Trên phương diện lý thuyết, tín dụng ngân hàng tập trung những nguồn vốn lẻ tẻ, ít ỏi thành những nguồn vốn lớn để cho vay, bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục,hỗ trợ nâng cao đời sống của nhân dân, là cơ sở thúc đẩy các hình thức tín dụng khác phát triển, hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng, tạo các công cụ điều tiết vĩ mô cho Nhà nước.
Thực tiễn nước ta cho thấy vai trò của tín dụng ngân hàng được phát huy từ trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Cho đến nay tín dụng ngân hàng vẫn tiếp tục phát huy vai trò của mình, cung cấp vốn cho toàn nền kinh tế, hộ trợ cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn, giúp đỡ thực hiện các chương trình kinh tế xã hội của nhà nước.
32 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1405 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng ngân hàng trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn đề xã hội.
Hoạt động của Ngân hàng ngày nay không còn chỉ là nhận gửi và cho vay. Nghiên cứu tài sản nợ của Ngân hàng thương mại ta thấy hoạt động của nó vô cùng đa dạng. Ngân hàng có thể huy động những nguồn vốn dài hạn đến cực ngắn hạn đấp ứng mọi nhu cầu sử dụng vốn khác nhau của nền kinh tế. Ngân hàng nhận tiền gửi có kì hạn, không kì hạn, phát hành ra các công cụ tài chính như trái phiếu, chứng thư tiền gửi loại lớn, phát hành Rps (Repurchase Agreements), vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ...để vay vốn đông thời có thể sử dung các loại giấy tờ có giá này trong thanh toán làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông, Ngân hàng có thể kiểm soát chặt chẽ và dễ dàng hơn đối với dòng lưu thông tiền tệ qua đố Ngân hàng nắm bắt được những sự biến đổi của nền kinh tế kịp thời thông tin cho nhà nước để áp dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để ổn định nền kinh tế.
Tóm lại, tín dung ngân hàng giải quyết vấn đề về vốn cho nền kinh tế, phát triển kinh tế gia đình, doanh nghiệp và đất nước, tạo ra những công cụ tài chính góp phần đẩy nhanh dòng lưu thông vốn trong nền kinh tế.
2.3. Tín dụng ngân hàng tạo cơ sở cho lãi xuất ngân hàng xuất hiện, thúc đẩy Tín dụng thương mại phát triển.
2.3.1. Tín dụng Thương mại và giấy bạc ngân hàng.
Tiền tệ ra đời làm trung gian trong việc trao đổi hàng hoá, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nhờ có tiền làm phương tiện thanh toán mà đã tạo điều kiện cho hoạt động mua bán chịu giữa người sản suất và những người làm chức năng lưu thông hàng hoá. Người mua đã sẵn sàng mua, người bán đã sẵn sàng bán nhưng chỉ thiếu tiền do đó xuất hiện quan hệ tín dung Thương mại. Tham gia quan hệ tín dụng thì người mua không phải trả tiền ngay mà sau một thời gian nhất định mới trả tiền và đương nhiên họ phải trả cao hơn giá hiện tại, khoản chênh lệch giá đó là chi phí thêm mà người mua phải trả thêm cho việc mua chịu hàng của người bán.
Khi mua bán chịu với nhau, thời kì đầu người mua phải viết giấy nợ và cam kết sẽ trả cho người bán số tiền nợ mua hàng sau một thời gian nhất định, giấy nợ đó gọi là kì phiếu thương mại. Ngày nay, kì phiếu thương mại được gọi là hối phiếu, hay còn gọi chung cho cả hai loại là Thương phiếu. Về bản chất kì phiếu thương mại và hối phiếu không có gì khác nhau, chỉ khác là hối phiếu (Bill for exchance) do người bán chịu phát hành.
Khi người bán nhận thương phiếu thì vấn đề đặt ra là trong khoảng thời gian trước khi thương phiếu được thanh toán, người giữ thương phiếu lại cần tiền mặt ngay do cần đầu tư gấp hoặc vì một lý do nào đó, như vậy họ phải từ bỏ ý định của mình do không có cách nào đổi thương phiếu ra thành tiền mặt.Nhưng nhờ có tín dụng ngân hàng mà vấn đề khó khăn đó được giải quyết. Khi có tín dụng Ngân hàng, những người chủ của Thương phiếu có thể đem nó đến Ngân hàng để chiết khấu đổi lấy tiền mặt hoặc thế chấp để vay tiền. Khi đó họ phải chuyển quyền sở hữu Thương phiếu cho Ngân hàng và ngân hàng trở thành chủ nợ mới của những người mua chịu hàng. Đến hạn thanh toán Thương phiếu, Ngân hàng có quyền đòi những người mua chịu hàng phải trả nợ.
Tín dụng thương mại xuất hiện do yêu cầu thực tế của hoạt động mua bán hàng hoá trên thị trường. Nó giải quyết sự khó khăn tạm thời về tiền mặt cho người mua hàng. Với sự góp mặt của tín dụng Ngân hàng mà tiền (vốn) không còn bị giữ chặt trong thương phiếu mà trái lại thương phiếu có độ thanh khoản rất cao do có thể dễ dàng triết khấu tại Ngân hàng. Cùng với quá trình triết khấu đó Ngân hàng đã sáng tạo ra một công cụ tài chính mới đó là Giấy bạc Ngân hàng. Giấy bạc Ngân hàng cũng chỉ là những kì phiếu nhưng do Ngân hàng phát hành. Giấy bạc Ngân hàng được bảo đảm giá trị bằng vàng, khác với thương phiếu được bảo đảm giá trị bằng hàng hoá. Giấy bạc Ngân hàng lúc đầu do nhiều ngân hàng phát hành sau đó khi chế độ bản vị vàng sụp đổ chỉ còn một ngân hàng phát hành, ngày nay Ngân hàng đó được gọi là Ngân hàng Trung Ương.
Khi Ngân hàng dùng giấy bạc của mình để triết khấu thương phiếu thực chất ngân hàng đã dùng ngân phiếu để thay thế cho thương phiếu của các nhà công thương nghiệp. Việc thay thế đó đã hoàn toàn đổi những công cụ lưu thông vận động có kì hạn bằng những công cụ lưu thông nhanh hơn và không kì hạn. Lưu thông giấy bạc Ngân hàng đã thay thế cho lưu thông thương phiếu đáp ứng yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Từ sự phân tích trên cho thấy lưu thông thương phiếu là cơ sở cho việc lưu thông giấy bạc Ngân hàng. Và sự ra đời của giấy bạc Ngân hàng, một loại tiền mới thay thế cho tiền vàng, có sự góp phần không nhỏ của tín dung Ngân hàng, tín dụng Ngân hàng là cầu nối cho sự chuyển đổi đó.
2.3.2. Sự hình thành lãi suất ngân hàng.
Do sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá đã đẫn đến sự ra đời của tiền tệ. Tiên tệ ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của sự mở rộng quan hệ kinh tế, rở rộng thị trường, làm cho kinh tế hàng hoá phát triển lên một mức cao hơn.Nhất là đến thời đại Phục hưng thế kỉ XV, XVI cả Châu Âu bừng tỉnh hoạt động kinh tế vươn ra khỏi “ hàng rào” cát cứ phong kiến của các lãnh chúa để hình thành thị trường dân tộc thống nhất, vươn ra khỏi biên giới một quốc gia, tiến hành buôn bán hàng hoá, giao lưu kinh tế giữa các nước với nhau. Khi đó để đảm bảo cho việc thanh toán và dự trữ tiền vàng được an toàn những người buôn bán gửi tiền vào những xưởng vàng_ tạm gọi là các Ngân hàng và Ngân hàng phát hành ra ngân phiếu dựa trên lượng tiền mà khác hàng đã gửi vào. Do ngân phiếu thanh toán thuận tiện và an toàn hơn tiền vàng nên nó nhanh chóng được sử dụng phổ biến và đồng thời tiền vàng cũng ít được rút ra, trừ trường hợp phải thanh toán ở những nơi ngân phiếu không được chấp nhận. Do đó tiền vàng chủ yếu được cất giữ tại các ngân hàng và các chủ Ngân hàng nhanh chóng phát hiện ra điều đó, họ mang số tiền vàng cất giữ đó cho vay để lấy lãi. Tiền lãi được tính theo một tỷ lệ nhất định so với số tiền cho vay, tỷ lệ đó gọi là lãi suất cho vay.
Do nhu cầu vay vốn ngày càng lớn và do ham muốn lợi nhuận, các Ngân hàng không chỉ cho vay trên phạm vi số các khoản tiền gửi tại Ngân hàng mà còn phải mở rộng hơn nữa lượng vố cho vay này, bằng cách vay để cho vay. Sức cho vay của Ngân hàng phụ thuộc vào số lượng tiền mà Ngân hàng đã tập trung thu hút được. Cho nên đã xuất hiện cuộc cạnh tranh giũa các Ngân hàng nhằm thu hút nhiều hơn các khoản tiền trong dân chúng và cuộc cạnh tranh đó đã buộc Ngân hàng không chỉ miễn phí tiền gửi cho khách hàng mà còn chịu trả lợi tức cho người gửi, hình thành nên lãi suất tiền gửi.
Như vậy sự xuất hiện của Ngân hàng và tín dụng Ngân hàng đã tạo cơ sở hình thành lãi suất ngân hàng.Cùng với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của tín dụng Ngân hàng đã hình thành nhiều loại lãi suất khác nhau, không chỉ vậy lãi suất Ngân hàng đã trở thành một công cụ quản lý vĩ mô có hiệu quả của Nhà nước.
2.4. Tín dụng Ngân hàng, công cụ quản lý vi mô, vĩ mô nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tín dụng nói chung diễn ra thường xuyên trong đó bao gồm cả hoạt động tín dụng Ngân hàng. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh hàng hoá đặc biệt đó là tiền. Một loại hàng hoá rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường và nó cũng có sức mạnh tác động đến tình cảm của con người nên kinh doanh trong lĩnh vực Tài chính - Tiên tệ có mức độ rủi ro rất cao.
Mục đích của Ngân hàng là đi vay để cho vay thu lợi nhuận từ sự chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Ngân hàng luôn muốn tăng số vốn và thu được lợi nhuận do đó việc cho vay như thế nào để đảm bảo duy trì được lượng vốn cho vay và có lãi là một câu hỏi lớn mà các Ngân hàng phải trả lời nếu muốn tồn tại. Ngân hàng huy động vốn nhưng nhanh chóng cho vay cho các dự án của Chính phủ, cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các cá nhân...nhưng tất nhiên không phải Ngân hàng cho vay đối với mọi đối tượng. Khi tiến hành cho vay, Ngân hàng luôn phải đảm bảo số vốn của mình gặp ít rủi ro nhất vì vậy mà Ngân hàng luôn thực hiện các biện pháp để xác định mức độ rủi ro nhằm giảm thiểu sự rủi ro đó. Để cho vay đối với một khách hàng, Ngân hàng thực hiện các cuộc điều tra về khách hàng của mình, xem xét tình hình hoạt động (tình hình tài chính, doanh thu hàng năm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn, vị trí của doanh nghiệp trên thị trường...), mục đích của việc vay vốn, tính khả thi của dự án cần vay vốn, tài sản thế chấp,...Khi khách hàng đã đáp ứng được các yêu cầu của Ngân hàng thì mới có thể được vay vốn. Đến đây không phải là Ngân hàng để tuỳ ý cho khách hàng sử dụng số vốn mà không cần phải kiểm soát mà trái lại, Ngân hàng vẫn tiếp tục giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng theo cam kết khi vay vốn hay không nếu có dấu hiệu bất ổn với số vốn đó lập tức Ngân hàng sẽ rút vốn về để đảm bảo an toàn cho lượng vốn đó.
Qua hoạt động tín dụng mà Ngân hàng có thể có thể xâm nhập sâu vào bên trong các doanh nghiệp hay các khách hàng để có thể nắm bắt được những thông tin bí mật từ đó mà có thể kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp _ khách hàng, hướng hoạt động của doanh nghiệp theo những mục tiêu nhất định, thông tin cho nhà nước về nhưng bất ổn về những chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp, dự liệu những vấn đề phát sinh giúp nhà nước hoạch định những chính sách hợp lý cho sự phát triển kinh tế nói chung.
Ngân hàng kiểm soát lượng vốn cho vay nhằm bảo đảm an toàn cho số vốn đó nhưng đứng về phía Ngân hàng không có gì bảo đảm rằng Ngân hàng không vì lợi nhuận mà toàn bộ hoặc phần lớn lượng vốn huy động được và sự mất khả năng thanh toán có thể xảy ra bất kì lúc nào và khi Ngân hàng lâm vào tình trạng đó thì sẽ đẫn đến một cuộc khủng hoảng lớn trong hệ thống ngân hàng và toàn nên kinh tế. Để ngăn chặn nguy cơ đó, Nhà nước quy định một tỷ lệ dự trữ trên cơ sở lượng vốn mà Ngân hàng đã huy động được, gọi là tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, nhằm bảo đảm khả năng thanh toán cho Ngân hàng trong mọi tình huống.
Xuất phát từ quan hệ tín dụng Ngân hàng đã hình thành nên phạm trù “tỷ lệ dự trữ bắt buộc”. Tiếp đó tín dụng Ngân hàng đã tạo cho hệ thống các Ngân hàng thương mại môt khả năng vô cùng quan trọng đó là khả năng tạo tiền. Giả sử Ngân hàng thứ nhất nhận một lượng tiền gửi là 10000 USD, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Ngân hàng này sẽ dự trữ là 10% * 10000 = 1000 USD và cho vay ra 10000 – 1000 = 9000 USD. 9000USD này lại được gửi vào Ngân hàng thứ hai, Ngân hàng này sẽ dự trữ là 9000 * 10% = 900 USD và cho vay là 9000 – 900 = 8100 USD. Và quá trình này lại được tiếp tục qua các Ngân hàng tiếp theo.
Tổng số tiền gửi vào hệ thống Ngân hàng là:
10000 + (10000 * 90%) + (10000* 90%)*90% +...+ 0
=10000*[1/(1-90%)]= 10000/10% =100000 USD
Tổng số tiền dự trữ:
1000 +1000*90% +(1000*90%)*90% +...+ 0
=1000*[1/(1-90%)]= 1000/10% =10000 USD
Tổng số tiền cho vay:
9000 +9000*90% +(9000*90%)*90% +...+ 0
=9000*[1/(1-90%)] =9000/10% = 90000 USD
Như vậy từ 10.000 USD tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng thương mại đã tăng lên thành 100.000 USD, cho vay được 90.000 USD, dự trữ 10.000 USD.Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là rr(%) thì 1 đồng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ tăng lên thành 1*(1/rr) >1, lượng tiền mặt cho lưu thông đã tăng lên (trong đó 1/rr được gọi là số nhân tiền tệ)
Nhà nước dựa vào khả năng đó của hệ thống Ngân hàng thương mại mà tiến hành quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thông qua công cụ “tỷ lệ dự trữ bắt buộc”. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế mà Nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng. Giả sử khi nền kinh tế quá nóng, nguy cơ lạm phát cao hoặc đang lạm phát Nhà nước có thể giảm lượng tiền mặt trong lưu thông thì một trong những cách mà nhà nước có thể thực hiện đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc rr làm giảm số nhân tiền từ đó mà làm giảm lượng tiền tạo ra qua hệ thống Ngân hàng thương mại và tất nhiên Nhà nước hoàn toàn có thể làm ngược lại khi muốn tăng lượng cung tiền cho nền kinh tế.
Ngoài công cụ là tỷ lệ dự trữ bắt buộc Nhà nước cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất tín dụng trong quản lý kinh tế. Khi muốn khuyến khích các nhà đầu tư vào một ngành, lĩnh vực nào đó Nhà nước thông qua Ngân hàng hạ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vưc đó, ngược lại để hạn chế những ngành khác Nhà nước tăng lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp đâù tư vào ngành đó. Nhờ đó Nhà nước có thể cân đối nền kinh tế, thực hiện những mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Với công cụ lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay của Ngân hàng TW đối với Ngân hàng thương maị Nhà nước cũng có thể tăng giảm lượng tiền trong lưu thông. Khi lãi suất chiết khấu tăng thì lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại cũng tăng sẽ làm giảm lượng tiền vay của công chúng làm giảm lượng tiền trong lưu thông.
Như vậy thông qua hoạt động tín dụng mà các Ngân hàng có thể thực hiện chức năng kiển soát nền kinh tế mặt khác tín dụng Ngân hàng đã tạo ra các công cụ của chính sách Tái chính-Tiền tệ cho Nhà nước, góp phần ổn định nền kinh tế,thưc hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
Chương II: TíN DụNG NGÂN HàNG TRONG ThờI Kỳ CNH-HĐH ở VIệT NAM
I. Lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam và những đóng góp của Ngân hàng và tín dụng ngân hàng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngân hàng ở Việt Nam ra đời gắn liền với quá trình sâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1858). Để thực hiện chính sách khai thác và bóc lột của mình, thực dân Pháp đã xây dưng nhiều xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ nhằm bóc lột nhân dân lao động. Các hoạt động kinh tế của thực dân Pháp ở Đông Dương được rở rộng đòi hỏi phải có Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ vốn cho các hoạt động đó và Ngân hàng Đông Dương ra đời.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phần lớn các Ngân hàng ở Việt Nam đếu là Ngân hàng nước ngoài. Mãi đến năm 1927 mới có một Ngân hàng đầu tiên của người Việt Nam có tên là An Nam Ngân hàng hỗ trợ cho những hoạt động trong nông nghiệp là chủ yếu.
Sau Cách mạng tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào ngày 6/5/1951(nay là Ngân hàng nhà nước Việt Nam) có các nhiệm vụ chủ yếu sau: “quản lý việc phát hành giấy bạc và lưu thông tiền tệ; quản lý kho bạc nhà nước; huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá; quản lý hoạt động kim dung bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ.”
Giấy bạc Ngân hàng ra đời chủ yếu nhằm tác động tích cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá trên cơ sở từng bước mở rộng tín dụng Ngân hàng trong mối quan hệ giữa Ngân hàng –tài chính –Mậu dịch quốc doanh. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành đồng tiền ngân hàng và đồng thời thu hồi tiền tài chính vơí tỷ lệ 1/10. Nói chung giấy bạc Tài chính TW đều được thu hồi nhưng do đặc điểm tình hình khác nhau ở các khu vực mà các bước phát hành tiền ngân hàng ở mỗi khu vực cũng khác nhau nhằm hạn chế sự phá hoại của kẻ thù. Bằng những biện pháp trên kết quả Ngân hàng đã thu hồi được 80% tổng số tiền tài chính ở Bắc Bộ. Và ở những vùng giải phóng, ta chiếm lĩnh thị trường tiền tệ trên cơ sở quét sạch tiền địch với phương châm “ đuổi là chính, đổi là phụ”.
Trên mặt trân nông nghiệp,ngân hàng cho vay nhằm hỗ trợ nông dân nghèo mua sắm tư liệu sản xuất chính như: trâu bò, nông cụ, phân, giống,...để tăng sản xuất lương thực, và ở những vùng có điều kiện thì giúp đỡ phục hồi phát triển cây công nghiệp để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và cung cấp vật tư cho mậu dịch quốc doanh. Sau hội nghị cán bộ Ngân hàng toàn quốc lần 1 (2/1952) Ngân hàng đã chuyển hướng tín dụng, từ cho vay trực tiêp nông nghiệp sang tập trung vốn phần lớn cho mậu dịch quốc doanh và mở rộng cho vay vận tiêu nông, lâm, thổ sản mở luồng lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì đi lên Chủ nghĩa xã hội, Tiền tệ -Tín dụng –Ngân hàng được sử dụng làm công cụ khôi phục kinh tế, tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá, cải thiện đời sống của nhân dân.
- Trong hai năm đầu (1955-1957), thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị “ hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển nông nghiệp”, Ngân hàng nhà nước đã kịp thời chuyển hướng cho vay từ vận tiêu nông, lâm, thổ sản trước đó thành trực tiếp cho vay nông nghiệp, giúp đỡ nông dân ở những nơi đã cải cách ruộng đất, mua xắm trâu bò cày và ở vùng giải phóng đã khai phá gần 15 vạn ha ruộng hoang hoá. Đồng thời với cho vay nông nghiệp, ngân hàng nhà nước đã tập trung 90% vốn tín dụng cho ngành thương nghiệp, đẩy mạnh giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, củng cố và tăng cường lực lượng quốc doanh, hợp tác xã mua bán, tạo điều kiện điều chỉnh công thương nghiệp tư bản tư doanh và bước đầu cải tạo họ theo đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp đến là thời kì cải tạo và phát triển kinh tế (1958-1960), ngân hàng tập trung vốn phục vụ phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, ưu tiên lãi suất với các tổ vần công, đổi công và hợp tác xã, đồng thời nhanh chóng mở rộng hợp tác xã tín dụng nông thôn, đi trước một bước phát triển hợp tác xã nông nghiệp.
- Bước vào thời kì kế hoach 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội Đảng lần III vạch ra, Ngân hàng nhà nước hết sức quan tâm đến công tác nguồn vốn, kết hợp chặt chẽ việc động viên và tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với việc áp dụng chế độ tín dụng đúng đắn và phát hành tiến mặt một cách có kế hoạch nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước. Đối với kinh tế quốc doanh, tín dụng ngân hàng đã tham gia khoảng 70% vốn lưu động hàng hoá của các xí nghiệp thương nghiệp và 40% vốn lưu động sản xuất của các xí nghiệp công nghiệp. Để đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (bắt đầu vào ngày 5/8/1964), Ngân hàng nhà nước đã chuyển hướng mọi mặt hoạt động nghiệp vụ, tập trung phục vụ bảo vệ và duy trì sản xuất, tích cực giúp đỡ các xí nhiệp và các tổ chức kinh tế sơ tán,... Đồng thời trong thời gian này, mạng lưới hợp tác xã tín dụng đã được sử dụng chiệt để, đảm nhận phần quan trọng về nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng ở nông thôn, nhất là công tác huy động vốn gửi tiết kịêm, kể cả cho vay ngắn hạn với hợp tác xã nông nghiệp.
Tóm lại từ sau Cách mạng tháng 8 vấn đề luôn luôn khó khăn với chính quyền cách mạng là Tài chính-Tiền tệ-Tín dụng-Ngân hàng. Nhưng Đảng và nhân dân ta đã vượt qua những khó khăn đó xây dựng được hệ thống tiền tệ thống nhất, thành lập được Ngân hàng quốc gia riêng, xác định được một chính sách tiền tệ hợp lý, biết quản lý tập trung thống nhất và có kỷ luật. Tiếp đó hệ thống Tiền tệ –Tín dụng –Ngân hàng Xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và củng cố trong giai đoạn 1955-1975 góp phần lớn vsò công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
II. Thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
1. Những kết quả tích cực trong hoạt động tín dung Ngân hàng.
1.1. Những ưu thế của tín dụng Ngân hàng.
Có thể nói từ đại hội VI (1986) đến nay, thị trường vốn chủ yếu của Việt Nam là tín dụng qua Ngân hàng nếu không kể đến lượng trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp ra công chúng và thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé. Sở dĩ thị trường tín dụng Ngân hàng chiếm ưu thế trong thời gian qua là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Ngân hàng là nơi tập trung vốn có ưu thế nhất từ những lượng tiền tiết kiệm trong dân cư và từ Ngân sách nhà nước.Công chúng Việt Nam luôn tin tưởng vào Nhà nước, tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn của nhà nước đối với số tiền gửi.Cho đến nay các kênh tiết kiệm và huy động vốn hầu như không có, nếu có thì rất yếu kém nên tiền tiết kiệm tập trung vào Ngân hàng là đương nhiên.
Thứ hai, quan hệ mua bán chịu hàng hoá giữa các doanh thương đã có những bước phát triển nhưng ở Việt Nam lại chưa có thị trường thương phiếu, không có cơ sở pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động mua bán chịu. Do đó dễ nẩy sinh nhiều tiêu cực không được giải quyết chính vì vậy mà các doanh nghiệp càng dựa hơn vào Ngân hàng.
Thứ ba, chỉ có Ngân hàng mới đủ khả năng tích độ đủ quy mô về vốn trong dân cư và doanh nghiệp với khả năng tích luỹ thấp như hiện nay để tài trợ cho các dự án. Các định chế tài chính trung gian ngoài ngân hàng như Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính còn kém phát triển như ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, trong thời gian qua và hiện tại, các doanh nghiểp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước còn dựa vào số lượng vốn vay từ Ngân sách nhà nước qua Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây là nguồn vốn khá ưu đãi nên các hình thức vay vốn trực tiếp khác khó có thể cạnh tranh được
1.2. Tín dụng Ngân hàng với các ngành kinh tế.
1.2.1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng với toàn bộ nền kinh tế.
Vốn đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một vấn đế cực kỳ quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới của nước ta. Trong chiến lược kinh tế xã hội đến năm 2010, Đảng ta chỉ rõ: Chinh sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩn xã hội, và thu nhập quốc dân... Tạo vốn và sử dụng vốn là những vấn đề đang được Nhà nước và ngành Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Có huy động những nguồn vốn bên ngoài và phát triển nhanh nguồn vốn trong nước mới có thể đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhìn lại giai đoạn 1991-2000 để thấy được vai trò của vốn Ngân hàng trong những năm qua.
Theo báo cáo về sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2000 nền kinh tế Việt Nam cần khoảng 50 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước đáp ứng được khoàng 45% nhu cầu, phần còn lại phải nhờ vào đầu tư từ bên ngoài. Từ đó có thể thấy yêu cầu về vốn đầu tư trong những năm cuối của thập kỷ 90 khá nặng, mỗi năm cần khoảng 8-9 tỷ USD và trong tương lai, theo yêu cầu phát triển của đất nước đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì sự nan giải về tạo vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá còn lớn hơn rất nhiều rất nhiều.
Có thể nói nguồn vốn cho nền kinh tế do Ngân hàng đảm nhiệm cung ứng là rất to lớn, ngoài ra còn có nhiều kênh đầu tư từ Ngân sách, nguồn FDI, ODA, từ doanh nghiệp và tư nhân tự đầu tư. Lâu nay, Ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển.Công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước ta mở đầu từ Đại họi VI của Đảng, trải qua 15 năm trong hoàn cảnh đầy khó khăn và thử thách, đã thu được những thành tựu to lớn: nền kinh tế tăng trưởng và ổn định, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng: Kinh tế quốc doanh vẫn giữ một vị trí quan trọng trong những khâu then chốt...Trong những thành tựu ấy có sự đống góp quan trọng của ngành Ngân hàng. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi bảo đảm có chọn lọc những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1995 thì tỷ trọng đó là 58,5 % và 41,5%. Lâu nay Ngân hàng vẫn hoạt động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ tốt quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá Ngân hàng đã chú ý mở rộng tín dụng trung và dài hạn. Tỷ trọng vốn vay ngắn hạn từ 85% và trung hạn là 15% (năm 1991) thì đến năm 1994 đã thay đổi là 67% và 33%, so năm 1995 với năm 1994 dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 26,6%.
Sau đây là cơ cấu tín dụng Ngân hàng qua các năm.
(Đơn vị: %)
Năm
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Dư nợ vay ngắn hạn
Dư nợ vay trung-dài hạn
1991
90
10
85
15
1992
80
18
84
16
1993
72
28
77
23
1994
65
35
67
33
1995
58
41
75
25
Sự tăng trưởng tín dụng vào những định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Cùng với việc mở rộng tín dung đến tất cả các thành phần kinh tế, hệ thống Ngân hàng dặc biệt quan tâm đến lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, quan tâm đến cho vay xuất khẩu, tăng cường đầu tư một số ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, cơ khí, năng lượng... Hầu hết các chương trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, phát triển một số ngành mũi nhọn, tạo nhiều việc làm, xây dựng nhà ở đều do Ngân hàng tài trợ. Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại đóng góp tích cựu vào việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và nhà nước ta như cho người nghèo, sinh viên, đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa... vay vốn. Nhiều công cụ và hình thức huy động vốn đa dạng đang được sử dụng trong hệ thống ngân hàng kỳ phiếu ngân hàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở... Nhờ đó hoạt động vốn của Ngân hàng đã tăng liên tục với tỷ lệ khá cao: Năm 1991 tăng 68%, năm 1992 tăng 19%, năm 1993 tăng 14%, năm 1994 tăng 59% và năm 1995 tăng 32%. Nguồn vốn trong nước đã được tăng trưởng cùng với nguồn vốn từ nước ngoài là điều kiện cơ bản đã góp phần tích cực tăng đầu tư phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Từ những kết quả đã đạt được trong giai đoạn 1991-2000 ta có thể tóm gọn lại vai trò của tín dụng Ngân hàngthể hiện qua các mặt sau:
Một là, tín dụng là công cụ, đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều hành nền kinh tế thi trường.Tăng trưởng kinh tế gắn với mức vốn đầu tư tương ứng bằng các nguồn vốn tích luỷ trong nước và vốn từ nước ngoài.Việc huy động nguồn vốn gắn với vai trò tín dụng Ngân hàng:
- Tín dụng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vổn trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua đi vay và cho vay.
- Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình giao lưu kinh tế quốc tế
- Tín dụng Ngân hàng góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển về mặt vốn cho các công ty, xí nghiệp và tổ chức kinh tế
Việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ trong đó tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa quan trọng: bởi vì thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng, sẽ làm biến đổi điều kiện sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, góp phần làm cho chu kỳ vận động của tiền tệ được rút ngắn về thời gian nâng cao vòng quay của tiền tệ.
Hai là, tín dụng là động lực mạnh mẽ đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá...
Với tư cách là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và dân cư trong mọi thành phần kinh tế thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ,tập trung vốn tiền tệ tam thời nhàn rỗi, phân tán thành nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhà nước có thể tập trung vốn tín dụng thông qua Ngân hàng để đầu tư cho nông nghiệp và các ngành mũi nhọn nhằm tạo cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tín dụng Ngân hàng kích thích và buộc các doanh ngiệp, các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Như vậy, tín dụng ngân hàng không chỉ là công cụ, đòn bẩy kinh tế mà còn là công cụ mà nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế; là động lực có tác dụng to lớn để hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
1.2.2. Tín dụng ngân hàng với quá trình CNH-HĐH nông thôn.
Một trong những thành công nổi bật nhất của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta là những thành tưụ trên lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là đã giải quyết được vấn đề lương thực. Trong đó tín dụng nói chung và tín dụng nông thôn nói riêng có vai trò hết sức to lớn. Nói đến tín dụng nông thôn phải kể đến vai trò của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNN & PTNT) vừa là ngân hàng chính sách vừa là ngân hàng thương mại, kinh doanh tiền tệ. Về chức năng thương mại, NHNN & PTNT phải hoạt động theo quy luật thị trường, phải cạnh tranh, bảo toàn vốn và sinh lời theo nguyên tắc đi vay để cho vay. Về chức năng của một Ngân hàng chính sách nay đã chuyển giao cho Ngân hàng phục vụ người nghèo, tuy nhiên NHNH & PTNT vẫn chịu trách nhiệm cung cấp cán bộ nhân viên, cơ sở vật chất, chi phí hoạt động và làm nhiệm vụ giải ngân cho Ngân hàng phục vụ ngời nghèo. Không chỉ có vậy, NHNN & PTNT thực hiện các chương trình cho vay ưu đãi đối với nông nghiệp, nông thôn như chương trình “ Sống chung với lũ” ở đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ tính riêng năm 1998, NHNN & PTNT đã cho 256472 hộ vay 1.051 tỷ đồng để tôn nền, làm nhà nhà sàn trên cọc vượt lũ đông bằng sông Cửu Long với tổng diện tích là 21.657.000 m2 sàn nhà. Thực hiện chương trình “xoá đói giảm nghèo” của Chính phủ NHNN & PTNT đã thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, mức tối đa 2,5 triệu đồng/hộ, lãi suất 1,2%/tháng, với thời hạn 3 năm và không phải thế chấp. Cuối năm 1998 đã có gần 20 triệu hộ nghèo thiếu vốn sản suất được vay, bằng 9% hộ nghèo đói theo tiêu chuẩn của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội. NHNN & PTNT đã chuyển gần 300 tỷ đồng cho các tổ chức xã hội để cho hội viên vay vốn. Vớí nhiều dự án cho người nghèo vay vốn, phần vốn cho người nghèo ở nông thôn chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số vốn cho vay của NHNH & PTNT. Ngoài ra NHNN & PTNT còn cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm đường giao thông, thuỷ lợi, đường điện ở làng xã...
Với những hoạt động đó, chỉ tính đến năm 1997, tổng dư nợ của NHNN & PTNT đạt 24.730tỷ đồng, gấp 16 lần năm 1990. Khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là hàng chục triệu hộ nông dân. Riêng năm 1997, có 6,6 triệu hộ còn dư nợ ngân hàng. NHNN & PTNT đã đẩy mạnh cho vay đối với hộ sản xuất, chú trọng cho vay với những hộ sản xuất chất lượng cao, có áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới giống cây trồng với năng suất cao; ngân hàng còn chú ý cho vay đối với các hộ kinh tế trang trại, một mô hình kinh tế đang phát triển và đang trở thành lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn nước ta. Năm 1997, dư nợ cho vay hộ sản xuất đạt 13.000 tỷ đồng, 6 tháng đầu năm 1998 là 15.000 tỷ đồng, chiếm 63% tổng dư nợ cho vay.
Thành công lớn nhất của việc cho vay vốn đối với hộ nông dân là góp phần đưa sản lượng lương thực năm sau cao hơn năm trước,bộ mặt nông thôn đang dần thay đổi. Nhờ có vốn mà hộ nông dân mới có khả năng mua cây, con giống, mua sắm phương tiện sản xuất, tiếp cận với khoa học kỹ thuật, nâng cao mức sống của gia đình, giảm dần số lượng hộ nghèo đói, các chương trình chính sách của Nhà nước về xoá đói giảm nghèo ở nông thôn được thực hiện.
2. Những thách thức cần vượt qua để phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng.
2.1. Những bất cập từ các chính sách của Nhà nứơc.
Nền kinh tế nước ta cũng như nền kinh tế của các nước trên thế giới hiện nay là nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước nhằm tránh những thất bại của thị trường cũng như để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của Nhà nước. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động xã hội nói chung.
Nhà nước ta trong những năm qua đã và đang không ngừng xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ tạo điều kiện cho xã hội phát triển đặc biệt là các thành phần kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề trong các văn bản cần phải giải quyết và những văn bản điều chỉnh cho hoạt động tín dụng ngân hàng cũng không nằm ngoài số đó.
Nhiều văn bản điều chỉnh hoạt động tín dụng lại như những sợi dây trói chân trói tay bằng các quy định quá cụ thể nhưng lại thiếu những hướng dẫn cần thiết, kịp thời trên một số lĩnh vực mới. Như các văn bản về cơ chế tín dụng (từ Quyết định 284 đến các văn bản trước đó) thể chế hoá vấn đề tiền vay thành một nguyên tắc tín dụng khiến cho các Ngân hàng thương mại không giám thoát ly khỏi nguyên tắc này vì sợ bị quy tội “cố ý làm trái theo Bộ luật hình sự”. Một ví dụ về pháp lệnh thương phiếu đã có hiệu lực từ ngày1/7/2000 nhưng đến nay vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành từ phía Chính phủ cùng như từ các Bộ, ngành liên quan. Sự chậm trễ đó đã cản trở các Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ triết khấu Thương phiếu.
Trên thực tế còn rất nhiều những khó khăn cản trở do sự chậm trễ, thiếu đồng bộ của các văn bản hướng dẫn của nhà nước. Chính những hạn chế đó là rào cản lớn kìm hãm sự phát triển của Ngân hàng và tín dụng ngân hàng.
2.2. Những khó khăn cần tháo gỡ từ phía khách hàng.
Xem xét về đối tượng khách hàng của các Ngân hàng:
Các doanh nghiệp nước ta hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ tính dến tháng 6/1995 số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới trên 90% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, những hộ kinh doanh nhỏ lẻ đăng kí kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT ngày 2/3/1992 phải lên tới con số hàng triệu. Những đối tượng này khi gặp khó khăn về vốn rất cần có sự hỗ trợ về vốn của Ngân hàng nhưng họ lại không thể đáp ứng được những yêu cầu của Ngân hàng như không có tài sản thế chấp, cầm cố, làm ăn thua lỗ, mạo hiểm, không kể đến nhiều doanh nghiệp mafia lũng đoạn nội bộ với nhiều mánh khoé thủ đoạn buôn lậu lừa đảo...cho nên việc vay vốn ở Ngân hàng là không tưởng.
Với đối tượng khách hàng là những hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là ở những nơi vùng sâu vùng xa, trình độ hiểu biết pháp luật của những người nông dân rất kém, họ không có một chút kiến thức khoa học kỹ thuật nào trong sản xuất, không có kiến thức về tổ chức quản lý sản xuất sao cho có hiệu quả nhất, mọi hoạt động chỉ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Nguyên nhân chính của vấn đề đó là văn hoá thấp, thậm chí có nhiều người không biết chữ khi kí kết các giấy tờ chỉ biết điểm chỉ vì vậy rất khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục ngân hàng để vay vốn. Nếu hiểu văn hoá, dân trí theo một nghĩa rộng hơn thì nó bao gồm sự hiểu biết về thị trường, pháp luật, về các cơ chế chính sách của Nhà nước, về quan hệ tín dụng ngân hàng, về vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Thì dân trí thấp không loại trừ cả những cán bộ, nhân viên của Nhà nước. Trình độ dân trí của người dân thấp làm phát sinh những hiện tượng như vay nợ để tiêu sài rồi mất khả năng thanh toán, tiếp đó là tìm cách trốn nợ, xù nợ, sinh ra các khoản nợ xấu.
Sự yếu kém của các doanh nghiệp, trình độ dân trí thấp của khách hàng đã phá vỡ quan hệ tín dụng. Từ vấn đề này làm phát sinh yêu cầu phát triển giáo dục toàn diện là một yêu cầu cấp bách cho sự phát triển kinh tế nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng.
2.3. Những vấn đề cần giải quyết trong nội bộ Ngân hàng.
Nhưng khó khăn trong quan hệ tín dụng không chỉ xuất phát từ phía Nhà nước và khách hàng mà còn từ bản thân ngân hàng, từ những chính sách, thủ tục cho vay, từ những hoạt động khác của ngân hàng. Nhìn một cách khái quát những hạn chế của ngân hàng thể hiện qua các mặt sau:
Thứ nhất, thủ tục cho vay quá rườm rà làm cho người đi vay tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc để vay được vốn. Đơn cử như hoạt động công chứng tài sản để thế chấp vay vốn rất phức tạp đã mất rất nhiều thời gian, nhất là ở những nơi xa cơ quan công chứng, nhưng mỗi một lần thực hiện vay vốn đều phải công chứng lại tài sản.
Thư hai, tin thần phục vụ khác hàng của các nhân viên ngân hàng ở nhiều nơi còn yếu kém gây tâm lý e ngại cho khách khi đến vay vốn tại ngân hàng.
Thứ ba, mặc dù đã có sự thay đổi trong cơ cấu vốn vay, tăng dần tỷ trọng vốn trung và dài hạn nhưng các Ngân hàng thương mại vẫn chưa đáp ứng được các chu cầu vay vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp, của các dự án phát triển nông nghiệp nông thôn. Cụ thể các Ngân hàng thương mại mới chỉ đáp ứng được khoảng 30% nhu cầu đầu tư và 8% nhu cầu của toàn xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này là do: Tích luỹ nội bộ chưa cao; Đồng tiền chưa thật ổn định để nhân dân yên tâm khi gửi vào ngân hàng; Các ngân hàng thiếu các công cụ huy động vốn dài hạn.
Thứ tư, lãi suất tín dụng chưa hợp lý còn quá nhiều trần, nhiều sàn, còn chênh lệch lớn giữa lãi suất vốn vay bằng đông nội tệ và lãi suất vốn vay bằng đồng ngoại tệ, mối tương quan giữa lài suất tín dụng và hiệu quả kinh doanh chưa thúc đẩy cả huy động và cho vay vốn.
Thứ năm, mạng lưới phục vụ khách hàng còn chưa đầy đủ, nhiều nơi nhất là khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa còn thiếu các chi nhánh của ngân hàng. Môt chi nhánh phải hoạt đông trên địa bàn rộng, người nông dân phải đi xa từ 30-40 Km mới vay được vốn, còn Ngân hàng thì rất khó khăn trong việc kiểm tra giám sát vốn cho vay.
Như vậy muốn thúc đẩy sự phát triển của tín dụng ngân hàng nhằm phát huy vai trò của nó thì đòi hỏi phải có sự nỗ lực của cả ba bên là Nhà nước, các khách hàng và Ngân hàng.
Chương III: Những giải pháp và xu hướng phát triển của tín dụng ngân hàng trong tương lai.
I. Hoàn thiện các chính sách của nhà nước về tín dụng ngân hàng và những vấn đề khác có liên quan.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (1986), Nhà nước ta chu trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Để thực hiện vài trò quản lý của mình, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn hoat động đối với mọi thành phần kinh tế. Như vậy các văn bản pháp lý của Nhà nước là những hành lang cho sự hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế trong đó bao gồm cả Ngân hàng.
1. Các biện pháp xây dựng chính sách tín dụng ngân hàng hợp lý.
Ngân hàng với hoạt động tín dụng có một vai trò đặc biệt to lớn đối với nền kinh tế đang không ngừng được nhà nước đặc biệt quan tâm. Nhà nước đang từng bước hoàn thiện chính sách về tín dụng nhằm phát huy tối đa vai trò của tín dụng trong quá trình xây dựng và phát riển kinh tế đất nước. Song hiện nay các văn bản nhà nước còn rất nhiều bất cập gây khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động, làm cản trở quan hệ tín dụng,tạo nhiều khe hở cho nạn tham nhũng, gây thất thoát tài sản của Nhà nước. Như vậy vấn đề đặt ra là Nhà nước phải làm thế nào để nhanh chóng hoàn thiện những văn bản đã ban hành và xây dựng những văn bản mới chặt chẽ kịp thời với sự phát triển của tín dụng và của nền kinh tế. Thiết nghĩ Nhà nước cần có các biện pháp sau:
Thứ nhất, Nhà nước phải có một đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật am hiểu về lĩnh vực tín dụng-ngân hàng. Đây là yêu cầu vô cùng quan trọng vì những cán bộ này là những người thay mặt nhà nước tạo dựng khung pháp lý cho hoat động tín dụng_ngân hàng. Và điều thật dễ hiểu là chỉ khi nắm được lý luận, quy luật chung cũng như hiện trạng và xu hướng phát triển của hoạt động tín dụng ngân hàng thì mới có những kiến nghị giải pháp có hiệu quả cho hoạt động đó. Muốn làm được điều đó, Nhà nước phải đầu tư cho việc đào tạo cán bộ mà tước hết là những cán bộ trong các trường Đại học, tiếp đó là đầu tư cho giáo dục sau Đại học, gửi cán bộ đi nghiên cứu ở nước ngoài nhằm tiếp cận với sự phát triển của thế giới. Có như vậy mới tạo ra được một đội ngũ cán bộ đủ năng lực làm nòng cốt trong việc nghiên cứu lĩnh vực Tài chính-Tiền tệ-Tín dụng- Ngân hàng, tham mưu cho Nhà nước trong việc hoạch định các chính sách phát triển lĩnh vực này.
Thứ hai, Nhà nước trong quá trình hoạch định các chính sách phải kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Không ngừng nghiên cứu thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở để áp dụng các vấn đề lý luận. Vấn đề thực tiễn được xem xét không chỉ tại thời điểm hiện tại mà còn phải nghiên cứu nó trong cả quá khứ để rút ra được những bài học kình nghiệm, dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai và mối quan hệ của nó với cá vấn đề khác nhằm xây dựng được các chiến lược phát triển trong ngắn hạn và dài hạn, có như vậy có như vậy các chính sách của Nhà nước mới đồng bộ và không bị khập khiễng so với thực tiễn qua các mỗi giai đoạn phát triển.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế. Đây là điều kiện quan trọng để chúng ta có được nnhững thông tin kinh nghiệm trong mọi hoạt động Kinh tế-Chính trị-Xã hội nói trung và trong hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng của các nước trên thế giới. Nước ta là một nước được tạm xếp vào trong số các nước đang phát triển, là người đi sau chúng ta có điều kiện học hỏi kinh nghiệm cũng như tránh khỏi những sai lầm của những nước đi trước trong việc xây dựng các chính sách tiền tệ tín dụng ngân hàng. Qua việc hợp tác song phương và đa phương chúng ta nhận được sự giúp đỡ của các chuyên gia nước ngoài trong việc hoạch định chính sách tín dụng ngân hàng, nhận được sự giúp đỡ trong đào tạo cán bộ Việt Nam thành những chuyên gia trong lĩnh vực Tiền tệ-Ngân hàng.
2. Hoàn thiện các vấn đề liên quan.
Trong cả lý luận và thực tiễn, tín dụng ngân hàng luôn có mối liên hệ tác động qua lại với nhiều vấn đề trong đời sống kinh tế xã hội. Để thúc đẩy tín dụng ngân hàng phát triển thì không chỉ cần một chính sách tín dụng hoàn chỉnh mà cần phải kết hợp hoàn thiện mọi mặt của nền kinh tế.
Xét chung toàn bộ cơ chế, cơ chế quản lý nền kinh tế nói chung còn thiếu đồng bộ, thiếu sự đầy đủ và xa rời thực tế cuộc sống. Những nguyên tắc và điều kiện vay vốn của Ngân hàng đối với các doanh nghiệp và những đối tượng khách hàng khác còn nhiều nghịch lý; công tác phát triển giáo dục và đào tạo nhất là ở những nơi vùng sâu vùng xa còn nhiều yếu kém, việc đào tạo cán bộ quản lý kinh tế còn mang nặng tính hình thức, chạy theo bằng cấp... mà những vấn đề này Nhà nước vẫn chưa tìm ra lời giải hữu hiệu. Đó là nguyên nhân cản trở sự phát triển của tín dụng ngân hàng, gây ra những khoản nợ xấu, tạo ra những vụ việc nổi cộm liên quan trực tiếp đến tín dụng ngân hàng như vụ TAMEXCO, dệt Nam Định, Minh Phụng, Epco và hàng loạt những vụ việc khác xảy ra ở khắp các địa phương trong cả nước. Trước những vấn đề đó Nhà nước cân phải:
Phát triển một hệ thống giáo dục trên khắp cả nước. Đây là một vấn đề có tính chiến lược chung cho sự phát triển của đất nước, trong đó góp phần tác động đến sự phát triển của tín dụng ngân hàng. Xuất phát từ một trong những khó khăn trong hoạt động tín dụng ngân hàng là trình độ dân trí thấp của người dân nói chung còn thấp mà đặt ra vấn đề phát triển giáo dục là yêu cầu tiên quyết không thể thiếu. Việc phát triển giáo dục không chỉ quan tâm đến phát triển đại trà, số lượng mà còn phải chú ý đến chất lượng, phất triển về chiều sâu, sự đồng bộ trong giáo dục, gắn lý thuyết và thực tiẽn phát triển kinh tế đất nước, giáo dục chuyên môn gắn với giáo dục kiến thức pháp luật và những vấn đề khác. Có như vậy mới giảm được sự cản trở từ phía con người do sự không hiểu biết, thiếu năng lực trong việc tham gia, điều hành các quan hệ, những hoạt động kinh tế nói chung, bao gồm cả hoạt động tín dung ngân hàng.
Thống nhất quan điểm, tư tưởng và nhận thức của các ngành, các cấp về vai trò đòn bẩy kinh tế của tín dụng ngân hàng. Tăng cường quản lý những doanh nghiệp ngoài quốc doanh, rà soát lại những doanh nghiệp quốc doanh để sắp xếp lại theo hướng cổ phần hoá. Gắn trách nhiệm pháp lý và vật chất cho các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế chánh tình trạng những cơ quan này hoàn toàn bình yên khi gây ra những sai phạm làm thất thoát vốn đối với ngân hàng. Các cơ quan nhà nước như toà án, viên kiểm soát, công an, cơ quan thi hành án, thanh tra nhà nước cần có sự quan tâm giúp đỡ ngành ngân hàng trong công việc thu hồi nợ. Nhà nước cần hoàn thiện chính sách thuê đất cho các doanh nghiệp, cấp giấy chứng nhận sử dụng đất cho người nông dân. Để tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước, thu hút đầu tư của nước ngoài, tạo cung cầu về vốn cho ngân hàng, nhà nước cần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật như: giao thông, lưới điện, thuỷ lợi, xây dựng những chính sách thuê đất, giá điện hợp lý, hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài, bộ luật lao động,pháp lệnh hợp đồng kinh tế, luật doanh nghiệp... Nhà nước lập các quỹ bảo lãnh hoặc bảo hiểm tín dụng đầu tư theo chiều sâu, yểm trợ các điều kiện ưu đãi tài chính cho các dự án mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế tín dụng dành cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong các ngành kinh tế (Quyết định số 270 QĐ-NH1 ngày 20/9/1995 ban hành thể lệ cho vay vốn ứng dụng khoa học công nghệ) tạo hành lang pháp lý an toàn cho ngân hàng thương mại trong quá trình đầu tư.
Nói tóm lại, để phát triển hoạt động tín dụng ngân hàng đòi hỏi nhà nước phải có một kế hoạch phát triển tổng hợp các mặt không chỉ là những biện pháp đối với hoạt động tín dụng mà còn nhiều vấn đề kinh tế xã hội khác liên quan. Có như vậy tín dụng ngân hàng mới được thúc đẩy từ nhiều phía, tránh được sự khó khăn do môi trường pháp lý chung của Nhà nước gây ra.
II. Những giải pháp Ngân hàng cần thực hiện để phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng của nước ta hiện nay hoạt động chủ yếu vẫn là nhận gửi và cho vay, đây là những hoạt đông sơ khai của ngân hàng. Để theo kịp với sự phát triển của thế giới, cần tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, mở rộng hoạt đông nghiệp vụ, đa dạng hoá các tổ chức tín dụng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế đất nước.
1. Đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn.
Hiện nay nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn rất lớn, ước tính trên dưới 10000 tỷ, do đó ngân hàng cần khới dậy tiết kiệm trong dân cư, phát triển và hoàn thiện các phương tiện huy động vớí chính sách hợp lý và nhất quán nhằm bảo đảm an toàn và tiện ích cho người gửi tiền bằng các biện pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiên các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm truyền thống trong dân cư gắn với các hình thức động viên như sổ số, quà lưu niệm, tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm gắn với bảo hiểm bằng vàng...
Thứ hai, đa dạng hoá các công cụ huy động vốn như kỳ phiếu, trái phiếu... có độ dài thời gian khác nhau 3,6,12,24 tháng theo nguyên tắc thời gian càng dài thì lãi suất càng cao và được mua bán trên thị trường. Tiếp tục huy động có hiệu quả bằng các hình thức công cụ truyền thống dể thu hút vốn ngắn hạn, phải tiến hành mở rộng và thường xuyên huy động nguồn vốn trung và dài hạn.
Thứ ba, mở rộng các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán, sao cho nhanh chóng, thuận tiện an toàn với mức phí thoả đáng được đông dảo nhân dân đồng tình và sử dụng.Để khuyến khích người gửi cần nâng cao công nghệ ngân hàng, hiện đại hoá khâu thanh toán tạo cho sự luân chuyển vốn nhanh, thuận tiện, đảm bảo an toàn cho khách hàng quan hệ gửi tiền, rút tiền và vay vốn. Đây là vấn đề không kém phần quan trọng, từ đó sẽ hạn chế việc lưu thông băng tiền mặt vừa không hiệu quả, vừa không an toàn băng việc việc thanh toán chuyển khoản. Bên cạnh việc cải tiến công tác chuyển tiền, thanh toán bù trừ nhanh hiện đại, ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa việc mở các tài khoản cá nhân và phát hành sec; dần dần mở rộng và tạo thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng hiện đại như các loại thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động (ATM), dịch vụ ngân hàng tại nhà...
Với những sự đổi mới trong hoạt động đó của ngân hàng chắc chắn lượng vốn huy động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng tạo điều kiện cho các hoạt động cho vay hỗ trợ vốn cho sự phát triển kinh tế đất nước.
2. Hoàn thiện công tác cho vay của ngân hàng.
Thực trạng hiện nay cho thấy một điều rất nghịch lý là nhu cầu về vốn cho nền kinh tế là rất lớn trong khi đó vốn trong các ngân hàng lại ứ đọng không cho vay được, mà những lượng vốn cho vay lại chủ yếu là vốn ngắn hạn. Để giải quyết vấn đề đó ngoài những đổi mới trong cơ chế chính sách của nhà nước bản thân ngân hàng cũng phải có những biên pháp của riêng mình.
Một là, ngân hàng phải tăng cường cho vay vốn trung và dài hạn đối với cả công nghiệp và nông nghiệp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có đủ thời gian để đổi mới công nghệ, dây truyền sản xuất, thu hút lao động,phát triển doanh nghiệp. Vốn trung và dài hạn cũng sẽ tạo điều kiện thuân lợi hơn cho phát triển nông nghiệp nông thôn nhất là đối với những trang trại trồng cây công nghiệp có thời gian sinh trưởng và phát triển lâu dài. Khi người vay có đủ thời gian thu hồi vốn thì khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng tăng lên, rủi ro tín dụng sẽ giảm xuống.
Hai là, các ngân hàng phải từ đổi mới để cạnh tranh với các ngân hàng khác tạo động lực cho ngân hàng phát triển, xây dựng danh tiếng cho ngân hàng thu hút người vay vốn.
Ba là, thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng cho cả doanh nghiệp, những hộ sản xuất, những trang trại trong sản xuất nông nghiệp gồm những nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các ngân hàng, các tổ chức tài trợ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ. Các quỹ bảo lãnh tín dụng giúp đỡ các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh, các trang trại...có được vốn của ngân hàng để sản xuất kinh doanh trong khi không đáp ứng được một số yêu cầu của ngân hàng đồng thời hoàn trả vốn cho ngân hàng khi các đơn vị vay vốn làm ăn thua lỗ.
Bốn là, mạng lưới ngân hàng cần phát triển mạnh hơn nữa không chỉ ở các thành phố mà còn phải mở rộng đến tận những nơi vùng sâu, vùng xa nhằm đưa vốn đến tận nơi, đáp ứng nhu cầu về vốn cho mọi hoạt động kinh tế.
Để phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng ở nước ta thì vấn đề huy động được vốn và cho vay được số vốn đó là vấn đề quan trọng. Một mặt nó tạo điều kiện cho việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư mặt khác đáp ứng nhu cầu về vốn cho các ngành, các vùng, các khu vực thúc đẩy nền kinh tế phát triển toàn diện và theo chiều sâu.
Kết luận
Trên phương diện lý thuyết, tín dụng ngân hàng tập trung những nguồn vốn lẻ tẻ, ít ỏi thành những nguồn vốn lớn để cho vay, bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra một cách liên tục,hỗ trợ nâng cao đời sống của nhân dân, là cơ sở thúc đẩy các hình thức tín dụng khác phát triển, hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng, tạo các công cụ điều tiết vĩ mô cho Nhà nước.
Thực tiễn nước ta cho thấy vai trò của tín dụng ngân hàng được phát huy từ trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước. Cho đến nay tín dụng ngân hàng vẫn tiếp tục phát huy vai trò của mình, cung cấp vốn cho toàn nền kinh tế, hộ trợ cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn, giúp đỡ thực hiện các chương trình kinh tế xã hội của nhà nước.
Ngoài những mặt tích cực đã đạt được, tín dụng ngân hàng đang còn gặp nhiều khó khăn cần giải quyết không chỉ ở bản thân ngân hàng mà còn từ phía môi trường chính sách của nhà nước và từ phía khách hàng. Do đó, để phát huy hơn nữa vai trò của tín dụng thì cần phải có sự nỗ lực của tất cả các bên: Ngân hàng, Nhà nước và khách hàng./.
Tài liệu tham khảo
Sách :
Lý thuyết tài chính tiền tệ (Giáo trình)
Tiền tệ tín dụng ngân hàng
Một số vấn đề về tín dụng ngân hàng
Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế xã hội Việt Nam
Tạp chí :
Thị trường tài chính tiền tệ, số 1+2/1998, số 8/1999, số 4/1999
Ngân hàng, Số 18/1998, Số 7/2000, Số 5/2001, Số 2/2001
Phát triển kinh tế, Số 93/1998
Chứng khoán, Số 4.2001
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35144.doc