâm, ngư của Nhà nước dưới hình thức uỷ thác.
Cho phép hoà đồng lãi suất tất cả các nguồn vốn để tạo điều kiện cho việc hình thành một lãi suất đầu ra mang tính ưu đãi cho từng loại đối tượng chính sách.
+ Lãi suất cho vay ưu đãi hộ nghèo: Có nhiều ý kiến cho rằng, lãi suất cho vay ưu đãi hộ nghèo nên áp dụng theo lãi suất thị trường. Quan điểm này cũng được một số nước áp dụng và có hiệu quả. Nhưng hộ nghèo ở mỗi nước, mỗi vùng, mỗi dân tộc đều có những đặc điểm khác nhau, do đó việc áp dụng lãi suất cho vay hộ nghèo ở mức nào, cơ chế điều chỉnh ra sao cũng là vấn đề cần bàn bạc. Theo tôi, trước mắt (ít nhất là 5 năm), lãi suất cho vay hộ nghèo nên thấp hơn lãi suất thị trường nhưng phải đảm bảo lớn hơn lãi suất huy động bình quân cộng các chi phí hoạt động khác. Cần thử nghiệm chế độ ưu việt đó đối với hộ nghèo trong một thời gian để có thể giải quyết được các điều kiện thuận lợi thuộc yếu tố chủ quan của người nghèo và các yếu tố khách quan liên quan đến môi trường sản xuất kinh doanh của người nghèo. Lúc ấy mới chuyển sang cho vay theo lãi suất thị trường, mới phát huy tác dụng lãi suất là công cụ đòn bẩy thúc đẩy sản suất kinh doanh của người nghèo phát triển đi lên một cách vững vàng.
Tức là: Lãi suất huy động bình quân + các chi phí khác < lãi suất cho vay hộ nghèo < lãi suất cho vay các đối tượng khác.
Hiện nay, lãi suất huy động bình quân của NHNg tỉnh Hoà Bình là 0,4%, lãi suất cho vay ưu đãi hộ nghèo là 0,8%, cho vay các đối tượng khác là 1,1%, mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay hộ nghèo và cho vay đối tượng khác là 0,3%, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là 0,4%. Như vậy, nếu cộng cả các loại chi phí khác thì chênh lệch lãi suất đầu vào và đầu ra khoảng 0,3%, tỷ lệ này là tương đối lớn đối với một Ngân hàng mà mục tiêu hoạt động chủ yếu không phải là lợi nhuận. Bởi vậy, với mức lãi suất quy định như hiện nay đối với hộ nghèo là khá cao so với suất lợi nhuận mà hộ nghèo có thể thu được do sử dụng vốn.
- Cải tiến thủ tục cho hộ nghèo vay vốn: Theo quy trình cho vay của văn bản 80A NHNg thì phải qua quá nhiều khâu trung gian làm ảnh hưởng đến độ giải ngân vốn NHNg. Do đó cần phải được thay đổi.
- Nghiên cứu áp dụng các phương thức cho vay phù hợp với hộ nghèo. Nhất là hộ nghèo ở những nơi không có ruộng đất và điều kiện sản xuất kinh doanh, sống chủ yếu là đi làm thuê.
- Có chế độ phụ cấp trách nhiệm đối với cán bộ tín dụng nhằm nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, tránh tình trạng như hiện nay là nhiều cán bộ Ngân hàng không muốn làm nghiệp vụ tín dụng.
3. Đối với tỉnh Hoà Bình:
- Hàng năm, trích một phần kinh phí ngân sách địa phương để tạo lập nguồn vốn cho chương trình xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh.
- Củng cố và kiện toàn Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo ở các cấp, đưa hoạt động của Ban chỉ đạo vào hoạt động thường xuyên, có nề nếp và hiệu quả. Đề cao vai trò trách nhiệm của các thành viên để chỉ đạo và xây dựng tổ vay vốn hoạt động thực sự chất lượng, là cầu nối giữa Ngân hàng và hộ nghèo.
4. Đối với NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình
- Bố trí đội ngũ cán bộ tín dụng đủ ngang tầm với nhiệm vụ kinh doanh nhằm giảm tải số món vay/ 1 cán bộ tín dụng quản lý. Như vậy mới có điều kiện để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
- Không ngừng tập huấn nghiệp vụ nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ tín dụng.
- Tiếp tục chỉ đạo mở các lớp tập huấn nghiệp vụ đối với các tổ vay vốn NHNg.
KếT LUậN
Xoá đói giảm nghèo là một công việc phức tạp và hết sức khó khăn, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của Đảng, Chính phủ, các ngành, các tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư, trong đó ngành Ngân hàng giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình thực hiện mục tiêu của chương trình quốc gia này. Trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã hoàn thành các nhiệm vụ sau:
- Nêu lên những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, đặc biệt đi sâu phân tích mặt trái của nền kinh tế thị trường là vấn đề phân hoá giàu nghèo.
- Phân tích vai trò của Nhà nước trong việc khắc phục các hạn chế của nền kinh tế thị trường, hệ thống hoá các quan điểm và giải pháp của Đảng và Nhà nước về xoá đói giảm nghèo.
- Nêu bật vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc thực hiện mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo của Nhà nước trong việc cấp tín dụng cho người nghèo.
- Phân tích có phê phán thực trạng việc cung ứng vốn phục vụ chương trình xoá đói giảm nghèo của tỉnh Hoà Bình.
- Kiến nghị một số giải pháp càn xử lý trong chính sách huy động vốn, cho vay đối với hộ sản xuất, hộ nghèo và những giải pháp hỗ trợ.
Tuy nhiên, đây là vấn đề rộng lớn, vừa khó lại vừa phức tạp nên những ý kiến đề xuất trong luận án chỉ là những đóng góp nhỏ trong tổng thể các biện pháp nhằm thực hiện tốt mục tiêu chương trình xoá đói giảm nghèo thông qua việc cấp tín dụng. Với sự hiểu biết còn hạn chế, tài liệu tham khảo không nhiều, tác giả mong nhận được ý kiến đóng góp của lãnh đạo NHNo & PTNT tỉnh Hoà Bình, các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm đến vấn đề này để khoá luận được hoàn thiện hơn.
DANH MụC TàI LIệU THAM KHảO
1- Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hoà Bình các năm 1999 - 2000.
2- Báo cáo thường niên của Ngân hàng phục vụ người nghèo tỉnh Hoà Bình các năm 1999 - 2000.
3- Báo cáo tổng kết 2 năm (1999 - 2000) thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo của Sở lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hoà Bình.
4- Báo cáo kết quả hoạt động Ngân hàng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế miền núi năm 2000 của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Hoà Bình.
5- Báo cáo kết quả công tác khuyến nông, khuyến lâm phục vụ chương trình xoá đói giảm nghèo. Của sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hoà Bình năm 2000.
6- Các thành phần kinh tế Việt Nam, thực trạng, xu thế và giải pháp. NXB Thống kê - Hà Nội 1992.
7- Cẩm nang quỹ tín dụng cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất ở nông thôn của NHNo & PTNT VN - Hà nội - Tháng 5/ 1996.
8- “Chương trình phát triển kinh tế xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc”. Văn kiện Đại hội Đảng, trang 214-218. NXB Chính trị Quốc gia.
9 “Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa”. Của Ban chỉ đạo chương trình 135 tỉnh Hoà Bình.
10- Cơ chế chính sách đối với người nghèo - Văn kiện Đại hội Đảng VIII. NXB Chính trị Quốc gia - Hà nội 1996.
11- Đề án hoàn thiện một bước mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngân hàng phục vụ người nghèo Việt nam - Hà nội tháng 2/ 1998.
12- Hệ thống hoá các văn bản về tín dụng và lãi suất của NHNN và NHNo & PTNT Việt Nam chỉ đạo và hướng dẫn về nghiệp vụ tín dụng.
13- Hoà Bình, bước phát triển đến năm 2010. Tạp chí Công nghiệp 1997.
14- Nghị quyết Trung ương IV khoá VIII và vấn đề tín dụng nông nghiệp, nông thôn. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
15- Niên giám thống kê năm các năm 1998, 1999, 2000. Nhà xuất bản Thống kê.
16- Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam. NXB Giáo dục - 1996.
17- Quy chế cho vay đối với khách hàng của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam năm 2000.
18- Quy chế cho vay theo quyết định 80A NHNg.
19- Tài liệu triển khai thực hiện dự án tín dụng quay vòng xoá đói giảm nghèo. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội - Hà Nội tháng 1/ 1997.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0225.doc